Fleur de frangipanier (Dork Champa)

English version

French version

Hoa này có ý nghĩa tượng trưng mạnh mẽ đối với người Hindu và Phật giáo, vì thế nó được gọi là hoa ở các đền thờ. Có lẽ đó là lý do tại sao người Chàm yêu mến loài hoa này và xem nó là biểu tượng của đất nước họ vào thời nước Chiêm Thành còn là một quốc gia chịu nhiều ảnh hưởng  Ấn Độ độc lập ở miền trung Việt Nam ngày nay. Khi người dân Việt  và vua Lê Thánh Tôn chiếm đất nước này, người Chàm buộc  lòng phải  phân tán ở Đông Dương, đặc biệt là ở Lào và Cao Mên, mang theo cây này. Hoa này được người Lào gọi là Dork Champa để tượng trưng cho hoa bị người Chàm bỏ rơi. Người Lào sau đó đã sử dụng nó cho quốc gia của họ khi  họ  thành lập được nước cùng Thái Lan và từ đó trở thành hoa biểu tượng của đất nước họ. Ban đầu được gọi là Plumeria để vinh danh nhà thực vật học người Pháp thế kỷ 17 Charles Plumier, hoa này được gọi sau đó hoa Frangipani, được đặt theo tên của một  hầu tước người Ý Đại Lợi  Frangipani, người đã tạo ra một loại nước hoa từ  quả hạnh nhân.

Hoa Sứ

Version française

La fleur de frangipanier a une symbolique forte chez les hindous et bouddhistes d’où son nom de fleur des temples. C’est peut-être  pour cette raison que les gens du Champa adorent cette fleur et la prennent  comme le symbole de leur pays à l’époque où le Champa était encore un pays indianisé indépendant dans le centre du Vietnam d’aujourd’hui. Lors de l’annexion de ce pays par les Vietnamiens avec le roi Lê Thánh Tôn, les Chams furent dispersés en Indochine en particulier au Laos et au Cambodge en emmenant avec eux cette plante. Cette fleur  était appelée Dork Champa par les Laotiens pour signifier la fleur abandonnée par les Chams.   Les Laotiens la reprennent  plus tard  pour leur compte lors de la formation de leur pays avec la Thaïlande  et  la font devenir désormais  la fleur emblématique de leur pays. Connue au départ  sous le nom de Plumeria  en l’honneur du botaniste français du 17ème siècle Charles Plumier,  cette fleur devient après, la fleur du frangipanier en prenant le nom d’un marquis italien Frangipani  qui a crée un parfum  à base d’amande.

English version

The frangipani flower has a strong symbolism among Hindus and Buddhists, hence its name as the temple flower. It is perhaps for this reason that the people of Champa adore this flower and take it as the symbol of their country at the time when Champa was still an independent Indianized country in what is now central Vietnam. During the annexation of this country by the Vietnamese under King Lê Thánh Tôn, the Chams were dispersed throughout Indochina, particularly to Laos and Cambodia, bringing this plant with them. This flower was called Dork Champa by the Laotians to signify the flower abandoned by the Chams. The Laotians later adopted it for themselves during the formation of their country with Thailand, making it now the emblematic flower of their country. Originally known as Plumeria in honor of the 17th-century French botanist Charles Plumier, this flower later became known as the frangipani flower, taking the name of an Italian marquis, Frangipani, who created an almond-based perfume.

[Return to CHAMPA]

 

La pivoine (Hoa mẫu đơn)

Hoa mẫu đơn

Version française

Khác với  người Việt ưa thích hoa sen thì hoa mẫu đơn đối với người Trung Hoa được xem  là nữ hoàng của các loài hoa (hua wang) hay loài hoa của sự giàu có và danh dự. Đối với người nông dân, nếu loài hoa này mất màu hoặc tàn lụi rất nhanh thì đó là dấu hiệu của sự nghèo khổ và sự bất hạnh sắp đến  với chủ nhân của loại cây này.  Được xem coi như một biểu tượng của vẻ đẹp nữ tính và tình yêu, hoa mẫu đơn vẫn được người Trung Hoa  gọi là “hoa Lạc Dương” bởi chính tại kinh thành này, nó đã sản sinh ra những mẫu vật đẹp nhất: trắng ngọc bích, vàng sáng và đỏ son. Vào thời nhà Đường (618 -916), các hoàng đế đặt nó dưới sự bảo hộ của họ, đặc biệt là hoàng hậu Võ Tắc Thiên ​​​​và dùng hoa nầy  đại diện trên khắp mọi miền đất nước mà Việt Nam còn bị sáp nhập vào thời điểm đó. Trong  sách y học của vua Thần Nông, vỏ rễ mẫu đơn được dùng để chống đau đầu và đau thắt lưng do sự  mệt mỏi quá mức.

Hoa mẫu đơn (Paeonia) là loài hoa cắt cành trưng bày  tuyệt vời nhưng nhiều người làm vườn rất ngần ngại sử dụng vì sợ mang kiến ​​vào nhà. Loại kiến ​​hay thường thích  hoa mẫu đơn vì chúng  bị thu hút bởi mật mà hoa hay  thường tiết ra.  Đây là hoa mẫu đơn  có tên là Brotero (Paeonia broteri), một loại cây thân thảo thuộc họ Paeoniaceae, đặc hữu của bán đảo Iberia.

Version française

Contrairement aux Vietnamiens qui adorent le lotus, la pivoine est pour les Chinois la reine des fleurs (hua wang) ou la fleur de la richesse et des honneurs. Pour les paysans, si cette fleur perd ses couleurs ou elle  se fane très rapidement, c’est un signe de pauvreté et de disgrâce prochaine pour le propriétaire de cette plante.  Étant connue comme symbole de beauté féminine et de l’amour, la pivoine est appelée encore par les Chinois  « la fleur de Luoyang » car c’est dans cette cité impériale qu’elle a  produit ses meilleurs spécimens : blanc jade, jaune lumineux et rouge vermillon. Sous la dynastie des Tang  (618 -916),  les empereurs la placèrent sous leur protection, en particulier l’impératrice Wu Ze Tian et la firent représenter dans tout l’empire où le Vietnam fut annexé encore à cette époque. Dans l’extrait de Science médicinale de Shen Nong,  on se sert de l’écorce de la racine de la pivoine pour combattre la céphalée et les lumbagos dus aux excès de la fatigue.

Les pivoines (Paeonia) font d’excellentes fleurs coupées pour la décoration.  Pourtant beaucoup de jardiniers hésitent de les utiliser de peur de faire  rentrer des fourmis dans la maison. Ces  dernières  aiment souvent les fleurs de pivoine car elles sont attirées par le nectar que ces fleurs  dégagent. La pivoine de Brotero (Paeonia broteri) est une plante herbacée de la famille des Paeoniaceae, endémique de la péninsule ibérique.

 

Pont des Arts (Cầu Nghệ Thuật)

 

Pont des Arts (ou Pont des Amoureux)

Tại sao cầu Nghệ Thuật có nhiều chìa khoá tình yêu ?

Đây là tục lệ của du khách nước ngoài khi đến thăm Paris thường đặt những chiếc khóa tình yêu  trên những bức tường rào của cây cầu huyền thoại này để  gắn bó  vĩnh cửu tình yêu của họ. Vì lý do an ninh, các ổ khóa nầy  đã được gỡ bỏ vào năm 2015. Bất chấp lệnh cấm của chính phủ, tục lệ  này bắt đầu phổ biến trên nhiều cây cầu trên sông Seine.

Pour quelle raison le pont des Arts a tellement des cadenas d’amour verrouillés ?

C’est la tradition des touristes étrangers lors de leur passage à Paris de poser des cadenas verrouillés depuis 2008 sur les  parapets grillagés de ce pont mythique pour sceller leur amour. Pour les raisons de sécurité, les cadenas furent retirés en 2015. Malgré l’interdiction gouvernementale, cette pratique commence à se généraliser sur un grand nombre de ponts sur la Seine.

 

Pont Mirabeau (Cầu Mirabeau)

Pont Mirabeau

Pont Bir Hakeim (Paris)

Pont Bir Hakeim

La Muraille de Chine

 

La Muraille de Chine

Vạn Lý Trường Thành

Version française

English version

Vạn lý trường thành gồm rất nhiều đồn lũy  quân sự và phòng thủ nằm  rải rắc ở các địa điểm khác nhau ở biên giới phía bắc Trung Quốc. Được biết đến với tên tiếng Hoa là “Vạn Lý Trường Thành”, nó bắt đầu ở phía đông tại Sơn Hải Quan, thuộc tỉnh Hà Bắc và kết thúc tại Gia Dục Quan  ở phía đông tỉnh Cam Túc. Với chiều dài hơn 5000 cây số, nó là biểu tượng của Trung Quốc ngày nay. Những phần gần Bắc Kinh đã được khôi phục nhưng ở phía Bắc vẫn còn những đoạn tường dễ bị sụp đổ. Công trình phòng thủ rộng lớn này được xây dựng từ thời nhà Chu vào thế kỷ thứ 9 trước Công nguyên để bảo vệ đất nước tránh sự xâm lăng của dân man rợ ở phương Bắc. Đây là lý do tại sao không chỉ có tường và đường đi cho kỵ sĩ  mà còn có cả các tháp canh.

Vào năm 1987, Vạn Lý Trường Thành đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Nó còn  được công nhận là công trình kiến ​​trúc nhân tạo duy nhất trên trái đất có thể nhìn thấy từ mặt trăng. Dưới  thời Chiến Quốc, các bức tường khác được các lãnh chúa của các vương quốc này dựng lên nhầm bảo vệ đất nước. Các nhà sử học gọi chúng là “ các bức tường thời tiền Tần”. Sau khi đất nước  được thống nhất, người ta kể rằng trong giấc mơ, Tần Thủy Hoàng đã nhìn thấy sự tan rã đế chế của mình bởi những kẻ man rợ từ phương Bắc. Bị ám ảnh bởi giấc mơ này, ngài mới giao cho tướng Mộng Điềm liên kết  lại các bức tường của sáu nước bị chinh phục này để chống lại bọn man rợ này. Nhà Minh đã thực hiện công việc  tu bổ sửa chửa   hoàn tất lại  kéo dài khoảng 200 năm.

Đây chính là bức tường nhà Minh mà chúng ta thấy ngày nay. Đây cũng là ý  kiến của Arthur Waldron, tác giả cuốn sách có tựa đề “Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc. Từ lịch sử đến thần thoại”. Theo ông, bức tường Trung Quốc không thể  tiến xa hơn vào cuối thế kỷ 15 và nửa đầu thế kỷ 15. Nó đi từ đèo Shanhaiguan về phía đông và Jiayuguan đèo Jiayu (Jiayuguan) ở phía tây trên chiều dài 5660 cây số. Có thể nói, việc xây dựng Vạn Lý Trường Thành chưa bao giờ bị gián đoạn hoàn toàn trong suốt hai ngàn năm, từ thời Chiến Quốc đến thời nhà Thanh. Theo ghi chép lịch sử, việc xây dựng nó có huy động  hàng trăm ngàn nông dân. Hơn nữa, trong suốt   thời gian làm việc ngày đêm , có hơn 1,5 triệu người tham gia, không quên ghi nhận có sự tham gia đông đảo của binh lính. Người Trung Quốc có thói quen nói ai chưa trèo lên Vạn Lý Trường Thành thì không xứng đáng là hảo hán.

Chính vì lý do này mà Vạn Lý Trường Thành là một trong những địa điểm được người Trung Hoa tham quan nhiều nhất. Đây cũng là chiến tuyến ngăn cách người Hung Nô với người Trung Hoa. Nhiều người đã được gửi đến đây  và chết ở mặt trận này. Vạn Lý Trường Thành  đã chứng kiến  nhiều bi kịch của con người và những cuộc chia ly đau đớn và bi thảm. Điều này làm chúng ta nhớ đến bốn câu trong bài thơ hay Lương Châu Từ của nhà thơ nổi tiếng Vương Hàn (Wang Han) ở thời  nhà Đường:

Rượu bồ đào cùng với chén lưu ly
Muốn uống nhưng tỳ bà đã giục lên ngựa
Say khướt nằm ở sa trường, bác chớ cười
Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về.

 

万里

Chúng ta cũng có thể nhớ đến truyền thuyết nổi tiếng nhất của Vạn Lý Trường Thành, đó là truyền thuyết về  Mạnh Khương nữ (Meng Jiangnu). Nàng không ngần ngại đi bộ hơn 10.000 dặm để đi kiếm  chồng mình, một thư sinh  tên là Phạm Hỷ Lương (Fan Qiliang), người được hoàng đế Tần  Thủy Hoàng  gửi  đến đèo Shanhaiguan trong ngày cưới để xây tường thành. Ở đó, nàng  biết tin chồng mình đã chết vì đói lạnh và nàng không thể tìm thấy thi thể của chồng. Tuyệt vọng, cô khóc không ngừng suốt 3 ngày 3 đêm. Nước mắt của nàng  làm xói mòn một phần thành lũy, giúp nàng tìm thấy thi thể chồng mình bị chôn vùi dưới bức tường. Sau khi chôn cất, nàng  tự sát bằng cách lao mình xuống biển.

Ngày nay, ở Sơn Hải Quan  (Hà Bắc, Hà Bắc) đã có dựng bàn thờ để tưởng nhớ bà. Cũng tại Sơn Hải Quan , tướng  nhà Minh Ngô Tam Quế đã từ chối liên minh với Lý Tự Thành, thủ lĩnh nông dân khởi nghĩa vì lý do đơn giản là Lý Tự Thành cướp  vợ thứ của Ngô Tam Quế là Trần Viên Viên nên mở cửa thành  đầu  quân Mãn Châu. Nhờ đó  mới có sự khởi đầu của triều đại nhà Thanh (Mãn Châu).

Sự vững chắc của bức tường thành Vạn Lý này phần lớn là do việc sử dụng gạo nếp và canxi c ủa vôi trong sản xuất  vữa vôi dùng để sửa chữa, phục hồi các công trình bằng đá cổ. Theo nhà nghiên cứu người Trung Quốc Zhang Bingjian của Đại học Chiết Giang, đó là Amylopectin (trong tiếng Việt gọi là vữa vôi), một chất có độ bền cơ học cao, giúp các công trình cổ của Trung Quốc, đặc biệt là Vạn Lý Trường Thành, bền  vững trước thử thách của thời gian và động đất. Ông đã báo cáo phát hiện này trong bài báo đăng trên tạp chí Hoa Kỳ « Journal of the American Chemical Society, 2010, 132 (19), pp 6855–6861« . Điều này giải thích phong trào biểu tình của quần chúng ở  miền nam Trung Quốc, nơi vào thời điểm đó có việc trưng dụng gạo một cách có hệ thống. Mục đích của việc này là dùng để làm vữa nếp và cung cấp thức ăn cho những người chịu có trách nhiệm trùng tu bức tường này vào thời nhà Minh.

Version française

Elle est constituée par un grand nombre de fortifications militaires et défensives  dans  différents endroits  à la frontière nord de la Chine. Etant connue sous le nom chinois de « La longue muraille de dix mille li », elle commence à l’est à Shanhaiguan (Sơn Hải Quan), dans la province du Hebei (Hà Bắc) , et se termine à Jiayuguan (Gia Dục quan)  dans la province orientale du Gansu (Cam Túc). Ayant plus de 5000 km, elle est le symbole de la Chine d’aujourd’hui. Les sections proches de Pékin ont été restaurées mais dans le Nord mais il reste encore des pans de murs chancelants. Ce grand ouvrage défensif fut construit  à l’époque des Zhou au IXème siècle avant J.C. C’est pourquoi on y trouve non seulement  des murs, de pistes cavalières mais aussi des  tours de guet. C’est  en 1987 que  la Grande Muraille est classée au patrimoine mondial de l’UNESCO . Elle est reconnue aussi comme le seul  ouvrage construit par l’homme sur la terre que l’on puisse voir depuis la lune.

À l’époque des Royaumes Combattants, d’autres murs furent construits par les seigneurs de ces royaumes dans le but de défendre leur pays. Les historiens les qualifient de « murs pré-Qin ». Après l’unification du pays, on dit que dans son rêve, l’empereur des Qin Shi Huang Di aurait vu l’occupation de son empire par les barbares du Nord. Hanté par ce songe, il a chargé le général Meng Tian (Mộng Điềm) de relier les murs de ces six états conquis dans le but de contrer ces barbares.  La dynastie des Ming a effectué les travaux de rénovation d’une durée approximative de 200 ans.

C’est la muraille des Ming qu’on voit aujourd’hui. C’est aussi l’avis de Arthur Waldron, auteur du livre intitulé « The Great Wall of China. From history to myth« . Pour ce dernier, la Muraille de Chine ne va pas plus loin au delà de la fin du XVème siècle. Elle va de Shanhaiguan (la passe Shanhai à l’est) et à Jiayuguan  (la passe Jiayu à l’ouest) sur une longueur de 5660km. On peut dire que la construction de la grande muraille n’a jamais été interrompue complètement durant 2000 ans, de l’époque des Royaumes Combattants jusqu’à la dynastie des Qing. D’après les registres historiques, sa construction a mobilisé des centaines de milliers de paysans. De plus, durant les périodes de travaux intensifs, plus de 1,5 millions de personnes y sont engagées également sans oublier de noter aussi la participation massive de soldats. Les Chinois ont l’habitude de dire que celui qui n’est pas monté encore sur la Muraille de Chine ne mérite pas d’être un homme valeureux. »Bất đáo Trường Thành phi hảo hán (Chưa đến Vạn lý trường thành chưa phải là hảo hán« . C’est pour cette raison que la Muraille de Chine est l’un des sites les plus visités par les Chinois. Elle est aussi la ligne de front séparant les Barbares des Chinois. Beaucoup de gens ont été envoyés et péri sur ce front. La Muraille de Chine est témoin de plusieurs drames humains et de séparations douloureuses  et tragiques. Cela nous fait rappeler les quatre vers du beau poème Liangzhu (Lương Châu Từ) du célèbre poète chinois Vương Hàn (Wang Han) à  l’époque de la dynastie des Tang (Nhà Đường):

Bồ đào mỹ tửu dạng quang bôi
Dục ẩm tì bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi

Rượu bồ đào cùng với chén lưu ly
Muốn uống nhưng tỳ bà đã giục lên ngựa
Say khướt nằm ở sa trường, bác chớ cười
Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về.

Il y a du vin rouge contenu dans ma coupelle étincelante et translucide
Malgré l’envie de le boire, je suis pressé de monter à cheval à cause du son du pipa
Ne ricanez pas si vous me voyez étendu et ivre mort sur le champ de bataille
Depuis toujours et de toutes les guerres, combien de gens en sont-ils revenus?

 

万里

 

On peut se remémorer aussi la plus célèbre légende de la Muraille de Chine, celle de la pleureuse Mạnh Khương nữ (Meng Jiangnu). Celle-ci n’hésite à marcher plus de 10.000 li pour aller chercher son mari, un étudiant nommé Fan Qiliang (Phạm Hỷ Lương) que l’empereur de Chine Shi Huang Di a envoyé le jour de son mariage à la passe de Shanhaiguan pour construire la muraille. Sur place, elle apprend le décès de son mari mort de faim et de froid et elle ne réussit pas à retrouver son corps. Désespérée, elle pleure incessamment durant 3 jours et 3 nuits. Ses larmes érodent une portion du rempart, ce qui lui permet de retrouver le corps de son mari enseveli sous la muraille. Après l’enterrement, elle se suicide en se jetant dans la mer.

Aujourd’hui, à Shanhaiguan (Sơn Hải Quan) (Hebei, Hà Bắc), il y a l’autel érigé en l’honneur de cette dame. C’est aussi à Shanhaiguan (Sơn Hải Quan) que le général chinois Wu Sanggui (Ngô Tam Quế) de la dynastie des Ming qui refuse de s’allier à Li Zicheng ( Lý Tự Thành ), le chef des rebelles paysans pour la simple raison que ce dernier s’empare de sa concubine Chen Yuanyuan (Trần Viên Viên), a ouvert la porte aux armées mandchoues. C’est ainsi que débute la dynastie des Qing.

La solidité de cette muraille est due en grande partie à l’utilisation du riz glutineux et du calcium de la chaux (vôi) dans la fabrication du mortier servant à la réparation et à la restauration des anciennes constructions en pierres et en roches. Selon le chercheur chinois Zhang Bingjian de l’université Zhejiang ( Chiết Giang), c’est l’Amylopectine (ou vữa en vietnamien ), une substance à haute résistance mécanique qui permet aux constructions anciennes chinoises, en particulier la Muraille de Chine, de résister à l’épreuve du temps et au séisme. Il a rapporté cette découverte dans son article publié dans le journal américain « Journal of the American Chemical Society, 2010, 132 (19), pp 6855–6861« . Cela donne l’explication au mouvement des protestations populaires ayant lieu au sud de la Chine où il y a en ce temps-là la réquisition systématique du riz. Celle-ci a pour but de servir à fabriquer le mortier glutineux et à nourrir les gens chargés de restaurer cette muraille à l’époque des Ming.

English version

It consists of a large number of military and defensive fortifications in different locations on the northern border of China. Known by the Chinese name « The Ten Thousand Li Long Wall », it begins in the east at Shanhaiguan (Sơn Hải Quan), in Hebei Province (Hà Bắc), and ends at Jiayuguan (Gia Dục quan) in the eastern province of Gansu (Cam Túc). With a length of more than 5,000 km, it is the symbol of today’s China. The sections near Beijing have been restored, but in the north, there are still sections of shaky walls. This great defensive work was built during the Zhou period in the 9th century BC. Therefore, it contains not only walls, bridleways but also watchtowers. The Great Wall was declared a UNESCO World Heritage Site in 1987. It is also recognized as the only man-made structure on Earth that can be seen from the moon.

During the Warring States period, other walls were built by the lords of these kingdoms to defend their countries. Historians refer to these as the « pre-Qin walls. » After the unification of the country, it is said that in his dream, the Qin emperor Shi Huang Di saw the occupation of his empire by the northern barbarians. Haunted by this dream, he commissioned General Meng Tian (Mộng Điềm) to connect the walls of these six conquered states in order to counter these barbarians. The Ming Dynasty carried out the renovation work, which lasted approximately 200 years.

This is the Ming wall that we see today. This is also the opinion of Arthur Waldron, author of the book « The Great Wall of China. From History to Myth. » For him, the Great Wall of China does not extend beyond the end of the 15th century. It runs from Shanhaiguan (the Shanhai Pass in the east) to Jiayuguan (the Jiayu Pass in the west) over a length of 5660 km. It can be said that the construction of the Great Wall was never completely interrupted for 2000 years, from the Warring States period to the Qing Dynasty. According to historical records, its construction mobilized hundreds of thousands of peasants. In addition, during periods of intensive work, more than 1.5 million people were also engaged in it, not to mention the massive participation of soldiers. The Chinese are accustomed to saying that he who has not yet climbed the Great Wall of China does not deserve to be a valiant man. « Bất đáo Trường Thành phi hảo hán (Chưa đến Vạn lý trường thành chưa phải là hảo hán ». This is why the Great Wall of China is one of the most visited sites by the Chinese. It is also the front line separating the Barbarians from the Chinese. Many people were sent and perished on this front. The Great Wall of China is witness to several human dramas and painful and tragic separations. This reminds us of the four lines of the beautiful poem Liangzhu (Lương Châu Từ) by the famous Chinese poet Vương Hàn (Wang Han) at the time of the Tang Dynasty (Nhà Đường):

Bồ đào mỹ tửu dạng quang bôi
Dục ẩm tì bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi

Rượu bồ đào cùng với chén lưu ly
Muốn uống nhưng tỳ bà đã giục lên ngựa
Say khướt nằm ở sa trường, bác chớ cười
Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về.

There’s red wine in my sparkling, translucent bowl.
Despite the urge to drink it, I’m in a hurry to get on horseback because of the sound of the pipa.
Don’t sneer if you see me lying dead drunk on the battlefield.
Since the dawn of time, and from all the wars, how many people have returned?

 

万里

 

We can also recall the most famous legend of the Great Wall of China, that of the mourner Mạnh Khương nữ (Meng Jiangnu). She did not hesitate to walk more than 10,000 li to fetch her husband, a student named Fan Qiliang (Phạm Hỷ Lương) whom the Emperor of China Shi Huang Di sent on the day of his wedding to the Shanhaiguan pass to build the wall. There, she learned of the death of her husband who had died of hunger and cold and she was unable to find his body. Desperate, she cried incessantly for 3 days and 3 nights. Her tears eroded a portion of the rampart, which allowed her to find the body of her husband buried under the wall. After the burial, she committed suicide by throwing herself into the sea.

Today, in Shanhaiguan (Sơn Hải Quan) (Hebei, Hà Bắc), there is the altar erected in honor of this lady. It is also in Shanhaiguan (Sơn Hải Quan) that the Chinese general Wu Sanggui (Ngô Tam Quế) of the Ming dynasty, who refused to ally himself with Li Zicheng (Lý Tự Thành), the leader of the peasant rebels for the simple reason that the latter seized his concubine Chen Yuanyuan (Trần Viên Viên), opened the door to the Manchu armies. This is how the Qing dynasty began.

The strength of this wall is largely due to the use of glutinous rice and lime calcium (vôi) in the manufacture of mortar used for the repair and restoration of ancient stone and rock constructions. According to Chinese researcher Zhang Bingjian of Zhejiang University (Chiết Giang), it is Amylopectin (or vữa in Vietnamese), a substance with high mechanical resistance that allows ancient Chinese constructions, in particular the Great Wall of China, to withstand the test of time and earthquakes. He reported this discovery in his article published in the American journal « Journal of the American Chemical Society, 2010, 132 (19), pp 6855–6861 ». This explains the movement of popular protests taking place in southern China where at that time there was the systematic requisition of rice. This was used to make glutinous mortar and to feed the people responsible for restoring this wall during the Ming era.

 

Quartier indochinois (Khu phố Đông Dương)

Nghệ thuật thành phố (Art de rue)

Version française

Tôi vẫn nhớ trước 1975, quận 13 là cái nôi của ngành công nghiệp xe hơi Pháp. Bởi vậy nên có nhiều dân lao đông từ khắp nơi về đây cư trú.  Thời đó còn là sinh viên ở cư xá, mình muốn ăn tô mì « dơ »  phải ra ga Lyon  hay đến khu latin (khu sinh viên quận 5), nơi  đây có mấy quán Việt-Tàu  nằm thưa thớt ở trên đường Saint Jacques. Lúc đó thì có một dự án xây cất 16 400 căn hộ với  55 tòa nhà chọc trời được kiến trúc sư Le Corbusier thiết kế để bán hoặc cho thuê nhưng cuối cùng chỉ có 30 toà nhà đuợc hoàn thiện trên khu tam giác Choisy-Ivry-Massena  được giới hạn bởi đại lộ Masséna cùng với hai con đường dài Ivry và  Choisy. Vì không muốn sống lạc lõng  trong những toà nhà cao tầng nầy, đa số dân lao động mới chuyển ra ngoại ô sinh sống. Vì thế sau biến cố 1975, người thuộc xứ Đông Dương cũ mới chọn khu tam giác nầy để sinh sống và buôn bán. Cũng có rất nhiều người Hoa đến từ Đông Dương cũng cư trú ở  nơi nầy. Nay thì quen miệng gọi là khu Tàu  chớ thât sự phải nói là  khu của người Đông Dương mới đúng. Khu nầy trở nên ngày nay  khu ăn uống đi chợ cùa ngưòi Châu Á. Người Việt chúng ta thích đến đây ăn uống hẹn hò và trò chuyên chớ phần đông vẫn thích sống an nhàn nên thường ở rải rắc ngọai ô và sống hoà đồng dễ dàng với người Pháp hơn.

                           

Version française

Je me souviens qu’avant 1975, le 13ème arrondissement était le berceau de l’industrie automobile française. C’est pourquoi de nombreux ouvriers venus de tous les coins s’y étaient installés. Étant encore étudiant à cette époque,  afin de pouvoir manger une soupe de porc aux nouilles, je devais  aller à la gare de Lyon ou au quartier latin (celui des étudiants du 5e arrondissement) où il y avait des restaurants vietnamiens et chinois  disséminés le long de la rue Saint Jacques.

À l’époque, il y avait un projet de construction de 16 400 appartements  destinés à vendre ou à louer aux travailleurs  avec 55 gratte-ciel conçus par l’architecte Le Corbusier mais il n’y avait que 30 bâtiments qui ont été construits  à la fin des travaux dans  le triangle Choisy-Ivry-Masséna délimité par le boulevard  Masséna avec les deux longues avenues d’Ivry et de Choisy. Ne voulant pas vivre isolés dans ces gratte-ciel, la plupart de ces  travailleurs  décidaient de déménager dans les banlieues. C’est pourquoi après les évènements de 1975, les gens vivant dans l’Indochine française (Vietnamiens, Laotiens et Cambodgiens) ont choisi ce triangle pour y vivre et faire le commerce. De  nombreux Chinois venant de l’Indochine française s’y installèrent aussi. On est habitué à l’appeler sous le nom « quartier chinois » mais on  doit dire normalement « quartier indochinois ». Celui-ci devient aujourd’hui le quartier où les Asiatiques se donnent le rendez-vous pour se rencontrer, faire les courses ou manger ensemble à la fin de la semaine. Quant aux Vietnamiens, ils préfèrent un autre mode de vie plus tranquille  en vivant disséminés un peu partout et en s’intégrant facilement au milieu français.

Nghệ thuật thành phố (Street Art)

 

Khu phố Tàu cũng có một đặc điểm mà ít ai để ý đến. Đấy là nghệ thuật đường phố nhất là khu nầy rất có nhiều toà nhà chọc trời.  Ce quartier indochinois a aussi une caractéristique que peu de gens ont remarquée.  C’est l’art de rue ou (street art) qui est tellement visible sur les murs de ses gratte-ciel.

Thập Tam Lăng ( 13 Mausolées des Ming)

Thập Tam  Lăng nhà Minh

Ming Shisan Ling

Version française

 English version

Mười ba lăng mộ nhà Minh nằm trong một thung lũng rộng phía nam núi Thiên Thọ, cách Bắc Kinh khoảng 42 cây số. Thung lũng này được chọn vì đáp ứng được tiêu chí về Phong Thủy. Nó được bao bọc ba mặt ở  phía bắc nhờ có một dãy núi còn về phía nam nhờ sự  hiện diên một khe hở  để  tránh được các thần linh  ma quỷ từ gió bắc mang đến. Tổng cộng có 13 trong số 16 hoàng đế   của nhà Minh, 23 hoàng hậu, một phi tần nhất phẩm cùng một số phi tần được an nghỉ tại nơi thung lũng bình  yên này. Có ba  vị hoàng đế nhà Minh không được chôn cất ở nơi nầy.

Nằm ở trung tâm nghĩa trang, thì có ngôi mộ của Chu Đệ (Trường Lăng) được  xem  là nổi bật với kích thước to lớn so với mười hai lăng mộ khác. Nó cũng là ngôi mộ đầu tiên được xây dựng ở đây với 60 cột gỗ lim cao có 12 mét và có đường kính 1 mét được đưa từ vùng rừng sâu của Vân Nam và Tứ Xuyên mang về Bắc Kinh và cũng là nơi tổ chức mọi hoạt động cúng tế. Còn các ngôi mộ khác của các hoàng đế nhà Minh thì được sắp xếp theo  mô hình cây quạt xung quanh  con đường  chính thiêng liêng được gọi là « Thần Đạo »  (Shendao)

Dọc hai bên của con đường dài này thì  có 36 bức tượng bằng đá, 12 vị quan chức dân sự và quân sự, và 12 cặp động vật (sư tử, lạc đà, kỳ lân, voi, ngựa và con vật tưởng tượng). Ngôi mộ của Chu Đệ (Yong Le)  vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng chúng ta  cũng biết rằng khi ông được an táng,  có 16 phi tần cũng bị chôn sống. Phong tục dã man này đã bị bãi bỏ sau đó vào thế kỷ 15 dưới thời vua Minh Thần Tông (Vạn Lịch).

Khi còn sống, Hoàng đế Vạn Lịch  bắt đầu xây dựng Định Lăng vào năm 1584. Điều này khiến nhà nước tốn một khoản tiền đáng kể. Không biết cấu trúc bên trong của ngôi mộ này, giáo sư Xia Nai, giám đốc Viện Khảo cổ học Bắc Kinh phải  thực hiện cuộc khảo sát đầu tiên về Định Lăng vào năm 1956 và phát hiện ra ngôi mộ  nầy chưa bao giờ  bị xâm phạm. Chính nhờ một thẻ  bài mới  biết ra vị trí của cánh cửa ở  trong bức tường với cơ chế bí mật được chôn sâu khoảng chừng  11 thước  dưới lòng đất, ông mới thành công trong việc mở được ngôi mộ này cũng như các căn phòng phụ của nó.

Điều này dẫn đến  sự tìm thấy phòng chôn cất của Vạn Lịch và hai  bà hoàng hậu Tiêu DuẩnTiêu Cảnh. Ngoài ra còn có một số lượng lớn các đồ vật quý giá (trang sức bằng ngọc bích, gốm sứ ba màu, meiping (một lọại bình sứ ) vân vân ) trong 26 chiếc rương sơn mài màu đỏ tía được cất giử  ở phòng phía sau cùng.

Điều này dẫn đến  sự tìm thấy phòng chôn cất của Vạn Lịch và hai  bà hoàng hậu. Ngoài ra còn có một số lượng lớn các đồ vật quý giá (trang sức bằng ngọc bích, gốm sứ ba màu, meiping (một lọại bình sứ ) vân vân ) trong 26 chiếc rương sơn mài màu đỏ tía được cất giử  ở phòng phía sau cùng. Hiện tại, ngôi mộ duy nhất mà có thể du khách được truy cập  đó  lăng của  Wanli (1573-1620) (Vạn Lịch). Bà hoàng hậu (Hiếu Đoan Văn Hoàng hậu) và bà hoàng quí phi (Hiếu Tĩnh Hoàng hậu) được  chôn cất bên cạnh hoàng đế.

Cung điện dưới lòng đất nầy có diện tích 1195 thước vuông, sâu 27 mét. Nó được có 5 phòng: phòng phía trước, phòng trung tâm, phòng phía sau cũng như hai phòng bên. Nó được xây dựng bởi 30.000 công nhân sau sáu năm. Phòng trung tâm và phòng phía trước tạo thành một hành lang dài vuông góc với phòng phía sau. Tất cả các phòng đều được ngăn cách với nhau bằng một cánh cửa lớn bằng đá cẩm thạch màu trắng được trang trí bằng những tác phẩm điêu khắc tinh xảo. Ngoài ra còn có 3 chiếc ngai bằng đá cẩm thạch dành riêng cho người đã khuất ở gian giữa.

Ngoại trừ tấm bia mộ của  Chu Đệ mà người kế vị ông để lại hơn 3000 chữ ca ngợi công đức của cha mình, chúng ta không tìm thấy chữ viết nào trên tấm bia của các ngôi mộ khác. Đây là một bí ẩn  mà các nhà sử học cần phải  giải quyết. Một số người cho rằng các hoàng đế nhà Minh đã bãi bỏ tục lệ này vì sợ bị hậu thế chỉ trích, chế giễu vì hành vi sai trái, trụy lạc. Một số  người khác lại ủng hộ sự chấp nhận thái độ  của Vũ Tắc Thiên  thời nhà Đường bởi  các hoàng đế nhà Minh. Bà nầy  không để lại dấu vết gì  cả để khỏi bị chỉ trích vì bà biết cách cư xử của mình không thể  hoàn hảo.

13 TOMBEAUX DES MING

Version française

Les tombeaux des Ming sont situés dans une large vallée au sud de la montagne Tianshou (Thiên Thọ) loin de Pékin à peu près de 42 kilomètres. Cette vallée a été choisie car elle répond aux critères de Fengshui (Phong Thủy). Elle est encadrée au nord sur ses trois côtés par une chaîne de montagnes et au sud par une ouverture, ce qui lui permet d’être protégée contre les mauvais esprits emmenés par les vents du Nord. Il y a en tout 13 des 16 empereurs des Ming, 23 impératrices, une concubine de premier rang et une douzaine de concubines impériales qui ont reposé dans cette vallée paisible. Trois empereurs des Ming ne sont pas enterrés ici.

Située au centre du cimetière, la sépulture de Yong Le (Trường Lăng) se fait remarquer par sa taille imposante par rapport aux douze autres mausolées  avec 60 colonnes en bois de fer (gỗ lim) ayant 12 mètres de haut et un diamètre d’un  mètre, ramenés de la région forestière de Yunnan et Sichuan  jusqu’à Pékin. Elle est aussi la première à y être construite. Les autres tombeaux des empereurs des Ming sont disposés en éventail autour de la voie  principale sacrée (Shendao). Cette longue allée est bordée de 36 statues de pierre, 12 dignitaires civils et militaires et 12 paires d’animaux (lions, chameaux, licornes, éléphants, chevaux et chimères). Le tombeau de Yong Le est resté inviolé. Mais on sait qu’au moment de son enterrement, 16 concubines furent emmurées vivantes à son côté. Cette coutume fut abolie  après au XVème siècle.

De son vivant, l’empereur Wan Li commença à construire en 1584 son tombeau Dingling (tombeau de la tranquillité)(Định Lăng). Celui-ci coûte une somme considérable à l’état. Ignorant la structure interne de ce tombeau, le professeur Xia Nai, directeur de l’institut d’archéologie de Pékin, effectua le premier sondage sur le Dingling en 1956 et découvrit ce tombeau inviolé. Grâce à une tablette indiquant l’emplacement de la porte du mur au mécanisme secret enfoui à trente cinq pieds sous terre, il réussit à ouvrir ce tombeau ainsi que ses chambres annexes. Cela permet de retrouver la chambre funéraire de Wanli et de ses 2 impératrices Xiao Duan et Xiaojing. On trouve également un grand nombre d’objets précieux (parures de jade, des céramiques à trois couleurs, des meiping etc. ) dans les 26 coffres en laque pourpre rangés dans la salle du fond. Pour le moment, le seul tombeau accessible aux visiteurs est celui de Wanli ( 1573-1620) (Vạn Lịch en vietnamien). L’impératrice et la première concubine impériale (Hoàng Qúi Phi)  furent enterrées à leur mort au côté de l’empereur.

Le palais souterrain d’une superficie de 1195 m2 se trouve à 27 mètres de profondeur. Il est constitué de 5 salles: la salle antérieure, la salle centrale, la salle postérieure ainsi que deux salles latérales. Il a été construit par 30.000 ouvriers au bout de six ans. La salle centrale et la salle antérieure forment un long couloir directement perpendiculaire à la salle de fond. Toutes les salles sont isolées les unes des autres par une grande porte en marbre blanc décorée de fines sculptures. On trouve aussi 3 trônes en marbre réservés pour les défunts dans la chambre centrale.

Excepté le stèle du tombeau de Yong Le sur lequel son successeur a laissé plus de 3000 mots vantant les mérites et les vertus de son père, on ne trouve aucune écriture sur les stèles des autres tombeaux. C’est une énigme à élucider pour les historiens. Certains pensent que les empereurs des Ming abolirent cette tradition par peur d’être critiqués et ridiculisés par la postérité à cause de leur mauvaise conduite et de leur débauche. D’autres penchent en faveur de l’adoption de l’attitude de Wu Ze Tian (Vũ Tắc Thiên) de la dynastie des Tang par les empereurs des Ming. Celle-ci ne laisse aucune trace écrite afin de ne pas être critiquée car elle savait que son comportement n’était pas irréprochable.

English version 

The Ming Tombs are located in a wide valley south of Tianshou Mountain (Thiên Thọ), about 42 kilometers from Beijing. This valley was chosen because it meets the criteria of Fengshui (Phong Thủy). It is framed on three sides by a mountain range to the north and by an opening to the south, which allows it to be protected against evil spirits carried by the north winds. In all, 13 of the 16 Ming emperors, 23 empresses, one first-rank concubine, and a dozen imperial concubines were laid to rest in this peaceful valley. Three Ming emperors are not buried here.

Located in the center of the cemetery, Yong Le’s tomb (Trường Lăng) stands out for its imposing size compared to the twelve other mausoleums, with 60 ironwood columns (gỗ lim) 12 meters high and one meter in diameter, brought from the forest region of Yunnan and Sichuan to Beijing. It was also the first to be built there. The other tombs of the Ming emperors are arranged in a fan shape around the main sacred path (Shendao). This long path is lined with 36 stone statues, 12 civil and military dignitaries and 12 pairs of animals (lions, camels, unicorns, elephants, horses and chimeras). Yong Le’s tomb has remained inviolate. But it is known that at the time of his burial, 16 concubines were walled up alive beside him. This custom was abolished after the 15th century.

During his lifetime, Emperor Wan Li began building his Dingling Tomb (Tomb of Tranquility) (Định Lăng) in 1584. It cost the state a considerable amount of money. Unaware of the internal structure of this tomb, Professor Xia Nai, director of the Beijing Institute of Archaeology, carried out the first survey of the Dingling in 1956 and discovered this inviolate tomb. Thanks to a tablet indicating the location of the door of the wall with the secret mechanism buried 35 feet underground, he succeeded in opening this tomb as well as its annex chambers. This allows us to find the burial chamber of Wanli and his two empresses Xiao Duan and Xiaojing. A large number of precious objects (jade ornaments, three-color ceramics, meiping, etc.) are also found in the 26 purple lacquer chests stored in the back room. Currently, the only tomb open to visitors is Wanli Tomb (1573-1620) (Vạn Lịch in Vietnamese). The empress and the first imperial concubine (Hoàng Qúi Phi) were buried at the emperor’s side upon their death.

The underground palace, covering an area of ​​1,195 square meters, is located 27 meters underground. It consists of five rooms: the front room, the central room, the rear room, and two side rooms. It was built by 30,000 workers over a period of six years. The central room and the front room form a long corridor directly perpendicular to the rear room. All the rooms are separated from each other by a large white marble door decorated with fine carvings. There are also three marble thrones reserved for the deceased in the central chamber.

Apart from the stele of Yong Le’s tomb, on which his successor left more than 3,000 words extolling the merits and virtues of his father, no writings are found on the stelae of the other tombs. This remains a mystery for historians to solve. Some believe that the Ming emperors abolished this tradition out of fear of being criticized and ridiculed by posterity for their misconduct and debauchery. Others believe that the Ming emperors adopted the attitude of Wu Ze Tian (Vũ Tắc Thiên) of the Tang Dynasty. She left no written records so as not to be criticized because she knew her behavior was not beyond reproach.

Thi sĩ Đoàn Thị Điểm (Poétesse Đoàn Thị Điểm)

 

Version française
Version anglaise

Được biết đến dưới bút hiệu là Hồng Hà, bà sinh ra vào năm Ất Dậu  (1705) ở làng Hiến Phạm, huyện Văn Giang, Hưng Yên ở miền bắc Việt Nam. Bà đựợc xem đứng bậc nhất  trong bốn nữ sĩ lỗi lạc nhất ở Việt Nam cùng  với Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương và Sương Nguyệt Ánh và  làm nở mày nở mặt đàn bà ở nước Nam. Có một lần đoàn sứ Mãn Thanh sang nước ta với  Hàng Địch LộcNhiệm Lan Chi. Triều đình nước ta mới tuyển chọn bà giã làm cô bán hàng xinh đẹp. Quen thói hống hách và khinh thường trông thấy cô bán hàng xinh đẹp,  sứ Tàu giỡ trò nói đùa như sau:

Nam phương nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh.
Phương Nam có một tấc đất  mà không biết bao nhiêu người cày.

Đoàn thị Điểm hiểu ý nhanh nhẹn đáp lại ngay:

Bắc quốc đại trượng phu, giai do thứ đồ xuất
Nứớc Tàu phương Bắc có lắm bậc đại phu nhưng cũng đều bởi đường ấy mà ra.

Hai câu đối trên nếu giãi nghĩa thanh thì đối nhau  cũng rất thanh  nhã mà muốn giải nghĩa tục thì đối nhau cũng rất tục tĩu khiến làm sứ Tàu hổ thẹn bỏ đi  ngay và không còn  đứng lại bỡn cợt  các con gái nước Nam.

Theo gia phả thì gia đình bà thuộc về họ Lê nhưng đến đời cha của bà  Đoàn Doãn Nghi (1678-1729) thì mới đổi ra họ Đoàn. Cha của bà  đỗ  và có làm quan một lúc dưới  thời Lê Trung Hưng. Sau khi ly dị với  vợ  chính có một đứa con trai tên là Đoàn Doãn Sĩ, ông tái giá lại có được hai người con: con cả  là Đoàn Doãn Luân và con thứ  Đoàn thị Điểm. Lúc trẻ, bà không những nổi tiếng thông minh, mà  còn đẹp người và  đẹp nết nữa. Bà rất cần cù chăm học, có tài  năng văn chương  và  xuất chúng luôn cả  trong việc nữ công. Cho nên năm lên 16 tuổi, bà được Thượng thư Lê Anh Tuấn nhận làm con nuôi để sau nầy dâng lên chúa Trịnh nhưng bà khước từ vì không muốn bị gò bó trong triều đình. Sau đó, khi nghe cha ốm đau, bà xin cha nuôi cho phép bà trở về quê phụng dưỡng cha già. Nhờ  đó bà được chăm nom và giáo dục của  cha và anh, cả hai đều đổ để làm quan nhưng rồi cũng từ quan trở  về dạy học cả  ở làng Lạc Viên (huyện An Dương, tỉnh Kiến An; nay thuộc Hải Phòng).  Bà cùng anh có dịp  nghiên cứu các mô hình cổ điển và khoa học huyền bí. Những lúc thư giãn, bà hay thường cùng anh thích thi đua văn học qua các câu  đối tuyệt  tác với sử dụng khéo léo tài tình các chữ mà còn có cả năng khiếu đáp ứng nhanh nhẹn khiến làm chúng ta  con cháu nước Việt  ngày nay phải ngẩn ngơ thán phục khi đọc lại các câu đối này. Lúc lên  6 tuổi, bà được học Sử Ký của Tư Mã Thiên nên có một ngày, Đoàn Doãn Luân mới  thách thức bà  dựa trên sử ký  mà ra câu vế đầu như sau:

Bạch xà đương đạo, Quý bạt kiếm nhi trảm chi.
Rắn trắng giữa đường, ông Quý tuốt gươm mà chém. 

Quý đây muốn ám chỉ đến Hán Cao Tổ Lưu Bang.

Bà không ngần ngại đáp lại nhanh nhẹn câu vế sau cũng cũng lấy lại trong sử ký:

Hoàng long phụ chu, Vũ ngưỡng Thiên nhi thán viết.
Rồng vàng đội thuyền, Ông Vũ ngửa mặt lên Trời mà than. Vũ đây là tên của Đại Vũ vua nhà Hạ.

Có một lần, khi bà đang trang điểm nhìn qua gương  thì anh bà Đoàn Doãn Luân đi ngang qua xuống ao  rữa chân ngồi trên ván hồ  mới thốt ra  vế đầu như sau:

Chiếu kính họa my, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm.
Soi gương kẽ lông mày, một nét hoá ra hai nét.

Bà mới đáp lại vế cuối  như sau:

Lâm tri ngọan nguyệt, chích luân chuyển tác song luân.
Tới ao ngắm trăng, một vầng hoá ra hai vầng.

Trong hai câu vế nầy, chữ Điểm cũng như chữ  Luân được lập lại hai lần. Đây cũng là cách dùng khéo léo tài tình để ám chỉ bà và anh bà, mỗi người trở lại thành hai người trong câu đối. Bà không chỉ  đáp giỏi trong loại văn biền ngẫu nầy mà còn để  lại cho quần chúng những câu vế đầu thách thức khó đối  như « Da trắng vỗ bì bạch ». Đây là một hình ảnh trực quan, dễ mường tượng, gợi dục nhưng rất tinh tế. Theo  dân gian kể, bà Điểm đang tắm thì Trạng Quỳnh đòi vào tắm chung. Bà mới  thách thức ông Trạng nếu muốn được tấm chung thì phải đối  được  câu đối hóc  búa nầy. Bì là da mà bạch cũng là trắng. Như vậy bì bạch là da trắng nhưng hai tiếng nầy theo nghĩa nôm là từ tượng thanh (tiếng vỗ) vừa là từ tượng hình (da có mầu) vừa là từ tượng sắc (trắng). Câu Da Trắng  Vỗ Bì Bạch có ngầm ý là vỗ vào chỗ da trắng nhất, chỉ để hở ra lúc tắm tức là  chổ kín đáo nhất. Vì không đối được, Trạng Quỳnh phải bỏ đi.  Có 300 năm qua  chưa ai tìm ra được câu đối đáp  tương xứng phải đúng theo nội dung, cấu trúc, thể loại nội dung, số lượng  vân vân.. Phải tôn trọng thứ tự vị trí của các  danh từ, tính từ và động từ, quan sát các quy tắc đối lập của các thanh bằng và trắc.  Có người cho rằng đây là câu đối « chết ». Ngoài việc sử dụng  tài tình  các chữ trong các câu đối, bà còn viết truyện chữ Hán có tên là Truyền kỳ tân phả (khắc in lần đầu năm Tân Mùi, 1811). Quyển nầy gồm có 5 câu chuyện đầy hương vị: Vân các thần nữ, Hải Khẩu linh từ, An ấp liệt nử, Yến anh đối thoại và Mai huyễn.

Bà còn dịch nguyên bản của truyện thơ Chinh phụ ngâm khúc viết bằng chữ Hán của Đặng Trần Côn thành  412 câu thơ  theo thể song thất lục bát bằng chữ  Nôm. Phải nói rằng bài thơ này làm người đọc thấu hiểu được  tâm sự của người phụ nữ  xa chồng,  phải lo phụng dưỡng mẹ già, dạy dỗ đàn con thơ của chồng với lòng không nguôi  trong lúc đó chồng bà ông Nguyễn Kiều phải đi sứ sang Tàu trong suốt thời gian 3 năm cũng như lính thú đóng giữ ở biên thùy. Với  tài năng lỗi lạc của  bà khiến tác phẩm Hán văn của ông Đặng Trần Côn mà bà dịch trở thành một tuyệt tác so với các bản dịch khác và cũng làm người đọc quên đi cái mô hình có vẻ nhợt nhạt và lạnh lùng trong nguyên bản chính.

Chính bà làm cho người  đọc thấy được cảm xúc chân thành và rung động của tâm hồn bà, nổi cô đơn buồn tủi của  người phụ nữ phải  xa chồng. Theo nhà nghiên cứu  Trần Cửu Chấn, thành viên của Viện hàn lâm văn học và nghệ thuật Paris thì bản dịch của Phan Huy Ích được xem  như một bài tập trường học so với tác phẩm  vô cùng tuyệt vời của Đoàn Thị Điểm vì bà thấu hiểu và đồng cảm với tâm trạng của người chinh phụ. Chính với tuyệt tác Chinh Phụ Ngâm mà bà phiên dịch bằng chữ nôm đã đưa tên tuổi của bà lên đỉnh cao trong nền văn học nước nhà nhưng nói về tình duyên bà rất lận đận, phải thế anh  giúp đở  chị dâu nuôi dàn cháu thơ dại và phụng dưởng mẹ già. Vì gia cảnh  khó khăn,  bà cùng  mẹ, chị dâu và hai cháu tản cư đến làng Chương Dương bên bờ sông Nhị Hà, gần Hà Nội. Ban đầu, bà làm nghề xem mạch bốc thuốc sau đó thành lập một trường dạy học đào tạo nhân tài. Sự nghiệp của bà thu hút rất nhiều học trò.  Trong thời gian dạy học có rất nhiều người dạm hỏi cưới bà nhưng mãi đến  năm 1743 bà mới chịu  kết hôn với ông Nguyễn Kiều, một người học rộng và tài cao (đỗ Giải nguyên ở tuổi 18 và đỗ Tiến sĩ ở tuổi 21). Tháng 8 năm 1748, trong lúc theo chồng vào Nghệ An, bà Đoàn Thị Điểm mắc bệnh và qua đời vào ngày 11 tháng 9 năm Đinh Mão (1748). Lúc đó bà chỉ mới 43 tuổi.  Phần mộ của bà còn  nằm tại phường Phú Thượng, quận Tây Hồ, Hà Nội.

Version française

Connue sous le nom de plume Hồng Hà, elle est née en 1705 (année du coq  de bois)  au village de  Hiến Phạm, sous-préfecture de Văn Giang de la province  Hưng Yên dans le nord du Vietnam. Elle est  classée au premier rang des quatre poétesses les plus éminentes du Vietnam avec Madame  Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương et Sương Nguyệt Ánh  et elle rehausse la fierté d’être  la femme du Vietnam.

Une fois, lors de la visite d’une délégation chinoise de la dynastie des Qing au Vietnam avec Hàng Địch Lộc  et Nhiệm Lan Chi, la cour royale de notre pays l’a récemment recrutée pour se déguiser en  une belle vendeuse. Etant habitué à se montrer arrogant  et méprisant vis-à-vis des Vietnamiens, l’ambassadeur chinois  commença à la taquiner  en lui adressant le vers  supérieur suivant:

Nam phương nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh.
Phương Nam có một tấc đất  mà không biết bao nhiêu người cày.

Le Sud a un seul  pouce de terrain mais  je ne sais pas combien de gens y ont labouré.

En saisissant bien l’insinuation, Đoàn thị Điểm répliqua avec une rapidité étonnante:

Bắc quốc đại trượng phu, giai do thứ đồ xuất
Nứớc Tàu phương Bắc có lắm bậc đại phu nhưng cũng đều bởi đường ấy mà ra.

Le Nord a beaucoup de grands docteurs mais tous sont sortis également de cette issue (ouverture).

Pour  les deux sentences parallèles ci-dessus  si on les explique  au sens strict, il n’y a que des compliments.  Par contre si elles sont interprétées au sens figuré, la vulgarité  est au top avec une image obscène ( avec des putes et des gens sortis  de ce trou), ce qui fait rougir de honte l’ambassadeur et le fait partir  immédiatement sans oser recommencer à taquiner d’autres filles du Sud.

Selon la généalogie, sa famille appartenait à la famille Lê, mais c’était seulement avec son père  Đoàn Doãn Nghi (1678-1729) que le nom de famille fut changé en Đoàn. Son père réussit aux examens  et servit comme mandarin pendant un certain temps sous la dynastie des Lê postérieurs. Après avoir divorcé avec sa première femme, qui avait un fils nommé Đoàn Doãn Sĩ, il se remaria  et eut deux enfants : l’aîné, Đoàn Doãn Luân, et le second, Đoàn thị Điểm. Lorsque cette dernière était jeune, elle était célèbre non seulement pour son intelligence, mais aussi pour sa beauté et son caractère. Elle était très appliquée et studieuse, possédait un talent littéraire inouïe et n’avait pas son égale dans les travaux à l’aiguille. C’était pour cela qu’à l’âge de 16 ans qu’elle fut adoptée par le ministre Lê Anh Tuấn dans le but de l’envoyer plus tard à la Cour des Trịnh mais elle refusa  cette idée en prenant le prétexte de ne pas vouloir se plier aux contraintes imposées par la Cour.

Plus tard, lorsqu’elle apprit que son père était malade, elle demanda à son père adoptif de lui permettre de retourner dans sa ville natale pour prendre soin de son père âgé. Grâce à ce retour, elle reçut les soins éducatifs de son père et de son frère. Malgré la réussite de ces deux derniers à devenir mandarins, ils  préférèrent  retourner à l’enseignement  dans le village de Lạc Viên dans le district  An Dương de la province de Kiến An appartenant aujourd’hui à Hải Phòng. Elle eut cette occasion d’étudier avec son frère  les modèles classiques et les sciences occultes. Durant les moments de détente, elle apprécia souvent la compétition littéraire avec son frère  à travers les chefs-d’œuvre de distiques avec l’emploi habile des mots, mais aussi la capacité  de répliquer  de façon adéquate.  Cela nous laisse muets d’admiration en tant que les descendants vietnamiens d’aujourd’hui en relisant ces distiques.

À l’âge de 6 ans, elle eut l’occasion d’apprendre  « Les mémoires historiques » de l’historien chinois Sima Qian.  Un jour, Đoàn Doãn Luân n’hésita pas à la défier  en s’appuyant sur cet ouvrage et  en lui adressant le vers supérieur comme suit:

Bạch xà đương đạo, Quý bạt kiếm nhi trảm chi.
Rắn trắng giữa đường, ông Quý tuốt gươm mà chém

Le serpent se trouvant au milieu de la route,  le bonhomme dégaine l’épée. (Le bonhomme désignant l’empereur chinois Han Gaozu.

Sans hésitation, elle réplique avec une facilité étonnante tout en s’appuyant également sur les Mémoires historiques de Sima Qian avec le vers inférieur:

Hoàng long phụ chu, Vũ ngưỡng Thiên nhi thán viết.
Rồng vàng đội thuyền, Ông Vũ ngửa mặt lên Trời mà than. Vũ đây là tên của Đại Vũ vua nhà Hạ.

Le dragon soulevant l’embarcation,  Yu retourne le visage vers le Ciel avec des soupirs (Yu désignant le nom de l’empereur Da Yu de la dynastie des Xia).

Un jour, alors qu’elle se maquilla et  se regarda à travers le miroir,  son frère Đoàn Doãn Luân  passa par là pour aller  à l’étang et laver ses pieds. En s’asseyant sur la planche tendue par-dessus de l’étang, il lança le vers supérieur comme suit :

Chiếu kính họa my, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm.
Soi gương kẽ lông mày, một nét hoá ra hai nét.

En se regardant dans le miroir, on trouve les traits de son visage se dédoubler.

Elle ne tarda pas à répliquer comme d’habitude avec le vers inférieur suivant:

Lâm tri ngọan nguyệt, chích luân chuyển tác song luân.
Tới ao ngắm trăng, một vầng hoá ra hai vầng.

En contemplant la lune au bord de l’étang, on voit le disque de la lune devenir double.

Dans ces deux vers, les vocables  Điểm (trait) et Luân (luân) sont répétés  chacun deux fois. C’est aussi une façon ingénieuse de la désigner ainsi que  son frère pour rappeler que chacun d’eux devient ainsi deux dans ce distique.

Elle excelle  dans ce type de prose mais elle laisse jusqu’à aujourd’hui  au public quelques sentences difficiles à trouver la réplication appropriée. C’est le cas  du vers supérieur «  Da trắng vỗ bì bạch (La peau blanche « tapote» la peau blanche ) ». C’est une image visuelle, facile à imaginer, sexuelle mais très raffinée.

Selon l’on-dit,  elle  était en train de prendre  un bain  lorsque Trang Quỳnh surgit entre-temps  et lui demanda d’ouvrir la porte  de la salle de bain pour y être ensemble. Elle lui lança le  défi de trouver la sentence vraiment ardue pour pouvoir satisfaire à sa sollicitation.  Bì désigne la peau mais le vocable bạch signifie « blanc ». Ainsi bì  bạch  c’est la peau blanche.  Mais dans l’écriture démotique   (nôm) ce sont deux mots se rapportant à la fois  à l’image du son (vỗ), de la  peau (da) et de la couleur (trắng). La phrase « Da Trắng  Vỗ Bì Bạch » implique intentionnellement qu’il faut « tapoter » la partie la plus blanche du corps qu’on laisse apparaître au moment de la douche. C’est la partie la plus intime. Incapable de trouver la réplication appropriée, Trạng Quỳnh fut obligé de déguerpir.

Au cours des 300 dernières années, personne n’a trouvé une sentence appropriée  permettant de prendre en compte  un certain nombre de critères: le contenu, la structure, la catégorie, le nombre de mots utilisés etc. L’ordre d’emplacement des mots (noms, adjectifs ou verbes) doit être respecté ainsi que  la prise en considération  des règles d’opposition des registres sonores bằng et trắc. Certains ont déjà dit qu’il s’agit bien une sentence inappropriée (ou morte). À part son talent de savoir utiliser de manière ingénieuse les mots dans  les distiques, elle a composé  encore en caractères chinois un livre de contes intitulé « Nouveau recueil de légendes merveilleuses (Truyền kỳ tân phả) imprimé en l’an 1811» comprenant en tout 5 recueils remplis de saveur: Vân các thần nữ (La déesse du Palais des Nuages), Hải Khẩu linh từ (la Pagode du Port de Mer), An ấp liệt nử (l’héroïne du Hameau de la Paix), Yến Anh Đối Thoại (Dialogue entre l’hirondelle et le loriot) et Mai Huyễn (L’abricotier mystérieux).

Elle a également traduit le poème original de Chinh Phụ Ngâm Khúc (ou les plaintes de la femme d’un guerrier)  écrit en chinois par le savant lettré Đặng Trần Côn en 412 vers écrits en caractères démotiques (chữ nôm)  sous la forme poétique  de nom  Song Thất Lục Bát  (quatrain de deux-sept-six-huit). Il faut reconnaître que ce poème permet au lecteur de rentrer dans la confidence d’une femme éloignée de son mari, chargée de prendre soin de sa mère âgée et  de s’occuper de l’éducation  de jeunes enfants de son mari avec son cœur inconsolable tandis que son mari Nguyễn Kiều, a été envoyé en tant qu’ambassadeur en Chine depuis 3 ans comme un soldat envoyé à la frontière. Avec le  talent inouï de Đoàn thị Điểm, le poème chinois de Đặng Trần Côn qu’elle a traduit  devient un chef-d’œuvre par rapport à d’autres traductions et fait oublier au lecteur le modèle  « pâle » et « froid » trouvé dans le poème original.

C’est elle qui permet au lecteur de capter les émotions sincères et vibrantes de son âme, la solitude et la tristesse d’une femme éloignée de son mari. Selon le chercheur  Trần Cửu Chấn, membre de l’Académie des lettres et des arts de Paris, la traduction de Phan Huy Ich ressemble à un exercice scolaire par rapport au travail extrêmement remarquable de Đoàn Thị Điểm car elle a réussi à ressentir l’état d’âme et avoir de l’empathie  pour la femme du guerrier. C’est avec le chef-d’œuvre Chinh Phụ  Ngâm qu’elle a traduit en caractères  démotiques que son nom figure au sommet de la littérature du pays.  Quant à sa vie amoureuse, elle était très malchanceuse.  Elle  devait remplacer son frère décédé pour aider sa belle-sœur à élever  ses petits-enfants et subvenir aux besoins de sa vieille mère.

À cause de la situation familiale difficile, elle devait déménager avec sa mère, sa belle-sœur et ses petits-enfants au village Chương Dương situé au bord du fleuve Nhị Hà tout proche de Hanoï. Au début de son installation, elle dut exercer le métier du guérisseur traditionnel. Elle fonda ensuite une école dans le but de former de nouveaux talents pour servir le pays. Sa noble carrière attira beaucoup d’élèves. Durant la période d’enseignement, il y eut beaucoup de gens tentant de lui demander en mariage mais ce fut seulement en l’an 1743 qu’elle accepta de se marier avec  Nguyễn Kiều, un personnage très instruit et très talentueux (licencié à l’âge 18 ans et docteur d’état à l’âge de 21 ans). Au mois d’août de l’année 1748, au moment où elle suivit son mari pour aller à  la province Nghệ An, Đoàn Thị Điểm tomba malade et mourut le 11 du mois septembre de l’année du Chat de feu. Elle n’eut que 43 ans. Sa tombe  se trouve toujours dans le quartier  Phú Thượng, district de Tây Hồ, Hanoï.

[Return LITTERATURE]