Giếng nước (Puits)
Cây đa, mái đình, giếng nước là những thành phần không thể thiếu được trong bức tranh của các làng quê ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Bao lần đi tham quan chùa chiền hay đình làng ở miền Bắc thì lúc nào cũng thấy có cái giếng ở đâu đó. Người Việt cổ có quan niệm «thiên viên địa phương (trời tròn đất vuông)» nầy nên có thói quen chia mãnh đất ra làm chín lô với mô hình dựa trên chữ tĩnh 井 (giếng nước) viết bằng chữ Hán. Lô ở trung tâm dùng để xây cái giếng còn 8 lô xung quanh còn lại để xây cất nhà. Đây là đơn vi gia cư đâu tiên trong xã hội nông nghiệp và từ đó dẫn đến việc thành hình làng cổ. Giếng nước hay thường được thấy ở trong làng quê dưới dạng hình tròn tượng trưng cho trời, giếng hình vuông tượng trưng cho đất. Giếng còn thấy ở trước cổng chùa hay đình vì theo phong thủy, những nơi nầy được xem là « địa linh », là những nơi có « huyệt đạo » thì giếng ở đó không bao giờ cạn nước được dù có ở đỉnh núi cao như núi Nưa nơi thờ Bà Triệu (Thanh Hoá). Trong những ngày lễ hội, các bộ lão hay dùng nước giếng để nấu chè cúng thần linh ở đình hay Phật (ở chùa) và để tắm rửa các tượng. Ngoài ra giếng được xem bởi người dân trong làng là một không gian để hẹn hò gặp gỡ. Đi làm ở đồng về thì cũng ghé qua cái giếng nước để rửa mặt hay rửa tay cho mát, có khi lại uống nước nếu là giếng mát và sạch. Nói tóm lại ở đâu có làng là có giếng nên giếng được xem lúc nào là hồn xưa của làng, đấy là cái vẻ đẹp ngàn đời của nông thôn Việt Nam mà nhà thơ Nguyễn Bính nhắc đến trong không gian làng quê.
Trong văn hóa nhân loại thì giếng nước mang lại sự dồi dào, sung mãn và đầy đủ. Bởi vậy người Pháp hay thường dùng câu « nguồn hiểu biết » để ám chỉ các nhà học giả bởi vì họ biết lắm chuyện cũng như giếng nước, múc mấy cũng không cạn.
Giếng còn mang cả những huyền tích lịch sử và ý nghĩa tâm linh nữa. Ở đền Cổ Loa, huyện Đông Anh, thì có giếng Ngọc nằm ngay trước cửa đền An Dương Vương nhắc đến chuyện tình éo le của Trọng Thủy -Mỵ Châu. Ở trong khu đền các vua Hùng (Phú Thọ) thì có đền Giếng, nơi mà hai nàng công chúa Ngọc Hoa và Tiên Dung, con của Vua Hùng thứ 18 thường đến đây soi gương chải tóc. Còn ở hoàng thành Thăng Long (Hà Nội) thì qua các công trình khảo cứu, người ta tìm được cho đến ngày nay 26 giếng nước. Có nhiều tập tục vẫn còn giữ và có liên quan đến giếng nước chẳng hạn như đến thời điểm này, trai ở làng Diềm (Bắc Ninh) đi hỏi vợ vẫn mang gạo nếp ra, lấy nước ở giếng vo để thổi xôi đem đi hỏi vợ. Hay là ở làng Mông Phụ (Đường Lâm, Sơn Tây) có cái giếng được gọi là « giếng xin sữa ». Mặc dù giếng rất nhỏ, nhưng đã ngàn năm nay nước giếng vẫn luôn đầy và trong vắt. Những bà mẹ ở làng Đường Lâm thiếu sữa nuôi con thường đến làm lễ xin sữa, rồi uống nước giếng là có đủ sữa cho con bú. Ở phiá nam Hà Thành, các làng Mai Động và Hoàng Mai nhờ làm từ giếng nước nên món Đậu Phụ rất ngon cũng như ở Hội An với món Cao Lầu làm từ nước giếng Ba Lễ, một giếng cổ trứ danh của vùng. Trong kho tàng ca dao Việt Nam, hình tượng giếng nước rất khá phổ biến mà còn đa dạng về ý nghĩa và mang nhiều sắc thái thẩm mĩ độc đáo. Thưở xưa người thiếu nữ ở làng quê hay thường bị ép duyên lấy chồng bởi gia đình nên mới có sự may rủi và mới có câu dao như sau:
Thân em như hạt mưa rào
Hạt rơi xuống giếng, hạt và vườn hoa
Như cái giếng nước, người thiếu nữ phải chấp nhận số phận của mình:
Thân em như giếng giữa đường
Người khôn rửa mặt, người thường rửa chân.
Sống trong một xã hội phong kiến lạc hậu, người đàn ông vẫn thường được xem ưu tú trọng đãi, có thể làm nên sự nghiệp dù có nông nổi đi nữa. Còn đàn bà dù có sâu sắt chi cho mấy mà tấm lòng nông cạn cũng như cái khơi không sâu đựng trầu. Đây là một câu tục ngữ được sử dụng với nghĩa châm chọc và thể hiện trọng nam khinh nữ trong xã hội cũ.
Đàn ông nông nổi giếng khơi
Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu
Nói đến giếng nước thì không thể nào không nhắc đến bài « Ngọc tỉnh liên phú (Hoa sen trong giếng ngọc) » của Mạc Đỉnh Chi. Sen là loại cây mà sĩ phu Mạc Đỉnh Chi lựa chọn để bộc lộ tài năng xuất chúng và thiên tài chưa từng thấy. Vua Trần Anh Tôn ngần ngại phong ông làm « tiến sỹ » đầu tiên vì ông quá xấu xí vào thời điểm ông nhận bằng. Để thuyết phục nhà vua, ông tự ví mình như hoa sen trong giếng ngọc ở núi Hoa Sơn.
Giống quý ấy ta đây có sẳn
Tay áo nầy ta chứa đã lâu
Phải đâu đào , lý thô màu
Phải đâu mai, trúc dãi dầu tuyết sương
Cũng không phải tăng phường câu kỷ
Cũng không là Lạc Thủy mẫu đan
Cũng không là cúc, là lan
Chính là sen ở giếng vàng đầu non.
Giờ đây, trong quá trình đô thị hóa rất nhanh ở các vùng nông thôn khiến tạo ra một khuôn mặt mới ở các làng quê. Biết rằng đời sống kinh tế nó linh hoạt hơn, nó giúp dân ta ra khỏi nghèo đói nhưng nó cũng làm mất đi phần nào cái yên tĩnh, những tập tục, những nghề truyền thống, những kỷ niệm của một thời thơ ấu, những biểu tượng ở các làng quê. Giếng làng vừa thể hiện nét đẹp của làng quê mà vừa là nơi sinh hoạt rất thân thương nhưng giờ đây không còn nữa, được lấp đi để phân lô, xây nhà bê tông cột thép. Làm sao có thể bám giữ được « đất lề, quê thói » ? Đây là một thách thức không nhỏ để giữ được giá trị truyền thống của làng quê.
Giờ đây, trong quá trình đô thị hóa rất nhanh ở các vùng nông thôn khiến tạo ra một khuôn mặt mới ở các làng quê. Biết rằng đời sống kinh tế nó linh hoạt hơn, nó giúp dân ta ra khỏi nghèo đói nhưng nó cũng làm mất đi phần nào cái yên tĩnh, những tập tục, những nghề truyền thống, những kỷ niệm của một thời thơ ấu, những biểu tượng ở các làng quê. Giếng làng vừa thể hiện nét đẹp của làng quê mà vừa là nơi sinh hoạt rất thân thương nhưng giờ đây không còn nữa, được lấp đi để phân lô, xây nhà bê tông cột thép. Làm sao có thể bám giữ được « đất lề, quê thói » ? Đây là một thách thức không nhỏ để giữ được giá trị truyền thống của làng quê.