Formation des ethnies du Vietnam

bachviet_f

Formation of ethnic groups in Vietnam

Sự thành hình các dân tộc Bách Việt

 
Subgroup Chàm

  • The Chàm
  • Les Edê
  • Les Raglai 
  • Les Chu Ru  etc.

Subgroup Môn Khmer

Subgroup Việt Mường

Subgroup Tày Thái

Subgroup Meo Yao

Hội An et ses maisons historiques (3ème partie)

 

Schéma de la double toiture d’une maison traditionnelle

hoian_et_ses_maisons2

Nét duyên dáng của  nhà cổ

Version anglaise

Version vietnamienne

Une autre caractéristique importante de la maison traditionnelle de Hội An est la présence d’une paire de « yeux du dragon » en bois accrochés souvent au dessus de sa porte d’entrée. Parfois on les retrouve à l’intérieur de la maison. On recense au moins une vingtaine de modèles ayant chacun une forme différente: un rond, un octogone etc. mais le plus commun trouvé reste le chrysanthème à huit pétales correspondant aux 8 caractères trouvés dans le Yi King (Kinh Dịch) et ayant à son centre le symbole du Yin et du Yang (Âm Dương). Ces yeux du dragon sont aussi un détail important que l’architecte polonais Kazimierz Kwiatkowsky (Kazik) n’a pas laissé s’échapper au moment où il avait l’occasion d’examiner l’architecture de Hội An, en particulier celle de ses maisons traditionnelles. Certains spécialistes trouvent dans ces yeux l’incarnation de l’âme de la ville Hội An tandis que d’autres attribuent à cette paire l’allégorie de la culture et de la tradition orientale. Selon l’écrivain Hữu Ngọc, les chercheurs ont trouvé leur origine à partir des clous en bois dont on est habitué à voir la fixation dans les linteaux des portes d’accès aux temples bouddhistes dans le Sud de la Chine. Personne ne conteste cette explication relative à leur origine mais on est amené à penser que cette paire d’yeux revêt plutôt une signification très spéciale, un caractère spirituel ou religieux que le propriétaire aimerait lier à son destin lors de son installation. Pour ce dernier, ces yeux ont la faculté d’entendre les réflexions de chaque membre au sein de la famille et de capter aussi tout ce qui s’est passé autour de la maison et au coeur même de sa propre vie. Il faut se rappeler qu’avant d’être sinisés, les gens de la région du Sud de la Chine faisaient partie du groupe Bai Yue (Cent Yue). Analogues aux Vietnamiens, ils étaient animistes car ils croyaient qu’il existe une force vitale, une âme animant tous les êtres naturels ou non (y compris les objets). (Vạn vật hữu linh). Ce culte perdura depuis la nuit des temps. Ces yeux du dragon sont en quelque sorte ceux du génie protecteur de la maison.

Une autre particularité retient l’attention de ceux qui ont l’occasion de visiter les maisons anciennes de Hội An. Ce sont les tuiles tubulaires yin yang  (ngói ống âm dương) qu’on est habitué à trouver souvent dans les bâtiments imposants des grandes surfaces commerciales en Asie. Ces tuiles ayant la forme d’un quart de cylindre, sont disposées de manière qu’une tuile convexe est reliée à une tuile concave, ce qui leur permet de recevoir le nom de « tuiles yin-yang » grâce à l’équilibre trouvé dans le Yin et le Yang.. Elles sont en terre cuite et sont divisées toujours en quatre pièces courbes, avant d’être déposées dans une moule cylindrique et soumises au  séchage et au cuisson.

Quant aux maisons traditionnelles « nhà rường« , elles sont plus spacieuses et plus confortables car elles peuvent comporter de 3 jusqu’à 5 bâtiments. Ells ont souvent à l’arrière du premier bâtiment, un jardin privé en miniature où le propriétaire, en temps de repos et de loisir, vient fumer du tabac, prendre du thé avec ses amis et contempler le paysage. Il vous manque seulement la visite pour apprécier les attributs distinctifs des maisons traditionnelles de Hội An et leurs valeurs du passé.  [Return HOI AN]

Version anglaise

Another important feature of the traditional Hội An house is the presence of a pair of wooden « dragon eyes » often hung above its entrance door. Sometimes they are found inside the house. At least twenty models have been recorded, each with a different shape: a circle, an octagon, etc., but the most common one found remains the chrysanthemum with eight petals corresponding to the 8 characters found in the Yi King (Kinh Dịch) and having at its center the symbol of Yin and Yang (Âm Dương). These dragon eyes are also an important detail that the Polish architect Kazimierz Kwiatkowsky (Kazik) did not overlook when he had the opportunity to examine the architecture of Hội An, particularly that of its traditional houses. Some specialists see in these eyes the embodiment of the soul of the city of Hội An, while others attribute to this pair the allegory of Eastern culture and tradition. According to the writer Hữu Ngọc, researchers have traced their origin to wooden nails commonly seen fixing the lintels of entrance doors to Buddhist temples in southern China. No one disputes this explanation regarding their origin, but one is led to think that this pair of eyes rather carries a very special meaning, a spiritual or religious character that the owner would like to link to their destiny upon settling in.

For the latter, these eyes have the ability to hear the thoughts of each family member and also to capture everything that has happened around the house and at the very heart of their own life. It should be remembered that before being sinicized, the people of the southern region of China were part of the Bai Yue group (Hundred Yue). Similar to the Vietnamese, they were animists because they believed in a vital force, a soul animating all natural or non-natural beings (including objects). (Vạn vật hữu linh). This cult has lasted since time immemorial. These dragon eyes are in a way those of the protective spirit of the house.

Another particularity catches the attention of those who have the opportunity to visit the old houses of Hội An. These are the yin yang tubular tiles (ngói ống âm dương) often found in the imposing buildings of large commercial areas in Asia. These tiles, shaped like a quarter of a cylinder, are arranged so that a convex tile is connected to a concave tile, which allows them to be called « yin-yang tiles » thanks to the balance found in Yin and Yang. They are made of terracotta and are always divided into four curved pieces before being placed in a cylindrical mold and subjected to drying and firing.

As for the traditional « nhà rường » houses, they are more spacious and comfortable because they can consist of 3 to 5 buildings. They often have, at the back of the first building, a miniature private garden where the owner, during rest and leisure time, comes to smoke tobacco, have tea with friends, and contemplate the landscape. All that is missing is your visit to appreciate the distinctive attributes of Hội An’s traditional houses and their values from the past.

[Return HOI AN]

Version vietnamienne

Một đặc điểm quan trọng khác của ngôi nhà truyền thống Hội An là sự hiện diện của một cặp « mắt rồng » bằng gỗ thường được treo phía trên cửa ra vào. Đôi khi chúng được tìm thấy bên trong ngôi nhà. Ít nhất hai mươi mô hình đã được ghi nhận, mỗi mô hình có một hình dạng khác nhau: hình tròn, hình bát giác vân vân  nhưng mô hình phổ biến nhất được tìm thấy vẫn là hoa cúc với tám cánh hoa tương ứng với 8 ký tự được tìm thấy trong Kinh Dịch và có biểu tượng Âm Dương ở trung tâm. Những đôi mắt rồng này cũng là một chi tiết quan trọng mà kiến ​​trúc sư người Ba Lan Kazimierz Kwiatkowsky (Kazik) không bỏ qua khi ông có cơ hội nghiên cứu kiến ​​trúc của Hội An, đặc biệt là kiến ​​trúc của những ngôi nhà truyền thống. Một số chuyên gia nhìn thấy ở đôi mắt này sự hiện thân của linh hồn thành phố Hội An, trong khi những người khác lại cho rằng cặp mắt này là ẩn dụ về văn hóa và truyền thống phương Đông.

Theo nhà văn Hữu Ngọc, các nhà nghiên cứu đã lần ra nguồn gốc của chúng từ những chiếc đinh gỗ thường thấy trên các thanh ngang cửa ra vào của các ngôi chùa Phật giáo ở miền Nam Trung Quốc. Không ai tranh cãi về lời giải thích này về nguồn gốc của chúng, nhưng người ta cho rằng đôi mắt rồng này mang một ý nghĩa rất đặc biệt, một đặc điểm tâm linh hoặc tôn giáo mà chủ nhân muốn gắn kết với vận mệnh của mình khi định cư. Đối với người theo chủ nghĩa này, đôi mắt rồng có khả năng nghe được suy nghĩ của từng thành viên trong gia đình và cũng có thể nắm bắt mọi thứ đã xảy ra xung quanh ngôi nhà và ngay trong chính cuộc sống của họ. Cần nhớ rằng trước khi bị Hán hóa, người dân miền Nam Trung Quốc thuộc nhóm Bách Việt (Bách Việt).

Tương tự như người Việt Nam, họ theo thuyết vật linh vì họ tin vào một sức sống, một linh hồn điều khiển mọi sinh vật tự nhiên hoặc phi tự nhiên (bao gồm cả đồ vật). Tín ngưỡng này đã tồn tại từ xa xưa. Đôi mắt rồng, theo một cách nào đó, là linh hồn bảo vệ ngôi nhà.Một điểm đặc biệt khác thu hút sự chú ý của những ai có dịp ghé thăm những ngôi nhà cổ Hội An. Đó là những viên ngói ống âm dương thường thấy trong các tòa nhà đồ sộ của các khu thương mại lớn ở châu Á. Những viên ngói này, có hình dạng như một phần tư hình trụ, được sắp xếp sao cho một viên lồi nối với một viên lõm, nhờ vào sự cân bằng giữa Âm và Dương mà chúng được gọi là « ngói ống âm dương » (gạch âm dương). Chúng được làm bằng đất nung và luôn được chia thành bốn phần cong trước khi được đặt vào khuôn hình trụ, sấy khô và nung. Đối với những ngôi nhà rường truyền thống, chúng rộng rãi và thoải mái hơn vì có thể bao gồm 3 đến 5 tòa nhà. Chúng thường có một khu vườn riêng thu nhỏ ở phía sau tòa nhà đầu tiên, nơi chủ nhà, trong thời gian nghỉ ngơi và giải trí, đến hút thuốc lá, uống trà với bạn bè và ngắm cảnh. Điều duy nhất còn thiếu là chuyến thăm của bạn để cảm nhận những nét đặc trưng của những ngôi nhà truyền thống Hội An và những giá trị của chúng từ quá khứ. 

[Return HOI AN]

Cát Tiên sanctuaire (suite)

cat_tien_site_portail_1

 

Le site de Cát Tiên recèle un grand nombre de vestiges architecturaux parmi lesquels on peut citer des temples, des tours, un système hydraulique, des allées, des fours à brique. Il n’y a aucune doute que les briques étaient fabriquées et servies sur place et que les pierres étaient importées d’ailleurs. On constate aussi le respect de la tradition hindoue dans l’orientation de la plupart des monuments du site vers l’est. Les archéologues vietnamiens ont réussi à mettre en lumière un mur d’enceinte en brique qui était une clôture symbolique entre le monde sacré et le monde profane. Celui-ci part du fleuve jusqu’aux monticules de terre élevés dont l’un se trouve dans la province de Đồng Nai et les autres sont situés dans les communes Đức Phổ et Quảng Ngải. Même le portail d’un temple a vu le jour. Son fronton pesant plus d’une tonne peut être considéré comme chef-d’oeuvre de la sculpture avec des motifs de fleur de lotus en relief, des bandes de nuages finement stylisées et des scènes assez vivantes. Ce portail découvert se distingue jusqu’alors des autres portails rencontrés dans les temples du Champa.

 

Selon l’archéologue vietnamien Trần Quốc Vượng, ce sanctuaire est l’oeuvre architecturale des Cham. Pour lui, le Champa était en fait une fédération de six états situés le long de la côte du centre du Vietnam ou plutôt « cité-états » dont la plus puissante jouait le rôle de « leader » (vai trò chủ đạo).

1) Ranna (Quảng Trị)
2) Amaravati (Quảng Nam- Quảng Ngãi)
3) Vijaya (Bình Định)
4) Kanthara (Khánh Hòa)
5) Panduranga (Phan Rang- Phan Thiết)
6) Cát Tiên (Bà Rịa- Đồng Nai)

Il n’y a aucun doute que le royaume Cát Tiên faisait partie de cette fédération et était même soi-disant le royaume (ou non) des Mạ où l’influence des Cham était notable. Selon lui, les Cham avaient l’habitude de se servir du modèle culturel suivant constitué toujours de 3 parties: sanctuaire (montagne), citadelle (capitale) et port ( centre économique ) dans leur établissement. C’est ce type de modèle qu’on a vu se répéter dans chaque cité-état cham de Quảng Trị jusqu’à Phan Thiết. Pour lui, Cát Tiên était le centre religieux tandis que Biên Hoà était sa citadelle et Cần Giờ son port fluvial. Sa suggestion est proche de la proposition de Paul Mus. Ce dernier a déjà faite dans son cours en 1956-1957 pour le modèle d’implantation des Cham avec trois constituants: le noyau, l’alvéole et l’aérole.

À partir d’un point d’eau, se constitue le noyau. Celui-ci est en fait une cité portuaire, chef-lieu d’une entité politique, religieuse et économique dotée de monuments. Constituée de rizières et de vergers, l’alvéole est destinée à fournir une partie de son alimentation tandis que l’autre partie de celle-ci ( produits de la pêche) est approvisionnée par l’aérole au moyen de ses cours d’eau et des rivières. Les Cham reçoivent des produits de la chasse et de la cueillette de la part des hommes de la forêt et ils les acheminent à leur port qui les expédiera à son tour aux cités portuaires étrangères grâce à leurs bateaux ou à ceux des étrangers auxquels ils ont vendu leurs produits. De même ils font le chemin inverse pour les produits qu’ils ont acheté auprès des marchands étrangers.

cat_tien_site_portail_2

Bref, le site Cát Tiên répond exactement au schéma proposé par l’archéologue et historien vietnamien Trần Quốc Vượng ou le sociologue français Paul Mus car les Cham étaient habitués à s’installer dans des sites proches des cours d’eau accessibles à la navigation fluviale ( Đồng Nai dans notre cas). Cela leur permet d’assumer l’approvisonnement en produits forestiers (bois d’aigle (cây trầm hương) ou bois de santal, ivoire etc ..) et de faire du commerce avec le monde extérieur, en particulier avec la Chine. C’est aussi le modèle proposé par Bennet Bronson pour le monde malais des grandes îles. Il est intéressant de rappeler que les Cham sont proches des Malais au niveau linguistique.

Malgré cela, il subsiste quand même quelques zones d’ombre. D’abord Cát Tiên n’est jamais évoqué jusqu’à aujourd’hui dans l’histoire du Champa. Puis Cát Tiên dont la période d’épanouissement a été connue récemment grâce à la datation des objets au radiocarbone (du IVème – VIIIème siècle après J.C.), dut être à cette époque dans le giron du royaume de Founan. Ce dernier ne disparut qu’au milieu du VIIème siècle. Donc Cát Tiên devrait être un pays vassal du royaume de Founan. Puis à la disparition de ce dernier, il serait dans la mouvance de l’empire Chenla.

Comment le royaume de Cat Tiên arrive-t-il à survivre jusqu’au VIIIè siècle avec le changement politique régional dû à la soumission du royaume de Founan par le Chenla?

On peut émettre l’hypothèse suivante: le royaume de Cát Tiên, un pays vassal du royaume du Founan était peuplé de Môn-Khmers et d’Austronésiens (dont les Cham faisaient partie) mais le pouvoir politique et religieux revenait aux Cham. Lors de l’annexion du royaume du Founan par le Chenla d’Içanavarman, le royaume de Cát Tiên passera probablement dans le giron de ce dernier localisé dans le bassin du moyen Mékong. La capitale de Chenla se trouverait probablement à Vat Phou à l’extrême sud du Laos d’aujourd’hui.

Selon le scientifique américain Michael Vickery, les Cham issus probablement de l’île de Bornéo sont arrivés par mer au cours des derniers siècles avant notre ère. Ils ont investi le territoire occupé jusque-là par les Môn-Khmers (Mạ, Stiêng etc..). Le Champa offre un visage pluriethnique si on s’appuie sur la nouvelle approche des recherches en cours. On admet aujourd’hui que grâce à leur vocation maritime et à leur contact établi avec les autres Austronésiens de Nusantara, ils se sont imprégnés de la culture indienne avant même qu’ils quittent l’île de Bornéo. Etant considérés comme les Vikings de l’Asie, ils maîtrisaient parfaitement la technique de navigation. Selon Michael Vickery, ils auraient voyagé depuis la Préhistoire entre l’Inde et l’Asie du Sud Est. Peut-être pour cela la culture de Sa Huỳnh témoigne de leur trace sur la côte du centre du Vietnam. Ils ont débarqué en plusieurs endroits de cette côte et y ont établi des poches de pouvoir en concurrence les unes avec les autres. Probablement Cát Tiên devrait être l’un des points de leur débarquement. Ils y établirent un petit royaume ou une chefferie qui accepta la tutelle du royaume du Founan car ils étaient plus proches des Founanais. Ceux-ci étaient des navigateurs expérimentés et des constructeurs de gros bateaux d’après les mentions des historiens chinois. Ce n’est pas le cas des gens du Chenla (ancêtres des Khmers). Selon l’archéologue vietnamien Hà Văn Tấn, les Founanais n’étaient pas les Khmers (*). Les Chinois décrivaient d’ailleurs ces Founanais comme des gens ayant le teint noir et les cheveux frisés. Probablement ils seraient aussi austronésiens comme les Chams ou plutôt issus de la juxtaposition et de la fusion de deux strates austroasiatique et austronésienne. De plus, à cette époque, il faut rappeler que le royaume du Founan fut dirigé à une certaine époque par un roi conquérant remarquable Fan Shi Man (Phạm Sư Man) qui réussit à soumettre une dizaine d’états durant son règne. De manière purement hypothétique, Georges Coedès l’a identifié avec Sri Màra dans la plus ancienne inscription écrite en sankskrit (Vỏ Cạnh) et trouvée à Nha Trang (Khánh Hoà).

À la suite de l’annexion du royaume du Founan par le Chenla au milieu du VIIème siècle, le royaume de Cát Tiên passera probablement dans le giron de ce dernier. Mais il n’y serait pas pour longtemps à cause de la scission du Chenla en Chenla d’Eau (Thủy Chân Lạp) au Sud et en Chenla de Terre (Lục Chân Lạp) au Nord. Puis il fut soumis en même temps que le Chenla d’Eau dont il faisait partie, par les Javanais (Chà Và en vietnamien ) du royaume de Sailendra. Il faut rappeler aussi que le sanctuaire religieux de Po Nagar (Nha Trang) fut pillé et détruit sans merci par les Javanais en 774. La disparition du royaume de Cát Tiên ou de son site religieux doit être expliquée par l’une des raisons suivantes:

-la destruction et le pillage systématique de tous les sanctuaires Cham par les Javanais du royaume de Sailendra. Durant deux siècles (de VIIIè siècle à Xème siècle) ceux-ci attaquèrent les côtes du Champa et occupèrent le Chenla d’Eau. Ils remontèrent même le Mékong pour aller jusqu’à Kratié.

-la peste

ou la guerre

responsables de la désertification de la zone de Cát Tiên avant 1650. C’est la suggestion faite par l’ethnologue vietnamien Mạc Đường. Cette hypothèse est assez convainçante lorsqu’on sait que Georges Coedès a eu l’occasion de décrire la dangérosité de la zone du sud de Chenla:

Le Midi renferme de grands marécages, avec un climat si chaud que jamais on ne voit ni neige ni gelée blanche; le sol y engendre des exhalaisons pestilentielles et fourmille d’insectes venimeux.

dans son livre intitulé « Les états hindouisés d’Indochine ».

Il est possible que la zone de Cát Tiên se désertifie à cause de la guerre. Si on se rapporte à l’histoire de l’Indochine, on s’aperçoit que le royaume Khmer était en proie à un long conflit avec le Champa de 1145 jusqu’à 1220. La zone de Cát Tiên pourrait devenir ainsi une DMZ (zone démilitarisée) délaissée par les parties khmère et chame.


Références bibliographiques:

(*) Đi tìm vương quốc Phù Nam. Hà Văn Tấn. Báo Lao Động ngày 21/05/1996. Số 61/96

Exchange at the Upstream and Downstream Endo: Notes toward a functionam model of the coastal state in Southeast Asia. Bennet Bronson Editor K.L. Hutterer, 1977

Trésors d’art du Vietnam. La sculpture du Champa. Vè-XVè siècles. Guimet Musée national des arts asiatiques. 2005

Cát Tiên Mê Cung của Thần Linh. Đinh Thị Nga,2007, Editeur Nhà Xuất Bản Trẻ.

Việc mãi nô dưới vòm trời Đông Phố và chủ đất thật của vùng Đồng Nai. Bình Nguyên Lộc

Văn hóa Óc Eo, một nền văn hóa cổ ở Nam Bộ. Nguyễn Thị Hậu.

Ethnic Minorities in Vietnam. Đặng Nghiêm Vạn-Chu Thái Sơn-Lưu Hùng Thế Giới Publishers 2010

Thời đại của Phù Nam. Từ thế kỷ 1 đến thế kỷ thứ 6. Lynda Nora Schaffer. The time of Funan. 1996 Ngô Bắc dịch. pp 18-36

Cát Tiên sanctuaire

cat_tien_site

Première partie

Entouré par les derniers monts du sud de la cordillère annamitique (Nam Trường Sơn), ce santuaire Cát Tiên comporte un grand nombre de vestiges architecturaux éparpillés le long de la rive gauche du fleuve Đồng Nai sur une quinzaine de kilomètres dans un bassin constitué de collines et de terrains alluviaux qui le protègent des regards extérieurs. Depuis longtemps, la population locale est habituée à ramasser les petites reliques, les statues en pierre, les lingas, les morceaux de tessons et les débris des briques sans connaître leur origine. C’est par hasard lors d’une campagne effectuée par les archéologues vietnamiens du musée Lâm Đồng sur une enquête ethnologique que ce site religieux fut découvert en 1985. Cela les abasourdit devant l’ampleur de leur découverte. Outre les 256 sculptures en or évoquant les divinités du panthéon hindou ou les scènes relatant la vie spirituelle et religieuse de la communauté dans l’histoire du sud des Hauts Plateaux ( Nam Tây Nguyên ), ils trouvèrent lors de 8 fouilles archéologiques effectuées de 1994 jusqu’à 2006, un colossal lingam en quartz, symbole phallique du dieu Shiva, haut de 2,1 m et pesant d’environ 3,5kg sans compter les 1140 objets d’une valeur inestimable. Selon les archéologues vietnamiens, ce colossal lingam serait le plus important du genre trouvé en Asie du Sud Est. Parmi les objets exhumés, on peut citer les jarres, chandelles, figurines, statues etc .. Tous sont soit en métaux précieux (or, argent ou cuivre ) soit en métaux rares ( quartz, jaspe etc..). Même un objet jusque-là introuvable ailleurs fait partie du lot de trouvailles archéologiques. C’est une boîte en argent de forme ovale dont le couvercle est orné d’un lion couché et entouré de motifs décoratifs. On s’intérroge sur son origine. Selon certains experts, il pourrait provenir de l’Asie centrale ( Trung Á) à l’époque de l’empire des Kusana. ( Đế Quốc Qúy Sương)

Le nombre élevé de lingams exhumés conduit les archéologues vietnamiens à avoir une idée précise sur le caractère religieux de ce site évoquant sans aucun doute le culte de la fertilité. Une structure métallique en acier (kosa) haute de 0,52m et de diamètre 0,25m a été découverte. Elle est en forme ovale et destinée à couvrir une colonne cylindrique de forme phallique en galet qui a été cachée profondément dans le piedestal en grès avec les trois autres kosas (étuis) en terre cuite. Cela ne met plus en doute le caractère sacré d’union du Yin et du Yang dans l’univers. On trouve dans cette représentation la totalité de l’être humain ainsi que le symbole de la vie, de la fertilité et de la procréation. C’est aussi pour la première fois qu’on découvre dans les vestiges archéologiques du Vietnam plusieurs objets originaux représentés par des boîtes en céramique sous la forme de linga et des petits lingas en or, en acier et en fer protégés par des étuis munis chacun d’un couvercle. L’abondance et la variété de ces lingas exhumés du site attestent certainement l’échange culturel et l’influence notable de l’art du Champa. Mais cela ne nous empêche pas de trouver néanmoins ses particularités propres et visibles à travers la finesse de ses traits ciselés dans la gravure et la rareté de ses modèles de linga.

Depuis l’aube des temps, à l’arrivée du printemps de chaque année où les plantes commençaient à renaître, les populations adeptes du brahmanisme avaient l’habitude d’aller en pèlerinage à des sites religieux durant un, deux ou trois mois pour demander à leurs dieux d’accorder non seulement une bonne saison de récolte mais aussi une meilleure année de reproduction pour leurs animaux. C’est aussi l’occasion pour elles de formuler auprès de ces divinités leurs désirs d’avoir plusieurs enfants. Durant la période des festivités religieuses, elles étaient autorisées à oublier les aléas de la vie durant les années précédentes et s’adonner aux cérémonies rituelles afin que leurs voeux fussent exaucés.

C’est aussi ce qu’on a vu dans la démarche empruntée habituellement par les peuples autochtones de la région Cát Tiên car on a découvert un chemin de pèlerinage dont ils se servaient durant la période des festivités pour rejoindre leur site religieux. Ils prenaient comme point de départ l’une des débarcadères du fleuve Đồng Nai située dans le tronçon de la commune Phú Mỹ.

Labyrinthe des divinités brahmaniques

Etant construit avec des briques anciennes très légères et moins solides que celles d’aujourd’hui (gạch cổ), ce chemin forestier raboteux ressemblant à une série d’escaliers longeant la pente, était aménagé et agrandi visiblement en plusieurs endroits servant d’aires de repos pour les pélerins. Selon l’archéologue vietnamien Lương Nguyên Minh, les pélerins devaient naviguer jusqu’à la débarcadère du fleuve Đồng Nai avant d’entamer la marche à pied pour atteindre le site Cát Tiên. De plus, on a découvert un somasutra (máng nước thiêng) d’une longueur de 5,76m et d’une largeur de 40cm. C’est l’un des conduits les plus importants trouvés jusqu’alors dans les régions d’influence indienne de l’Asie du Sud Est. Son rôle servait à évacuer vers l’extérieur les liquides sacrés provenant de l’arrosage effectué sur le linga lors des cérémonies rituelles. Ces liquides de libation récupérés sur la cuve à ablution étaient répandus ensuite sur les corps des adeptes dans le but de les bénir et exaucer leurs voeux.

Lire la suite (Tiếp theo)

 

Sculpture du Champa 2ème partie (Điêu Khắc Cổ Chămpa)

Version vietnamienne

Style Mỹ Sơn E1: (VIIème-milieu VIIIème siècle)

Les sculptures du sanctuaire Mỹ Sơn se distinguent non seulement par la finesse dans les détails mais aussi par la vivacité dans l’ornementation. La combinaison étonnante et géniale des descriptions réalistes chames et des éléments caractéristiques trouvés dans la doctrine philosophique indienne (hindouisme) a marqué le début de l’âge d’or de la culture chame.

La tête des divinités du site Mỹ Sơn possède les caractères suivants: la face carrée, les gros yeux, les lèvres épaisses, les oreilles portant de larges pendentifs, le nez droit, la coiffure en forme de calotte surmontée d’un élément vertical octogonal annelé, le halo derrière la tête. On peut dénoter l’influence du Chen La (ou Cambodge à l’époque pré-angkorienne). C’est le cas du Vishnu en position couchée, apparenté à un linteau préangkorien et trouvé dans le fronton de Mi-son E 1.

 

Điêu Khắc Cổ Chămpa

Style Hòa  Lai (Milieu VIIIème- milieu IXème siècle) (Période Hoàn Vương)

Il est marqué par l’influence notable de Java. Le dandinement postural, la sensualité et l’élégance dans la sculpture et le halo derrière la tête donnent à ce style une subtilité incontestable. Il semble qu’il ne reste que des sculptures taillées dans la brique des temples. Le chercheur français Jean Boisselier a fait remarquer qu’un lot de bronzes remonta à cette période et qu’ils étaient d’importation indonésienne. Cela met en évidence les rapports privilégiés entre le Champa et l’Indonésie. C’est aussi le début de l’introduction du  bouddhisme mahayana au Chămpa via le royaume Srivijaya.

Style Ðồng Dương  (IXème-Xème  siècle)

C’est le style où l’apparence faciale est très typique. Il est reconnu facilement par les traits communs suivants: les sourcils proéminents, reliés en une ligne continue, sinueuse et remontant jusqu’aux cheveux, les lèvres épaisses avec les commissures relevées, une moustache qui est confondue parfois à la lèvre supérieure et un nez épaté, large de face et aquilin de profil, le front étroit et le menton court. La divinité s’identifie grâce à son oeil frontal. L’absence de sourire est à signaler. sculpture_dongduong1Ce style correspond à la période Indrapura où le bouddhisme connut un essor important et devint l’inclinaison personnelle du roi Indravarman II.  

© Đặng Anh Tuấn

Déesse Tara,

Bronze hauteur 1m20 (2002)

Celui-ci édifia dans la seconde motié du IXème siècle, un monastère bouddhiste de Ðồng Dương situé à 65 km de la ville de Ðà Nẵng. On y trouve beaucoup d’oeuvres concernant le bouddhisme du Grand Véhicule. C’est ici qu’on a trouvé une inscription témoignant de son hommage simultané à Laksmindra Lokesvara (autre nom d’Avalokitesvara)( bouddhisme) et à Shiva Bhadesrava (shivaïsme). C’est le signe du syncrétisme cham durant cette période. Beaucoup de questions se posent sur la provenance de l’influence bouddhique chame. On a longtemps cru et proposé une influence chinoise antérieure à la dynastie des Liang via le centre de Nanjing à Wanfosi (Chengdu) ou à Quingzhou (Shandong). Mais on pourrait suggérer une influence sudiste venant du royaume du Founan dans le delta du Mékong. Le style de Ðồng Dương donne aux statues de bouddha un aspect condensé de virilité, de douceur vigilante et de force bien retenue.      Lire la suite

[Retour à la page Sculpture du Champa]

Galerie des photos

Hamac (Cái võng)

 

 

English version

Version française

Chiếc võng là một dụng cụ rất quen thuộc của người dân Việt. Từ bao nhiêu thế hệ, chúng ta thường quen nghe tiếng  kêu kèn kẹt  của nó vang lên từ Nam đến Bắc Việt Nam với một nhịp điệu đều đặn. Tiếng ồn chói tai này hòa lẫn với tiếng la khóc của những đứa trẻ và những bài hát ru trở thành một giai điệu âm nhạc vĩnh cửu  đã ăn sâu vào tâm hồn của người dân Việt. Nghèo hay giàu, mỗi người  dân Việt có ít nhất một chiếc võng. Đó không chỉ là cái nôi của  các đứa trẻ nhỏ ở Việt Nam mà còn là chiếc xích đu của chúng nữa. Nó được sử dụng bởi người lớn để thư giãn. Nó cũng là nơi nằm nghỉ ban ngày của  các người già. Nó là dụng cụ duy nhất mà mọi người  dân Việt nào không thể bỏ qua được. Chúng ta  thường nói ở Việt Nam rằng chúng ta lớn lên lớn trong tiếng võng và già đi với những bài hát ru vì  các bài nầy  được hát liên tục bởi các   bà mẹ hay  các bà cụ  thường nâng niu  các con hay các cháu. Nghe  tiếng ọp ẹp của võng qua lại và kèm theo những bài hát ru ưu sầu, người dân Việt không thể không  xao xuyến vì nó làm sống lại những kỷ niệm của thời thơ ấu mà đôi khi còn  là những kỷ niệm của mối tình đầu. Những bài hát ru vẫn như thưở nào nhưng lần này  được hát bởi một bà mẹ trẻ có thể là đến  từ sự trùng hợp ngẫu nhiên nào đó  là cô gái mà ta  được biết lúc đó khi ta còn là một chàng thanh niên, hay là một cô lái đò trẻ. Chắc chắn rằng ta sẽ có một cảm xúc tương tự như một người quay về làng quê, sau bao nhiêu năm vắng bóng,  chạnh lòng xót xa khi nghe bài hát ru sau đây:

Bước chân vào ngõ tre làng
Lòng buồn nặng trĩu nghe nàng ru con
Bước lên thềm đá rêu mòn
Lòng buồn nặng trĩu nghe buồn võng đưa.

Chúng ta không thể vô cảm khi chúng ta đến từ đồng bằng sông Cửu Long và khi nghe một bài hát ru sau đây:

Ầu ơ .. Bao giờ Chợ Quán hết vôi,
Thủ Thiêm hết giặc em thôi đưa đò,
Bắp non mà nướng lửa lò
Ðố ai ve được con đò Thủ Thiêm.

Điều này chắc chắn đưa chúng ta trở lại với  thời của tuổi trẻ, thời mà chúng ta vẫn còn vô tư, thích tán tỉnh các cô gái trẻ thậm chí đôi khi luôn cả cô lái đò. Mặc dù chiếc võng được làm ra một cách đơn giản bằng đay hay vải, tiếng ồn qua lại của nó từ từ đã ăn sâu vào ý thức và  đời sống tinh thần của chúng ta và trở nên qua nhiều năm, là  một chủ đề thường được nhắc đến trong các ca dao của  người dân Việt.

Ðố ai nằm võng không đưa,
Ru con không hát, đò đưa không chèo.

Thưở xưa, chiếc võng cũng được sử dụng để vận chuyển phụ nữ hoặc quan lại không muốn đi bằng ngựa. Chiếc võng được đỡ bởi một cây đòn to lớn nằm trên vai hai người đàn ông  đi  một  cách nhịp  nhàng. Để tránh ánh nắng mặt trời, một tấm thảm lác được đặt trên cây đòn gánh. Sự pha trộn này thường được gọi là « kiệu ». Điều này phải tôn trọng các nghi thức nhất định khi đây là một chiếc kiệu được sử dụng bởi các quan. Tùy thuộc vào cấp bậc của họ, hàng ngũ đi kèm với chiếc kiệu  đông người hay không. Một hoặc nhiều người đi trước chiếc kiệu chính thức mang theo vũ khí (kiếm, gậy, vân vân..). Hai bên kiệu là những người mang lộng, hộp trầu, ống nhổ, ống hút, vân vân … Chiếc kiệu này vẩn được sữ dụng cho đến khi xuất hiện chiếc xe kéo đầu tiên vào năm 1884 tại Hànội.

Chiếc võng cũng là  niềm mơ ước của các cô gái trẻ Việt  được kết hôn với ông nghè vinh qui vì theo truyền thống của người dân Việt, cô dâu trẻ được ngồi trong một chiếc kiệu theo sau con ngựa của người chồng được thi đổ làm quan. (Ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau).

Ở phương Tây, chúng ta có  con mắt Cain để tượng trưng cho sự giày vò lương tâm. Ở Việt Nam, để nói về sự tra tấn này, chúng ta thường nhắc đến tiếng võng của « Con Tấm » (hay cô bé lọ lem Việt Nam) bởi vì tiếng kêu của cái võng này làm nhớ đến linh hồn lang thang của Tấm. Nàng là  nạn nhân của cuộc âm mưu được sắp xếp bởi chị Cám và mẹ kế của Tấm. Ngay từ khi Cám nằm trên võng, tiếng võng kêu ọp ẹp và đe dọa làm cho  Cám có cảm giác linh hồn lang thang của em gái Tấm đang thay thế chiếc võng và tìm cách trả thù Cám. Ngày nay, ở các thành phố, những người khá giả   thay võng bằng giường cho các đứa con nhỏ. Nhưng mặc dù có sự thoải mái và thẩm mỹ, cái giường nó  không thể nhận diện ra được như một dụng cụ quen thuộc, cá biệt và thân mật của người dân Việt vì công dụng của nó rất hạn chế. Mặt khác, nó cũng không có tiếng ọp ẹp đi cùng với những bài hát ru u sầu để tạo một một giai điệu âm nhạc vĩnh cửu và khó mà thay thế được.

Măc dù có một cấu trúc thô sơ, chiếc võng vẫn tiếp tục nhịp điệu cuộc sống của người dân Việt và biểu lộ qua nhiều năm tháng, sự thân mật và đặc thù văn hóa của người dân Việt.

 

Version française

Le hamac est l’instrument très familier des Vietnamiens. Depuis tant de générations, on est habitué à entendre son grincement résonnant à une cadence régulière du Sud jusqu’au Nord du Vietnam. Ce bruit strident mélangé aux cris des pleurs des bambins et aux berceuses devient un air de musique éternel enraciné dans l’âme vietnamienne. Pauvre ou riche, chacun des Vietnamiens possède au moins un hamac. Il est non seulement le berceau des jeunes enfants vietnamiens mais aussi leur balançoire. Il est employé par les adultes pour se détendre. Il est aussi le lit de repos pour les personnes âgées. C’est le seul instrument dont aucun Vietnamien ne peut pas se passer. On a l’habitude de dire au Vietnam qu’on a grandi avec le bruit du hamac (lớn trong tiếng võng) et on vieillira avec les berceuses ( già trong lời ru ) car ces dernières sont chantées inlassablement par les mères ou les grand-mères pour dorloter leurs enfants ou leurs petit-enfants.

En entendant le grincement provoqué par le va-et-vient du hamac et accompagné par des berceuses empreintes de mélancolie, il est impossible pour un Vietnamien de ne pas s’émouvoir car cela ravive les souvenirs de son enfance mais parfois ceux de son premier amour. Les berceuses restent les mêmes mais elles sont chantées cette fois par une jeune mère pouvant être par une coïncidence curieuse, la fille qu’il connut à l’époque où il était encore un jeune adolescent, ou l’ancienne passeuse du bac. C’est sûr qu’il aura dans ce cas le même ressentiment qu’une personne rentrée à son village natal, après tant d’années d’absence, a éprouvé dans la berceuse suivante:

Bước chân vào ngõ tre làng
Lòng buồn nặng trĩu nghe nàng ru con
Bước lên thềm đá rêu mòn
Lòng buồn nặng trĩu nghe buồn võng đưa

Quand on met le pied à l’entrée du village
On se sent attristé en entendant la berceuse qu’elle chante pour dorloter son bambin
Quand on gravit le perron en pierre rongé et couvert de mousse
On se sent attristé en entendant le grincement mélancolique du hamac.

On ne peut pas rester insensible lorsqu’on est issu du delta du Mékong et lorsqu’on entend la berceuse suivante:

Ầu ơ .. Bao giờ Chợ Quán hết vôi,
Thủ Thiêm hết giặc em thôi đưa đò,
Bắp non mà nướng lửa lò
Ðố ai ve được con đò Thủ Thiêm.

Âu ơ ..Quand le marché « Chợ Quán » n’a plus de la chaux,
Et la région Thủ Thiêm n’a plus la guerre, je cesserai d’être la passeuse du bac
Les maïs tendres étant mis au fourneau,
Quiconque réussit-il  à me courtiser, le bac de Thủ Thiêm?

Cela nous fait revivre sans doute l’époque de notre jeunesse, l’époque où nous étions encore insouciants, nous aimions bien flirter les jeunes filles parfois même la passeuse du bac. Malgré que le hamac est fabriqué simplement en jute ou en tissu , le bruit provoqué par son va-et-vient continue à se fixer doucement dans l’intimité de notre conscience et dans notre mode de vie spirituel et devient au fil des ans, le sujet le plus abordé dans les poèmes populaires vietnamiens.

Ðố ai nằm võng không đưa,
Ru con không hát, đò đưa không chèo

Parie-t-on à quiconque de s’allonger sur le hamac sans le balancer
de dorloter le bambin sans chanter les berceuses et de conduire le bac sans ramer?

Autrefois, le hamac fut employé aussi pour transporter les femmes ou les mandarins qui ne savaient pas aller à cheval. Le hamac est soutenu par un gros bambou qui repose sur l’épaule de deux hommes trottinant à une allure très cadencée. Pour s’abriter du soleil, une natte de jonc est posée à cheval sur le bambou. Cet assemblage est connu souvent sous le nom « palanquin ». Celui-ci doit respecter certains protocoles lorsqu’il s’agit d’un palanquin employé par les mandarins. En fonction de leur grade, la suite de personnes   accompagnant le palanquin était plus ou moins importante. Une ou plusieurs personnes précédant le palanquin officiel portaient des armes (sabres, bâtons etc …). Sur les côtés du palanquin se tenaient les porteurs de parasol, de boite à bétel, de crachoir, de pipe à eau etc… Ce palanquin ne fut remplacé qu’au moment de l’apparition des premiers pousse-pousse (ou rickshaw) en 1884 à Hanoï.

Le hamac était aussi le rêve de la plupart des jeunes filles vietnamiennes de se marier avec un mandarin car dans notre tradition, la jeune mariée était portée toujours par un palanquin précédé par le cheval de son époux mandarin. (Ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau).

En Occident, on a l’œil de Caïn pour symboliser la torture de la conscience morale. Au Vietnam, pour parler de cette torture, on se réfère souvent au grincement du hamac de « Con Tấm » (ou Cendrillon vietnamien) car ce grincement fait penser à l’âme errante de Tấm, victime d’un complot ourdi par sa demi-sœur Cám et sa marâtre et cherchant à se venger de Cám. Dès l’instant où celle-ci se mit à s’allonger sur le hamac, le grincement du hamac devint si assourdissant et menaçant que Cám avait l’impression que l’âme errante de sa sœur Tấm se substituait au hamac.

De nos jours, dans les villes, les gens aisés remplacent le hamac par le lit pour leurs bambins. Mais il est certain que le lit, malgré son confort et son esthétique, ne peut être reconnaissable comme l’instrument familier, propre et intime du peuple vietnamien car son utilisation est très limitée et il lui manque d’autre part, le grincement qui va de pair avec les berceuses mélancoliques pour devenir un air de musique éternel et irremplaçable.          

 

Malgré sa constitution rudimentaire, le hamac continue à rythmer la vie des Vietnamiens et témoigne au fil des années, de l’intimité et de la spécificité culturelle du peuple vietnamien.

Capitale Hanoï (Thủ đô)

 

Thăng Long muôn thưở 

English version
Version française
Galerie des photos

Đúng như tên được gọi trong chữ Hán, Hà Nội có nghĩa là « thành phố ở  phiá bên sông » (Hà có nghĩa là sông,  nội là ở trong). Không tựa như các thành phố khác ở Việt Nam, Hà Nội có một lịch sử lâu dài và nhiễu nhương. Định mệnh của nó cũng là định mệnh của dân tộc Việt Nam. Nó  có một thời kỳ  bị thất sủng khi Nguyễn Ánh thành công trong việc thành lập triều Nguyễn vào năm 1802 sau 20 năm chiến đấu chống với nhà Tây Sơn và quyết định dời  thủ đô về Huế (hay Phú Xuân).

Nó đã chứng kiến ​​nhiều trận chiến quyết định trong cuộc giành lại độc lập, đặc biệt là trận Đống Đa do hoàng đế Quang Trung lãnh đạo vào năm 1789. Nhờ cuộc chiến  chớp nhoáng chống lại quân Thanh (Trung Quốc) và nhờ  chiến lược tài ba  của Quang Trung chọn ngày Tết của người  dân Việt để tập kích bất ngờ  quân thù Trung Hoa, Hà Nội  được giải phóng cũng toàn thể nước Việt Nam. Đây cũng là  thành phố mà được Hồ Chí Minh chọn để tuyên bố  sự độc lập của Việt Nam vào ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình. Cũng tại Hà Nội, một ngôi chùa  một cột được xây dựng vào năm 1049 bởi vua  Lý Thái Tôn  theo phong cách của những ngôi đền cổ xưa.

Hànội vắng những cơn mưa

Saxophoniste Quyền Văn Minh

Theo truyền thuyết, nhà vua đau buồn vì không có hậu duệ,  nằm mơ thấy được Phật bà Quan Âm ngồi trên một  toà sen trao cho ông một đứa con trai. Ít lâu sau, một phụ nữ nông dân trẻ mà ông yêu thích, đã sinh cho ông một người thừa kế. Để bày tỏ lòng biết ơn, ông dựng ngôi chùa này ở giữa một cái ao có hình bông hoa sen.

Tọa lạc gần sông Hồng, mỗi năm Hànội là nạn nhân của  các lũ lụt của sông và các  mưa gió mùa và các trận bão lớn. Mặc dù vậy, Hà Nội vẫn tiếp tục là thủ đô của Việt Nam thống nhất mãi mãi. Không ai dám tranh cãi di sản chính trị và văn hóa mà thủ đô đã để lại cho người dân Việt Nam.  Đối với tất cả người dân Việt Nam Hà Nôi  không chỉ là một biểu tượng đoàn kết dân tộc mà còn là niềm tự hào của một dân tộc nông dân dũng cảm hiên ngang chống lại thời tiết khắc nghiệt và tham vọng của quân xâm lược.

Trước khi trở thành kinh đô của Việt Nam, Hà Nội là trụ sở hành chánh của quân xâm lược Trung Quốc vào năm 607 và mang tên « Tống Bình ». Vào năm 866, nơi  này có được  một bức tường của Đại La,  hiện nay còn  có một số dấu tích. Thành phố nầy được chọn bởi người sáng lập triều đại Lý, nhà vua Lý Công Uẩn vào năm 1010 và trở thành là  kinh đô mới của Việt Nam thay thế kinh đô Hoa Lư. Theo truyền thuyết, trong giấc mơ, nhà vua nhìn thấy một con rồng vàng bay lên  ở khu vực này. Chính vì lý do này mà Hà Nội được gọi vào thời điểm đó là « Thăng Long » (con rồng bay lên). Địa điểm này được xem thuận lợi so với các địa điểm khác bởi vì nó nằm giữa hà và sơn, nước và núi, ở giữa những cánh đồng lúa và được bảo vệ tránh các lũ lụt nhờ các con  đê. Vào thế kỷ 15, Hà Nội lấy tên là Đông Kinh. Sau đó, lấy lại tên Thăng Long cho đến khi kinh đô được dời  về Huế. Sau đó, nó được đặt tên là Thành Tích, rồi đến tên  Bắc Thành trước khi trở lại với tên  Hà Nội chỉ vào năm 1931. Nó trở thành thủ đô của Bắc Việt Nam sau hiệp định Genève năm 1954 và trở thành từ  sau biến cố  năm 1975, là thủ đô của Việt Nam thống nhất. 

Hànôi  gồm có 913  cây số vuông. Nội thành của nó (40 cây số vuông) được chia thành bốn quận: Quận Hoàn Kiếm, Quận Hai Bà Trưng, ​​Quận Đống ĐaQuận Ba Ðình. Nó cũng có 6 huyện ngoại thành và nhiều ngôi làng nằm ở trong  phạm vi ranh giới của nó.

Linh hồn Hà Nội được thấy  thông qua  phố cổ của nó. Bà Huyện Thanh Quan, một nhà thơ của thế kỷ 19 có nhắc đến Hànội trong một tác phẩm của bà. Điều mà được thấy ở khu phố cổ này là 36 phố (hay đường) mà đặc trưng là mỗi phố nó có một  nghề nghiệp riêng biệt: hàng đào với các khăn quàng cổ bằng tơ lụa đủ màu, hàng thuốc bắc với mùi hương của các loại thảo mộc vân vân…Nhà văn Thạch Lam của nhóm Tự Lực Văn Đoàn đã từng nói đến « Hànôi ba mươi sáu phố phường » qua  cái ăn uống của người Hà Thành.

Hà Nội cũng là thành phố của Việt Nam còn lưu giữ nhiều dấu vết của thời thuộc địa hơn so với các thành phố khác. Chúng ta có thể nói rằng đây là bản sao chính xác của một ngôi làng theo phong cách  Arcachon với cung điện của thống đốc, nhà hát opera, nhà bưu điện lớn và công viên của nó. Cầu Long Biên (hay Paul Doumer) nhắc lại không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật đầu tiên của các nhà xây dựng Pháp trên sông Hồng vào năm 1902 mà còn là dấu vết của  các vụ đánh bom của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Mặc dù vậy, Hà Nội, trong những năm gần đây, bắt đầu thay đổi diện mạo và mặt tiền. Các công trình xây cất đã được tăng lên với một tốc độ đáng ấn tượng  đến nỗi không còn thấy một mét vuông nào trống cả.

Comme son nom l’indique, Hanoï veut dire « la ville en deçà du fleuve » (Hà signifiant le fleuve, Nội l’intérieur »). Contrairement à d’autres villes du Vietnam, Hanoï  a une longue histoire mouvementée. Son destin est celui du peuple vietnamien. Elle connut une période de disgrâce lorsque l’empereur  Nguyễn Anh parvint à fonder la dynastie des Nguyễn en 1802 après 20 ans de combat acharné contre les Tây Sơn et décida de transférer la capitale à Huế (ou Phú Xuân). 

Elle fut témoin de plusieurs batailles décisives dans la reconquête de l’indépendance, en particulier la bataille Ðống Đa menée par l’empereur Quang Trung en 1789. Grâce à la guerre éclair contre les troupes chinoises des Qing et grâce au stratagème de ce dernier de choisir la fête du nouvel an vietnamien pour surprendre les ennemis chinois, Hà Nội fut ainsi libérée ainsi que le Vietnam. Elle fut aussi la ville choisie par Hồ Chí Minh pour proclamer le 2 septembre 1945 l’indépendance du Vietnam sur la place de Ba Ðình. Ce fut aussi à Hanoï que la pagode au pilier unique (Chùa Một Cột) fut élevée en 1049 par le souverain Lý Thái Tôn sur un pilier en bois puissant dans le style des anciens temples des ancêtres.

Selon la légende, le roi affligé de ne pas avoir de descendance, rêva de Quan Âm, la déesse de la Miséricorde. Assise sur une fleur de lotus, elle lui tendit un fils. Peu après, une jeune paysanne dont il fit  sa favorite, lui donna un héritier. En témoignage de sa gratitude, il fit ériger cette pagode au milieu d’un étang en forme de fleur de lotus

A cause de sa proximité du fleuve Rouge, elle est victime tous les ans des inondations provoquées par les crues de ce fleuve et par les violentes pluies de mousson et les typhons. Malgré cela, Hanoï continue à rester éternellement la capitale du Vietnam réunifié. Personne n’ose contester l’héritage politique et culturel qu’elle a laissé au peuple vietnamien. Elle représente non seulement pour la plupart des Vietnamiens le symbole de l’unité nationale mais aussi la fierté d’un peuple de paysans sachant résister vaillamment aux intempéries de la nature et aux ambitions des envahisseurs.

Avant d’être la capitale du Vietnam, Hanoï fut le siège de l’administration chinoise en l’an 607 et porta le nom  » Tống Bình « . En 866, ce siège fut doté d’une muraille de Ðại La dont il subsiste actuellement quelques vestiges. Il fut choisi par le fondateur de la dynastie des Lý, le roi Lý Công Uẩn, en 1010 comme la nouvelle capitale du Vietnam à la place de Hoa Lư. Selon la légende, dans le songe, le roi a vu un dragon d’or s’envoler de cette localité. C’est pour cette raison que Hanoï fut appelée à cette époque  » Thăng Long« (le dragon prenant son essor)« .

Ce site fut jugé favorable par rapport à d’autres sites car il est entre Hà et Sơn, les eaux et les montagnes, au milieu des rizières et protégé des inondations par les digues. Au XVème siècle, Hanoï prit le nom Ðông Kinh. Puis elle reprit le nom Thăng Long jusqu’au transfert de la résidence royale à Huế. Elle prit ensuite le nom de Thành Tích puis Bắc Thành avant de devenir Hanoï seulement en 1931. Elle devint la capitale du Nord Vietnam après les accords de Genève en 1954 et devint depuis les événements de 1975, la capitale du Vietnam réunifié.

Hànôi couvre 913 km2. Son intérieur (ou nội thành (40 km2) est divisé en quatre districts (ou Quận): Quận Hoàn Kiếm, Quận Hai Bà Trưng, Quận Hai Bà Trưng, Quận Ðống Ða et Quận Ba Ðình. Elle compte aussi 6 quartiers suburbains (ou huyện) et de nombreux villages situés à l’intérieur de ses limites.

On trouve l’âme de Hanoï à travers son vieux faubourg.  Huyện Thanh Quan, une poétesse du XIXème siècle l’a évoqué dans l’une de ses œuvres. Ce qui retient le plus dans ce vieux faubourg, ce sont les 36 rues connues souvent sous le nom  Phố (ou đường en vietnamien) dont chacune a sa spécialité: rue de la soie aux écharpes multicolores, rue des médicaments au parfum d’herbes aromatiques etc…Le célèbre romancier Thạch Lam a  eu l’occasion d’évoquer ce faubourg à 36 rues à travers la cuisine vietnamienne.

Hanoï est aussi la ville vietnamienne qui garde plus de traces coloniales par rapport à d’autres villes. On peut dire qu’elle est la copie conforme d’une bourgade au style d’Arcachon avec son palais de gouverneur, son opéra, sa grande poste et son parc. Le pont Long Biên (ou Paul Doumer) rappelle non seulement le premier ouvrage d’art des bâtisseurs français sur le fleuve Rouge en 1902 mais aussi les traces des bombardements américains durant la guerre du Vietnam.

Malgré cela, Hanoï, depuis quelques années, commence à changer de visage et de façade. Les constructions se sont multipliées à un rythme effarant tel qu’il ne reste pas un mètre carré inoccupé. 

Galerie des photos

[Return HANOÏ]

Chapeau conique (Nón lá)

Version française
Version anglaise

Cho đến ngày nay chưa có tài liệu lịch sử nào xác định rõ ràng thời gian nào cái nón lá được ra đời  nhưng chỉ  thấy dạng thức thô sơ tiền thân của nó (mũ lông chim) được khắc trên  các cổ vật Đồng Sơn (như  trống đồng Ngọc Lữ hay thạp đồng Đào Thịnh) cách đây 2500-3000 năm trước Công Nguyên. Từ ngàn xưa,  để chống nắng và che mưa nhất là sống trong khu vực khí hậu nhiệt đới, nắng lắm mưa nhiều nên  ông cha ta đã nghĩ ra  để tận dụng những nguyên liệu dễ kiếm từ thiên nhiên (như lá cọ, lá buông, lá hồ, lá cối, lá dừa, lá dứa  rơm vân vân) và sáng chế ra chiếc nón lá. Rồi  nó trở thành từ  đó  vật dụng cần thiết trong cuộc sống bình dị  thường ngày của người  dân Việt. Ở khắp mọi miền đất nước, đâu đâu cũng có hình dáng của nó. Trên đê dưới ruộng, trên bờ dưới sông, lúc nào nó cũng dãi nắng dầm mưa  cùng  người nông dân. Đôi khi  nó còn trở thành dụng cụ tạo gió cho người nông dân  giữa lúc hè nóng oi bức. Nó cũng  theo chân gót của người bán hàng rong ở khắp nẽo đường thành phố. Nón lá đã từ lâu  trở thành một biểu tượng đặc trưng  trong nền văn hóa Việt. Nó còn  tô thêm nét  đẹp duyên dáng cho  người phụ nữ  Việt  dịu dàng với chiếc áo dài hay chiếc áo bà ba.  

Dựa  trên các nguồn sử liệu  thì nguời  đầu tiên đề cập chiếc nón Việt là Chu Khứ Phi  thời Nam Tống trong  cuốn: Lĩnh Ngoại Đại Đáp (嶺外代答序) viết về  phong tục nhà Lý của chúng ta vào khoảng năm 1178. Nguời Giao Chỉ  đầu đội nón trôn ốc [nguyên văn là 螺笠  cái loa lạp, cái nón có hình như trôn ốc].  Sau đó, dựa theo  Lĩnh Ngoại Đại Đáp của  Chu Khứ Phi, sử gia nhà Nguyên Mã Đoan Lâm có miêu tả lại trong “Văn hiến thông khảo” vào năm 1307 như sau: nón hình xoắn ốc, hình dáng của nó giống như những con ốc… được làm rất khéo từ lạt tre mỏng. […] Hình ảnh sớm nhất về nón lá của người Việt được ghi nhận là trong bức họa “Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ” của Trần Giám Như vào khoảng năm 1363. Trong bức họa này,  được thấy rõ có  hai người đàn ông đội nón có hình dáng khác nhau. Người thứ nhất đội chiếc nón vành xòe rộng, bên trên lại có cái chũm nhô cao. Còn người kia cũng đội chiếc nón cũng rộng vành nhưng chớp nhọn.   Như vậy thời đó  nón đã dành cho  nhiều tầng lớp người khác nhau, từ giàu sang đến kẻ nghèo, từ quan trên đến người hầu hạ rồi. Dưới thời nhà Trần, ở làng Ma Lôi (Hải Dương ngày nay) đã sản xuất chiếc nón lá. Lúc đầu nón Ma Lôi chỉ lưu hành ở trong dân gian nhưng về sau vua Trần trông thấy đẹp mắt nên cải tiến một loại nón để  cung tần mỹ  nữ  dùng  trong hoàng cung và được gọi là nón thượng. Nón Ma Lôi được dùng sau đó  trong lực lựợng thủy quân do tướng Trần Khánh Dư chỉ huy nhầm để phân biệt với quân lính phương Bắc.

Qua bức họa trên “Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ” của Trần Giám Như cho ta thấy rõ rệt thứ nhất  là thân phận, giai cấp  của mỗi người đội nón  thứ hai là  nón nó có một hành trình biến đổi qua nhiều thế kỷ với nhiều kiểu dáng khác nhau và mang đậm về sau dấu ấn văn hoá điạ phương  (như nón ba tầm hay nón quai thao  ở miền bắc Việt Nam, nón Huế, nón Bình Định, nón Quảng Nam  vân vân)  để rồi  ngày nay  cái nón lá lại trở  thành vật dụng thân thiết và bình dị  của mọi tầng lớp nhân dân, một bạn đồng hành thường ngày của người dân Việt. Không chỉ trong đời sống hằng ngày, hình ảnh của nón lá còn được phổ biến  trên các sàn diển thời trang và trở thành nguồn cảm hứng thiết kế  hiện nay cho các nhà mốt. Nó còn là món quà lưu niệm mà  được các du khách nước ngoài hay thường mua khi trở  về nước.

Jusqu’à ce jour, il n’existe pas de documents historiques précisant  clairement la  période de la  création  du chapeau conique. Par contre seule sa forme primitive (chapeau de plumes) a été vue gravée sur les artefacts de la culture de  Đồng Sơn  (comme le tambour de bronze  Ngoc Lũ ou la situle de  bronze  Đào Thịnh) il y a 2500 à 3000 ans avant J.-C.

Depuis l’Antiquité, pour  vivre et se protéger du soleil et de la pluie dans un climat tropical,  nos ancêtres ont pensé à utiliser des matériaux facilement trouvables dans la nature  comme les feuilles de certaines plantes (pandan, cocotier, buông, hồ,  cối) et  de la paille et ont réussi à inventer le chapeau conique. Ce dernier est  devenu dès lors  un élément indispensable à la vie quotidienne des Vietnamiens. On le voit partout  dans tous les recoins du pays. Il devient inséparable du paysan, de la digue jusqu’à la rizière ou du rivage jusqu’au fleuve. Parfois le paysan s’en sert comme un éventail pour se détendre sous un soleil accablant. On le voit suivre souvent le marchand ambulant dans les rues de la ville. Il devient depuis longtemps un symbole caractéristique de la culture vietnamienne. Il ajoute une touche d’élégance à la femme vietnamienne à travers sa tunique ou à son veste à amples manches.

D’après des sources historiques, la première personne à mentionner le chapeau conique vietnamien était Zhou Qunfei (Chu Khu Phi)  de la dynastie des Song du Sud dans son  livre intitulé :Lĩnh Ngoại Đại Đáp (嶺外代答序), retraçant les  coutumes de notre dynastie Lý en  1178. Les habitants de Giao Chi portaient des chapeaux  coniques [le texte original est 螺笠 le  loa lap, un chapeau en forme de coquille conique].  Plus tard, en se basant sur le livre   Zhou Qunfei, l’historien de la dynastie des Yuan Ma Duanlin  (Mã Đoan Lâm)  le décrit dans «Văn hiến thông khảo » en 1307 comme suit: le chapeau  ressemblant à la forme de l’escargot etc. est fabriqué d’une manière très méticuleuse  à partir de fines bandes de bambou. […] La plus ancienne image des chapeaux coniques vietnamiens se trouve dans le tableau «Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ  évoquant le  retour du roi moine Trần Nhân Tôn à la vie royale, illustré  par le moine dessinateur chinois   Trần Giám Như   en  1363. Dans ce tableau, on voit apparaître deux hommes portant des chapeaux de formes différentes. La première personne portait un chapeau à large bord au milieu duquel on fait ressortir sa portion saillante. L’autre personne portait également un chapeau à large bord  très pointu. À cette époque, les chapeaux étaient destinés à de nombreuses catégories  de personnes différentes, des riches aux pauvres, des fonctionnaires aux domestiques. Sous la dynastie des  Trần, le village de Ma Lôi (aujourd’hui Hải Dương)  fabriquait  des chapeaux coniques. Au début, ceux-ci étaient populaires et connus seulement par le peuple, mais plus tard, le roi des Trần a trouvé  qu’ils étaient  tellement beaux. Il n’a pas tardé  à apporter des améliorations à ces chapeaux en vue de leur usage par les concubines dans le palais royal.  Dès  lors ces chapeaux étaient connus sous le nom « nón thượng ». Le chapeau de Ma Lôi  était utilisé  plus tard dans la marine nationale  commandée par le général Trần Khánh Dư pour se différencier de celui  porté par  les soldats  venant du Nord.

À travers le tableau ci-dessus «Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ» de Trần Giám Như, on peut repérer premièrement le statut social de chaque personne portant le chapeau. Puis deuxièmement le chapeau a connu un long parcours de transformation au cours de nombreux siècles avec de nombreux modèles différents portés chacun par la culture locale (comme le chapeau Ba Tầm ou Quai Thao dans le nord du Vietnam, le chapeau Huế, le chapeau Bình Định, le chapeau Quảng Nam, etc.) de sorte qu’aujourd’hui le chapeau conique est devenu un objet familier et simple de toutes les classes de la société, un compagnon inséparable du peuple vietnamien. Étant connue non seulement dans la vie quotidienne, l’image du  chapeau conique est également exhibée lors des défilés de mode et  est devenue aujourd’hui une source d’inspiration pour les maisons de mode. C’est aussi un objet de souvenir que les touristes étrangers  aiment acheter souvent lors du retour dans leur pays.

En portant  la tunique vietnamienne avec son chapeau conique, Miss Isabelle Menin
   honore la beauté  de la culture traditionnelle lors du concours de

Miss Grand International  2023 au Vietnam

 

Quê Hương

 

Vietnamese version

English version
Quê Hương
Ce sont les premiers mots que nous avons appris de notre maître à l’école. Il faut aimer Quê Hương, ce que répétait tous les jours notre maître. Cela nous rendait parfois perplexes quand nous étions encore sur le banc d’école. Pourquoi devrions-nous l’aimer ? Il n’a rien d’extraordinaire. Il n’a que le nom. Nous ne le voyons pas. Nous n’arrivons même pas à sentir sa présence au Vietnam. Quelquefois, nous avons l’envie de le nier car il est synonyme de  la pauvreté et la misère. Pourtant comme notre mère, il est unique pour chacun de nous. Il est vivace et irremplaçable.

Il est notre raison d’être. Nous ne pouvons pas grandir si nous n’y pensons pas . Même si nous vivons à l’étranger ou dans un coin le plus refoulé de la planète, son ombre continue à s’agripper à nous  avec tendresse et regret. Si nous avons l’occasion de passer une nuit blanche, nous constatons que la nuit est très longue. Si nous avons l’opportunité de quitter le Viet Nam, nous nous rendons compte qu’il nous manque Quê Hương. Le poète Ðỗ Trung Quân réussit à  le décrire à travers son poème intitulé « Bài Học đầu tiên cho con » (Première leçon pour mon enfant ) que feu compositeur talentueux Anh Bằng parviendra  à mettre en chanson plus tard. Quê Hương c’est une grappe de caramboles sucrés cueillis par  mon enfant tous les jours. Quê Hương c’est le chemin d’école rempli  de papillons  jaunes que mon enfant est habitué à prendre  tous les jours lors de son retour. Quê Hương c’est le cerf-volant de couleur glauque que mon enfant a l’habitude de faire s’envoler sur la prairie. Quê Hương c’est la petite barque s’avançant  doucement le long de la rivière. Quê Hương c’est le petit pont en bambou pris fréquemment  par notre mère  avec son chapeau conique pour se protéger contre le soleil etc.

Effectivement, Quê Hương c’est notre passé, notre jeunesse, notre identité, nos souvenirs. Nous ne pouvons jamais grandir si nous ne montrons pas notre  attachement à notre passé. A cause des aléas de la vie, nous pouvons oublier momentanément Quê Hương mais nous ne le perdons pas à tout jamais.

Bao năm xa cách Quê Hương
Nỗi sầu viễn xứ biết dường nào nguôi
Mai nầy vĩnh biệt chôn vùi
Đất người thể xác ngậm ngùi nghìn thu.

 

Que Huong

Quê Hương đây là những chữ đầu tiên mà chúng ta học đựợc với thầy cô lúc ở trường.  Con phải yêu thương Quê Hương, đó là câu   thầy cô thường nhắc  đến mỗi ngày . Nó làm chúng ta trăn trở khi lúc chúng ta còn là những cậu hay cô bé  ở nhà trường. Tại sao chúng ta phải yêu thương Quê Hương ? Nó đâu có  cái gì gọi là phi thường cả. Nó chỉ là một  cái tên mà thôi. Chúng ta không nhận  được bao giờ sự hiện diện của nó khi lúc còn sống ở Việtnam. Đôi khi  chúng ta còn không thèm muốn nhắc đến nó nửa  vì nó tiêu biểu sự nghèo nàn và khổ cực. Cũng  như  mẹ, chúng ta chỉ có một lần   trong đời mà thôi. Nó vẫn sống mãi trong lòng chúng ta và cũng khó có ai có thể thay thế nó đựợc  với thời gian.

Chính nó là lý lẽ cuộc sống của chúng ta đấy. Không có nó, chúng ta không thể lớn lên  được. Dù  sống ở xứ người hay ở một nơi nào hẻo lánh đi nửa, hình bóng Quê Hương nó vẫn bám theo chúng ta.   Nó  lúc nào cũng  đem đến   với chúng ta  sự trìu mến và luyến tiếc cả. Nếu chúng ta có dịp thức trắng đêm,  chúng ta mới nhận thấy  đêm khuya nó quá dài. Nếu chúng ta có phương tiện đi xa Việtnam, chúng ta mới nhận thấy chúng ta thiếu Quê Hương đấy.  Nhà thơ Ðỗ Trung Quân đã diễn tả được nó  qua bài thơ mang tựa là: « Bài Học đầu tiên cho con » mà cố nhạc sỹ Anh Bằng lỗi lạc sáng tác lại  bằng nhạc. Quê Hương là chùm khế ngọt  con trèo hái mỗi ngày. Quê Hương là  đường đi học . Con về rợp bướm vàng bay. Quê hương là con diều biếc , tuổi thơ con thả trên đồng. Quê hương là con đò nhỏ. Êm đềm khua nước ven sông. Quê hương là cầu tre nhỏ . Mẹ về nón lá nghiêng che….

Đúng vậy Qụê Hương, chính là dĩ vãng quá khứ, tuổi trẻ, bản sắc  và kỷ niệm của chúng ta. Khó mà chúng ta trưởng thành nếu chúng ta không có khăng khít với quá khứ.  Vì  sự thăng trầm trong cuộc sống, có  thể chúng ta quên đi Quê Hương một lúc nào  nhưng mãi mãi chúng ta không bao giờ mất nó được  đâu.