Đi tìm nguồn gốc dân tộc Việt (À la recherche de l’origine du peuple vietnamien)

 

Đi tìm nguồn gốc dân tộc Việt

Version française

English version

Việc phát hiện ra di chỉ Hemudu (Chiết Giang) vào năm 1973 là một sự kiện trọng đại đối với các nhà khảo cổ học Trung Quốc vì di chỉ này, có niên đại hơn 5.000 năm, là bằng chứng cho nền văn minh lúa nước lâu đời nhất được tìm thấy cho đến nay trên thế giới. Người ta cũng tìm thấy tàn tích của một ngôi nhà sàn bằng gỗ ven hồ, một kiểu kiến ​​trúc rất khác so với nhà đất ở miền Bắc Trung Quốc. Dân số sống ở đó mang đặc điểm của cả người Mông Cổ và người Australo-Negroid. Vì Chiết Giang từ lâu đã là một trong những tỉnh đẹp nhất của miền Nam Trung Quốc, nên nền văn minh nổi tiếng này thường được cho là của người Trung Quốc, mặc dù người ta biết rằng cái nôi của nền văn minh này gắn liền với lưu vực sông Hoàng Hà, mà An Dương là trung tâm cổ xưa.

Ta không thể phủ nhận rằng nền văn minh của họ đã tìm thấy tinh hoa trong nền văn hóa thời kỳ đồ đá mới của Dương Thiệu (tỉnh Hà Nam) (5000 năm TCN) và Long Sơn (tỉnh Sơn Đông) (2500 năm TCN), lần lượt được nhà khảo cổ học người Thụy Điển Johan G. Andersson phát hiện vào năm 1921 và cha đẻ của ngành khảo cổ học Trung Quốc Li Ji phát hiện vài năm sau đó. Nhờ công trình phân tích phát sinh chủng loại của nhóm nghiên cứu Mỹ do Giáo sư J.Y. Chu thuộc Đại học Texas dẫn đầu, được công bố vào tháng 7 năm 1998 trên Tạp chí của Viện Hàn lâm Khoa học Hoa Kỳ, được tập hợp dưới tiêu đề « Mối quan hệ di truyền của dân số ở Trung Quốc » (1), chúng ta đã bắt đầu có được một ý niệm chính xác về nguồn gốc của người Trung Quốc. 

Hai điểm quan trọng đã được ghi nhận trong việc nghiên cứu này:

 1) Rõ ràng là bằng chứng di truyền không thể trợ lực sự độc lập ban đầu của người Homo sapiens ở Trung Quốc. Tổ tiên của các quần thể hiện đang sống ở miền đông Trung Quốc đến từ Đông Nam Á.

2) Giờ đây, có lẽ có thể sự kết luận một cách rõ ràng rằng người « hiện đại » gốc Phi chiếm một phần lớn trong vốn gen thường thấy ở Đông Á.

 Trong phần kết luận của mình, Giáo sư J.Y. Chu thừa nhận rằng rất có thể tổ tiên của những người nói tiếng Altaic (hay Hán) có nguồn gốc từ những người dân Đông Nam Á và những người đến từ Trung Á và Châu Âu. 

Sự  khám phá này không còn  nghi vấn câu hỏi về những gì đã được Giáo sư Nhân chủng học Wilhelm G. Solheim II của Đại học Hawaii đề xuất vài năm trước đó trong cuốn sách có tựa đề  « A New Light in a Forgotten Past ». (2) Đối với nhà nhân chủng học này, không còn nghi ngờ gì nữa rằng nền văn hóa Hòa Bình (15.000 năm trước Công nguyên) được nhà khảo cổ học người Pháp Madeleine Colani phát hiện vào năm 1922 tại một ngôi làng gần tỉnh Hòa Bình của Việt Nam chính là cơ sở cho sự ra đời và tiến hóa trong tương lai của các nền văn hóa thời kỳ đồ đá mới là Ngưỡng Thiều và Long Sơn được tìm thấy ở miền bắc Trung Quốc. Nhà vật lý người Anh Stephen Oppenheimer đã vượt ra ngoài những gì người ta từng nghĩ khi chứng minh theo cách tiếp cận khoa học và logic của ông rằng cái nôi của nền văn minh nhân loại nằm ở Đông Nam Á trong tác phẩm có tựa đề Eden in the East: The Drowned Continent of Southeast Asia (Địa đàng ở phương Đông: Lục địa chìm đắm của Đông Nam Á). 

 Ông kết luận rằng dựa trên bằng chứng địa chất tìm thấy ở đáy Biển Đông và các phương pháp xác định niên đại bằng C-14 trên thực phẩm (khoai lang, khoai môn, gạo, ngũ cốc vân vân..) được tìm thấy ở Đông Nam Á (Non Nok Tha, Sa Kai (Thái Lan), Phùng Nguyên, Đồng Ðậu (Việt Nam), Nam Dương), một trận lụt lớn đã xảy ra và buộc người dân ở khu vực này, trái ngược với những gì các nhà khảo cổ học phương Tây mô tả là những người sống bằng nghề đánh cá, săn bắn và hái lượm, là những người đầu tiên biết cách làm chủ hoàn toàn trong việc trồng lúa và nông nghiệp, phải di cư theo mọi hướng (hoặc về phía Nam ở Châu Đại Dương, hoặc về phía Đông ở Thái Bình Dương, hoặc về phía Tây ở Ấn Độ hoặc về phía Bắc ở Trung Quốc) để sinh tồn. Những người này đã trở thành những hạt giống của các nền văn minh vĩ đại và rực rỡ sau này được tìm thấy ở Ấn Độ, Lưỡng Hà, Ai Cập và Địa Trung Hải. 

Từ  sự quan sát khảo cổ học và khoa học này, chúng ta được dẫn dắt để đặt câu hỏi về mọi thứ đã được lịch sử báo cáo và làm sai lệch ở khu vực này của thế giới và cho đến nay những gì  được  dẫn dạy cho người Việt Nam. Chúng ta có thể bỏ qua những khám phá khoa học này lâu hơn nữa hay không? Chúng ta có thể tiếp tục tin vào các quyển sách của Trung Quốc (ví dụ như Hậu Hán Thư) trong đó các  nhà thái thú Tích Quang và Nhâm Diên của Trung Quốc được cho là các người đã dạy cho tổ tiên của người Việt cách ăn mặc và cách sử dụng cày, điều mà họ không hề  biết  đến vào thế kỷ đầu tiên của thời đại chúng ta? Làm thế nào mà các hậu duệ  chính đáng của vua Thần Nông (3) lại không biết trồng lúa, khi chúng ta biết rằng ngài là một chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp? Không ai dám chỉ ra việc mâu thuẫn này.

Shennong (Thần Nông)

 Chúng ta thậm chí còn không tự hỏi tại sao người phương Bắc lại đặt cho vị anh hùng thần thánh này  với biệt danh Viêm Đế (vua xứ nóng của Bạch Việt). Phải chăng đây là cách họ gọi vua phương Nam, bởi vì vào thời nà Châu, lãnh thổ của người Việt được gọi là Viêm Bang? Phải chăng người du mục phương Bắc có nguồn gốc Thổ-Mông, tổ tiên của người Hán, và người phương Nam, người Việt, có cùng tổ tiên? Đây có phải là một sự bịa đặt thuần túy được xây dựng để tôn vinh những kẻ chinh phục và nhằm mục đích hợp thức hóa chính sách đồng hóa của họ? Mọi dấu vết của các dân tộc khác, tức « người man di », đều bị xóa bỏ trong cuộc hành trình của họ. Cuộc chinh phạt lục địa Trung Hoa bắt đầu từ ranh giới của những vùng đất hoàng thổ và  đại đồng bằng, và được kéo dài có  gần bốn thiên niên kỷ.

Đây là điều mà học giả người Pháp René Grousset đã ghi nhận trong tác phẩm « Lịch sử Trung Quốc » khi nói về sự bành trướng của một chủng tộc tiên phong Trung Hoa thô bạo từ đại  đồng bằng. Trước nền văn minh rực rỡ của họ, rất ít người, kể cả người châu Âu khi đặt chân đến châu Á, dám đặt câu hỏi về những gì đã được ghi chép trong sử sách Trung Hoa và Việt Nam, và nghĩ về sự tồn tại của một nền văn minh khác mà những kẻ thống trị đã thành công trong việc độc chiếm và xóa sổ trên lãnh thổ bị chinh phục của người Bách Việt. Cái tên Đông Dương phần lớn đã phản ánh thái độ này, bởi vì đối với nhiều người, châu Á chỉ có hai nền văn minh đáng được nhắc đến: Ấn Độ và Trung Quốc. Thật đáng tiếc khi phải ghi nhận  việc sai lầm tương tự của một số sử gia Việt Nam, những người thấm nhuần văn hóa Trung Hoa, trong các tác phẩm lịch sử của họ. Do bị nhồi sọ bởi chính sách thực dân của người phương Bắc, một bộ phận người Việt Nam vẫn tiếp tục quên đi nguồn gốc của mình và ngày nay nghĩ rằng mình là hậu duệ của người Trung Quốc. Những người  nầy, họ không ngần ngại thực hiện chính sách đồng hóa và sáp nhập các vùng lãnh thổ mà họ đã chinh phục được kể từ khi họ  lập quốc. Sự thành công của sự  Hán hóa đã được thể hiện rõ qua nhiều thế kỷ trong quá trình họ tiếp xúc với các dân tộc « man di » khác. Quá trình này chắc hẳn cũng không khác gì quá trình đánh dấu sự xâm chiếm của họ vào « vùng đất cỏ Mông Cổ » ở thế kỷ 19 và vào rừng Mãn Châu ở thế kỷ 20. 

Chúng ta không phủ nhận nền văn minh rực rỡ của họ đã có tác động không thể phủ nhận đến sự phát triển của văn hóa Việt Nam trong thời gian dài họ đô hộ, nhưng chúng ta không thể quên thừa nhận rằng tổ tiên của người Việt, người Lạc Việt  đã có nền văn hóa riêng của họ, đó là  nền văn hóa Bách Việt. Họ là những người sống sót duy nhất của đại  tộc này không bị Hán hóa trong sự hỗn loạn của lịch sử. Họ là những người thừa kế chính đáng của người Bạch Việt và nền văn minh nông nghiệp của họ. Trống đồng Đồng Sơn đã chứng minh tính hợp pháp của họ bởi vì trên những đồ vật này, người ta tìm thấy các họa tiết trang trí mô phỏng các hoạt động nông nghiệp và hàng hải của họ trong thời kỳ rực rỡ này trước khi người Trung Quốc đặt chân đến lãnh thổ của họ (Giao Chỉ trong tiếng Việt). 

Ngày nay, người ta biết rằng nền văn minh nông nghiệp của Hà Mỗ Độ đã khai sinh ra nền văn hóa Bách Việt. Thuật ngữ Bách Việt, theo nghĩa đen có nghĩa là trăm  tộc Việt, được người Trung Quốc sử dụng để  ám chỉ tất cả các bộ lạc thuộc về một nhóm người Việt. Theo nhà văn xuất sắc  Bình Nguyên Lộc, công cụ thường được người Việt sử dụng là chiếc rìu được tìm thấy dưới nhiều hình dạng khác nhau và được làm bằng nhiều vật liệu khác nhau (đá, sắt hoặc đồng). Chính vì lý do này mà vào thời điểm tiếp xúc với những người du mục ở phía Bắc có nguồn gốc Thổ-Mông, tổ tiên của người Hán (hay người Trung Quốc), họ được người Trung Quốc gọi dưới cái tên « Yue », những người quen sử dụng rìu. Vào thời điểm đó, nó có hình thức  như  sau

 
và thể  hiện mô hình trong chữ viết Trung Quốc. Mô hình này tiếp tục xuất hiện đầy đủ trong từ Yue, mà bộ gốc mễ (米) hoặc gạo trong tiếng Việt cũng được thêm vào để chỉ những người trồng lúa vào thời Khổng Tử. Ngày nay, trong từ Yue, ngoài bộ gốc « Tẩu (走) trong tiếng Việt là vượt, chiếc rìu tiếp tục được biểu thị bằng tượng hình, đã liên tục sửa đổi qua nhiều năm. Từ Yue có lẽ bắt nguồn từ âm vị Yit mà người Mường dùng để chỉ chiếc rìu.Điều quan trọng cần nhớ là bộ tộc Mường có cùng nguồn gốc với bộ tộc Lạc Việt, tổ tiên của người Việt. (Các vị vua Việt Nam lừng lẫy là Lê Đại Hành, Lê Lợi  đều là người Mường). Gần đây, nhà khảo cổ học và nhà nghiên cứu của CNRS, Corinne Debaine-Francfort đã nói về việc người Trung Quốc sử dụng rìu nghi lễ của người Việt trong nghi lễ hiến tế người hoặc động vật, trong tác phẩm của bà có tựa đề « Sự khám phá lại Trung Quốc cổ đại » (NXB Gallimard, 1998). Nhà hiền triết Khổng Tử đã có cơ hội nói về người Bách Việt trong các cuộc nói chuyện với các học trò của mình như sau:

Người Bạch Việt sống ở phía nam sông Dương Tử có lối sống, ngôn ngữ, truyền thống, phong tục và ẩm thực riêng… Họ chuyên trồng lúa nước, khác với chúng ta, những người quen trồng kê và lúa mì. Họ uống nước từ một loại cây hái trong rừng gọi là « trà ». Họ thích nhảy múa, vừa làm việc vừa hát và xen kẽ các câu hát. Họ thường hóa trang thành lá cây trong điệu múa. Cần tránh bắt chước họ. (Xướng ca vô loại).

Ảnh hưởng của Nho giáo không phải không liên quan đến các thành kiến ​​mà các bậc cha mẹ Việt Nam vẫn duy trì  đến ngày nay khi con cái họ quá sa ngã vào các hoạt động âm nhạc hoặc sân khấu. Chính tinh thần Nho giáo này đã khiến họ bị nhìn một cách tiêu cực. Nhưng đó cũng chính là thái độ mà các quan lại Trung Quốc đã áp dụng khi cấm người Việt Nam biểu diễn âm nhạc trong các nghi lễ và lễ hội trong suốt thời kỳ đô hộ lâu dài của họ.

Sử gia Trung Quốc Tư Mã Thiên  đã có dịp nói về những người Việt này trong Sử Ký Tư Mã Thiên khi ông kể lại cuộc đời của vị vua lừng lẫy Câu Tiễn, một vị vua  nước Việt có lòng kiên nhẫn vô bờ bến của ngài trước kẻ thù là Phù Sai, vua nước Ngô trong thời kỳ Xuân Thu. Sau khi ngài mất, vương quốc của ngài đã bị nước Sở sáp nhập hoàn toàn vào năm 332 TCN, sau đó bị Tần Thủy Hoàng sáp nhập trong thời kỳ thống nhất Trung Hoa. Điều quan trọng cần lưu ý là địa điểm của Hemudu nằm ở vương quốc Việt của vua Câu Tiễn (Chiết Giang). 

Trong số các nhóm có chung nền văn hóa Bách Việt là có Yang Yue, Nan Yue (Nam Việt), Lu Yue, Xi Ou (Tây Âu), Ou Yue, Luo Yue (Lạc Việt), Gan Yue, Min Yue (Mân Việt), Yi Yue, Yue Shang, vân vân. Họ sống ở phía nam lưu vực sông Dương Tử, từ Chiết Giang  đến Giao Chỉ (miền bắc Việt Nam ngày nay). Khu vực phân bố này bao gồm các tỉnh miền Nam Trung Quốc ngày nay: Phúc Kiến, Hồ Nam, Quý Châu, Quảng Đông, Giang Tây, Quảng Tây  và Vân Nam.

Người Bách Việt có lẽ họ là hậu duệ của nền văn hóa Hòa Bình. Họ là những người nông dân khéo léo: họ canh tác lúa bằng phương pháp đốt nương rẫy, làm ruộng ngập nước và chăn nuôi trâu và lợn. Họ cũng sống bằng nghề săn bắn và đánh cá. Họ có tục xăm mình để bảo vệ bản thân khỏi sự tấn công của con thuồng luồng. Dựa trên Sử ký Tư Mã Thiên, học giả người Pháp Léonard Aurousseau đã đề cập đến tục lệ của tổ tiên của Câu Tiễn  là vẽ lên mình hình rồng hoặc các loài thủy thú khác giống như loài thường thấy ở những người Việt ở phía nam.

Họ búi tóc dài và được trợ lực bằng khăn xếp. Theo một số văn bản tiếng Việt, họ cắt tóc ngắn để thuận tiện cho việc đi lại trong rừng núi. Trang phục của họ được làm từ sợi thực vật. Nhà cửa của họ được xây cao để tránh thú dữ tấn công. Họ sử dụng trống đồng làm vật tế lễ trong các nghi lễ cầu mưa hoặc làm biểu tượng quyền lực, được sử dụng trong những lúc cần thiết để triệu tập chiến binh ra trận. Người Giao Chỉ sở hữu một nhạc cụ thiêng liêng: trống đồng. Nghe tiếng trống, họ rất hăng hái trong lúc ra trận », đây là những gì được tìm thấy trong tập đầu tiên của bộ sách « Hậu Hán Thư ». Các chiến binh của họ mặc khố giản dị và mang theo những cây giáo dài có gắn lông chim. Họ cũng là những nhà hàng hải táo bạo, trên những chiếc thuyền dài của mình, vượt qua cả Biển Đông và đi xa hơn một phần các vùng biển phía Nam. Mặc dù có trình độ kỹ thuật cao và thành thạo hoàn hảo trong nông nghiệp và trồng lúa, họ là một dân tộc rất ôn hòa. (Tiếp tục phần 2)

 


(1) Volume 95, issue 20, 1763-1768, 29 July , 1998
(2) National Geographic, Vol 139, no 3
(3) Kinh Dương Vương, étant le père de l’ancêtre des Vietnamiens, Lạc Long Quân et l’arrière petit-fils du roi Shen Nong.

 

Naissance de l’Indochine (Sự ra đời Đông Dương)

Naissance de l’Indochine.
Apports de l’Inde et de la Chine. 

Version française
Version anglaise

Thuật ngữ Đông Dương lần đầu tiên được nhà địa lý người Pháp-Đan Mạch Conrad Malte-Brun (1775-1826) sử dụng trong tác phẩm « Précis de la Géographie Universelle » xuất bản tại Paris năm 1810. Đây cũng là cách thức mà nhà địa lý Pháp dùng để nói đến  ảnh hưởng của hai nền văn hóa quan trọng Ấn Độ và Trung Quốc đối với các dân tộc và quốc gia ở lục địa Đông Nam Á (Miến Điện, Cao Miên, Lào, một phần Mã Lai, Tân Gia Ba, Thái lan và Vietnam). Dựa trên dữ liệu khảo cổ học, chúng ta đã thấy rằng từ thế kỷ thứ 1 sau Công nguyên, người Ấn Độ đã bắt đầu dùng thuyền  đi dọc theo bờ biển Đông Nam Á đến quần đảo Sunda.

Nguyên nhân của các cuộc phiêu lưu trên biển nầy có một phần  không ít  từ việc truyền giáo của Phật giáo bởi vì  những người Ấn Độ nầy phần đông là cư dân thủy thủ ở vùng Amaravati, những người sùng bái Đức Phật Dipankara, người bảo vệ họ tránh khỏi những nguy hiểm của biển cả mà cũng có thể đến từ việc giao thương nhất là viên hoa tiêu người Hy Lạp Hippale đã phát hiện ra sự luân định kỳ của gió mùa vào khoảng giữa thế  kỹ thứ 1 sau Công Nguyên khiến có sự tăng trưởng kỳ diệu các  thương mại đường biển giữa Ấn Độ và các cảng biển thuộc Hồng Hải, cửa ngõ của phương Tây. Thời đó, hoàng đế Auguste của thành phố La Mã xa hoa muốn có  vàng  và những sản phẩm ở Ấn Độ như trầm hương, quế, hạt tiêu, đinh hương, bạch đậu khấu, sừng tê giác và ngà voi. Ấn Độ thời đó có liên hệ thương mai trực tiếp với Trung Ðông và gián tiếp với các nước vùng Ðịa Trung Hải như Ðế quốc La Mã. 

Nhưng tiếc thay những sản phẩm nầy trở thành khan hiếm ở lục địa Ấn Độ buộc  cư dân ở đây phải đi tìm những sản phẩm này từ xa và bằng mọi giá. Khi đến gần những bờ biển xa lạ của Đông Nam Á và sau đó họ phải tiến sâu trên đất liền  qua thảm thực vật ngột ngạt để họ có thể đến được gặp những cư dân đầu tiên sống trên vùng cao nguyên. Họ cần phải thuyết phục những người nầy để được có những vật phẩm mà họ cần mua với sự  thương lượng giá cả  một cách công bằng. Tất cả những điều này họ phải  mất nhiều năm.

 Họ buộc lòng phải thành lập các trạm giao dịch thực sự nhất là các chuyến đi biển về phía Đông của họ cũng cần được điều chỉnh theo gió mùa. Có những lúc họ phải chờ có đủ những sản phẩm hàng hóa hiếm có trước khi quay về Ấn Độ nên có thể mất cả năm nhất là phải đợi lúc thời tiết thuận tiện. Còn các thực phẩm mà họ cần dùng không thể vận chuyển trong những khoang tàu buộc lòng họ phải  nghĩ cách  bố trí các cánh đồng lúa ngập nước trên đất màu mỡ ở các đồng bằng châu thổ nơi họ đổ bộ để mua các sản phẩm hiếm có và nơi họ có thể dễ dàng canh tác nhất là họ rất sành sỏi trong kỹ thuật thoát nước và tưới tiêu (như ở  Phù Nam). Như vậy họ có thể quay về khi thu hoạch được thực hiện và các khoang tàu được chứa đầy.

Chính nhờ vậy mà tư tưởng Ấn Độ đã được đưa đến để bồi đắp toàn bờ biển phía nam của Đông Dương; từ đồng bằng ven biển An Nam đến đồng bằng Mã Lai và từ đồng Ménam đến đồng bằng sông Mê Kông. Cũng nhờ đó người dân miền Nam Đông Dương đã học được tất cả các yếu tố của một nền văn minh cao hơn: viết ngôn ngữ của họ bằng nhờ bảng chữ cái Ấn Độ, nó vẫn còn tồn tại cho đến ngày hôm nay ở các nước  Miến Điện, Thái Lan, Cao Miên và Ai Lao và dùng một dụng cụ vô song để suy nghĩ, đó là tiếng Phạn giống như  vai trò dùng tiếng La Tinh ở Châu Âu vào thời Trung Cổ. Các văn bản thiêng liêng, các sử thi của Ấn Độ  được đánh giá cao đến mức được du nhập vào mỗi quốc gia.

Ta còn chưa kể đến hiệu quả của các kỹ thuật khai thác đất đai và sản xuất thủ công và thiên văn học có khả năng tính toán lịch chính xác hơn bất kỳ các lịch nào mà ta biết đến, theo nhà khảo cổ Pháp Bernard Philippe Groslier. Chính Ấn Độ đã truyền bá không những hệ thống chính trị tập trung xung quanh nhà vua và tín ngưỡng tôn giáo mà luôn cả nghệ thuật.  

Các quốc gia này chưa bao giờ  tự  giam hảm mình trong một khuôn mẫu đóng kín và bất biến. Đông Nam Á sẽ được hình thành theo trường phái Bà La Môn thậm chí còn nhiều hơn theo mô hình Phật giáo. Trong những thế kỷ đầu của thời đại chúng ta, ở các quốc gia Ấn Độ Hóa, đồ đồng chỉ là những bản sao đơn giản và thuần túy của các tượng Phật Ấn Độ. Sau đó, giữa thế kỷ thứ  4 và thế kỷ thứ  5, các đồ đồng cho chúng ta thấy có sự tiến hóa và cách diễn giải riêng biệt, có thể xem đây là  các tác phẩm địa phương nhưng  vẫn còn chịu ảnh hưởng rõ ràng của Ấn Độ nhất là các trường phái phía bắc, điều này cũng rất bình thường nhất là có sự ưu việt của nền văn hóa Gupta ở thời kỳ này. Nổi tiếng nhất là bức tượng Phật bằng đồng tráng lệ được tìm thấy ở Đồng Dương,  miền trung Việt Nam và được lưu giữ tại Bảo tàng Quốc gia Sàigon ngày nay. Chúng ta cũng có thể trích dẫn những tượng được tạc giống nhau như vậy ở Thái Lan tại Korat và Nakon Pathom  (nền văn minh Môn Dvaravati).

Nhưng sau đó vào thế kỷ thứ 6 khi có những biến động chính trị và các cuộc xâm lăng man rợ cắt đứt con đường tơ lụa và gia vị khiến  người Ấn Độ không còn mạo hiểm phiêu lưu trên biển. Họ cũng không còn nhớ đến  sự tồn tại của các trạm giao dịch cũ của họ và trong các  văn bản của họ, sử thi thương mại  cũng được nhắc đến một cách qua loa. Sự xâm nhập và thẩm thấu của người Ấn Độ  hình như lúc nào cũng mang tính chất hoà bình và nhờ đó các cư dân sống ở bờ biển phía nam mới thoái khỏi sự cô lập và được hình thành dựa trên văn hóa của người Ân Độ mà tạo ra được  các  nền văn minh mới và độc đáo như nền văn minh Óc Eo, Angkor Wat hay Chămpa. Người Ấ Độ không hề đi kèm theo phương thức chinh phục và thôn tính như người Trung Hoa với Việt Nam ở Đông Dương. 

Qua truyền thuyết, nước ta khởi đầu có tên là Xích Qủy, một liên bang của người Bách Việt dưới quyền cai trị của Kinh Dương Vương Lộc Tục, cha của Lạc Long Quân ở phía nam sông Dương Tử (văn hóa Lương ChữThạch Gia Hà)  rồi sau đó có tên là Văn Lang của các vua Hùng đóng đô ở Phong Châu, có đất đai rộng lớn giáp ranh bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), đông giáp biển Nam Hải, tây nước Ba Thục (Tứ Xuyên). Nước Văn Lang bị thôn tính về sau bởi An Dương Vương, Thục Phán, người Tày ở Cao Bằng và trở thành sau đó vương quốc Âu Lạc đóng đô ở  Cổ Loa huyện Đông An, Hà Nội khoảng chừng 3 thế kỷ trước Công Nguyên. Rồi Âu Lạc bị thôn tín về sau bởi Triệu Đà, một tướng lãnh của nhà Tần (Trung Hoa) và người sáng lập ra nước Nam Việt. Mặc dầu có các cuộc nổi dậy của hai Bà Trưng năm 39-43  SCN (sau Công Nguyên), Bà Triệu  năm 225-248 SCN và Lý Bổn (Lý Nam Đế) năm 544 SCN, nước ta (Tonkin)  vẫn tiếp tục dưới ách thống trị của Trung Hoa cho đến  năm 938.

Người Hoa  cố tình hủy diệt các trống đồng của người Việt để có thể đồng hóa được người dân Việt. Sự Hán hóa do đó lan truyền bằng  cách hành động gương mẫu mà cũng bằng  cách dùng vũ lực ense et aratro: bằng kiếm và lưỡi cày giống như cách người La Mã khuất phục châu Âu. Đất nước ta (Giao Chỉ)  được tổ chức theo mẫu hình Trung Quốc: tỉnh, quận, phủ tạo thành khuôn khổ hành chính, nơi có quyền lực và thậm chí cả quyền lực cao nhất được giao phó cho người bản xứ nhưng được thực thi theo luật lệ Trung Quốc và tất cả đều tùy thuộc ở hoàng đế, người có thẩm quyền tối cao. Tiếng Hán trở thành ngôn ngữ chính thức và được sử dùng từ nay ở khắp  đất nước.

 Việt Nam tuy là một tỉnh lị của Trung Hoa vào thời đó (từ -111 đế n 938) nhưng Việt Nam vẫn còn là một trạm tiếp nối thật sự giữa Trung Hoa và Ấn Độ. Việt Nam được tiếp thu rất sớm Phật pháp từ đầu thế kỷ thứ nhất của kỷ nguyên Tây lịch vì Việt Nam nằm ở bên cạnh các nước như Phù Nam và Chiêm Thành thường thông dùng chữ Phạn của các kinh Phật và còn đươc các thương gia Ấn Độ ở lại để nghĩ, cung cấp và trao đổi hàng hóa. Chính vì vậy Phật giáo ở Giao Châu do từ Ấn Độ truyền sang trực tiếp chớ không phải đến từ Trung Hoa.

Nói tóm lại, việc Hán Hóa nhằm để mở rộng đế chế Trung Hoa chớ có bao giờ người Hoa nghĩ rằng việc Hán Hóa  Việt Nam sẽ gieo mầm cho sự tiến hóa tiếp theo của toàn cả Đông Dương. Người Hoa  muốn tạo con người Việt theo hình ảnh của họ  nhưng họ đâu ngờ  họ  biến  người dân Việt thành một dân tộc kiên trì, sẳn sàng chờ đợi thời điểm thích hơp để dành lại độc lâp nhất là họ đến từ văn hóa rực rỡ Lương Chữ và Thạch Gia Hà và thông thạo binh pháp của Tôn Tử cũng như người Hoa. 

Được xem như những người báo hiệu của nền văn hóa Trung Hoa, người dân Việt chinh phục về sau  bán đảo, đồng hóa và sau đó tiêu diệt các  nước Ấn Độ hóa (Chân Lạp, Chiêm Thành) một cách triệt để giống như cách họ đã bị  thôn tính  bởi  người Trung Hoa lúc ban đầu.

Bởi vậy ta thường nghe câu nói của các nhà khảo cổ về bán đảo Đông Dương như sau: Trung Quốc thống trị và đồng hóa, Ấn Độ gieo mầm của những bông hoa nhân văn phong phú. Đông Dương đã có thể hưởng lợi từ những bài học của những bậc thầy vô song Trung Quốc và Ấn Độ, mỗi nước để lại cho bán đảo một hệ thống chính trị và một dấu ấn riêng  biệt và khó phai mờ theo dòng lịch sử.

Từ đó bán đảo mới có tên là Đông Dương do nhà địa lý người Pháp-Đan Mạch Conrad Malte-Brun đề xướng nhưng đọc giả đừng có  nhầm lẫn với Đông Dương thuộc Pháp.(Indochine Française)

Version française

Le terme « Indochine » a été utilisé pour la première fois par le géographe franco-danois Conrad Malte-Brun (1775-1826) dans son œuvre intitulé « Précis de la Géographie Universelle », publié à Paris en 1810. C’est également ainsi que le géographe français désignait l’influence de deux cultures importantes, l’Inde et la Chine, sur les peuples et les nations de l’Asie du Sud-Est continentale (Birmanie, Cambodge, Laos, une partie de la Malaisie, Singapour,  Thaïlande et Vietnam). Les données archéologiques montrent qu’à partir du Ier siècle de notre ère, les Indiens ont commencé à utiliser des bateaux pour longer les côtes de l’Asie du Sud-Est jusqu’aux îles de la Sonde.

La cause de ces aventures maritimes n’était pas seulement due à la prédication du bouddhisme, car ces Indiens étaient pour la plupart des marins de la région d’Amaravati, dévots du Bouddha Dipankara, qui les protégeait des dangers de la mer, mais aussi au commerce, en particulier au navigateur grec Hippale, qui découvrit la rotation périodique des moussons vers le milieu du premier siècle après J.-C., ce qui conduisit à la croissance miraculeuse du commerce maritime entre l’Inde et les ports de la mer Rouge, porte d’entrée de l’Occident.

À cette époque, l’empereur Auguste de la luxueuse cité romaine, souhaitait s’approvisionner en or et en produits d’Inde, tels que le bois d’aigle, la cannelle, le poivre, le clou de girofle, la cardamome, la corne de rhinocéros et l’ivoire. L’Inde entretenait alors des relations commerciales directes avec le Moyen-Orient et indirectes avec les pays méditerranéens, comme l’Empire romain.

Malheureusement, ces produits se raréfièrent dans le sous-continent indien, obligeant ainsi les habitants de ce pays à les rechercher de loin et à tout prix. Lorsqu’ils approchèrent des rivages étranges de l’Asie du Sud-Est, ils durent s’enfoncer dans les terres à travers une végétation étouffante pour atteindre les premiers habitants des hautes terres. Il leur fallut convaincre ces derniers de leur fournir les articles dont ils avaient besoin et négocier des prix équitables. Tout cela leur prit de nombreuses années.

Ils furent contraints d’établir de véritables comptoirs commerciaux, d’autant plus que leurs voyages maritimes vers l’Est devaient être modulés en fonction des moussons. Il leur fallait parfois attendre l’arrivée de denrées rares avant de rentrer en Inde, ce qui pouvait prendre une année entière, surtout si le temps était favorable. Quant à la nourriture dont ils avaient besoin, impossible à transporter dans les cales des navires, ils furent contraints de penser à mettre en place des rizières inondées sur les terres fertiles des deltas où ils débarquaient pour acheter des denrées rares et où ils pouvaient les cultiver plus facilement, car ils maîtrisaient parfaitement les techniques de drainage et d’irrigation (comme au Funan). De cette façon, ils pouvaient rentrer lorsque la récolte était terminée et que les cales étaient bien remplies.

C’était ainsi que les idées indiennes ont été introduites et ont fertilisé toute la côte sud de l’Indochine, des plaines côtières d’Annam à celles de la Malaisie, du delta du Ménam à celui du Mékong. C’est aussi par ce biais que les peuples du sud de l’Indochine ont appris tous les éléments d’une civilisation supérieure: ils ont écrit leur langue grâce à l’alphabet indien, qui existe encore aujourd’hui en Birmanie, en Thaïlande, au Cambodge et au Laos, et ils ont utilisé un instrument incomparable à penser, le sanscrit, similaire au rôle du latin en Europe moyenâgeuse. Les textes sacrés, les épopées de l’Inde, étaient si prisés qu’ils ont été introduits dans chaque pays.

On oublie de parler de l’efficacité des techniques d’aménagement du territoire, de l’artisanat et de l’astronomie, permettant de calculer les calendriers avec une précision inégalée, selon l’archéologue français Bernard Philippe Groslier. C’est aussi l’Inde qui a propagé non seulement un système politique centré autour du roi et des croyances religieuses, mais aussi les arts.

Ces nations ne se sont jamais cantonnées à un modèle fermé et immuable. L’Asie du Sud-Est sera davantage façonnée par l’école brahmanique que par le modèle bouddhiste. Aux premiers siècles de notre ère, dans les pays indianisés, les bronzes étaient de simples et pures copies des images du Bouddha indien.

Puis, entre le IVe et le Ve siècle, les bronzes témoignent d’une évolution et d’une interprétation distinctes. On peut les considérer comme des œuvres locales, mais toujours clairement influencées par l’Inde, notamment par les écoles du Nord, ce qui est d’ailleurs tout à fait normal compte tenu de la prédominance de la culture Gupta à cette époque. Le plus célèbre est le magnifique Bouddha en bronze découvert à Đồng Dương au centre du Vietnam, et conservé aujourd’hui au Musée national de Saïgon. On peut également citer des sculptures similaires en Thaïlande, à Korat et Nakon Pathom (civilisation Môn Dvaravati).

Mais au VIe siècle, lorsque les bouleversements politiques et les invasions barbares coupèrent les routes de la soie et des épices, les Indiens cessèrent de s’aventurer en mer. Ils oublièrent également l’existence de leurs anciens comptoirs commerciaux et, dans leurs écrits, l’épopée du commerce fut également évoquée d’une manière sommaire. La pénétration et l’influence des Indiens semblèrent toujours pacifiques, ce qui permit aux habitants de la côte sud de sortir de l’isolement et de créer ainsi des civilisations nouvelles et uniques comme Oc Eo, Angkor Vat ou Champa en se formant à partir de leur culture. Ils n’ont pas suivi la méthode de conquête et d’annexion comme les Chinois avec le Vietnam en Indochine.

Selon la légende, notre pays s’appelait à l’origine Xích Qủy (Pays des démons rouges), une fédération des Bai Yue sous le règne de Kinh Dương Vương (ou Lộc Tục) , père de Lạc Long Quân au sud du fleuve Yangtze (cultures de Lianzhou et Shijiahé). Puis il fut nommé d’abord Văn Lang des rois Hùng avec la capitale se trouvant à Phong Châu et ayant un grand territoire bordé au nord par le lac Dong Dinh, au sud par le pays Hồ Tôn (Champa), à l’est par la mer de Chine méridionale et à l’ouest par le royaume Ba Thục (Sichuan). Il fut annexé ensuite par An Dương Vuong, de nom Thục Phán issu des  minorités Tày à Cao Bằng et devint plus tard le royaume Âu Lạc dont la capitale se trouvait à Cổ Loa, dans le district de Đồng An, Hanoï vers 3 siècles avant J.C.

Ce dernier fut ensuite annexé par Zhao To (Triệu Đà), un général de la dynastie des Qin (Chine) et fondateur du royaume Nan Yue. Malgré les soulèvements des deux sœurs Trưng (39-43 apr. J.-C.),  Dame Triệu (225-248 apr. J.-C.) et de Lý Bổn (ou  roi Lý Nam Đế) en 544 apr. J.-C., notre pays (le Tonkin) resta sous domination chinoise jusqu’en 938.

Les Chinois détruisirent délibérément tous les tambours de bronze vietnamiens afin d’assimiler le peuple vietnamien. La sinisation s’étendit ainsi par l’exemple autant que par la force, ense et aratro : par le glaive et le soc de charrue, exactement de la même façon que les Romains soumirent l’Europe. Notre pays (Jiaozhi) était organisé selon le modèle chinois : provinces, districts et préfectures formaient le cadre administratif, où le pouvoir, et même le plus haut, était confié aux autochtones, mais il s’exerçait selon la loi chinoise et dépendait entièrement de l’empereur représentant l’autorité suprême. Le chinois devint la langue officielle et fut désormais utilisé dans tout le pays.

Bien que le Vietnam fût le protectorat chinois (de -111 à -938), il était pourtant le véritable relais entre la Chine et l’Inde. L’implantation du bouddhisme fut très tôt dans ce pays au début de l’ère chrétienne car le Vietnam était non seulement à côté des pays se servant de sanskrit pour les textes bouddhiques comme le Founan (Phù Nam) et le Champa mais aussi le point de passage obligatoire pour les commerçants indiens. Ceux-ci avaient besoin de se reposer, approvisionner la nourriture et échanger les marchandises.

En somme, la sinisation visait à agrandir l’empire chinois, mais les Chinois n’ont jamais pensé que la sinisation du Vietnam allait semer les graines de l’évolution future de l’Indochine tout entière. Les Chinois voulaient créer le peuple vietnamien à leur image, mais ils ne s’attendaient pas à ce qu’ils transformaient, les Vietnamiens en un peuple opiniâtre, prêt à attendre le moment propice pour recouvrer son indépendance, d’autant plus qu’ils étaient issus de la brillante culture de Liangzhu et qu’ils connaissaient parfaitement l’art de guerre de Sun Tzu comme eux.

Étant considérés comme les fourriers de la culture chinoise, les Vietnamiens vont gagner la péninsule, assimiler puis détruire les pays indianisés (Chenla, Champa) aussi radicalement qu’ils avaient été eux-mêmes conquis par les Chinois en premier lieu.

C’est pourquoi les archéologues sont habitués à faire la remarque suivante à propos de la péninsule indochinoise: la Chine a dominé et assimilé, l’Inde a semé les germes des plus riches floraisons humanistes. L’Indochine a pu bénéficier des leçons des maîtres incomparables de la Chine et de l’Inde, qui ont laissé chacun, un système politique et une empreinte distincte et indélébile au fil des siècles.

 

Dès lors, la péninsule fut nommée Indochine par le géographe franco-danois Conrad Malte-Brun, mais les lecteurs ne doivent pas la confondre avec l’Indochine française.

English version

The term “Indochina” was first used by the Franco-Danish geographer Conrad Malte-Brun (1775-1826) in his work entitled “Précis de la Géographie Universelle” (Summary of Universal Geography), published in Paris in 1810. This is also how the French geographer referred to the influence of two important cultures, India and China, on the peoples and nations of mainland Southeast Asia (Burma, Cambodia, Laos, a part of Malaysia, Singapore, Thailand, and Vietnam). Archaeological data show that from the 1st century AD, Indians began to use boats to sail along the coasts of Southeast Asia to the Sunda Islands.

The cause of these maritime ventures was not only due to the preaching of Buddhism, as these Indians were mostly sailors from the Amaravati region, devotees of the Buddha Dipankara, who protected them from the dangers of the sea, but also to trade, particularly to the Greek navigator Hippalus, who discovered the periodic rotation of the monsoons around the middle of the first century AD, which led to the miraculous growth of maritime trade between India and the ports of the Red Sea, the gateway to the West.

At that time, Emperor Augustus of the luxurious Roman city wished to procure gold and products from India, such as eaglewood, cinnamon, pepper, clove, cardamom, rhinoceros horn, and ivory. India then maintained direct trade relations with the Middle East and indirect ones with Mediterranean countries, such as the Roman Empire. Unfortunately, these products became scarce in the Indian subcontinent, forcing the inhabitants of this country to seek them from afar and at any cost. When they approached the strange shores of Southeast Asia, they had to venture inland through dense vegetation to reach the first inhabitants of the highlands. They had to convince the latter to supply them with the items they needed and negotiate fair prices. All this took them many years.

They were forced to establish genuine trading posts, especially since their maritime voyages to the East had to be adjusted according to the monsoons. Sometimes they had to wait for the arrival of rare goods before returning to India, which could take an entire year, particularly if the weather was favorable. As for the food they needed, which was impossible to transport in the ship’s holds, they were compelled to consider setting up flooded rice paddies on the fertile lands of the deltas where they landed to buy rare goods and where they could cultivate them more easily, as they had mastered drainage and irrigation techniques perfectly (as in Funan). In this way, they could return when the harvest was finished and the holds were well filled.

This is how Indian ideas were introduced and fertilized the entire southern coast of Indochina, from the coastal plains of Annam to those of Malaysia, from the Menam delta to that of the Mekong. It is also through this channel that the peoples of southern Indochina learned all the elements of a superior civilization: they wrote their language using the Indian alphabet, which still exists today in Burma, Thailand, Cambodia, and Laos, and they used an incomparable instrument for thinking, Sanskrit, similar to the role of Latin used in medieval Europe. The sacred texts, the epics of India, were so prized that they were introduced into every country.

We forget to talk about the effectiveness of land management techniques, craftsmanship, and astronomy, which allowed calendars to be calculated with unparalleled precision, according to the French archaeologist Bernard Philippe Groslier. It is also India that spread not only a political system centered around the king and religious beliefs but also the arts.

These nations never confined themselves to a closed and immutable model. Southeast Asia would be shaped more by the Brahmanical school than by the Buddhist model. In the early centuries of our era, in the Indianized countries, the bronzes were simple and pure copies of Indian Buddha statues.

Then, between the 4th and 5th centuries, the bronzes show an evolution and a distinct interpretation. They can be considered local works, but still clearly influenced by India, particularly by the Northern schools, which is quite normal given the predominance of Gupta culture at that time. The most famous is the magnificent bronze Buddha discovered in Đồng Dương in central Vietnam, now preserved at the National Museum of Saigon. Similar sculptures can also be found in Thailand, in Korat and Nakon Pathom (Mon Dvaravati civilization).

But in the 6th century, when political upheavals and barbarian invasions cut off the silk and spice routes, the Indians stopped venturing out to sea. They also forgot the existence of their ancient trading posts, and in their writings, the epic of commerce was only mentioned in a summary manner. The penetration and influence of the Indians always seemed peaceful, which allowed the inhabitants of the southern coast to come out of isolation and thus create new and unique civilizations such as Oc Eo, Angkor Wat, or Champa, forming from Indian culture. The Indians did not follow the method of conquest and annexation like the Chinese did with Vietnam in Indochina.

According to legend, our country was originally called Xích Qủy (Land of the Red Demons), a federation of the Bai Yue under the reign of Kinh Dương Vương (or Lộc Tục), father of Lạc Long Quân, south of the Yangtze River (Lianzhou and Shijiahé cultures). Then it was first named Văn Lang under the Hùng kings, with the capital located at Phong Châu and a large territory bordered to the north by Dong Dinh Lake, to the south by the Hồ Tôn country (Champa), to the east by the South China Sea, and to the west by the Ba Thục kingdom (Sichuan). It was later annexed by An Dương Vương, named Thục Phán from the Tày people in Cao Bằng, and later became the Âu Lạc kingdom with its capital at Cổ Loa, in the Đồng An district, Hanoi, around the 3rd century BC.

The latter was then annexed by Zhao To (Triệu Đà), a general of the Qin dynasty (China) and founder of the Nanyue kingdom. Despite the uprisings of the Trưng sisters (39-43 AD), Dame Triệu (225-248 AD), and Lý Bổn (or Lý Nam Đế) in 544 AD, our country (Tonkin) remained under Chinese domination until 938.

The Chinese deliberately destroyed all Vietnamese bronze drums in order to assimilate the Vietnamese people. Sinicization thus spread both by example and by force, ense et aratro: by the sword and the plowshare, exactly in the same way the Romans subdued Europe. Our country (Jiaozhi) was organized according to the Chinese model: provinces, districts, and prefectures formed the administrative framework, where power, even the highest, was entrusted to the locals, but it was exercised according to Chinese law and depended entirely on the emperor representing the supreme authority. Chinese became the official language and was henceforth used throughout the country.

Although Vietnam was a Chinese protectorate (from 111 BC to 938 AD), it was nonetheless the true link between China and India. Buddhism was established very early in this country at the beginning of the Christian era because Vietnam was not only adjacent to the countries using Sanskrit for Buddhist texts such as Funan (Phù Nam) and Champa but also the mandatory passage point for Indian merchants. They needed to rest, supply food, and exchange goods.

In short, sinicization aimed to expand the Chinese empire, but the Chinese never thought that the sinicization of Vietnam would sow the seeds of the future evolution of the entire Indochina. The Chinese wanted to create the Vietnamese people in their own image, but they did not expect that they would transform the Vietnamese into a stubborn people, ready to wait for the right moment to regain their independence, especially since they came from the brilliant Liangzhu culture and were as well versed in Sun Tzu‘s art of war as they were.

Being considered as the suppliers of Chinese culture, the Vietnamese would enter the peninsula, assimilate, and then destroy the Indianized countries (Chenla, Champa) as radically as they themselves had first been conquered by the Chinese.

This is why archaeologists are accustomed to making the following observation about the Indochinese peninsula: China dominated and assimilated, India sowed the seeds of the richest humanistic flourishing. Indochina was able to benefit from the lessons of the incomparable masters of China and India, each of whom left behind a  political system and  a distinct and indelible imprint over the centuries.

From then on, the peninsula was named Indochina by the Franco-Danish geographer Conrad Malte-Brun, but readers should not confuse it with French Indochina.

 Bibiographie:

Georges Cœdès : Cổ sử các quốc gia Ấn Độ Hóa ở Viễn Đông. Nhà Xuất Bản Thế Giới 2011
Bernard Groslier : Indochine. Carrefour des Arts. Editions Albin Michel 1960.

 

La chauve-souris dans l’art de Huế ( Dơi trong mỹ thuật cung đình Huế)

La chauve-souris dans l’art de Huế

The bat in Hue art

Version française
Version anglaise
Galerie des photos

Được biết đến với tên khoa học (Chiroptera), dơi là một loài động vật có nhau thai được đặc đứng  sau các loài gặm nhấm. Đối với người phương Tây, sở thích của dơi  sống trong bóng tối và ban đêm  được xem  là một điềm xấu. Nó còn thuộc các thú vật của Satan mà  Giáo hội chỉ định. Chúng ta thường thấy nó dang rộng hai cánh với  khuôn mặt nhăn nhó trên đỉnh nhà thờ như một người bảo vệ có chức năng xua đuổi tà ma. Đôi khi nó được coi là một con chuột biết bay (thiên thử hay chuột nhà trời) hoặc một con én bay trong đêm (chim nhạn bay đêm, phi thử). Dơi là loài động vật thường được coi là loài vật có tính xảo quyệt và tinh quái trong các truyền thuyết phương Đông.

Trong  tiếng Hán Việt dơi tên là ‘bức(), được  đọc gần giống chữ ‘phúc’ (), từ đó người ta dùng hình ảnh con vật này để chỉ ‘phúc đức’. Khi minh họa bằng hình 5 con dơi thì có hàm ý chỉ ngũ phúc: (1) Phú  nghĩa là giàu, (2) khang ninh 安寧 là yên lành, mạnh khỏe (3) Thọ  là sống lâu (4) hảo đức 好德 là có đức tốt (5) khảo chung mạng 考終命 là hưởng trọn tuổi trời.

Theo  cố cả Léopold Cadière, trong nghệ thuật  Huế, chúng ta thường thấy sự kết hợp của nhiều họa tiết theo nhiều cách khác nhau. Đôi khi chỉ là một sự kết hợp đơn giản: con dơi ẩn núp trong góc sẽ lướt đôi cánh qua những đường cong uốn lượn hồi văn, hoặc những biểu tượng của sự trường thọ và hạnh phúc sẽ được áp dụng cho một cành mận, một bông hoa mẫu đơn vân vân . Những sự kết hợp này không phải do ngẫu nhiên hay ý thích của nghệ sĩ. Thậm chí đối với một số chủ đề nhất định, còn có một quy tắc rất nghiêm ngặt, những liên kết gần như không thể tách rời.

Đây là trường hợp của hình ảnh con dơi với các họa tiết thường có lối chơi chữ. Thường nhất là với chữ ‘phúc’ nhưng cũng có khi đi với chữ ‘khánh’ ( có nghĩa là ‘chúc mừng’) thay cho lời cầu chúc phúc. Khánh lại có thêm âm là ‘khương’ có nghĩa là phúc. Âm khánh lại có chữ viết là , chỉ một món nhạc khí quý trong cung đình, thế là có họa tiết con dơi ngậm chiếc khánh có hai quả tua; hình này có tên ‘phúc khánh’ với ý chúc mừng hưởng phúc an lạc và thịnh vượng.Thay cho khánh ngọc hay chữ thọ, con thấy hình con dơi ngậm một giõ hoa. Giõ hoa là một món trong ‘bát bửu’ nên hàm chỉ sự vui hưởng hạnh phúc (hình CLXXXIV).

Về mặt trang trí con dơi hay có kèm theo hai quả tua, gọi là họa tiết ‘dơi tua’, nhưng hình như hai quả tua đó chẳng mang một ý nghĩa sâu xa nào ngoài sự trang trí. (hình CLXXXI, …) Dơi có thể được biến cách từ lá, họi là lá hóa phúc, từ hoa mai gọi là mai hóa phúc, từ sen gọi là liên hóa phúc, từ quả gọi là quả hóa phúc; nhưng chủ yếu là từ hình hồi văn có tô điểm thêm hia lá gọi là hồi văn hóa phúc. Tùy theo ngẫu hứng người nghệ sĩ còn cho con dơi đi chung với rồng. Một vài chỗ thấy dơi xuất hiện ngay giữa tấm chi tiết của đồ gỗ, nhưng thường thì nằm ở các góc và giang cánh rất trang nhã.

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Thông,  dơi được xem là mẫu hình được sử dụng nhiều nhất trong mỹ thuật Huế. Nhiều đến mức cảm nhận thấy có sự lạm dụng (tr. 144).

 Nhưng nhờ cấu trúc thân hình với đôi cánh rộng, điều nầy cho phép nó nêu bật vẻ đẹp cân đối mẫu mực và tạo ra nên một hình mẫu hoàn hảo về mặt thiết kế và sống động trong mỹ thuật  Huế.

Étant connu sous le nom scientifique (Chiroptera), la chauve-souris est un animal placentaire  placé derrière les rongeurs. Pour les Occidentaux,  sa préférence de vivre dans les ténèbres et  la nuit est perçue comme un mauvais présage.  Elle fait partie du bestiaire satanique  désigné par l’Eglise. On est habitué à la voir étendre ses deux ailes et son visage grimaçant  au sommet des églises comme le gardien ayant pour fonction de repousser le Mal. Parfois on la considère comme un rat volant (thiên thử hay chuột nhà trời) ou  une hirondelle volant dans la nuit (chim nhạn bay đêm, phi thử). La chauve-souris est l’animal fréquemment considéré dans les légendes orientales comme l’animal ayant le caractère rusé et espiègle.

Étant un nom sino-annamite ‘bức’ (蝠) et se prononçant de la même manière que le mot  ‘phúc’ (), on est convenu à prendre la figure de l’animal pour exprimer le bonheur. C’est pourquoi  la chauve-souris joue un grand rôle dans l’art vietnamien, surtout  dans l’art de Huế car elle est le symbole de bonheur.  On a l’habitude de grouper ensemble cinq chauve-souris (ngũ phúc) pour faire allusion à un bonheur parfait: (1) Phú 富, richesse ; (2) khang ninh 安寧 là yên lành, la paix et la santé ; (3) Thọ 壽 là sống lâu, une longue vie ; (4) hảo đức 好德 là có đức tốt, l’amour de la vertu ;  (5) khảo chung mạng 考終命 là hưởng trọn tuổi trời, une mort naturelle  à un âge avancé.

Selon le prêtre missionnaire Léopold Cadière, dans l’art de Huế, on voit souvent l’association de plusieurs motifs se produire de façons diverses. Tantôt il y a une simple association: la chauve-souris, tapie dans un angle, glissera ses ailes à travers les méandres de la grecque, ou bien les caractères de la longévité et du bonheur  seront appliqués  sur une branche de prunier, sur une fleur de pivoine etc. Ces associations ne sont pas livrées au hasard ou au caprice de l’artiste. Il y a même pour certains sujets, un code très sévère, des alliances quasi indissolubles.

C’est le cas de l’image de la chauve-souris avec un jeu de mots multiple suivant. Au mot phúc « bonheur » est souvent associé  dans le langage ou en littérature, le mot khánh qui a un sens analogue « bonheur et félicitations  résultant d’une faveur reçue » Le mot khánh, à son tour, est également la prononciation du caractère , désignant  un lithophone dans la cour royale. Il s’agit bien de la représentation d’une chauve-souris tenant dans sa gueule un lithophone agrémenté de deux glands.  Ce dessin se lira « phúc khánh », ce qui signifie « bonheur et félicité ».

Au lieu du tam-tam en pierre ou du caractère de la longévité, la chauve-souris tient parfois suspendue à sa bouche une corbeille de fleurs. C’est un des « huit joyaux » ; nous l’avons vu, symbole de jouissances et de bonheur.

Au point de vue décoratif, la chauve-souris est souvent munie de deux longs glands, dơi tua qui n’ont, semble-t-il, aucun sens figuré. Elle peut se transformer en feuille, lá hóa phúc; en fleurs de pruniers, mai hóa phúc; en nénuphar, sen hóa phúc; en fruit  quả hóa phúc; mais surtout en grecque, avec ou sans feuilles,  hồi văn hóa phúc. La fantaisie de l’artiste se donne libre carrière avec elle, autant qu’avec le dragon.  Elle coupe parfois le centre d’un panneau, mais le plus souvent, elle se tapit dans les encoignures, que ses ailes garnissent avec élégance.

Selon le chercheur Nguyễn Hữu Thông, la chauve-souris est considérée comme le modèle le plus employé dans l’art de Huế. On a l’impression d’en abuser. (p144).

Mais grâce à la structure corporelle de la chauve-souris avec de larges ailes, cela lui permet de révéler la beauté de l’équilibre  exemplaire et créer un modèle parfait dans la conception et vivace dans l’art de Huế.

 

Known by its scientific name (Chiroptera), the bat is a placental animal  ranked behind rodents. For Westerners, its preference for living in darkness and  at night is seen as a bad omen.  It is part of the satanic bestiary  designated by the Church. We are used to seeing them spread their wings and grimace at the top of churches as guardians whose job is to ward off evil. Sometimes they are considered flying rats (thiên thử hay chuột nhà trời) or swallows flying in the night (chim nhạn bay đêm, phi thử). The bat is frequently considered in Eastern legends to be an animal with a cunning and mischievous character.

Being a Sino-Annamite name ‘bức’ (蝠) and pronounced in the same way as the word ‘phúc’ (福), it was agreed to use the figure of the animal to express happiness. This is why the bat plays an important role in Vietnamese art, especially in the art of Huế, as it is a symbol of happiness. It is customary to group five bats (ngũ phúc) together to allude to perfect happiness: (1) Phú 富, wealth; (2) khang ninh 安寧 là yên lành, peace and health; (3) Thọ là sống lâu, long life; (4) hảo đức 好德 là có đức tốt, love of virtue; (5) khảo chung mạng 考終命 là hưởng trọn tuổi trời, a natural death at an advanced age.

According to missionary priest Léopold Cadière, in Huế art, we often see several motifs combined in various ways. Sometimes there is a simple combination: a bat, lurking in a corner, will slide its wings through the meanders of a Greek key pattern, or the characters for longevity and happiness will be applied to a plum branch, a peony flower, etc. These combinations are not left to chance or the whim of the artist. For certain subjects, there is even a very strict code, with almost indissoluble alliances.

This is the case with the image of the bat, which has multiple puns associated with it. The word phúc, meaning “happiness,” is often associated in language and literature with the word khánh , which has a similar meaning: “happiness and congratulations resulting from a favor received.” .“ The word khánh, in turn, is also the pronunciation of the character , referring to a lithophone in the royal court. It is indeed a representation of a bat holding a lithophone decorated with two tassels in its mouth. This drawing can be read as ”phúc khánh,“ which means ”happiness and bliss. »

Instead of the stone tam-tam or the character of longevity, the bat sometimes holds a basket of flowers in its mouth. This is one of the “eight jewels”; as we have seen, it is a symbol of pleasure and happiness.

From a decorative point of view, the bat is often depicted with two long tassels, dơi tua, which seem to have no figurative meaning. It can be transformed into a leaf, lá hóa phúc; into plum blossoms, mai hóa phúc; into a water lily, sen hóa phúc; into fruit, quả hóa phúc; but above all into a Greek key, with or without leaves, hồi văn hóa phúc. The artist’s imagination runs wild with it, as much as with the dragon. It sometimes cuts through the center of a panel, but more often than not, it lurks in the corners, which its wings elegantly adorn.

According to researcher Nguyễn Hữu Thông, the bat is considered the most commonly used motif in Huế art. It seems to be overused. (p144).

But thanks to the bat’s body structure with large wings, it allows him to reveal the beauty of exemplary balance and create a perfect model in design that is enduring in Huế art.


Galerie des photos

Bibliographie:

Léopold Cadière: L’Art à Huế. Nouvelle édition Association des Amis du Vieux Huế.

Nguyễn Hữu Thông: Mỹ Thuật Huế. Nhìn từ góc độ ý nghĩa và biểu tượng trang trí.
                               Nhà Xuất Bản Thế Giới

[Return Art de Huế]

Con đường tơ lụa (Route de la soie)

Con đường tơ lụa

Version française
Version anglaise
Galerie des photos

Chính Trung Quốc là nước  đầu  tiên  biết nuôi loại bướm  tằm Bombyx mori để sản xuất lụa đã có 5000 năm.  Dù bản thân loại chất liệu nầy bị phân hủy với thời gian nhưng các di vật liên quan  đến việc sản xuất  như khung cửi, kim và con thoi giữ sợi vẫn còn. Những mảnh lụa được tìm thấy tại một di chỉ văn hóa Lương Chử ở Thiên Sơn Dương, Hồ Châu, Chiết Giang, có niên đại từ năm 2700 TCN. Những mảnh khác được tìm thấy từ các lăng mộ hoàng gia thời nhà Thương (khoảng 1600–1046 TCN). Nguồn gốc của tơ lụa cổ xưa đến từ một truyền thuyết Trung Hoa kể rằng hoàng hậu Tây Lăng Thị, người vợ trẻ của vua Hiên Viên hoàng đế đã bắt được một cái kén rơi vào tách trà của mình và tháo nó ra để lấy được một sợi tơ cực kỳ mịn. Truyền thuyết nầy nhầm có ý thêu dệt việc sản xuất tơ lụa  đặc biệt ở những vùng lân cận sông Hoàng Hà và Dương Tử.  Các nhà sử học xác định rằng tơ lụa được phát hiện vào khoảng 2.000 hoặc 3.000 năm trước Công nguyên tại Trung Quốc.

Bướm  tằm Bombyx mori phải trải qua 4 giai đoạn trong quá trình này như sau: từ trứng (ovule) đến thành sâu bướm (larve) rồi sau đó thành nhộng (pupe)  trước khi thành bướm (imago). Quá trình này có thể mất đi từ 40 đến 60 ngày. Con bướm này mới nở  có màu trắng nhạt và đầy lông nếu là con cái thì nó đã  có  chứa đầy trứng. Nó tiết ra các pheromone để thu hút các con bướm đực để giao phối. Lúc nó còn nhộng thì nó tìm nơi  thích hợp để làm kén nhả tơ ra từ miệng của nó. Một sợi tơ nó có thể dài  đến 1000 mét và rộng có 30 micron. Nó sẽ bọc sợi tơi  bằng một loại chất keo gọi là sericin để nó làm cứng tổ kén có hình bầu dục.  Người ta ước tính muốn sản xuất một  kílô lụa thì cần đến 220 kilô lá dâu. Lá nầy phải sạch, khô và không được nóng quá.

Lụa là một sản phẩm mà Trung Quốc độc quyền đã có 5000 năm. Trung Quốc dùng nó  làm món quà cho kẻ thù Hung Nô mà cũng là món quà qúi giá được trao đổi về  sau trong giới qúy tộc trên thế giới. Cũng như ngọc bích được khắc thành những hình mang tính biểu tượng, lụa được dệt  hay thêu các hoa văn mang những ý nghĩa nhất định. Hung Nô là một dân tộc du mục hùng mạnh ở phía bắc Trung Quốc thời nhà Tần và Hán. Chính vì sợ họ mà dưới thời Chiến Quốc  các nước chư hầu như Yên, Triệu và Tần bắt đầu xây dựng tường thành riêng lẻ để bảo vệ mình khỏi sự xâm lược của họ. Sử ký Trung Hoa gọi họ là Man di. Họ không có thành trì hay chỗ ở nhất định. Vì thế họ không có canh tác nào cả. Họ sống cướp bóc gia súc, bắt người làm nô lệ rồi biến mất trở về thảo nguyên khiến làm người Hán khó mà đột kích phản công lại họ. Trước sự ranh mảnh nầy, người Hán buộc lòng phải  đổi chiến lược  mang tính cách ngoại giao mà họ tin rằng với thời gian sẻ đem lại chiến thắng cho họ nên họ chấp nhận hệ thống triều cống với 4 bốn nguyên tắc sau đây:

1°) Một công chúa Trung Quốc sẽ kết hôn với thiền vu, người thủ lỉnh của người Hung Nô.

2°) Vạn lý Trường Thành là ranh giới giữa hai bên, không có quyền vượt qua Trường Thành nếu không có phép.

3°) Hai bên được xem như hai nước anh em và bình  đẳng.

4°) Việc trao đổi hàng hoá trong đó có tơ lụa về phiá nhà Hán và phiá Hung Nô thì có lạc đà, ngựa, lừa và vàng bạc bằng cách dựng các khu chợ ở gần Vạn Lý Trường Thành. Nhưng với thời gian nguời Hung Nô càng ngày càng đòi thêm khiến  người Hán tin rằng sẽ làm suy yếu nền kinh tế của người Hung Nô và họ sẽ được những gì mà họ không thành công qua chiến tranh. Chính nguời Hung Nô cũng nhận thức được sự kiện nầy khiến làm họ mất đi nhuệ khí chiến đấu nhất là với chiến lược «năm miếng mồi  cám dỗ» (nhà cửa, âm nhạc, phụ nữ, kho lẫm và quần áo đẹp). Họ cũng như người Hán nhất là trong tầng lớp ưu tú bắt đầu sử dụng lụa làm y phục, ga giường và dùng nó  vào nghi thức an táng như ở nghĩa trang  Noin-Ula, một di chỉ có hơn 2000 ngôi mộ của quý tộc Hung Nô và có vô số những tấm lụa damas qúi giá mà một phần lớn đến từ hệ thống triều cống. Chính lụa cũng làm Thiền Vu củng cố địa vị của mình, phân định giai cấp qua màu sắc và chất lượng. Nhờ  lụa chúng ta  mới có thể nhận thấy ra  rõ ràng  điạ vị của người sử dụng. Các hoàng đế Trung Hoa chỉ dùng màu vàng như màu lòng đỏ trứng gà, một màu mất rất nhiều công sức để thêu dệt nhất là theo luật lệ của triều đình. Bởi vậy hoàng cung mới có các xưởng dệt và nhuộm riêng tư và hoàng hậu đương triều là người cai quản và trách nhiệm  bộ phận nuôi tầm. Khi hoàng đế Kim Chương Tông  (Jin Zhangzong) lên ngôi vào  năm 1190 thi ngài đã thuê 1200 thợ dệt để sản xuất loại lụa damas. (1)

Hung Nô vẫn là một mối quan tâm lớn đối với các hoàng đế ở Trung Hoa nhất là với Hán Vũ Đế  mặc dù chính sách triều cống  được những người tiền nhiệm của ngài  áp dụng cho đến lúc đó. Đây là một kiểu liên hôn chính trị được Lâu Kính đề nghị với Hán Cao Tổ (Lưu Bang).  Sự không phục tùng và xấc xược của  Hung Nô vẫn tiếp tục làm bẽ mặt nhà Hán. Để đánh bại một kẻ thù vô hình như Hung Nô, Hán Vũ Đế có nghĩa vụ tổ chức lại quân đội của mình và làm cho nó phù hợp hơn để di chuyễn mà mục tiêu chính là đánh bật kẻ thù và cướp gia súc  của địch  ở giữa nơi họ cấm trại qua  các cuộc tấn công nhanh chóng bằng một số ít kỵ mã cũng như thói điều hành của Hung Nô. Vì vậy, việc sử dụng chiến xa bị loại bỏ trong các cuộc giao tranh quân sự. Sau đó, còn phải bỏ thoái của quan chức thường hay mặc lễ phục truyền thống để dùng ưu tiên quần dài  tránh đi sự cản trở trong việc cưỡi ngựa với tư thế ngồi xổm mà những người bình thường hay dùng. Chiến thuật này làm choáng váng quân Hung Nô, nhưng nó không thể làm chúng khuất phục được. 

Đây là lý do tại sao Hán Vũ Đế  phải lựa chọn các biện pháp khác bao gồm việc cải thiện mạng lưới đường xá không chỉ nó là xương sống của hệ thống kinh tế mà còn là chìa khóa thành công trong việc vận chuyển quân lính và tiếp tế. Trên các con đường của người Hán hiện nay đều có các trạm thư, chuồng ngựa, nhà trọ cho quan chức, ký túc xá cho du khách bình thường và thậm chí  có cả nhà giam cho tù nhân. Mạng lưới đường bộ do đó qua nhiều thế kỷ trở thành yếu tố then chốt của sự bành trướng quân sự và là công cụ hữu hiệu cho sự thâm nhập văn hóa của người Hán. Nó được xem ngang hàng với mạng lưới đường bộ của người La Mã.

Dọc theo biên giới phía bắc của vùng Cam Túc (Gansu), mạng lưới đường bộ này cũng cần phải bố trí lại  với một số đồn trú, xung quanh có các tháp canh mà một số có độ cao đến  18 thước dùng để theo dõi sự di chuyển của quân Hung Nô và báo hiệu bằng tín hiệu khói, bảo vệ những người sử dụng đường bộ và có các hành động phòng thủ phối hợp với bộ tham mưu. Chiến thắng của nhà Hán còn phụ thuộc vào các yếu tố khác quan trọng cũng như mạng lưới đường bộ này. Cung cấp lương thực cho các đơn vị đồn trú thường là một thách thức hàng ngày chưa kể đến những khó khăn lớn mà quân lính của Hán Vũ Đế gặp khi truy đuổi quân Hung Nô ở ngoài biên giới đến những vùng không xác định được. Điều này đòi hỏi sự tham gia của một số lượng lớn  về ngựa và kiến thức về địa hình rồi tất cả  cũng dần dần được cải thiện bằng cách vẽ lại các  bản đồ để xác định vị trí các điểm nước cũng như sự hợp tác của người dân địa phương.

Đôi khi điều cần thiết là phải nhanh chóng phục hồi kỵ binh trong trường hợp bị tổn thất đáng kể. Chúng ta có thể nói đến chiến dịch Ferghana chống lại Dayuan (Đại Uyển) vào năm 104 TCN. Trong số 60.000 binh lính giao chiến và 3000 con ngựa, tướng của Hán Vũ Đế, Li Guan Li (Lý Quảng Lợi) đã trở về với 10.000 binh lính và 1000 con ngựa. Vì vậy, triều đình nhà Hán đã phải khuyến khích người dân chăn nuôi ngựa, định giá một con ngựa giống với mức giá tiêu chuẩn khá cao, và xúc tiến đến việc đưa các giống ngựa mới từ các vùng đất phương Tây. Việc phục hồi nhanh chóng của kỵ binh rất cần thiết trong các cuộc viễn chinh xa. Không còn xa lạ với số lượng trang trại nuôi giống ngựa không ngừng tăng lên và việc cải thiện thức ăn gia súc bằng cách trồng cỏ linh lăng (Chi linh lăng) mà hạt giống được Zhuang Qian (Trương Khiên) mang về trong chuyến thám hiểm ở Trung Á.

Nhờ đó Trương Khiên đã phát hiện ra ở thung lũng Ferghana (Uzbekistan ngày nay) có những con ngựa  tốt, ngựa hãn huyết (đổ mồ hôi  đỏ như máu) và mang về vào năm 114 trước Công nguyên (TCN) một số mẫu vật được cung cấp bởi  người Wusun (Ô-Tôn), đồng minh của Hán Vũ Đế ở Trung Á. Kích thước, tốc độ và sức mạnh của các con ngựa nầy  làm hài lòng Hán Vũ Đế vô cùng. Nhưng thành tích của các con ngựa nầy  vẫn được cho là kém hiệu quả hơn  các con ngựa của  người Đại Uyển (Ferghana). Nhờ có móng guốc cứng hơn, những con ngựa Đại Uyển có thể  đi đến một nghìn li mỗi ngày. Mong muốn có được những con ngựa này, Hán Vũ Đế  tổ chức một cuộc thám hiểm quân sự chống lại người Đại Uyển. Họ đã sai lầm từ khước cung cấp các con ngựa nầy để đổi lấy quà tặng. Ngài không ngần ngại đặt cho những con ngựa này sau này với cái tên là « thiên mã » (tianma) (thiên mã= ngựa trời).

Những con ngựa nầy trở thành biểu tượng của quyền lực và uy tín vì Hán Vũ Đế cảm thấy bị sĩ nhục và bẽ mặt trước sự từ chối của một  tiểu vương quốc nằm ở trong thung lũng Ferghana. Chi phí dành cho cuộc thám hiểm quân sự rất quá mức không chỉ về trang bị và ngựa mà còn nhân mạng nửa  để có một kết quả không đáng  với khoảng ba mươi con  thiên mã và ba nghìn con ngựa giống và ngựa cái bình thường. Tuy nhiên, quân đội của Hán Vũ Đế  được lựa chọn khéo léo, chủ yếu là những người lính chuyên nghiệp và phạm nhân thực sự cũng như kỵ binh do các chỉ huy của các vùng biên giới cung cấp. Những người lính nhập ngũ này phải có sức bền bỉ về thể chất đáng kể để thực hiện những cuộc hành quân nhiều ngày và tiếp quản một thành phố.

Theo nhà sử học Tư Mã Thiên, không phải cái chết ở chiến trường hay thiếu lương thực là nguyên nhân dẫn đến những tổn thất đáng kể này mà chỉ là nỗi khát khao và sự ám ảnh của các tướng lĩnh muốn giành chiến thắng trong cuộc chiến bằng mọi giá vì mạng sống của họ còn phụ thuộc vào chiến thắng hay thất bại của các tác chiến này. Phần thưởng và hình phạt nghiêm khắc hoặc thậm chí án tử hình là một trong những giải thưởng mà Hán Vũ Đế sẽ dành cho họ mà họ không hề cho là ảo tưởng khi họ trở về Trung Hoa. Các tướng lĩnh uy quyền buộc phải tự sát hoặc đầu hàng kẻ thù (Lý Quảng, Lý Lăng, Lý Quang Lợi  vân vân..). Chiến dịch của Ferghana đã hoàn thành chỉ trong vòng một năm (từ mùa xuân năm 102  đến mùa xuân năm 101 TCN).

Sự ra  đời của con đường tơ lụa

Từ đây, sau chiến dịch Ferghana, tất cả các vương quốc  nằm trên con đường mà quân Hán đi ngang qua (sau này được gọi là « Con đường tơ lụa » ) đã chấp nhận thành chư hầu của Trung Hoa, ngoại trừ người Hung Nô. Để chống lại  những người nầy, Hán Vũ Đế  cố gắng tìm kiếm liên minh với kẻ thù của quân Hung Nô, đấy là người Đại Nguyệt Chi (Yuezhi) bằng cách cử một phái đoàn do Trương Khiên dẫn đầu đến Trung Á vào năm -139. Cuối cùng, Trương Khiên không thành công trong việc hoàn thành nhiệm vụ của mình vì ông ta đã bị quân Hung Nô giam giữ trong 10 năm trước khi trốn thoát để khám phá được Ferghana (Đại Uyển, Uzbékistan), Sogdiana  (vùng Samarkand), Bactriane (Turkmenistan) và phía bắc  Á Phú Hãn (Afghanistan ngày nay). Tuy nhiên, khi trở về Trung Hoa vào năm -126 trước Công nguyên, ông đã báo cáo với Hán Vũ Đế. Điều này cho phép Vũ Đế khám phá các quốc gia mà Trương Khiên đã đến tham quan và  nhắc lại cho Vũ Đế  biết có khả năng gia nhập vương quốc Shendu (Ấn Độ) từ nước Thục (Tứ Xuyên)  mà còn có một đế chế  hùng cường xa xôi có tên là  Daquin (Đế chế La Mã). Thay vi có được đồng minh chống lại Hung Nô, người ta lại có thể thấy giờ đây tìm ra được các đối tác thương mại quan tâm đến các sản phẩm của Trung Hoa như lụa, đồ sơn mài, công cụ bằng sắt vân vân… để đổi lấy ngọc, ngựa và lông thú. Vì thế con đường tơ lụa mới ra đời và trở thành sợi dây liên kết giữa Đông và Tây.

 Chỉ đến năm 115 TCN, Trương Khiên lại được Vũ Đế ủy thác dẫn một phái đoàn ngoại giao đến các vùng ở phía tây. Lần này, ông ấy cố gắng mang về không chỉ nhiều loại thực vật và sản phẩm tự nhiên (cỏ linh lăng, rượu vang, nho, quả hạch, quả lựu, đậu, len, thảm vân vân..) mà còn có cả những người chăn nuôi ngựa, người nước Ô-Tôn (Wusun nay ở Tân Cương). Bị ấn tượng bởi sự tráng lệ và giàu có của triều đình nhà Hán, người Wu Sun đồng ý tham gia trong cuộc liên minh  sau nầy do Hán Vũ Đế  đề xuất và mặc nhiên công nhận quyền bá chủ  của Trung Hoa.

Liên minh này được tiếp  theo sau đó với sự cống hiến một  cô công chúa Trung Hoa tên là Lưu Tế Quân cho nhà vua Côn Mạc của nước Wu Sun (Ô-Tôn). Vua nầy có cơ hội báo cáo hai lần cho Hán Vũ Đế về ý định hung hăng thù địch của quân Hung Nô qua cuộc liên minh nầy. Theo phong tục của Tây Vực, vị vua mới phải lấy tất cả những thê thiếp của vị vua cũ. Bởi vậy Tế Quân phải lấy Sầm Tâu, cháu nội của vua Côn Mạc khi ông nầy từ chức và dù Tế Quân không chịu nhưng với  Vũ Đế chi bảo Tế Quân nàng  đành phải chịu vì nàng là con cờ chính trị. Tế Quân  tuyệt mệnh về sau, không để lại một lời trăn trối nào cả với 30 năm thất vọng  từ thất vọng lấy ông vua già đầu tóc bạc phơ Côn Mạc rồi đến thất vọng khác phài lấy Sâm Tâu một đưá trẻ chưa đầy 15 tuổi. Nhờ nàng và công chúa Giải Ưu, người thay thế nàng về làm vợ Sầm Tâu  thì chẳng bao lâu sau nhà Hán liên minh với Ô -Tôn tiêu diệt uy lực Hung Nô và khiến Hung Nô từ thù địch trở thành chư hầu thần phục của Trung Hoa. Vuơng quốc Ô Tôn trở thành từ nay căn cứ chính trị để Trung Hoa bành trướng thế lực ở vùng Trung Á (Đại Uyển (Fergana), Khương Cư (Sogdiana), Đại Hạ (Irak), An Tức (Parthia, Iran), Sa-xa (Yarland), Lâu Lan (Lopnor)). Chính nhờ đó mới có sự giao lưu thương mại, văn hóa và chính trị giữa Đông và Tây mà Ô-Tôn trở thành trạm quan hệ nếu không nói là trục giao liên thương mại giữa hai nền văn hóa Đông và Tây. Nếu không có sự bền bỉ của Trương Khiên, sự tham vọng bành trướng thế lực của Hán Vũ Đế và sự hy sinh cao cả của Lưu Tế Quân thì chưa biết bao giờ mới có sự tiếp cận giữa Đông và Trung Á. Rồi sau đó  tuyến đường  tiếp tục từ An Tức(Ba Tư) đến thành phố Antioche (Thổ Nhi Kỳ ngày nay) trước khi đển thế giới Địa Trung Hải.

Dài có được 7000 cây số, con đường tơ lụa trở thành một trong những tuyến đường quang trọng nhất về thương mại nhất ở thời kỳ cổ đại và Trung Cổ. Có thể nói đây là sự khởi đầu của toàn cầu hóa thương mại.

Lụa không những là hàng duy nhất mà các thương nhân buôn bán vận chuyển dễ dàng  để  đi qua các bãi  sa mạc như Gobi và các dãy núi trên lưng những đoàn lạc đà lắc lư mà nó còn là một sản phẩm có giá trị cao đến từ Trung Hoa. Các lạc đà của vùng Bactriane  được chọn vì chúng đối phó hoàn hảo với những cơn bão cuốn theo những đám mây cát nghẹt thở  và chúng có khả năng đoán trước sự nguy hiểm bằng cách đứng chụm lại gần nhau và gầm gừ. Nhờ đó các lữ khách sẽ dùng nỉ bọc kính mũi và miệng lại. Lụa được xuất khẩu ra ngoài nước  theo con đường tơ lụa này dưới triều đại nhà Tây Hán khoảng 140-134 TCN. Thời đó ai bị bắt quả tang buôn lậu tằm  dưới dạng trứng hay dạng kén hoặc chỉ buôn lậu hạt hay cây dâu tằm non cũng có thể bị xử tử. Bất chấp nỗ lực bảo tồn của hoàng đế Trung Hoa, việc nuôi tằm cuối cùng  cũng được biết  lan rộng ra ngoài Trung Quốc, đầu tiên là Ấn Độ và Nhật Bản, sau đó đến  Đế chế Ba Tư, và cuối cùng là phương Tây vào thế kỷ thứ 6. Hiện tượng này đã được nhà sử học Procopius mô tả vào thế kỷ thứ 6.

Dựa sự mô tả của nhà văn Lucain về  nữ  hoàng Cléopâtre trong chiếc áo choàng bằng lụa khiếm nhã  kiểu sixdo  để lộ bộ ngực trắng nõn  nà của bà thì người Ai Cập  cũng đã biết đến lụa của Trung Hoa từ thế kỷ 1 TCN. Còn  người ở vùng Tây Á có truyền thống mua lụa trơn cùa Trung Hoa để thêu hoặc tháo ra dệt lại thành loại lụa damas đặc biệt nhưng cũng không bao lâu sau họ thu thập kiến thức và tập quán nuôi tầm. Còn ở Byzance, dưới triều đại của  hoàng đế Justinien Đệ Nhất có  hai nhà tu sĩ  của đạo Phương Đông  đã mang theo trứng giun tơ lụa từ Trung Hoa  về thủ đô  bằng cách giấu trong hai gậy  rỗng ruột. Còn ở Ba Tư thì là quê hương của các dâu tằm đen  nên người ở đây rất lão luyện trong việc nuôi tằm nên đạt đựợc sản lượng hàng năm rất  trọng đại dù tơ lụa làm ở nơi nầy kém mịn hơn lụa của Trung Hoa. Còn La Mã thì thì thời đó còn dùng quần áo bằng vải lanh và len. Với cuộc sống xa hoa, tầng lớp lãnh đạo La Mã bắt đầu biết đến các vải lụa tơ tằm của Hàng Châu  nhờ các thương gia Hy Lạp, Do Thái và  Syrie. Lụa trở thành từ nay một xa xí phẩm  và  được cực kỳ phổ biến nhất là nó vừa mềm mại và  mát mẻ cho mùa hè và ấm áp cho mùa đông  dù giá của nó quá cao. Bởi vậy nó bị các sắc lệnh của hoàng gia ban hành để kiểm soát giá cả của nó  trong  lúc đó ở Trường An trong vuờn Thượng Uyển thì  đã có trái nho giống ở Địa Trung Hải mà được gọi « mã nhủ » trên bàn ăn của Hán Vũ Đế.

Nhờ con đường tơ lụa mà hai đế chế nhà Hán và La Mã  được biết đến nhau. Đến một trăm năm sau Công Nguyên, đế chế nhà Hán có thể sánh ngang hàng  với đế chế  La Mã. Nền kinh tế của Trung Hoa  chủ yếu dựa vào nông dân trong khi nền kinh tế của La Mã dựa trên chế độ nô  lệ. Từ đó về sau có rất nhiều tuyến đường thương mại khác tựa như con đường tơ lụa nầy nhưng chúng  không chỉ vận chuyển hàng hóa và các mặt hàng quý giá mà còn dùng để trao đổi trí tuệ và văn hóa ở các thành phố mà các thương nhân cùng đoàn súc vật  đã được ghé qua và cũng là những  nơi để lại cho họ những ấn tượng sâu sắc  khó phai mờ  như con đường hành hương  cũa thầy Huyền Trang hay con đường của vị thương gia huyền thoại Ý Marco Polo.

Các tuyến đường nầy  không bất biến với thời gian: chúng phồn thịnh một lúc rồi sau đó  suy tàn rồi lại được tái lập lại một cách tương ứng với nhu cầu cũng như sự bất ổn trên toàn khu vực. Chúng là những con đường bộ nhộn nhịp người qua lại tỏa ra khắp ở lục điạ  Á – Âu như rễ cây. Có lẽ di sản cổ xưa nhất của các con đường tơ lụa là vai trò của chúng trong việc kết nối các nền văn hóa và dân tộc, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương. Trên thực tế, các thương nhân phải học ngôn ngữ và phong tục của các quốc gia họ đi qua để giao thương thành công.Tương tác gữa các nền văn hóa là một yếu tố quan trọng giao dịch vật chất. Các thương nhân nầy phần đông là người Khương Cư (Sogdiens).Theo sự nhận xét của sử gia Pháp Tristan Gaston-Breton thì nhờ có các tuyến đường đi bộ nầy mà Phương Tây mới phát hiện ra được chiếc la bàn, thuốc súng, tiền giấy và các tôn giáo như Phật Giáo, Thiên Chúa giáo, Do Thái Giáo, Hồi Giáo mới được du nhập vào Trung Hoa.

 Chính vì vậy vào giữa thế kỷ 19, nhà địa chất người Đức, nam tước Ferdinand von Richthofen, đã đặt tên cho mạng lưới của các tuyến đường thương mại và liên lạc này là « Die Seidenstrasse » (Mạng lưới của các con đường tơ lụa).Thuật ngữ này, được sử dụng ở dạng số nhiều, tiếp tục khơi gợi  sự tưởng tượng bởi sự bí ẩn đầy gợi cảm của nó.

(1) Thủ đô của nước Syrie hiện nay

 
Version française 

La Chine est le premier pays à cultiver le ver à soie Bombyx mori pour la production de la soie, il y a environ 5 000 ans. Bien que la matière elle-même se soit dégradée au fil du temps, des objets liés à sa production, tels que des métiers à tisser, des aiguilles et des navettes retenant les fils continuent à exister. Des morceaux de soie ont été découverts sur un site de la culture Liangzhu à Tianshanyang, Huzhou, dans le Zhejiang, datant de 2 700 av. J.-C. D’autres morceaux ont été retrouvés dans des tombes royales de la dynastie des Shang (vers 1600-1046 av. J.-C.). L’origine de la soie ancienne provient d’une légende chinoise racontant que l’impératrice  Xi Ling-shi, jeune épouse de l’empereur, Xuanyuan  aurait récupéré un cocon tombé dans sa tasse de thé et l’aurait  dévidé pour en extraire un fil extrêmement fin. Cette légende est destinée à embellir la fabrication de la soie, notamment dans les régions riveraines des fleuves Jaune et Yangtze. Les historiens précisent que la soie a été découverte vers 2 000 ou 3 000 av. J.-C. en Chine.

Le cycle biologique du ver à soie Bombyx mori se déroule en quatre étapes: de l’ovule  à la larve, puis à la pupe avant de devenir l’imago. Ce processus peut prendre de 40 à 60 jours. Le papillon nouvellement éclos est de couleur blanc pâle et bien poilu et il a déjà plein d’œufs s’il s’agit d’une femelle. Il sécrète des phéromones pour attirer les mâles dans le but de s’accoupler. Étant encore chrysalide, il cherche un endroit propice à la fabrication d’un cocon et  c’est avec sa bouche qu’il tisse le  fil pouvant mesurer jusqu’à 1 000 mètres de long et 30 microns de large. Il enduit le fil de soie d’une colle appelée séricine pour rendre plus résistant le cocon ayant la forme ovale. On estime qu’il faut 220 kilogrammes de feuilles de mûrier pour produire un kilogramme de soie. Ces feuilles doivent être propres, sèches et pas trop chaudes.

La soie était un produit dont la Chine a eu le monopole durant 5 000 ans. Elle était offerte en cadeau à ses ennemis, les Xiongnu, et constituait également un précieux présent échangé plus tard entre les nobles du monde entier. Analogue au  jade  sculpté  des figures ayant le caractère  symbolique, la soie était tissée ou brodée de motifs porteurs de significations. Les Xiongnu étaient un puissant peuple nomade vivant au nord de la Chine sous les dynasties Qin et Han. C’est par crainte de  leur razzia que, pendant la période des Royaumes combattants, les états vassaux  Yan, Zhao et Qin commençaient à construire leurs propres remparts pour se protéger de leur invasion.  Dans Les livres d’histoire chinois on les appelait  « Barbares » (Man di). Ils n’avaient ni forteresse ni résidence fixe. Par conséquent, ils ne cultivaient rien du tout. Ils vivaient de pillages de bétail et de capture d’esclaves, puis ils disparaissaient dans la steppe. Cela rendait  difficiles ainsi les contre-attaques chinoises. Face à cette ruse, les Han étaient  contraints d’adopter  la  stratégie diplomatique ayant pour but de leur assurer plus tard la victoire. Ils acceptaient  ainsi  le système tributaire basé  sur les quatre principes suivants:

1°) Une princesse chinoise allait épouser le Chanyu, le chef des Xiongnu.
2°) La Grande Muraille constituait la frontière entre les deux camps.  Aucun  n’avait pas  le droit de la franchir sans autorisation.
3°) Les deux camps étaient considérés comme deux pays frères et égaux.
4°) L’échange de marchandises comprenant notamment la soie du côté des  Han et de chameaux, chevaux, ânes, or et argent du côté des Xiongnu, s’effectuait par l’établissement de marchés tout  près de la Grande Muraille. Mais au fil du temps, les Xiongnu les exigeaient de plus en plus. Cela faisait croire aux Han qu’ils réussissaient à affaiblir l’économie des Xiongnu et qu’ils avaient ce qu’ils n’avaient pas réussi à obtenir par la guerre. Les Xiongnu eux-mêmes étaient conscients que ce fait  leur faisait perdre la combativité, notamment grâce à la stratégie des « cinq tentations » (maisons, musique, femmes, greniers et beaux vêtements).

À l’instar des Han, ils commençaient à utiliser la soie, notamment parmi l’élite, pour l’habillement, la literie et les rituels funéraires, comme au cimetière de  Noin-ûla, un site comptant plus de 2 000 tombes de nobles Xiongnu et d’innombrables soies damassées précieuses, dont une grande partie provenait du système de tribut. C’est la soie qui permettait au Chan Yu de consolider sa position et  de se  distinguer dans  la hiérarchie  par la couleur et la qualité. Grâce à la soie, on pouvait clairement reconnaître le statut du propriétaire. Les empereurs chinois n’utilisaient que du jaune d’œuf, une couleur dont la broderie demandait beaucoup d’efforts, surtout selon les règles impériales. Le palais impérial possédait donc ses propres ateliers privés de tissage et de teinture et l’impératrice régnante était responsable du département de la culture de la soie. Lorsque l’empereur Jin Zhangzong monta sur le trône en 1190, il engagea 1 200 tisserands pour produire de la soie damassée. (1)

Les Xiongnu demeuraient une préoccupation majeure pour les empereurs de Chine, en particulier pour l’empereur Han Wu Di, malgré le lourd tribut adopté jusqu’alors par ses prédécesseurs. Il s’agissait d’une forme de mariage politique proposé par le conseiller Lou Jing (Lâu Kính) à l’empereur Gao Zou des Han (Liu Bang). L’insubordination et l’insolence des Xiongnu continuaient à embarrasser les Han. Afin de vaincre un ennemi invisible comme les Xiongnu, l’empereur Han Wu Di était obligé de réorganiser son armée et de la rendre plus mobile. Son objectif principal était de déloger l’ennemi et de piller son bétail au cœur de ses campements grâce à des attaques rapides menées par un petit nombre de cavaliers  à la manière des Xiongnu. Ainsi, l’utilisation des chars était supprimée lors des combats militaires. Plus tard, les militaires devaient renoncer à porter aussi des robes de cérémonie traditionnelles  au profit du pantalon, ce qui leur  permettait d’éviter la gêne provoquée par la posture accroupie que les roturiers avaient l’habitude de prendre. Cette tactique stupéfiait les Xiongnu, mais elle  ne parvenait  pas à les soumettre.

C’était la raison pour laquelle  l’empereur Han Wu Di devait opter d’autres mesures, notamment  dans l’amélioration du réseau routier.  Cela constituait non seulement l’épine dorsale du système économique, mais aussi la clé du succès du transport des troupes et du ravitaillement. Désormais, les routes des Han comportaient des relais de poste, des écuries, des auberges pour les fonctionnaires, des dortoirs pour les voyageurs ordinaires et même des prisons pour les prisonniers. Le réseau routier devenait ainsi, au fil des siècles, un élément clé de l’expansion militaire et un outil efficace de pénétration culturelle des Han. Il était considéré comme comparable à celui des Romains.

Situé le long de la frontière nord de  Gansu, ce réseau routier nécessitait également un réaménagement, avec la présence de plusieurs garnisons entourées de tours de guet dont  certaines atteignaient 18 mètres de haut et étaient utilisées pour surveiller les mouvements des Xiongnu et les signaler par des signaux de fumée. Cela  permettait de protéger  les usagers de la route et coordonner les actions défensives avec l’état-major. La victoire des Han dépendait d’autres facteurs importants comme c’était le cas de ce réseau routier. Le ravitaillement des garnisons était souvent un défi quotidien, sans parler des grandes difficultés rencontrées par les soldats des Han Wu Di dans la poursuite des Xiongnu au-delà des frontières surtout dans des régions inconnues. Cela nécessitait la participation de nombreux chevaux. La connaissance approfondie du terrain s’avérait nécessaire  avec des compétences progressivement améliorées par le retraçage des cartes géographiques  pour la localisation des points d’eau et la coopération des populations locales.

Parfois, il était nécessaire de reconstituer rapidement la cavalerie en cas de pertes importantes. On peut citer la campagne de Ferghana contre Da Yuan en 104 av. J.-C. : sur les 60 000 soldats engagés et les 3 000 chevaux, le général de l’empereur Han Wu Di, Li Guan Li, revint seulement avec 10 000 soldats et 1 000 chevaux. La cour des Han dut donc encourager l’élevage, fixer un prix standard assez élevé pour un étalon et promouvoir l’introduction de nouvelles races de chevaux en provenance des pays occidentaux. La reconstitution rapide de la cavalerie était essentielle pour les expéditions lointaines. Il n’était donc pas étonnant de voir le nombre des centres  d’élevage de chevaux en augmentation constante et l’alimentation du bétail en nette amélioration par la culture de la luzerne, dont les graines avaient été ramenées par Zhuang Qian  lors de son expédition en Asie centrale.

Grâce à cela, Zhang Qian découvrit ainsi dans la vallée de Ferghana (actuel Ouzbékistan) de beaux chevaux qui suaient avec du sang rouge et ramena  en 114 av. J.-C. des spécimens fournis par les Wu Sun, les alliés de l’empereur  Han Wu Di en Asie centrale. La taille, la vitesse et la force de ces chevaux plaisaient beaucoup à l’empereur Han Wu Di. Mais les performances de ces chevaux étaient encore considérées moins performantes que celles des chevaux des Da Yuan (Ferghana). Grâce à leurs sabots plus durs, ces derniers  pouvaient parcourir jusqu’à mille li par jour. Désireux de les acquérir, l’empereur Ha Wu Di organisa une expédition militaire contre le peuple Da Yuan. Ceux-ci refusèrent par erreur de les lui fournir en échange de cadeaux. Il n’hésita pas à les baptiser plus tard « chevaux célestes ». Ces chevaux devinrent un symbole de puissance et de prestige, car l’empereur Wu de Han se sentait humilié par le rejet d’un petit royaume situé dans la vallée de Ferghana. Le coût de l’expédition militaire était excessif, non seulement en équipement et en chevaux, mais aussi en vies humaines, pour un résultat qui ne valait pas avec  les trente chevaux célestes  et les trois mille étalons et juments ordinaires. Cependant, l’armée de l’empereur Wu de Han était savamment sélectionnée, composée principalement de soldats professionnels et de véritables condamnés, ainsi que des cavaliers  fournis par les commandants des régions frontalières. Ces soldats conscrits devaient avoir une endurance physique considérable pour entreprendre des marches de plusieurs jours et prendre le contrôle d’une ville.

Selon l’historien Sima Qian, ce ne sont pas la mort sur le champ de bataille ou le manque de nourriture qui ont causé ces pertes importantes, mais seulement le désir et l’obsession des généraux de gagner la guerre à tout prix car leur vie dépendait de la victoire ou de l’échec de ces opérations. Récompenses et punitions sévères voire condamnations à mort faisaient partie des lots que Wu Di leur réservera sans aucune illusion dès leur retour en Chine. Des généraux valeureux étaient obligés de se suicider ou se rendre à l’ennemi (Li Quan, Li Ling, Li Guan Li etc.). La campagne de Ferghana était bouclée seulement en un an (Printemps de l’année 102 -Printemps de l’année 101 av. J.C.).

 Naissance de la Route de la Soie

Après la campagne de Ferghana, tous les royaumes situés le long de la route empruntée par l’armée Han (connue plus tard sous le nom de « Route de la Soie ») acceptèrent de devenir désormais  les vassaux de la Chine, à l’exception des Xiongnu. Pour contrer ces derniers, l’empereur  Han Wu Di tenta de s’allier aux ennemis des Xiongnu, les Yuezhi, en envoyant une délégation menée par Zhang Qian en Asie centrale en l’an -139 av. J.C.. Finalement, Zhang Qian échoua dans sa mission : il fut retenu captif par les Xiongnu durant  dix ans avant de s’échapper pour explorer Ferghana (Ouzbékistan), la Sogdiane (région de Samarcande), la Bactriane (Turkménistan) et le nord de l’Afghanistan). Cependant, lorsqu’il retourna en Chine en -126 av. J.-C., il fit son rapport à l’empereur Han Wu Di. Cela permit à  ce dernier d’explorer les pays que Zhang Qian avait visités et de lui  rappeler qu’il y avait une possibilité de rejoindre le royaume de Shendu (Inde) depuis la province de Sichuan et aussi un puissant empire lointain appelé Daquin (Empire romain). Au lieu de gagner des alliés contre les Xiongnu, on pouvait désormais trouver des partenaires commerciaux intéressés par les produits chinois tels que la soie, la laque, les outils en fer etc. en échange de jade, de chevaux et de fourrures. Ainsi naquit la nouvelle Route de la Soie qui devint le lien entre l’Orient et l’Occident.

Ce n’est qu’en l’an 115 av. J.C. que Zhang Qian fut chargé de nouveau par l’empereur Han Wu Di de diriger une mission diplomatique dans les régions occidentales. Cette fois, il réussit à ramener non seulement une variété de plantes et de produits naturels (luzerne, vin, raisin, noix, grenades, haricots, laine, tapis, etc.), mais aussi des éleveurs de chevaux, les Wūsūn  (les gens vivant dans l’actuel Xinjiang). Impressionnés par la splendeur et la richesse de la cour des Han, les Wūsūn acceptèrent de participer à l’alliance proposée par l’empereur Han Wu Di et reconnurent tacitement la suzeraineté chinoise.

Cette alliance fut suivie par l’offrande d’une princesse chinoise nommée Liu Jijun (Lưu Tế Quân) au roi  Kunmo (Côn Mạc) des Wūsūn. Ce dernier  eut l’occasion d’informer ainsi l’empereur Wu Di à deux reprises, des intentions agressives et hostiles de l’armée Xiongnu. Selon la coutume des régions occidentales, le nouveau roi devait prendre toutes les concubines de l’ancien roi. Liu Jijun dut donc épouser Sam Tau, le petit-fils du roi Kunmo lors de sa démission. Malgré le refus de Liu Jijun,  sur ordre de l’empereur Wu Di, elle dut l’accepter finalement  car elle n’était qu’un pion politique. Liu Jijun mourut plus tard sans laisser le  dernier mot avec trente années de désillusion: d’abord la déception d’épouser le vieux roi Kun Mo aux cheveux blancs puis celle de prendre ensuite Sam Tau comme mari, un enfant de moins de 15 ans. Grâce à  elle et à la princesse Jieyou (Giai Ưu), qui la remplaça  plus tard comme épouse de Sam Tau, la dynastie des Han s’allia bientôt au royaume des Wūsūn  pour anéantir la puissance des Xiongnu  et faire d’eux des vassaux de la Chine. Le royaume des  Wūsūn devint désormais la base politique de la Chine pour étendre sa puissance en Asie centrale (Ferghana, Sogdiane, Irak), Iran, Yarland, Lopnor). C’est grâce à cela que les échanges commerciaux, culturels et politiques entre l’Orient et l’Occident se sont développés et Wūsūn est devenu ainsi  un point de liaison, voire un axe commercial, entre les deux cultures. Sans la persévérance de Zhang Qian, l’ambition d’étendre le pouvoir de Han Wu Di et le noble sacrifice de Liu Jijun, on ne sait pas quand il y aura un rapprochement entre l’Est et l’Asie centrale. Puis l’itinéraire  se poursuit ensuite d’Anxi (Parthe, Iran) à Antioche (aujourd’hui en Turquie) avant d’atteindre le monde méditerranéen.

Longue de 7 000 kilomètres, la Route de la Soie devient l’une des routes commerciales les plus importantes de l’Antiquité et du Moyen Âge. On peut dire que c’est le début de la mondialisation des échanges.

La soie était non seulement la seule marchandise que les commerçants pouvaient transporter facilement à travers les déserts comme le Gobi et les montagnes à bord de convois de chameaux, mais c’était aussi un produit très prisé en provenance de Chine. Les chameaux de Bactriane étaient choisis car ils résistaient parfaitement aux tempêtes accompagnées d’épais nuages de sable et ils pouvaient anticiper le danger en se tenant tout près les uns des autres et en grognant. Les voyageurs se couvraient alors le nez et la bouche avec le feutre. La soie était exportée à l’étranger le long de cette route de la soie sous la dynastie des Han occidentaux, vers 140-134 av. J.-C. La soie était exportée à l’étranger le long de cette Route de la Soie sous la dynastie des Han occidentaux, entre 140 et 134 av. J.-C. environ. À cette époque, quiconque était surpris en train de faire de la contrebande des vers à soie sous forme d’œufs ou de cocons, ou même simplement des graines ou des jeunes mûriers, pouvait être exécuté. Malgré les efforts des empereurs chinois pour  préserver la sériciculture, celle-ci  finit par se répandre au-delà de la Chine, d’abord en Inde et au Japon, puis dans l’Empire perse, et enfin en Occident au VIème  siècle. Ce phénomène fut décrit par l’historien Procope au VIème  siècle.

En s’appuyant sur la description de la reine Cléopâtre portant une robe de soie impudique qui dévoilait sa poitrine  d’une belle bancheur  par l’écrivain Lucan, on sait que les Égyptiens connurent la soie chinoise depuis le 1er siècle avant J.-C. Les peuples d’Asie occidentale avaient la tradition d’acheter la soie chinoise unie pour la broder ou la défaire pour la retisser en une soie damassée spéciale mais ils ne tardèrent pas à acquérir  entre-temps le savoir-faire et la pratique de la culture des vers à soie. À Byzance, sous le règne de l’empereur Justinien Ier, deux moines d’Orient rapportèrent des œufs de vers à soie de la Chine à la capitale en les cachant dans deux cannes  évidées. Quant à la Perse, patrie du mûrier noir, ses habitants étaient très expérimentés dans l’élevage du ver à soie. Cela  leur permettait d’avoir une production annuelle considérable, bien que leur soie produite  fût moins fine que celle de la Chine. Quant à Rome, on utilisa encore à cette époque des vêtements en lin et en laine. Avec une vie luxueuse, la classe dirigeante romaine commença à connaître les tissus de soie de Hangzhou grâce aux marchands grecs, juifs et syriens. La soie devint un produit de luxe extrêmement populaire, notamment pour sa douceur et sa fraîcheur en été et sa chaleur en hiver, malgré son prix exorbitant. Des décrets royaux furent donc promulgués pour en contrôler les prix. À cette époque, à Chang An, dans le jardin impérial, on a trouvé déjà des raisins méditerranéens appelés « mã nhủ » sur la table de l’empereur Han Wu Di.

La Route de la Soie a permis aux empires chinois et romain de se rencontrer.  Cent ans après Jésus-Christ, l’Empire des Han était sur le même pied d’égalité avec l’Empire romain. L’économie chinoise était basée en grande partie sur l’agriculture, tandis que l’économie romaine reposait sur l’esclavage. Depuis, de nombreuses autres routes commerciales ont suivi la Route de la Soie. Elles ont non seulement transporté des marchandises et des objets précieux, mais elles ont également servi de lieu d’échanges intellectuels et culturels dans les villes où  les marchands et leurs caravanes ont eu l’occasion de s’arrêter en leur laissant de fortes impressions comme le chemin de pèlerinage du moine chinois Xuánzàng ou celui du légendaire marchand italien Marco Polo.

Ces itinéraires n’étaient pas impérissables: ils  prospéraient  pendant un  certain temps, puis ils  étaient en déclin et ils étaient rétablis en fonction des besoins et de  l’instabilité de la région. C’étaient des voies terrestres très fréquentées qui s’étendaient à travers l’Eurasie comme les racines d’un arbre. L’héritage le plus ancien des Routes de la Soie était peut-être leur rôle de lien entre les cultures et les peuples et celui de facilitation du commerce. En effet, les commerçants devaient apprendre les langues et les coutumes des pays traversés pour réussir leurs échanges commerciaux. L’interaction interculturelle était un facteur important dans les transactions matérielles. Ces marchands étaient principalement des Sogdiens. Selon l’historien français Tristan Gaston-Breton, c’est grâce à ces itinéraires de marche que l’Occident a découvert la boussole, la poudre à canon, le papier-monnaie et que des religions comme le bouddhisme, le christianisme, le judaïsme et l’islam ont été introduites en Chine.

C’est pourquoi, au milieu du XIXème  siècle, le géologue allemand, le baron Ferdinand von Richthofen, baptisa ce réseau de voies commerciales et de communication « Die Seidenstrasse » (Le Réseau des Routes de la Soie). Ce terme, utilisé au pluriel, continue de susciter l’imagination par son mystère évocateur.

Version anglaise

China was the first country to cultivate the Bombyx mori silkworm for silk production, around 5,000 years ago. Although the material itself has deteriorated over time, objects related to its production, such as looms, needles, and shuttles for holding threads, still exist. Pieces of silk have been discovered at a Liangzhu culture site in Tianshanyang, Huzhou, Zhejiang, dating back to 2,700 BC. Other pieces have been found in royal tombs from the Shang dynasty (around 1600-1046 BC). The origin of ancient silk comes from a Chinese legend that tells how Empress Xi Ling-shi, the young wife of Emperor Xuanyuan, picked up a cocoon that had fallen into her teacup and unraveled it to extract an extremely fine thread. This legend is intended to embellish the manufacture of silk, particularly in the regions bordering the Yellow and Yangtze rivers. Historians specify that silk was discovered around 2000 or 3000 BC in China.

The life cycle of the silkworm Bombyx mori consists of four stages: from egg to larva, then to pupa, before becoming an imago. This process can take 40 to 60 days. The newly hatched moth is pale white and very hairy, and if it is a female, it already has a full set of eggs. It secretes pheromones to attract males for mating. While still in the chrysalis stage, it looks for a suitable place to spin a cocoon and uses its mouth to weave a thread that can measure up to 1,000 meters long and 30 microns wide. It coats the silk thread with a glue called sericin to make the oval-shaped cocoon more resistant. It is estimated that 220 kilograms of mulberry leaves are needed to produce one kilogram of silk. These leaves must be clean, dry, and not too hot.

Silk was a product over which China had a monopoly for 5,000 years. It was given as a gift to its enemies, the Xiongnu, and was also a precious gift exchanged later between nobles around the world. Similar to jade carved into figures with symbolic meaning, silk was woven or embroidered with patterns that carried meaning. The Xiongnu were a powerful nomadic people living north of China during the Qin and Han dynasties. It was out of fear of their raids that, during the Warring States period, the vassal states of Yan, Zhao, and Qin began to build their own ramparts to protect themselves from invasion. In Chinese history books, they were called “Barbarians” (Man di). They had no fortresses or fixed residences. As a result, they did not cultivate anything at all. They lived by pillaging livestock and capturing slaves, then disappearing into the steppe. This made Chinese counterattacks difficult. Faced with this cunning, the Han were forced to adopt a diplomatic strategy aimed at securing victory later on. They thus accepted the tributary system based on the following four principles:

1) A Chinese princess was to marry the Chanyu, the leader of the Xiongnu.
2) The Great Wall formed the border between the two camps. Neither side was allowed to cross it without permission.
3) The two sides were considered two equal brother countries.
4) The exchange of goods, including silk on the Han side and camels, horses, donkeys, gold, and silver on the Xiongnu side, took place through markets established close to the Great Wall. But over time, the Xiongnu demanded more and more. This led the Han to believe that they were succeeding in weakening the Xiongnu economy and that they had achieved what they had failed to achieve through war. The Xiongnu themselves were aware that this was causing them to lose their fighting spirit, particularly due to the strategy of the “five temptations” (houses, music, women, granaries, and fine clothing).

Like the Han, they began to use silk, especially among the elite, for clothing, bedding, and funeral rituals, as seen at the Noin-ûla cemetery, a site with more than 2,000 tombs of Xiongnu nobles and countless pieces of precious damask silk, much of which came from the tribute system. It was silk that allowed the Chan Yu to consolidate his position and distinguish himself in the hierarchy through color and quality. Thanks to silk, the status of the owner could be clearly recognized. Chinese emperors used only egg yolk yellow, a color that required a great deal of effort to embroider, especially according to imperial rules. The imperial palace therefore had its own private weaving and dyeing workshops, and the reigning empress was responsible for the silk cultivation department. When Emperor Jin Zhangzong ascended the throne in 1190, he hired 1,200 weavers to produce damask silk. (1)

The Xiongnu remained a major concern for the emperors of China, particularly for Emperor Han Wu Di, despite the heavy tribute paid by his predecessors. It was a form of political marriage proposed by the advisor Lou Jing (Lâu Kính) to Emperor Gao Zou of the Han (Liu Bang). The insubordination and insolence of the Xiongnu continued to embarrass the Han. In order to defeat an invisible enemy such as the Xiongnu, Emperor Han Wu Di was forced to reorganize his army and make it more mobile. His main objective was to dislodge the enemy and plunder their livestock in the heart of their camps through rapid attacks carried out by a small number of horsemen in the manner of the Xiongnu. Thus, the use of chariots was eliminated during military combat. Later, the military had to give up wearing traditional ceremonial robes in favor of pants, which allowed them to avoid the discomfort caused by the crouching posture that commoners were accustomed to. This tactic stunned the Xiongnu, but it failed to subdue them.

This was why Emperor Han Wu Di had to take other measures, particularly to improve the road network. This was not only the backbone of the economic system, but also the key to the successful transport of troops and supplies. From then on, the Han roads featured post stations, stables, inns for officials, dormitories for ordinary travelers, and even prisons for prisoners. Over the centuries, the road network became a key element in military expansion and an effective tool for the cultural penetration of the Han. It was considered comparable to that of the Romans.

Located along the northern border of Gansu, this road network also needed to be redesigned, with several garrisons surrounded by watchtowers, some of which were 18 meters high and used to monitor the movements of the Xiongnu and report them by smoke signals. This protected road users and coordinated defensive actions with the general staff. The Han victory depended on other important factors, such as this road network. Supplying the garrisons was often a daily challenge, not to mention the great difficulties encountered by Han Wu Di’s soldiers in pursuing the Xiongnu beyond the borders, especially in unfamiliar regions. This required the use of many horses. In-depth knowledge of the terrain was necessary, with skills gradually improved by retracing maps to locate water sources and cooperating with local populations.

Sometimes it was necessary to quickly rebuild the cavalry in the event of heavy losses. One example is the Ferghana campaign against Da Yuan in 104 BC: of the 60,000 soldiers and 3,000 horses deployed, the general of Emperor Han Wu Di, Li Guan Li, returned with only 10,000 soldiers and 1,000 horses. The Han court therefore had to encourage breeding, set a fairly high standard price for stallions, and promote the introduction of new breeds of horses from Western countries. The rapid rebuilding of the cavalry was essential for distant expeditions. It was therefore not surprising to see the number of horse breeding centers constantly increasing and the feeding of livestock greatly improved by the cultivation of alfalfa, the seeds of which had been brought back by Zhuang Qian during his expedition to Central Asia.

Thanks to this, Zhang Qian discovered beautiful horses that sweated red blood in the Ferghana Valley (now Uzbekistan) and brought back specimens in 114 BC provided by the Wu Sun, allies of Emperor Han Wu Di in Central Asia. The size, speed, and strength of these horses greatly pleased Emperor Han Wu Di. However, the performance of these horses was still considered inferior to that of the Da Yuan (Ferghana) horses. Thanks to their harder hooves, the latter could travel up to a thousand li per day. Eager to acquire them, Emperor Ha Wu Di organized a military expedition against the Da Yuan people. They mistakenly refused to provide them in exchange for gifts. He did not hesitate to later name them “celestial horses.” These horses became a symbol of power and prestige, as Emperor Wu of Han felt humiliated by the rejection of a small kingdom located in the Ferghana Valley. The cost of the military expedition was excessive, not only in terms of equipment and horses, but also in terms of human lives, for a result that was not worth the thirty heavenly horses and three thousand ordinary stallions and mares. However, Emperor Wu of Han’s army was carefully selected, consisting mainly of professional soldiers and actual convicts, as well as horsemen provided by the commanders of the border regions. These conscripted soldiers had to have considerable physical endurance to undertake marches lasting several days and take control of a city.

According to historian Sima Qian, it was not death on the battlefield or lack of food that caused these heavy losses, but only the generals’ desire and obsession to win the war at all costs, as their lives depended on the success or failure of these operations. Severe rewards and punishments, even death sentences, were part of the fate that Wu Di had in store for them upon their return to China. Valiant generals were forced to commit suicide or surrender to the enemy (Li Quan, Li Ling, Li Guan Li, etc.). The Ferghana campaign was completed in just one year (spring of 102 BC to spring of 101 BC).

Birth of the Silk Road

After the Ferghana campaign, all the kingdoms along the route taken by the Han army (later known as the “Silk Road”) agreed to become vassals of China, with the exception of the Xiongnu. To counter the Xiongnu, Emperor Han Wu Di attempted to ally himself with their enemies, the Yuezhi, by sending a delegation led by Zhang Qian to Central Asia in 139 BC. Ultimately, Zhang Qian failed in his mission: he was held captive by the Xiongnu for ten years before escaping to explore Ferghana (Uzbekistan), Sogdiana (the Samarkand region), Bactria (Turkmenistan), and northern Afghanistan. However, when he returned to China in 126 BC, he reported to Emperor Han Wu Di. This allowed the latter to explore the countries Zhang Qian had visited and reminded him that it was possible to reach the kingdom of Shendu (India) from Sichuan province, as well as a powerful distant empire called Daqin (the Roman Empire). Instead of gaining allies against the Xiongnu, it was now possible to find trading partners interested in Chinese products such as silk, lacquer, iron tools, etc. in exchange for jade, horses, and furs. Thus was born the new Silk Road, which became the link between East and West.

It was not until 115 BC that Zhang Qian was again commissioned by Emperor Han Wu Di to lead a diplomatic mission to the western regions. This time, he succeeded in bringing back not only a variety of plants and natural products (alfalfa, wine, grapes, nuts, pomegranates, beans, wool, carpets, etc.), but also horse breeders, the Wūsūn (the people living in present-day Xinjiang). Impressed by the splendor and wealth of the Han court, the Wūsūn agreed to participate in the alliance proposed by Emperor Han Wu Di and tacitly recognized Chinese suzerainty.

This alliance was followed by the offering of a Chinese princess named Liu Jijun (Lưu Tế Quân) to King Kunmo (Côn Mạc) of the Wūsūn. The latter thus had the opportunity to inform Emperor Wu Di twice of the aggressive and hostile intentions of the Xiongnu army. According to the custom of the western regions, the new king had to take all the concubines of the former king. Liu Jijun therefore had to marry Sam Tau, the grandson of King Kunmo, when he resigned. Despite Liu Jijun’s refusal, on the orders of Emperor Wu Di, she finally had to accept because she was only a political pawn. Liu Jijun later died without having the last word, after thirty years of disillusionment: first the disappointment of marrying the old, white-haired King Kun Mo, then that of taking Sam Tau, a child under the age of 15, as her husband. Thanks to her and Princess Jieyou (Giai Ưu), who later replaced her as Sam Tau’s wife, the Han dynasty soon allied itself with the kingdom of Wūsūn to destroy the power of the Xiongnu and make them vassals of China. The kingdom of the Wūsūn thus became China’s political base for extending its power into Central Asia (Ferghana, Sogdiana, Iraq), Iran, Yarland, and Lopnor. It was thanks to this that commercial, cultural, and political exchanges between the East and the West developed, and Wūsūn thus became a link, even a commercial hub, between the two cultures. Without Zhang Qian’s perseverance, Han Wu Di’s ambition to expand his power, and Liu Jijun’s noble sacrifice, it is unclear when the East and Central Asia would have come together. The route then continued from Anxi (Parthia, Iran) to Antioch (now in Turkey) before reaching the Mediterranean world.

Stretching 7,000 kilometers, the Silk Road became one of the most important trade routes of Antiquity and the Middle Ages. It can be said that this marked the beginning of the globalization of trade.

Silk was not only the only commodity that traders could easily transport across deserts such as the Gobi and mountains on camel caravans, but it was also a highly prized product from China. Bactrian camels were chosen because they were highly resistant to storms accompanied by thick clouds of sand and could anticipate danger by staying close together and grunting. Travelers would then cover their noses and mouths with felt. Silk was exported abroad along this Silk Road during the Western Han Dynasty, around 140-134 BC. Silk was exported abroad along this Silk Road during the Western Han Dynasty, between approximately 140 and 134 BC. At that time, anyone caught smuggling silkworms in the form of eggs or cocoons, or even just seeds or young mulberry trees, could be executed. Despite the efforts of Chinese emperors to preserve sericulture, it eventually spread beyond China, first to India and Japan, then to the Persian Empire, and finally to the West in the 6th century. This phenomenon was described by the historian Procopius in the 6th century.

Based on the description by the writer Lucan of Queen Cleopatra wearing an immodest silk dress that revealed her breasts with beautiful white skin, we know that the Egyptians were familiar with Chinese silk as early as the 1st century BC. The peoples of Western Asia had a tradition of buying plain Chinese silk to embroider or unravel it and reweave it into a special damask silk, but they soon acquired the knowledge and practice of silkworm cultivation. In Byzantium, during the reign of Emperor Justinian I, two monks from the East brought silkworm eggs from China to the capital, hiding them in two hollowed-out canes. As for Persia, home of the black mulberry tree, its inhabitants were very experienced in silkworm breeding. This enabled them to achieve considerable annual production, although the silk they produced was less fine than that of China. As for Rome, linen and wool clothing was still in use at that time. Living a life of luxury, the Roman ruling class began to discover the silk fabrics of Hangzhou thanks to Greek, Jewish, and Syrian merchants. Silk became an extremely popular luxury item, particularly for its softness and coolness in summer and warmth in winter, despite its exorbitant price. Royal decrees were therefore issued to control prices. At that time, in Chang An, in the imperial garden, Mediterranean grapes called “mã nhủ” were already found on the table of Emperor Han Wu Di.

The Silk Road enabled the Chinese and Roman empires to meet. One hundred years after Jesus Christ, the Han Empire was on equal footing with the Roman Empire. The Chinese economy was largely based on agriculture, while the Roman economy was based on slavery. Since then, many other trade routes have followed the Silk Road. They not only transported goods and precious objects, but also served as a place for intellectual and cultural exchange in the cities where merchants and their caravans had the opportunity to stop, leaving them with strong impressions, such as the pilgrimage of the Chinese monk Xuánzàng or that of the legendary Italian merchant Marco Polo.

These routes were not permanent: they prospered for a certain period of time, then declined and were reestablished according to the needs and instability of the region. They were busy land routes that stretched across Eurasia like the roots of a tree. Perhaps the most enduring legacy of the Silk Roads was their role in connecting cultures and peoples and facilitating trade. Indeed, merchants had to learn the languages and customs of the countries they traveled through in order to trade successfully. Intercultural interaction was an important factor in material transactions. These merchants were mainly Sogdians. According to French historian Tristan Gaston-Breton, it was thanks to these overland routes that the West discovered the compass, gunpowder, and paper money, and that religions such as Buddhism, Christianity, Judaism, and Islam were introduced to China.

That is why, in the mid-19th century, German geologist Baron Ferdinand von Richthofen named this network of trade and communication routes “Die Seidenstrasse” (The Silk Road Network). This term, used in the plural, continues to capture the imagination with its evocative mystery.

Bibliographie

Kassia ST Clair:  Đời Sợi dệt hình hài thế giới.Người Dịch Nguyên Chính NXB Thanh Niên Năm XB 2024
Huỳnh Văn Lang: Các công chúa sứ giả.2004
Cécile Beurdeley: Sur les routes de la soie. Le grand voyage des objets d’art. 1985 Office du Livre. Fribourg, Suisse.

Galerie des photos

Le kouffa (Thuyền thúng)

Thuyền thúng

Version française

Version anglaise

Thuyền thúng là một loại thuyền được trọng dụng ở miền biển Việt Nam nhất là ở miền trung từ Hà Tịnh đến Bình Thuận. Ngoài màu sắc vui tươi,  các thuyền thúng  hay thường dập  dềnh ngoài biển khơi hay nằm phơi nắng trên các bãi cát. Chúng còn là  một phương tiện rất cần thiết với các ngư dân trong việc sử dụng để chuyên chở các hàng hóa từ các tàu thuyền lớn  đánh cá ngoài biển vào bờ hoặc dùng với mục đích khác nhau như  câu tôm hay mực, lặn ngắm xem san hô cho các du khách nước ngoài hay là cứu sinh trong trường hợp khẩn cấp. Không chì tiện dụng  cưởi sóng dễ dàng, mà còn vững chắc thuyền thúng  ít khi bị lật đổ  vì nó nhẹ so với các thuyền thân dài.

Thuyền thúng có hai kích cở, một loại lớn với đường kính là 2,2m và một loại nhỏ là 1,8m. Việc đóng thuyền thúng đòi hỏi người thợ phải có nhiều kinh nghiệm và tâm huyết. Nếu có bất trắc, thuyền bị thắm nước và lật úp thì hậu quả sẽ khó đo lường. Loại tre dùng để đan  không quá non và cũng không già quá. Chỉ dùng cật từ thân tre trở xuống. Ít nhất cũng cần  từ 5 đến 7 cây tre loại đặc.

Thuyền thúng là một minh chứng cuộc sống hằng ngày vất vả của các ngư dân miền trung với khát vọng mong muốn có được một tương lai rực rỡ trong một môi trường sống quá khắc nghiệt.

Le  kouffa est un type de bateau très apprécié sur la côte vietnamienne, en particulier dans la région centrale de Hà Tịnh à Bình Thuận. Outre  leurs couleurs gaies, on voit souvent les kouffas flotter sur la mer ou prendre un bain de soleil sur la plage de sable. Ils sont un moyen  indispensable pour les pêcheurs de pouvoir  transporter les marchandises depuis de grands bateaux de pêche en mer jusqu’au rivage ou à d’autres fins telles que la pêche aux crevettes ou aux calmars, la plongée pour observer les coraux  ou le sauvetage en cas d’urgence. 

Le kouffa  est non seulement maniable pour surfer facilement sur les  vagues mais aussi stable pour éviter d’être renversé car il est léger  par rapport au bateau de dimension importante. Le bateau panier est disponible en deux tailles, l’un grand d’un diamètre de 2,2 m et l’autre petit d’un diamètre de 1,8 m.

La construction d’un bateau-panier nécessite de la part de l’artisan beaucoup d’expérience et de dévouement. En cas de problème, le bateau sera inondé  et chaviré et  les conséquences seront difficiles à prévoir. Le type de bambou utilisé pour le tissage n’est ni trop jeune ni trop vieux. Seuls les nœuds du milieu du bambou jusqu’à la racine sont utilisés. Il faut se servir au moins de 5 à 7 troncs solides de bambous à maturité pour la réalisation de ce bateau-panier.

Le bateau-panier témoigne de la dureté de la vie quotidienne des pêcheurs du Centre qui rêvent d’avoir toujours  un avenir radieux dans un environnement extrêmement rude.

The kouffa is a popular type of boat on the Vietnamese coast, particularly in the central region from Hà Tịnh to Bình Thuận. In addition to their cheerful colors, kouffas are often seen floating on the sea or sunbathing on the sandy beach. They are an indispensable means for fishermen to be able to transport goods from large offshore fishing boats to shore or for other purposes such as shrimp or squid fishing, diving to observe corals or rescue in case of emergency.

The kouffa is not only maneuverable for easy wave riding, but also stable to avoid being knocked over, as it is lightweight compared to the larger boat. The basket boat is available in two sizes, a large one with a diameter of 2.2 m and a small one with a diameter of 1.8 m.

Building a basket boat requires a great deal of experience and dedication on the part of the craftsman. If something should go wrong, the boat will flood and capsize, and the consequences will be difficult to predict. The type of bamboo used for weaving is neither too young nor too old. Only knots from the middle of the bamboo to the root are used. At least 5 to 7 solid, mature bamboo trunks are needed for this basket boat.

The kouffa bears witness to the harsh daily life of the fishermen of the Centre, who dream of a bright future in an extremely harsh environment.

 

Folk songs (Ca Dao)

 

 

 

Vietnamese version

French version

Folk songs are an oral tradition that the Vietnamese people have preserved for four thousand years of their history behind the bamboo hedges of the village. They are often used as a popular expression reflecting the daily life and thoughts of the peasants in opposition to the scholars imposing morality and enclosing the individual in morality and in the imperative network of rites and obligations with their scholarly literature written in nôm.

According to writer Thuần Phong, folk song is considered by Vietnamese intellectuals to be the most characteristic and specifically Vietnamese literary genre, because it is oral literature, anonymous and originating in the rural world. Moreover, ca dao is a song without verse divisions and without musical accompaniment.  Six-eight is the metre for folk songs. Different types of ca dao are performed from North to South:

lullaby (ru con) in the North, (hát đưa em) in the South, sampan song (đò đưa), war drum songs (trống quân) and so on. Despite this, folk song is expounded with a view to respecting the established order on the five duties and three relationships (Ngũ Thường and  Tam Cang) of Confucian and feudal society and manifesting common sense, wisdom, love of life, optimism, satire of feudal society.

As Vietnam is an agricultural country, the peasant’s daily life is always dominated by factors he cannot control in advance, such as floods, droughts, typhoons and so on. His existence is a perpetual struggle. What’s more, in the event of a foreign invasion, the peasant must take up arms and defend the land. From then on, it’s the wife who has to take over from him, replacing him in all the daily chores. These day-to-day difficulties are often cited in folk song, where the peasant not only enjoys a certain freedom, however restricted, to express his human feelings, but also has the opportunity to create a verbal world in which villains are castigated and sneered, and to depict his beloved animals with realism and precision. Such is the case with familiar animals like the egret, the buffalo and the pig.

As a hunter-gatherer animal that looks noble and innocent in the rice fields and closer to the peasants, the egret has to search hard for food day and night, but it can fly away freely at any time towards the blue sky, as so many peasants dream of always having faith in the future and optimism as opposed to the scholar.  For the peasant, freedom is priceless, despite the daily toil he is accustomed to sharing with the buffalo. As for the pig, it’s synonymous with wealth and prosperity.

The folk song quoted below evokes the fate of peasants in the face of calamity under feudal rule. Analogous to the egret, the peasant does not escape death, but she wishes to die with dignity rather than in dishonor. This is the essence of the folk song that has won the admiration of generations of Vietnamese.

Con cò mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi, ông vớt tôi nào,
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.
Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.

The egret searching for food at night
From a flexible branch has fallen into the pond
Sir, please fish me out of here
If I’ve done wrong, you can cook me with bamboo shoots.
But if it’s done, it’s better to do it in clear water
Cloudy water would hurt the little egret’s heart

The image of the buffalo is closely linked to Vietnam’s rural landscape. Buffalo are often seen harrowing the soil after ploughing in rice fields.  This is why the buffalo’s arduous task is described in the following folk songs:

Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cầy cấy vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.

O my buffalo, listen to what I say
You go to the rice field and plough with me; 
Ploughing and transplanting is a ploughman’s trade
Here I am, here you are, who of us pities his pain.

Trên đồng cạn dưới đồng sâu,
Chồng bừa vợ cấy con trâu đi cày.

In the low rice field and in the deep rice field,
The husband harrows, the wife transplanting, the buffalo ploughing.

Analogous to the buffalo, the pig is also an animal often cited in Vietnamese folk songs. It is first used to describe the situation of a polygamous person in Vietnam:

Một vợ nằm giường lèo,
Hai vợ nằm chèo queo,
Ba vợ thì xuống chuồng heo mà nằm.

With one woman, you have the right to sleep in the bed in a decent way,
With two wives, you start sleeping on your own.
But with three wives, you deserve to be in the pigsty.

The criticism is scathing for people who mistreat their colleagues when they are poor and destitute, and who bow their heads and show their docility to powerful and wealthy people:

Mèo tha miếng thịt xôn xao,
Hùm tha con lợn thì nào thấy chi

We become agitated when the cat snatches a piece of meat,
We remain impassive when the tiger devours a pig.

We use physiognomy to give an indication about a person we meet:

Trông mặt mà bắt hình dong,
Con lợn có béo thì lòng mới ngon.

By looking at someone’s face, you already have an idea of his personality, just as in the case of a fat pig, you know that it always has delicious guts.

It’s also through popular song that we come to know the farmer’s deep attachment to his native land. The water of his pond is the most pleasant despite the vagaries of nature and the ups and downs of the life he has had.

Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn

Let’s go back home and bathe in our pond.
Whether the water is clear or turbid, our pond is always better.

Ca Dao (Chansons populaires)

 

Chansons populaires (Ca Dao)

Version vietnamienne

English version

Les chansons populaires sont une tradition orale que le peuple vietnamien a su conserver depuis quatre mille ans de son histoire derrière les haies de bambou du village. Elles sont employées souvent comme une expression populaire reflétant la vie quotidienne  et la pensée des paysans  en opposition  aux lettrés imposant la morale et enserrant l’individu dans la morale et dans le réseau impératif de rites et d’obligations  avec leur littérature  savante écrite en nôm.

Selon l’écrivain Thuần Phong, la chanson populaire est considérée par les intellectuels vietnamiens comme le genre littéraire le plus caractéristique et le plus spécifiquement vietnamien car elle est la littérature orale, anonyme et issue du monde rural. De plus ca dao est un chant non soumis à des divisions en couplets et sans accompagnement de musique.  Le Six-Huit est le mètre des chansons populaires. Différents genres de ca dao sont divulgués  du Nord jusqu’au Sud: berceuse (ru con) dans le Nord, (hát đưa em) dans le Sud, chant des sampaniers (đò đưa), chants du tambour de guerre (trống quân) etc. Malgré cela, la chanson populaire est exposée dans  le souci de respecter l’ordre établi sur les cinq devoirs et les trois relations (Ngũ Thường Tam Cang) de  la société confucéenne et féodale et de manifester le bon sens, la sagesse, l’amour de la vie, l’optimisme, le satire de la société féodale.

Comme le Viêt-Nam est un pays agricole, la vie quotidienne  du paysan  est toujours dominée par des facteurs qu’il n’arrive pas à  maîtriser  à l’avance comme  l’inondation, la sécheresse, le typhon etc. Son existence est une lutte perpétuelle. De plus, lors d’une invasion étrangère, le paysan doit prendre les armes et défendre la terre. Dès lors  c’est la femme qui doit assumer la relève et le remplacer dans tous les travaux journaliers. Ces difficultés journalières sont souvent citées dans la chanson populaire où le paysan jouit non seulement d’une certaine liberté même restreinte pour exprimer ses sentiments humains mais aussi de la possibilité de créer un monde verbal où les méchants sont fustigés et ricanés et  de dépeindre ses animaux proches avec réalisme et précision. C’est le cas des animaux familiers comme l’aigrette , le buffle et le cochon.

Etant un animal chasseur-cueilleur ayant l’air noble et innocent dans les rizières et plus proche des paysans, l’aigrette doit chercher durement de jour comme de nuit la nourriture mais elle peut s’envoler librement  à tout moment vers le ciel bleu comme tant de paysans rêvent avoir toujours la foi en l’avenir et l’optimisme  en opposition aux lettrés.  Pour le paysan, la liberté n’a pas de prix en dépit du labeur journalier qu’il est habitué à partager avec le buffle. Quant au cochon, il est synonyme de richesse et de prospérité.

La  chanson populaire  citée ci-dessous  évoque le sort  des paysans face à la calamité sous le régime féodal. Analogue à l’aigrette, le paysan n’échappe pas à la mort mais elle souhaite mourir avec dignité au lieu d’être  décédé dans le déshonneur. C’est là qu’on trouve l’essence de la chanson populaire qui a suscité l’admiration de plusieurs générations des Vietnamiens.

Con cò mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi, ông vớt tôi nào,
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.
Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.

L’aigrette qui la nuit cherche sa nourriture
D’une branche flexible est tombée dans la mare
Monsieur, repêchez-moi d’ici
Si j’ai mal fait, vous pourrez me faire cuire aux pousses de bambou.
Mais si c’est fait, il vaut mieux le faire dans une eau limpide
Une eau trouble ferait mal au cœur de la  petite aigrette.

L’image du buffle est liée étroitement au paysage rural du Vietnam. On a l’habitude de voir souvent les buffles herser le sol  après le labourage dans les rizières.  C’est pourquoi la tâche pénible du buffle est décrite dans les chansons populaires suivantes :

Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cầy cấy vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.

Ô mon buffle, écoute ce que je te dis
Tu vas à  la rizière, tu  laboures avec moi;  
Labourer et repiquer c’est le métier des laboureurs
Moi que voici, toi que voilà, qui de nous plaint sa peine.

Trên đồng cạn dưới đồng sâu,
Chồng bừa vợ cấy con trâu đi cày.

Dans la rizière basse  et dans la rizière profonde,
Le mari herse, la femme repique, le buffle laboure.

Analogue au buffle, le cochon est aussi un animal souvent cité dans les chansons populaires vietnamiennes. Il est employé d’abord pour décrire la situation d’une personne polygame au Viêt-Nam:

Một vợ nằm giường lèo,
Hai vợ nằm chèo queo,
Ba vợ thì xuống chuồng heo mà nằm.

Avec une femme, on a le droit de dormir dans le lit d’une manière convenable,
Avec deux femmes, on commence à dormir tout seul
Mais avec trois femmes, on mérite d’être à la porcherie.

La critique est acerbe pour  les gens qui maltraitent leurs collègues quand ceux-ci sont pauvres et sans ressources et qui courbent leur tête et montrent leur docilité face à des gens puissants et riches :

Mèo tha miếng thịt xôn xao,
Hùm tha con lợn thì nào thấy chi.

On s’agite quand le chat happe un morceau de viande,
On reste impassible quand le tigre dévore un cochon.

On se sert de la physionomie pour donner une indication sur une personne rencontrée :

Trông mặt mà bắt hình dong,
Con lợn có béo thì lòng mới ngon.

En regardant le visage de quelqu’un, on a déjà une idée sur sa personnalité comme dans le cas d’un cochon gras, on sait qu’il a toujours des boyaux délicieux.

C’est aussi par la chanson populaire ci-dessous qu’on connait l’attachement profond du paysan à sa terre natale. L’eau de son étang est la plus agréable malgré les aléas de la nature et les hauts et les bas de la vie qu’il a eus.

Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn

Retournons chez nous et baignons nous dans notre étang.
Que l’eau soit limpide ou trouble, l’étang de chez nous est toujours meilleur.

Version vietnamienne

Ca dao là truyền thống truyền miệng (truyền khẩu) mà người  dân Việt đã gìn giữ trong suốt bốn ngàn năm lịch sử sau những hàng tre của ngôi làng. Chúng thường được dùng như một  câu nói  phổ biến phản ánh đời sống và suy nghĩ thường ngày của những  người nông dân, không giống như các sĩ phu áp đặt đạo đức và ràng buộc cá nhân vào mạng lưới của các nghi lễ và nghĩa vụ bằng văn học uyên bác của họ được viết bằng chữ Nôm.

Theo nhà văn Thuần Phong, ca dao được giới trí thức Việt Nam coi là thể loại văn học đặc trưng và riêng biệt nhất của Việt Nam vì đây là thể loại văn học truyền miệng, vô danh và có nguồn gốc đến  từ nông thôn. Hơn nữa, ca dao là một bài hát không chia ra thành từng câu và không có nhạc đệm. Thể thơ Lục Bát hay thường dùng trong các bài ca dao. Có  rất nhiều loại ca dao khác nhau từ Bắc đến  Nam: hát ru con ở miền Bắc, hát đưa em  ở miền Nam, hát đò đưa, hát trống quân… Mặc dù vậy, ca dao  quan tâm đến việc tôn trọng trật tự đã được thiết lập dựa trên ngũ thường và tam cang trong xã hội phong kiến và nho giáo, đồng thời  nó  còn thể hiện sự lương tri, trí tuệ, tình yêu cuộc sống, sự lạc quan, châm biếm xã hội phong kiến.

Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp nên  cuộc sống hàng ngày của người nông dân luôn bị chi phối bởi những yếu tố mà họ không thể kiểm soát trước, chẳng hạn như lũ lụt, hạn hán, bão vân vân. Sự tồn tại của họ là một cuộc đấu tranh triền miên. Hơn nữa, khi có cuộc xâm lược  từ bên ngoài, người nông dân phải cầm vũ khí và bảo vệ đất đai. Từ đó trở đi, người phụ nữ phải là người thay thế chồng trong mọi công việc hàng ngày. Những khó khăn thường ngày này thường được nói  đến  trong những ca dao, nơi người nông dân hưởng quyền tự do tối thiểu  để thể hiện không chỉ cảm xúc của mình mà còn tạo ra cho  mình một thế giới mà có thể  dùng lời nói để  chế giểu và trừng phạt những kẻ độc ác và  để miêu tả những con vật gần gũi của mình một cách chân thực và chính xác. Đây là trường hợp của con cò, con trâu và con heo.

Là loài động vật săn bắt và hái lượm trông vẻ cao quý và ngây thơ trên những cánh đồng lúa và gần gũi với người nông dân, con cò phải vất vả kiếm ăn ngày đêm nhưng nó có thể lựợn  bay tự do bất cứ lúc nào hướng về bầu trời xanh cũng như bao nhiêu người nông dân hay thường mơ ước có được niềm tin trong tương lai và sự lạc quan, không giống như các  sĩ phu.  Đối với người nông dân, tự do là vô giá bất chấp công việc nhọc nhằn  hàng ngày mà họ phải chia sẻ với con trâu. Còn với con lợn, nó đồng nghĩa với sự giàu có và thịnh vượng.

Bài ca dao dưới đây  gợi lên cảnh ngộ khốn khổ của người nông dân phải đối mặt với tai ương dưới chế độ phong kiến. Tương tự như loài cò, người nông dân không thoát khỏi cái chết nhưng muốn chết với danh dự thay vì qua đời trong tủi nhục. Đây chính là nơi mà chúng ta tìm thấy được  bản chất thật sự của bài ca dao  nầy.  Nó đã khơi dậy sự ngưỡng mộ của nhiều thế hệ người dân Việt.

Con cò mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi, ông vớt tôi nào,
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.
Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.

Hình ảnh con trâu  thường được gắn liền với phong cảnh nông thôn của nước Việt. Chúng ta hay  quen nhìn thấy trâu thường xới đất sau khi cày trên ruộng lúa. Đây là lý do việc  cực nhọc vất vả của con trâu được miêu tả trong những bài ca dao sau đây:

Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cầy cấy vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.

hay là

Trên đồng cạn dưới đồng sâu,
Chồng bừa vợ cấy con trâu đi cày.

Tương tự như trâu, lợn cũng là loài vật thường được nhắc đến nhiều  trong các ca dao. Trước hết,  lợn được sử dụng để mô tả tình trạng của một người đa thê ở Việt Nam:

Một vợ nằm giường lèo,
Hai vợ nằm chèo queo,
Ba vợ thì xuống chuồng heo mà nằm.

Những lời chỉ trích nặng nề đối với những người đối xử tệ bạc với đồng nghiệp khi họ nghèo khổ, túng thiếu và cúi đầu, tỏ ra ngoan ngoãn trước những người quyền lực và giàu có:

Mèo tha miếng thịt xôn xao,
Hùm tha con lợn thì nào thấy chi.

Người ta cũng dùng ngoại hình để đoán  ra được  người mà ta gặp:

Trông mặt mà bắt hình dong,
Con lợn có béo thì lòng mới ngon.

Khi nhìn vào khuôn mặt của một người, chúng ta đã có ý niệm về tính cách của họ, cũng giống như chúng ta biết về một con lợn béo thì nó luôn có ruột ngon.

Cũng nhờ qua bài ca dao dưới đây  người ta mới biết sự gắn bó sâu sắc  của  người nông dân  với đất nước. Nước ao nhà vẫn dễ chịu  dù có sự biến đổi thất thường của thiên nhiên và sự thăng trầm trong cuộc sống của họ.

Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn

Bibliographie:
Thuần Phong: Ca dao giãng luân.  Explication et commentaire des chansons populaires. Editions Á Châu, Saigon, 1958, 196 pages
Lê Thành Khôi: Aigrettes sur la rizière. Chants et poèmes classiques du Vietnam. Connaissances de l’Orient. Gallimard

 

Le culte de la baleine (Tục lệ thờ cá Ông)

Tục lệ thờ cá Ông

The whale cult

Version française

Version anglaise

Ai đến miền trung và miền nam Việt Nam sẽ  khám phá một tập quán mà theo nhà nghiên cứu Charles J.C. MacDonald  (CNRS Marseille) là một đặc tính của người Việt ở vùng biến  chớ ở miền Bắc thì không có, đó là tục lệ thờ cá Ông (hay cá voi (poisson éléphant) ).  Cho đến giờ nầy  các nhà học giả Việt như Thái Văn Kiểm, Trần văn Phước hay Trần Hàm Tấn thì nghĩ rằng đây là một tập quán cũa người Chàm mà người Việt tiếp nhận  cũng như ở Nha Trang với thánh mẫu Po Nagar nhưng cho đến giờ không có sách vỡ nào chứng minh là tập quán nầy  thuộc về dân tộc Chàm. Theo cố cả Léopold Cadière thì đúng hơn là người dân Việt  theo thuyết duy linh và đa thần nên chuyện thờ cá Ông cũng không ngoại lệ. Ở  đảo Cù lao chàm có hẵn hòi luôn  một đền thờ cá Ông. 

 Người dân Việt ở miền Trung và miền Nam kính nể cá Ông như  cha mẹ  và thần thánh. Còn gọi cá Ông với các tên như sau : ông Chung, ông Khơi, ông Lớn  vân vân…Mỗi khi gặp cá Ông « lụy (chết) » dạt vào bờ, ngư dân đầu tiên thấy được thì  dân làng cử làm trưởng tang, phải chịu tang như là con của cá Ông dù  được cả làng đứng ra tổ chức mai táng và xây mộ.

Theo lời nhà học giả Thái văn Kiểm, dưới thời vua Gia Long, cá Ông được chứng chỉ sắc phong làm thống chế của các biển phía nam vì cá Ông đã giúp vua Gia Long thoát chết đuối. Dưới thời vua Tự Đức (1848-1883) cá voi được tôn xưng là Đức Ngư có nghĩa là cá có đức độ. Theo sách « Gia Định thành thông chí » của Trịnh Hoài Đức thì  thấy chép như sau : Những khi tàu bè găp sóng gió lớn thường thấy cá Ông dìu đỡ mạn thuyền và bảo vệ người dân được yên ổn. Cũng thường đưa người vào bờ khi thuỳền bị chìm đắm hay lúc có sóng gió thần.

Chỉ có từ Linh Giang đến Hà Tiên ở nứớc Nam ta mới có hiện tượng nầy mà thôi chớ ở các biển  khác thì không có sự  giúp đỡ  kỳ diệu nầy. Cũng có phần đúng với sự nhận xét của học giả Anh Quốc  Ruddle Kenneth như sau: chuyện thờ cúng cá Ông cũng là một thể thức nhẳm cố liên kết chặt chẻ các ngư dân Việt sống ở vủng biển.

Version française

Quiconque débarque  dans le centre et le sud du Vietnam va découvrir  une coutume que le chercheur Charles J.C. MacDonald (CNRS Marseille) a considérée comme une caractéristique typique trouvée chez les Vietnamiens vivant le long de la côte  vietnamienne  car les gens du Nord ne l’ont pas eue. C’est le culte de la baleine. Selon certains érudits vietnamiens tels que Thái Văn Kiểm, Trần văn Phước ou Trần Hàm Tấn, ce culte appartenait aux Chams. Lors de l’occupation de leur territoire par les Vietnamiens, ceux-ci n’hésitaient pas à l’adopter comme la déesse Po Nagar à Nha Trang. Mais cette hypothèse n’est pas très convaincante dans la mesure où aucun document n’apporte jusqu’aujourd’hui la certitude à propos de cette appartenance  chame.

Selon le père Léopold Cadière, cette coutume n’est pas une exception car les Vietnamiens étaient animistes et polythéistes. C’est dans l’île Poulo Cham qu’on découvre un temple dédié carrément au culte de la baleine. Ce mammifère marin est vénéré comme  les parents ou un génie. On l’appelle parfois avec les noms suivants : Monsieur Chung, Monsieur Khơi, Monsieur Lớn etc. Chaque fois que  le pêcheur  découvre en premier  une baleine échouée morte  sur le rivage, il sera nommé d’office par les villageois comme l’organisateur des funérailles car il est considéré comme le fils du cétacé malgré les frais des funérailles et de la construction de sa tombe à la charge de tous les  gens du village.  

Selon l’érudit Thái văn Kiểm, sous le règne de l’empereur Gia Long, la baleine reçut un brevet de génie et le titre d’amiral des mers du Sud car l’empereur Gia Long dut sa vie à ce mammifère marin lors d’une noyade. Sous le règne du roi Tự  Đức (1848-1883), les baleines étaient honorées sous le nom de Đức Ngư, ce qui signifie  « poisson vertueux ». Selon le livre «Gia Định thành thông chí» de Trịnh Hoài Đức, il est écrit ce qui suit: Lorsque le bateau  rencontre  de grosses vagues et le vent violent, on voit souvent la baleine soutenir le bateau et protéger les gens. Elle les ramène souvent  sur terre sains et saufs  lors du naufrage du bateau ou durant la tempête.  Dans notre pays, ce phénomène  se produit uniquement de Linh Giang jusqu’à Hà Tiên, mais dans d’autres mers, cette aide miraculeuse n’existe pas. 

Rien ne contredit pas ce que le chercheur anglais Ruddle Kenneth a remarqué dans son livre: le culte de la baleine renforce la cohésion de la communauté des pêcheurs vietnamiens vivant le long de la côte du centre et du Sud Vietnam.

Version anglaise

Anyone arriving in central and southern Vietnam will discover a custom that researcher Charles J.C. MacDonald (CNRS Marseille) considered a typical feature found among Vietnamese living along the Vietnamese coast. MacDonald (CNRS Marseille) considered a typical characteristic found among Vietnamese living along the Vietnamese coast, because the people of the North didn’t have it. It’s the cult of the whale. According to some Vietnamese scholars such as Thái Văn Kiểm, Trần văn Phước or Trần Hàm Tấn, this cult belonged to the Chams. When the Vietnamese occupied their territory, they didn’t hesitate to adopt it as the goddess Po Nagar in Nha Trang. But this hypothesis is not very convincing, as no document to date provides any certainty about this Chame affiliation.

According to Father Léopold Cadière, this custom is no exception, as the Vietnamese were animists and polytheists. On the island of Poulo Cham, we discovered a temple dedicated to the cult of the whale. This marine mammal is revered as a parent or a genie. It is sometimes called by the following names: Monsieur Chung, Monsieur Khơi, Monsieur Lớn etc. Whenever a fisherman is the first to discover a whale washed up dead on the shore, he is automatically appointed by the villagers as the organizer of the funeral, as he is considered the son of the cetacean, despite the fact that the costs of the funeral and the construction of its grave are borne by all the people of the village

According to scholar Thái văn Kiểm, during the reign of Emperor Gia Long, the whale was awarded a patent of genius and the title of Admiral of the South Seas, as Emperor Gia Long owed his life to this marine mammal during a drowning incident. During the reign of King Tự Đức (1848-1883), whales were honored as Đức Ngư, meaning “virtuous fish”. According to the book “Gia Định thành thông chí” by Trịnh Hoài Đức, it says the following: When the boat encounters big waves and strong wind, the whale is often seen supporting the boat and protecting the people. It often brings them safely ashore when the boat sinks or during a storm.  In our country, this phenomenon only occurs from Linh Giang to Hà Tiên, but in other seas, this miraculous help does not exist.

Nothing contradicts what English researcher Ruddle Kenneth noted in his book: whale worship strengthens the cohesion of the Vietnamese fishing community living along the coast of central and southern Vietnam.

Sacrifice (Version vietnamienne)

 
 sacrifice_1f
Version française
Version anglaise

Cuộc đời  giống như một trò chơi cờ bạc. Chúng ta không có may mắn. Tốt hơn là chết vì đất nước này và để lại tấm gương của sự hy sinh.

Nguyễn Thái Học

 
Việt Nam không chỉ là vùng đất của  các truyền thuyết  và  sĩ phu, mà còn là vùng đất mà con người đã chinh phục từng mẫu đất một, với một  thiên nhiên khắc nghiệt  từ bốn nghìn năm. Cái nôi của dân tộc Việt là đồng bằng Bắc Bộ. Nó được bao bọc ở phía Bắc bởi những ngọn đồi thoai thoải của Bách Vạn Sơn của Trung Quốc và bị  thắt lại ở phía Nam bởi dãy Trường Sơn, một dãy núi gần như không thể xuyên thủng qua được. Nó bị  thu hẹp lại chỉ  còn 15.000 cây số vuông nhưng lắm bùn do sông Hồng lôi  cuốn và nó vẫn tiếp tục bị đe dọa bởi lưu lượng dòng chảy thất thường  thay đổi từ 500 m3 khi nước thấp đến 35.000m3  trong  những ngày có các cơn  lũ lớn.
Để kiềm chế  những trận tấn công dữ  dội của sông Hồng, người dân Việt  phải dùng đến biện pháp xây đê  để ngăn chặn, đòi hỏi họ không chỉ phải tăng cường giám sát đê thường trực mà họ còn phải đấu tranh triền miên. Đối mặt với thời tiết xấu liên miên của thiên nhiên, sự thất thường của Sông Hồng và tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc, người dân Việt phải trả giá cho sự cứu rỗi họ bằng công sức và lòng dũng cảm cũng như sự hy sinh của họ trong cuộc hành trình dài  đầy gian nan hướng về đất phương Nam.

Sự hy sinh này không còn xa lạ  hầu hết với  người dân Việt, đặc biệt là những người có cá tính. Nó cũng trở thành một giáo phái mà người ta thích duy trì và ca ngợi không ngừng ở Việt Nam  để tôn vinh cả một dân tộc trước mối đe dọa từ bên ngoài.

Hy sinh là cách an toàn nhất để duy trì sự hoàn hảo của tổ quốc nhưng nó cũng đồng nghĩa với lòng trung thành và nhân phẩm. Một người đàn ông vĩ đại là người dám chịu trách nhiệm trong những thời điểm khó khăn của cuộc đời, nhưng cũng là người biết hy sinh bản thân vì mục đích tốt đẹp, đặc biệt là vì đất nước. Sự hy sinh không thể tách rời khỏi chữ “danh dự” ở Việt Nam.

Hùm chết để da, người chết để tiếng.

Lịch sử của Việt Nam cũng là lịch sử của sự hy sinh.Nhiệm vụ của một người dân Việt là phục vụ quê hương của mình bằng cả trái tim. Những nguy hiểm càng lớn, thì lòng trung thành được thể hiện càng tốt hơn.

 

 Po Klong Garai (Phan Thiết)

Người anh hùng hy sinh thân mình vì quê hương. Dù có chuyện gì xảy ra, danh dự cũng sẽ không bao giờ bị hoen ố. Đây là trường hợp của sĩ phu  Phan Thanh Giản, người ký kết hiệp ước Pháp-Việt năm 1868. Sau khi thất bại trong nỗ lực chống lại người Pháp để bảo vệ ba tỉnh phía tây đồng bằng sông Cửu Long (Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên), ông đã đầu hàng và quyết định tự tử vào năm 1867 vì ông nghĩ rằng đó là cách duy nhất để cứu dân và thể hiện lòng trung thành của mình với vua Tự Đức. Tương tự như vậy, Nguyễn Tri Phương (1873) và Hoàng Diệu (1882), những đối thủ tương ứng của Francis GarnierHenri Rivière, đã chọn cách tự tử sau khi thất bại trong việc bảo vệ thành phố Hà Nội.

Trong thời kỳ Pháp đô hộ, sự hy sinh đã trở thành ngọn đuốc hy vọng được thắp sáng bởi những con người vô danh như Nguyễn Trung TrựcPhạm Hồng Thái. Người đầu  đã đồng ý chết thay thế  mẹ mình bị bắt sau khi ông thành công làm nổ tàu  « Espérance » trong  cuộc hành trình trên sông « Nhựt Tảo » ở Long An trong khi người sau, bị cảnh sát Trung Quốc truy đuổi trong  cuộc chạy trốn, đã chọn cách nhảy xuống sông tự tử sau khi ông không thành công trong nỗ lực ám sát thống đốc Pháp Martial Merlin trong cuộc viếng thăm của ông nầy ở Quảng Châu vào năm 1924. Ngưỡng mộ lòng dũng cảm và sự hy sinh của ông vì quê hương, sau đó thống đốc Quảng Châu đã chôn cất hài cốt của ông trong một nghĩa trang chỉ dành riêng cho 72 anh hùng Trung Quốc và được gọi là « Hoàng Hoa Cương » trong tiếng Việt.

Nếu  sự hy sinh không phải là một từ vô ích  đối với đàn ông, nó cũng mang một ý nghĩa đặc biệt đối với  ng ư ời phụ nữ Việt Nam. Công chúa Huyền Trân của nhà Trần được cầu hôn vào năm 1306 với vua Chiêm Thành là Chế Mân (Jaya Simhavarman) để đổi lấy hai vùng đất Chiêm Thành là Châu Ô và Châu Ri’. Bà đã phải hy sinh mạng sống và tình yêu của mình vì lợi ích quốc gia. Tương tự như vậy, ba thế kỷ sau, một công chúa của triều Nguyễn tên là Ngọc Vạn, người thường được gọi bằng cái tên « Cochinchina » hay (Cô chín Chin), đã sớm nối gót Huyền Trân để trở thành phi tần của vua Cao Mi ên  Prea Chey Chetta II vào năm 1618 để  đánh đổi lấy sự thuận lợi cho người Việt được  định cư  dễ dàng ở vùng Đồng Nai-Mô Xoài, chính là vùng Sài Gòn – Chợ Lớn ngày nay.

Em gái của bà, công chúa Ngọc Khoa, được gả cho vị vua cuối cùng của Chăm Pa, Po Rômê vào năm 1630 vài năm sau đó. Mối quan hệ này khiến bà trở thành mục tiêu chính của người Chàm  trong mối hận thù đối người Việt Nam. Sự hiện diện của bà trên đất Chàm là cái cớ để Chúa Nguyễn Phúc Tần tiến hành cuộc viễn chinh và sáp nhập lãnh thổ cuối cùng của Chăm Pa vào năm 1651. Không thể trách người Chàm vì lúc đó căm ghét công chúa Ngọc Khoa và vì bà mà họ mất quê hương. Nhưng ngược lại, những người dân Việt  như chúng ta thì Ngọc Khoa  minh họa sự hy sinh cao cả mà bà đã dành cho đất nước và dân tộc.

 

 

 

The bamboo ( Cây Tre)

 

Version française

Version vietnamienne

Bamboo is closely linked to Vietnamese daily life. When we’re young, we fall asleep in the swing of a bamboo cradle. When we’re old and dying, we lie in a coffin lowered into the grave with bamboo ropes. French journalist Jean Claude Pomonti, a specialist in Southeast Asian issues, has often humorously referred to our civilization as the “bamboo civilization” in his columns for the newspaper “Le Monde”, because bamboo is an important part of our culture. Thanks to scientific research, we know that 39,000 years ago, bamboo was the main resource used by human groups in Southeast Asia, but due to the extremely unfavourable preservation conditions for organic materials, this use was no longer visible several thousand years later. In 1948, the famous geographer Pierre Gourou spoke of a “plant civilization” for Indochina, and more specifically for Vietnam.

It is a plant with multiple uses in Vietnam. Thanks to this plant, everything is possible in this country where nothing is easy and where we do not let ourselves be put off or stopped by obstacles. First, in our history, bamboo is evoked in the myth of the giant child of the village of Gióng. This man grew enormously in a few weeks to chase away the armies coming from the North (the Shang) and on his iron horse breathing fire, he succeeded in pulling out bamboo forests to defeat his enemies. Then in the 13th century, a resounding victory was led by the generalissimo Trần Hưng Đạo against the Mongol hordes of Kublai Khan on the Bạch Đằng River with junks and boats made of wood and bamboo. The victory of Dien Bien Phủ was also achieved in 1954 against the French expeditionary force through the massive and clever use of bamboo poles and bamboo-trimmed bicycles in supplying the front with food and ammunition and i clever use of bamboo poles and bamboo-trimmed bicycles in supplying the front with food a around the fortified camp of Dien Bien Phủ, which thus facilitated intensive artillery bombardment, day and night.

Through history, we can see that there is a long-standing deep attachment of the Vietnamese people to this bamboo. It is this plant that the Vietnamese poet Nguyễn Duy tries to humanize and describe for the noble qualities in his poem entitled « Tre Việt Nam (Vietnamese bamboo) » from which some verses are extracted below:

Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ôm, tay níu tre gần nhau thêm.
Thương nhau, tre chẳng ở riêng
Luỹ thành từ đó mà nên hỡi người.

During the storm, the bamboos protect their bodies.
Arms clasped together, they try to get closer to each other.
Filled with affection, they cannot live apart.
Thus, the bamboo fortress is born.

In food, bamboo shoots are used in the preparation of many dishes. They are necessarily cooked or canned in order to remove the natural toxins they contain. There are many proverbs and popular songs alluding to childhood by evoking bamboo shoots. We say măng sữa (bamboo shoot to breastfeed) or tuổi măng sữa (tender age) to refer to childhood. We usually say: Măng không uốn thì tre uốn sao được. (If we do not straighten the shoot, how can we straighten the bamboo?). The bamboo shoot reminds us of the notion of the passage of time. We must not let lost time slip away because bamboo grows for a time and man has only one age. We must enjoy time before it passes and old age catches up with us. This is what we find in Vietnamese folk songs and sayings:

Măng mọc có lứa người ta có thì.

There’s a season for bamboo shoots, just as there is a time for people. Or

Khi đi trúc chưa mọc măng
Ngày về trúc đã cao bằng ngọn tre.

The bamboo hadn’t yet sprouted when I left.
It had already reached the top of the bamboo when I returned.

Or

Tre già măng mọc

When the bamboo grows old, the shoots begin to emerge.

This expression somehow reflects our hope for youth and future generations.

In the past, the Vietnamese used this hollow bamboo, so strong and so light, to build partitions and hedges several meters high to protect their village from enemies and bandits. This material is found everywhere in the house, from the framework, walls, partitions to the floors. Everything is made with this hollow wood (furniture, beds, tables, various accessories, etc.), even a drinking cup. Torn into strips, it is used as ropes and strings. Bamboo filaments are used to make baskets of all kinds to facilitate transport on land (baskets) or on water (round baskets). It is also used to make conical hats to shelter from the rain and the sun. Thanks to this plant, we know how to create everyday tools (buckets for drawing water, pipes for smokers, water pipes, etc.).

It is also used as food for animals and even for villagers. They eat the most tender bamboo shoots like asparagus. The roots of this hollow wood are even dug up and dried in the sun for weeks on end. As Tet approaches, it is used as firewood to bake sticky rice cakes or to protect against the cold, especially in winter in northern and central Vietnam. Bamboo thus becomes something « sacred, » intimate and specific to the village. It is thanks to these hedges made from this plant that the village regains not only its tranquility and privacy, but also its traditions and customs. Bamboo thus becomes the protector of the villagers. This is why a Vietnamese proverb says that

The king’s authority stops before the village’s bamboo hedges. (Phép vua thua lệ làng)

It is also only in villages today that we find this incomparable plant that makes life easier for villagers. Bamboo and the village are so closely linked that they are often compared to a person linked to his shadow. This is why we find this evocation in several Vietnamese poems. This impression, every Vietnamese will probably have it when passing through his native village through the following four verses:

Thì bao nhiêu cảnh mơ màng
Hiện ra khi thoàng cỗng làng tre xanh.

As we indulge in dreaming, we see the entrance to the village and the bamboo appear from afar.

Dừng bước nơi đây lòng ngỗn ngang
Ngùi trông về Bắc nhớ tre làng

When we stop here, we feel helpless
When we remember our homeland with emotion, we are reminded to see the village bamboo again.

 

To find the bamboo is to find the village. That’s why bamboo has become the representative symbol of Vietnam.