Eglises byzantines (Athènes, Grèce)

Version française

Để có thể được đến gần Đức Chúa Trời, Constantin Đại đế La Mã  đã không trì hoãn trong việc xây dựng các nhà thờ sau khi ngài cải đạo sang Công giáo và sau khi ngài đánh bại  Maxence ở trận cầu Milvian năm 312 và quyết định dời trụ sở của đế chế La Mã  về  ở Byzance thường  được gọi là Constantinople (hay là thủ  đô Istanbul ngày nay). Đây là sự  ra đời của Đế chế Byzantin ở nơi mà Cơ đốc giáo được  trải qua một thời phát triển mới ở phương Đông với sự xuất hiện của các công trình kiến trúc linh thiêng được song hành với một tiến hóa chính trị, xã hội và nghệ thuật  đặc biệt ở  trên vùng lãnh thổ rộng lớn (từ bờ biển phía bắc Phi Châu đến vùng châu Á và từ vùng Balkan đến miền nam của Syria) mà đế chế đã chinh phục được  qua nhiều thế kỷ. Người ta không những tìm thấy được  niềm khao khát vĩnh cửu của con người trong các công  trình này mà còn đây là phương tiện rất phổ biến để con người  có  thể hiện được khát vọng của mình đối với các bậc thần thánh.

Sự  khác biệt ở các nhà thờ Byzantine là có sự hiện diện của một mái vòm nằm  ở trung tâm thường được ví với vòm trời lơ lửng ở trên mặt đất. Nhờ đó nó mang lại ánh sáng ban ngày qua các cửa sổ nhỏ soi sáng không nhiều những bức tranh khảm nhỏ, các biểu tượng, các bích họa có nhiều màu và trang trí bằng vàng và  tạo ra được một  bầu không khí huyền bí giúp tín đồ thoát khỏi nơi trần thế và giao tiếp với Đức Chúa Trời. Các thần thánh được thể hiện từ trên  cao. Mái vòm thường bao gồm hình ảnh của Pantocrator (Chúa Kitô Toàn Năng), ngài quan sát và phán xét từng hành động của các tín đồ. Bên dưới, thì có Đức Mẹ của  Thiên Chúa (Theotokos) và Hài nhi được đặt  cao  chót vót trên các vị thánh chính và bên dưới  nửa các vị thần  thánh khác. Tuy nhiên các bức tranh tường và biểu tượng Byzantine này đã tạo ra một cuộc khủng hoảng trầm trọng mang tính cách  bài trừ thánh tượng. Nó  được kéo dài hơn một trăm năm giữa những người muốn hủy bỏ  bằng mọi giá việc tôn thờ các hình ảnh bằng cách tìm thấy có sự lệch lạc đức tin với chủ đích tà  đạo và những tín đồ biện minh cho việc sử dụng chúng như một phương tiện để tôn trọng những nhân vật được kính trọng.

Cuộc khủng hoảng này làm mất đi  một phần lớn các tác phẩm của nghệ thuật Byzantine đầu tiên do sự phá hủy triệt để các biểu tượng được trưng bài trên tường. May thay, nhờ nữ hoàng  nhiếp chính Theodora mà việc tôn thờ các biểu tượng đã được khôi phục lại  vào năm 843 và được công nhận là một phần không thể thiếu  được từ  đây trong nghi lễ. Bất chấp sự mất mát này, hình tranh ở trên tường giờ đây đã trở thành phương tiện phổ biến  của nghệ thuật Byzantine và giáo lý công giáo phương Đông trong các nhà thờ của đế quốc Byzantin trong khi các thiết kế hoa văn và hình học thì dùng lấp đi những khoảng trống ở trong các nhà thờ. Do đó, các trang trí trên tường chiếm toàn bộ nhà thờ Byzantine. Mặt khác, không có một tác phẩm điêu khắc nào được trông thấy trong các nhà thờ Byzantine vì đó là cách để phân biệt các nhà thờ nầy với thời cổ đại ngoại  đạo.

 

 Galerie des images

Pour pouvoir  se rapprocher de Dieu, l’empereur romain Constantin 1er le Grand ne tarda pas  à construire ses églises lors de sa conversion au christianisme après sa victoire sur Maxence à la bataille du pont Milvius en 312 et sa décision de transférer le siège de son empire romain à Byzance connue sous le nom de Constantinople (ou Istanbul d’aujourd’hui). C’est ainsi qu’est né l’empire byzantin dont le christianisme connut un nouveau essor en Orient avec l’apparition des édifices sacrés allant de pair avec une évolution sociale, politique et artistique  particulière dans le vaste territoire (de la côte d’Afrique du Nord à l’Asie et des Balkans au sud de la Syrie)  qu’il avait réussi à conquérir au cours des siècles. On trouve non seulement le désir humain d’éternité dans ces constructions mais aussi le moyen très répandu pour l’homme d’exprimer son aspiration au divin.

Les églises byzantines se distinguent toujours par la présence d’une coupole centrale comparée à la voûte céleste suspendue au dessus de la terre. Cela  fait entrer la lumière du jour par la multitude de petites fenêtres éclairant peu ainsi les mosaïques, les icônes, les fresques multicolores rehaussées d’or et crée une ambiance mystique permettant au fidèle de s’évader du monde terrestre et d’être en communication avec Dieu. Les sujets célestes se donnent à voir en hauteur. La coupole comprend souvent une représentation de Pantocrator (le Christ tout puissant) qui observe et juge chaque action du fidèle. Au dessous, l’abside  abrite la mère de Dieu (Theotokos)  et l’Enfant dominant eux-mêmes les principaux saints et au dessous d’autres saints. Pourtant ces représentations murales et ces icônes byzantines créent une crise  iconoclaste ayant duré plus de cent ans entre les gens qui veulent  détruire à tout prix le culte des images en y trouvant la déviation de la foi à des fins de l’idolâtrie et du paganisme et les croyants qui  justifient leur emploi comme le moyen de respecter les personnages vénérés. Cette crise fait perdre une grande partie du premier art byzantin par la destruction de ces représentations murales.  Heureusement, c’est grâce à l’impératrice régente Théodora que le culte des icônes fut restauré en 843 et reconnu comme partie intégrante de la liturgie. Malgré cette perte, l’iconographie  murale devient désormais  le véhicule  de l’art byzantin et du dogme chrétien oriental  dans les églises de l’empire byzantin  tandis que  les dessins floraux et géométriques comblent leurs espaces vides.  Les décorations murales occupent  ainsi l’ensemble de l’église byzantine.  Par contre aucune sculpture n’est visible dans les églises byzantines car il s’agit d’une manière de se distinguer de l’antiquité païenne.  

 

Anh Cả anh Hai

 

Tại sao ở trong Nam thay vì gọi anh Cả như ở miền Bắc  lại gọi anh Hai?

Version française

Có lần mình đi tham quan theo tour ở miền nam, có dịp nghe anh hướng dẫn kể cho tụi nầy về việc nầy. Theo chú nầy thì trong cuộc  hành trình Nam tiến của dân tộc ta thì người con cả phải ở lại cùng mẹ lo cho gia đình còn cha thì đi vào Nam một mình. Khi vào Nam một mình xa quê nhà hay thường lấy vợ thứ nên thường có con. Thì đứa con nầy thường được gọi là chị HAI hay anh HAI theo cấp bậc trong gia đình đông con  vì con đầu lòng đã có rồi ở ngoài Bắc.  Còn có một giả thuyết khác như sau: dưới triều nhà Nguyễn hay có thói quen kiêng gọi tên cúng cơm c ủa vua nên chẳng hạn ĐẢM  trở thành ĐỞM vì là Đảm là tên của  Nguyễn Phúc Đảm (vua Minh Mạng) (can Đảm trở  thành can đởm). Vua Minh Mạng có vợ tên là Hồ Thị Hoa, mẹ của vua Thiệu Trị nên cái cầu mà Tả quân Lê văn Duyệt xây cất ở gần một vườn hoa xinh đẹp ở Bến Nghé (Quận 1 ngày nay) được gọi lúc đầu là cầu HOA sau phải lấy tên là BÔNG. Vậy chữ Cả thì sao? Theo dã  sử có người cho rằng Cả bị kiêng cữ  vì  chỉ người con cả của vua Gia Long (hoàng tử  Cảnh) nên phải dùng chữ khác. Thật là vô lý vì  Hương  Cả  là chức đứng đầu trong làng ở Nam Bộ mà  vẫn thường  nghe dân gọi và vẫn dùng dưới thời Pháp thuộc. Như  vậy là không đúng. Chúng ta nên nhớ  lại người Việt ta thuộc ngữ Nam Á. Ngoài người Việt  còn  có rất nhiều dân tộc khác mà nay ta gọi là đồng bào thiểu số như Tai-Kadai, Nam Đảo, Mường, Hmông, Chàm  vân vân). Vì thế có sự vay mượn các  từ ở  trong ng ôn ngữ  của các bộ tộc thuộc về ngữ hệ Nam Á hay Nam Đảo. Ở Nam Bộ trước đây là lãnh thổ của nước Phù Nam mà người nước nầy giờ đây biết rõ không phải là người Cao Miên mà là người Nam Đảo cũng như người Chàm, người Mạ dù biết rằng nước Phù Nam bị nước Chân Lạp (Cao Miên)  thôn tính. Nhưng vì đất quá rộng nên chổ nào mà người Khơ Me chiếm ở thì người Phù Nam trở thành người Khơ Me vì  bị  đồng hóa còn chổ nào không bị chiếm như  ở Nam Bộ  thì họ vẫn là người Phù Nam thuộc về chủng Nam Đảo.  Từ sự gần gũi của chủng Nam Á  với  chủng Nam Đảo đã có cả nghìn năm theo các tài liệu nghiên cứu di truyền từ 20 năm g ần đây nên chuyện mượn từ HAK của người Phù Nam của chủng Nam Đảo ở  Nam Bộ  rất bình thường để chỉ con cái. Theo nhà văn Bình Nguyên Lộc, con CẢ mà người Phù Nam gọi là con HAK.  Như vây anh HAI, chị HAI là từ anh HAK, chị HAK của người  Phù Nam. Bởi vậy ở miền nam hay thường thấy người Việt nào có tóc dợn sóng đó là người có gốc Phù Nam còn người Việt không bao giờ  có tóc  dợn sóng cả  vì chúng  ta có  lai Mông Cổ  thuộc chủng Mông Cổ Phương Nam nên tóc rất thẳng.  

Version française

Pourquoi dans le Sud Vietnam au lieu d’appeler « Frère aîné  (Cả)» comme au Nord, on l’appelle « Frère Hai » ?

Une fois, alors que je  faisais une visite dans le Sud Vietnam, j’avais l’occasion d’écouter le guide  du car nous en parler. Selon lui,  lors de la marche de notre peuple vers le Sud, le fils aîné doit rester auprès de sa mère pour subvenir aux besoins de la famille tandis que son père engagé dans l’armée se rend tout seul dans le Sud. Loin de sa famille et de sa terre natale, il a l’habitude de prendre une seconde épouse et d’avoir un autre enfant. Celui-ci  sera appelé « sœur Hai » ou « frère Hai » car cela correspond au rang « DEUX » dans la famille composée de plusieurs enfants. Il existe une autre hypothèse comme suit:

Sous la dynastie des  Nguyễn, il y a une tradition de s’abstenir de toute action faisant référence au prénom du roi ou de ses proches. C’est pour cela que le mot ĐẢM est remplacé par le mot ĐỞM car ĐẢM est le prénom de Nguyễn Phúc Đảm (Roi Minh Mang) (can đảm signifiant courage est transformé en can đỏm). Le roi Minh Mang avait une épouse nommée Hồ Thị Hoa, mère du roi Thiệu Trị.  Le vice-roi Lê Văn Duyệt a construit près d’un magnifique jardin à Bến Nghé (premier arrondissement de Hồ Chí Minh Ville d’aujourd’hui) un pont portant à son début  le nom « pont fleuri  (cầu  HOA)» devenu plus tard « cầu BÔNG ». Selon l’on dit, le mot Cả n’est pas employé car il fait allusion au fils aîné du roi Gia Long (Prince Cảnh). C’est absurde car « Hương Cả » est le titre octroyé au premier personnage du village dans le Sud Vietnam, souvent entendu par la population et utilisé encore à l’époque coloniale française. C’est absurde car on ne fait jamais attention au rang ou au titre accordé.

On doit rappeler  que les Vietnamiens font partie du groupe austro-asiatique. Outre les Vietnamiens, il y a de nombreuses autres ethnies que l’on appelle désormais  des minorités ethniques telles que les Tai-Kadai, les Austronésiens, les Mường, les Hmong, les Cham etc.). Par conséquent, il y a toujours l’emprunt réciproque des mots dans le vocabulaire employé par ces ethnies. Au Sud Vietnam, jadis c’était le  territoire du royaume de Founan dont les habitants n’étaient pas les Khmers mais les Austronésiens comme les Cham et les Mạ dans la région Đồng Nai malgré l’annexion de ce royaume plus tard par le Chenla devenu plus tard l’empire angkorien  des Khmers. Comme leur  territoire était trop vaste, les Khmers n’arrivaient pas à  assumer leur présence partout. C’est pour cela que les Founanais  ne devenaient que les Khmers dans les endroits où le contact était possible grâce à la politique d’assimilation. Par contre dans d’autres endroits les Founanais continuaient à vivre comme avant.  

Étant donnée la proximité incontestable des groupes austro-asiatiques et austronésiens prouvée depuis des milliers d’années par les documents des travaux de  recherche génétique il y a  récemment une vingtaine d’années, l’emprunt du mot  HAK des Founanais appartenant au groupe austronésien  dans le Sud Vietnam par les Vietnamiens est très normal pour désigner les enfants.

Selon l’écrivain vietnamien Bình Nguyên Lộc, le fils aîné est appelé toujours sous le nom « Fils HAK »par les Founanais. Alors « sœur HAI » ou « frère HAI » employés par les Vietnamiens dans le Sud Vietnam  proviennent évidemment des  Founanais. C’est pourquoi dans le Sud Vietnam lorsqu’on rencontre un Vietnamien ayant des cheveux ondulés, on peut déduire qu’il est d’origine founanaise comme les Mạ dans la région Đồng Nai. Un pur Vietnamien n’a jamais les cheveux ondulés mais il a par contre les cheveux droits  car il  fait partie du groupe mongoloïde du Sud.

 

Rùa (Qui)

Rùa (Qui)

Version française

Trong kho tàng thần thoại Việt Nam, chúng ta thường thấy thần hay biến hoá thành rùa. Loại vật sống nầy rất hiếm  ở đất nước ta nhất là rùa có mai mềm ở sông Hồng và được xem coi là một linh vật trong tứ linh (Long, Li, Qui, Phụng). So với ba con vật kia, rùa là con vật duy nhất có thật  trong tự nhiên. Vã lại, nó có tuổi thọ rất  cao và có thể sống trong một thời gian dài không cần thức ăn nên được tượng trưng cho cuộc sống thanh tao thoát tục và thể hiện được sự trường thọ vĩnh cửu. Trong lĩnh vực tâm linh thì rùa được xem là một loại động vật hội tụ trời và đất hay là Âm và Dương. Bụng thì bằng phẳng  nên tượng trưng cho mặt đất (Âm)  còn phần gù (hay mai) của nó thì cho vòm trời (Dương). Nó thường được dân ta xem là một loại vật thiêng biết tiên tri và được thần thánh hóa trong tâm trí của người dân Việt. Dân tộc ta là một trong những dân tộc sống gần sông biển ở vùng Đông Nam Á và phiá nam sông Dương Tử. Bởi vậy  theo sự nhận xét của nhà khảo cứu Pháp Jean Przyluski thì trong các truyền thuyết của các dân tộc nầy thì thường thấy được các loại vật hiển linh của miền sông nước giúp đỡ các vua chúa chống giặc ngọai xâm hay dựng nước mà trong đó có rùa, rồng, rắn hay cá. Ngược lại không có ở trong các truyền thuyết của các dân tộc sống ở lục đia như Trung Hoa và Ấn Độ những loại vật hiển linh nầy.  Bởi vậy rùa thần đã hai ba lần xuất hiện trong truyền thuyết của dân tộc ta. Lần đầu rùa được ghi chép lại trong sách Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp, một tập sách viết bằng chữ Hán thu thập lại những chuyện kỳ lạ ở nước ta, có lẽ có từ đời nhà Trần.

 Sau khi Thục Phán diệt được nước Văn Lang của Hùng Vương, Thục Phán lấy tên là  An Dương Vương và đổi tên nước thành Âu Lạc và xây thành ở đất Việt Thường. Nhưng vua  không thành công trong dự án vì thành nầy đã nhiều lần bị băng lở. Một hôm trên mặt biển hiện lên một  con rùa vàng tự xưng sứ Thanh Giang , nói sõi tiếng người  và biết về tương lai. Nhờ sự giúp đỡ của rùa nên vua xây  thành xong  trong nửa tháng sau khi  Thanh Giang bày kế giết được con yêu quái Bạch Kê Tinh (một con gà trống  tu luyện được nghìn năm thành tinh). Thành nầy rộng hơn ngàn trượng xoán như hình trôn ốc nên được gọi là Loa Thành. Trước khi từ biệt vua thì rùa thần có dặn vua rằng xã tắc an nguy đều do mệnh trời nhưng nếu vua có thể tu đức thì kéo dài được thời vận. Sau đó còn tặng cho vua một cái vuốt để làm lẫy nỏ và để giử thành rồi trở về sông. Nhờ có nỏ thần nầy mà An Dương Vương giử được thành lúc tướng Triệu Đà cử binh sang đánh. Nhưng sau đó bị trúng kế của Triệu Đà mà An Dương Vương mới mất nước về sau khi gả nàng công chúa Mỵ Châu cho Trọng Thủy, con của Triệu Đà.

Rùa vàng còn giúp vua Lý Thái Tông khôi phục lại ngai vàng sau khi Lý Thái Tổ qua đời. Lý Thái Tông lên ngôi nhưng  chưa được bao lâu phải bỏ kinh thành phải ẩn trốn trong một hang động ở Tuyên Quang vì các em của ngài làm phản và tranh giành cướp ngôi (loạn Tam Vương). Rùa vàng hiện lên trong giấc mơ cho ngài biết sẽ giúp ngài lấy lại được ngôi vua. Bởi vậy  sau khi  dẹp loạn và nhớ đến công ơn của rùa nên vua phong cho rùa tước hiệu là Minh Phúc Đại Vương. Cho đến ngày nay còn thấy có miếu thờ rùa vàng tại làng Nghiêm Sơn ở tỉnh Tuyên Quang.

Rùa vàng còn được nhắc đến thời giặc Minh xâm chiếm nước ta ở đầu thế kỷ 15. Một người tên là Lê Thận có một hôm chài được một thanh gươm và rồi đem tặng thanh gươm nầy cho Lê Lợi sau khi ông theo Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa chống giặc Minh cùng Nguyễn Trãi. Sau khi đuổi được giặc Minh, một hôm vua Lê Lợi cưỡi thuyền rồng đi dạo quanh hồ Tả Vọng (nay là Hồ gươm ở Hà Nội) thì tự nhiên giữa hồ nhô lên khỏi mặt nước một con rùa to lớn. Vua thấy lạ nên truyền lệnh cho thuyền đi chậm lại. Rùa không chút chi sợ sệt cả  mà ngóng cổ nói: Bê hạ hoàn gươm lại cho ta để ta đem về cho Long quân.  Chính Long quân giúp ngài  ổn định lấy lại được đất nước. Vua vừa rút thanh gươm ra thì nhanh như chớp rùa hé miệng đớp lấy ngang lưỡi gươm. Rồi rùa lặn xuống nước biến mất. Rùa được xem là cận thần của Lạc Long Quân, người cha của dân tộc Việt trong các truyền thuyết và có nhiệm vụ giúp đỡ luôn luôn các  con cháu Việt tộc.  Từ đó hồ nầy được lấy tên là Hồ Hoàn Kiếm.  

Trong tín ngưỡng dân gian, thường thấy có cặp hạc hay cặp phụng  đứng trên lưng mai rùa ở hai bên cạnh án hương trong các chùa và các đình. Đây là  một cặp biểu tượng cho sự điều hoà Âm Dương. Còn ở Văn Miếu thì có 82  tượng rùa đội bia tiến sĩ trên lưng. Đây là  thể hiện sự trường tồn vì các tên của tiến sĩ được ghi danh từ đời nầy qua đời khác  theo thời gian  mà  còn biểu tựợng cho sức mạnh mà họ có vì họ là hiền tài,  là nguyên khí của quốc gia. Không vua nào không xây dựng chăm lo hiền tài vì khi nguyên khí mạnh thì quốc gia mới được  thịnh vượng. Còn nguyên khí suy thì nước sẽ yếu.

Rùa được xem là loại động vật rất linh ứng nên người Việt cho rằng rùa thường  mang lại sự may mắn cho ai gặp được. Họ hay thường gọi rùa bằng “cụ” và thương hại bản thân của cụ qua câu ca dao như sau:

Thương thay cái kiếp con rùa
Lên đình đội hạc, xuống đình đội bia.

Hiện nay giống rùa khổng lồ nầy được  liệt kê như  cấp cực kỳ nguy cấp trong sách đỏ IUCN từ năm2006 và được biết với cái tên khoa học là Rafetus swinhoei. Đây là loại rùa mai mềm sống ở sông Dương Tử hay ở sông Hồng. Sau khi cụ rùa ở Hồ Gươm qua đời thì trên thế giới hiện nay còn lại ba cá thể, một con đực già sống ở Trung Quốc và ở Việt Nam  một cá thể cái của loài này ở hồ Đồng Mô (Ba Vì) và một cá thể nữa ở hồ Xuân Khanh (Sơn Tây) gần đó. Hy vọng có  cơ hội ghép đôi sinh sản theo cơ quan chức năng bảo tồn nếu cá thể ở hồ Xuân Khanh là con đực còn không thì loại nầy sẽ bị tuyệt chủng trong tương lai.

Galerie des photos

TORTUE

La tortue géante à carapace molle

 Dans le trésor de la mythologie vietnamienne, on voit souvent le dieu de la mer se transformer en tortue marine. Cette espèce aquatique géante  est rare dans notre pays, en particulier la tortue à carapace molle du fleuve Rouge (sông Hồng) et elle  fait partie des quatre animaux au pouvoir surnaturel (dragon, licorne, tortue, phénix). Par rapport aux trois autres animaux, la tortue est le véritable animal existant dans la nature. En outre, elle a une durée de vie plus longue  et peut vivre longtemps sans nourriture. C’est pour cela elle est synonyme de l’évasion de la vie trépidante et de la longévité éternelle.

Dans le domaine spirituel, la tortue est considérée comme  l’animal symbolique de l’union du ciel et de la terre ou du Yin et du Yang. Son abdomen est tellement plat qu’il représente la terre (Yin) et sa carapace représente le dôme du ciel (Yang). Elle est souvent considérée par les Vietnamiens  comme un quadrupède sacré sachant faire des prophéties et elle est sanctifiée dans leur esprit. Celui-ci est l’un des peuples vivant tout près des fleuves et des mers de l’Asie du Sud-est et dans le sud du fleuve Yangzi. C’est pourquoi le chercheur français  Jean Przyluski est amené à conclure dans ses études qu’on voit souvent dans leurs légendes, des héros ou  des forces sacrées (ou esprits sous la forme des poissons, tortues, reptiles, tortues etc…) issus des eaux, aider les rois à consolider leur nation ou à résister aux envahisseurs. Par contre on ne trouve pas ces animaux sacrés dans les légendes venant des peuples vivant sur le continent comme la Chine ou l’Inde.

C’est pourquoi  on constate l’apparition de la tortue deux ou trois fois dans les légendes vietnamiennes. Pour la première fois, la tortue est  rapportée dans le livre intitulé « Histoires extraordinaires de Lĩnh Nam » de Trần Thế Pháp écrit en caractères Han et paru probablement à l’époque des Trần. Après avoir conquis le royaume Văn Lang des rois Hùng, Thục Phán décida de prendre le titre An Dương Vương et décida de construire la citadelle dans le territoire Việt Thường. Mais il ne réussit pas à achever son projet car la citadelle continua à s’éroder à plusieurs reprises. Un jour, à la surface de la mer, apparût une tortue d’or prétendant être l’ambassadeur Thanh Giang. Celui-ci savait  parler couramment  le langage humain et prédire l’avenir. Le roi réussit à construire la citadelle après que la tortue d’or lui avait suggéré un stratagème pour tuer le monstre Bạch Kê Tinh (un coq blanc réussissant à se métamorphoser en un être humain après mille ans). Cette citadelle était assez large et portait le nom « la citadelle en colimaçon » à cause de la présence de neuf spirales de terre. Avant de dire au revoir au roi, la Tortue d’Or recommanda  au roi de gouverner avec sagesse et vertu car cela permit de prolonger son règne. Puis elle lui remit une griffe dont le roi se servait pour faire la gâchette de son arbalète et retourna à la mer. Grâce à cette arme magique, le roi réussit à garder la citadelle et résister à l’armée d’invasion de Zhao Tuo (ou Triệu Đà). Mais An Dương Vương fut plus tard victime de la ruse de Zhao Tuo et perdit son royaume en acceptant de laisser sa fille Mỵ Nương épouser Trọng Thủy, le fils de son adversaire. La Tortue d’Or aida également le roi Lý Thái Tông à reprendre son trône après la mort de son père, le roi Lý Thái Tổ. Monté sur le trône, Lý Thái Tông dut abandonner bientôt la capitale et se réfugier dans une grotte à Tuyên Quang parce que ses jeunes frères s’étaient révoltés pour lui disputer le trône. La Tortue d’Or fut apparue dans son rêve pour lui faire savoir qu’elle l’aidera à reprendre le trône. Après avoir maté la révolte, le roi se souvint du mérite de la tortue, il n’hésita pas à accorder à  cette dernière le titre de « Minh Phúc Đai Vương ». À ce jour, il existe encore le sanctuaire dédié à cette Tortue d’Or dans le village de Nghiêm Sơn de la province de Tuyên Quang.

 La tortue d’Or  fut mentionnée également lors de l’invasion des Ming (ou Chinois) au début du XVe siècle. Un pêcheur  nom de Lê Thân repêcha un jour une épée et la donna à Lê Lợi, le futur roi de la dynastie des Lê postérieurs  lors de son soulèvement contre les envahisseurs chinois. Après avoir chassé les Ming, le roi Lê Lợi entama un jour une promenade sur un bateau-dragon autour du lac Tã Vọng (connu aujourd’hui sous le nom « Lac de l’épée restituée »). Au milieu du lac, une énorme tortue émergea subitement de la surface de l’eau. Le roi  trouva étrange cette apparition. Il ordonna à ses subordonnés de ralentir la barque royale.  La tortue s’en approcha et lui dit avec sa voix humaine: Seigneur, vous devez me rendre l’épée pour que je puisse la ramener au roi Dragon (*). C’est lui qui vous a donné cette épée pour pacifier le pays. Juste au moment où le roi sortit son épée,  la tortue d’or ouvrit sa bouche, la happa d’une rapidité effarante et disparut immédiatement sous l’eau. La tortue d’or est considérée toujours dans les légendes vietnamiennes comme le prétorien du roi Dragon, le père du peuple vietnamien et elle est chargée de veiller à la protection des Vietnamiens.  De ce jour, le lac Tã Vọng devient le lac Hồ Hoàn Kiếm (ou le lac de l’épée restituée). 

Dans les croyances populaires, on est habitué à trouver une paire de grues ou phénix debout sur le carapace des  tortues rangées de chaque côté du brûleur d’encens dans les temples et les maisons communales. C’est un couple d’animaux reflétant le rôle du fonctionnement de l’harmonie du Yin et du Yang. Dans le temple de la littérature (Văn Miếu) à Hànội, il y a 82 statues de tortues portant les stèles des lauréats sur leur carapace. C’est une façon d’immortaliser les noms des gens ayant obtenu le titre tiến sĩ (degré de docteur)  ainsi que ceux de leurs villages où ils étaient nés  car ceux-ci continuent à rester honorés au fil des générations et des années et ils symbolisent la force qu’ils ont  car ils sont les hommes de talent et la source de vie de la nation.  Aucun roi ne pense à négliger le recrutement de ces  hommes de talent car la source jaillissante fait la force d’un pays. Une source tarissant l’affaiblit.

On est habitué à considérer la tortue comme un quadrupède sacré. C’est pourquoi quand quelqu’un a l’occasion de la rencontrer sur le chemin, on dit qu’il est chanceux. On l’appelle sous le nom « Cụ (Oncle) » pour marquer le respect. On prend pitié de son sort à travers l’adage suivant:

Thương thay cái kiếp con rùa
Lên đình đội hạc, xuống đình đội bia.

On ne cesse pas de se lamenter sur le sort de la tortue
Obligée de porter les grues dans les maisons communales et les stèles ailleurs.

Actuellement, cette espèce aquatique géante est classée en danger critique d’extinction sur la liste rouge de l’UICN depuis 2006 et connue sous le nom scientifique « Rafetus swinhoei ». C’est une espèce de tortue à carapace molle vivant dans le fleuve Yanzi (Chine) ou le fleuve Rouge du Vietnam. Après le décès de la tortue du lac de l’épée restituée, il existe actuellement 4 individus dont l’un est très vieux et mâle vivant en Chine, le deuxième (une femelle confirmée grâce à l’analyse du gène) et le troisième (en cours de récupération)  sont au lac Đồng Mô (Ba Vì) et le dernier vit dans le lac Xuân Khanh tout proche (Sơn Tây). L’organisme vietnamien chargé de protéger les espèces entretient l’espoir de réaliser la fécondation avec succès si l’individu récupéré au lac Đồng  Mô ou Xuân Khanh est un mâle sinon cette espèce sera éteinte dans l’avenir.

Anciennes techniques de pêche (Cách thức cổ điển bắt cá)

 

Cách thức cổ điển bắt cá.

Nhũi là một dụng cụ dùng để bắt cá. Nó có hai cái cán bằng tre tréo vơi nhau dươí dạng hình chữ X mà ở giữa lại có một tấm « sáo » bện bằng những cọng tre vót nhỏ mà ở cuối đầu dưới thì có một miếng gỗ lưỡi mỏng. Khi cầm hai cán  nhũi đẩy thì một số lượng nước đi vào nhũi và thoát ra ở phiá sau qua các cọng tre chỉ còn ở lại cá,cua hay tôm. Người đi nhũi hay thường mang theo rọ tre để đựng cá.

Nhũi est un outil de pêche très efficace pour attraper les poissons. Il est constitué de deux longues manches en bambou attachées  en forme de croix au milieu desquelles se trouve une armature  creuse faite avec des  petites tiges de bambou et terminée à sa partie inférieure par un  mince morceau de bois. Au moment de son utilisation, il y a une quantité d’eau qui s’y introduit et s’échappe par derrière à travers ses tiges de bambou, ce qui permet de retenir les poissons, crabes et crevettes. Le pêcheur est habitué à emmener avec lui le panier à goulots pour contenir ces crustacés. 

 

Danse du lion ou de la licorne (Múa lân sư)

Version française

Múa Lân Sư

Nhắc đến Tết không có ai có thể không nhắc đến múa Lân. Đây là môn nghệ thuật múa dân gian được thấy trên đường phố ở Việt Nam. Nó được gọi là múa lân ở trong Nam còn ở ngoài Bắc thì gọi là múa sư (tức là sư tử (hay  wǔshī ). Lân là con linh vật  đứng hàng thứ nhì  trong bốn con vật có sức mạnh siêu phàm hay tứ linh (long, lân, qui, phụng). Trong văn hóa Việt nam, chúng ta thường bị lầm lẫn giữa  con kỳ lân với con ghê. Đặc điểm để phân biệt giữa nghê và lân là ở bộ móng, nghê mang móng vuốt còn kỳ lân mang móng guốc. Thật sự khi gọi kỳ lân, tức là nói đến một cặp: con đực gọi là kỳ và lân là con cái. Múa Lân thường được biểu diễn trong các dịp lễ hội, đặc biệt là Tết Nguyên Đán, Tết Trung Thu hay khánh thành cửa hàng mới vì các loại thú nầy tượng trưng cho thịnh vượng và hạnh phúc. Con lân có cái đầu được trang trí  trông rất đẹp mắt và thân thể của nó được nâng lên bởi một số vũ công uốn lượn theo nhịp điệu âm thanh của các tiếng trống. Nó luôn luôn đi cùng với một vũ công bụng phệ, vui cười hay vẫy quạt, thường đeo mặt nạ  và mặc áo choàng màu vàng nghệ (Ông Địa). Đây là cuộc khiêu chiến giữa người và động vật, giữa Thiện và Ác, luôn luôn kết thúc bằng chiến thắng của con người trên động vật.

Danse de la licorne ou du lion.

En évoquant le Têt, personne n’oublie de mentionner la danse de la licorne ou du lion. C’est un art de la danse folklorique que l’on trouve dans les rues du Vietnam. On l’appelle la danse de la licorne  dans le Sud et la danse du lion dans le Nord (ou wǔshī bính âm). La licorne  occupe la deuxième place parmi les  quatre animaux au pouvoir surnaturel (tứ linh)(long, lân, qui, phụng). Dans la culture vietnamienne, on a l’habitude de confondre la licorne avec le chien-lion (con nghê).  La principale caractéristique permettant de faire la  distinction entre la licorne  et le chien-lion  réside dans les doigts de pied, la licorne étant armée  des sabots et le chien-lion des griffes. Quand on parle de la licorne (Kỳ Lân), on a affaire à un couple d’animaux : kỳ c’est le mâle tandis que Lân est une femelle. La danse de la licorne  est souvent pratiquée lors des fêtes traditionnelles, notamment le Nouvel An lunaire, la fête de la Mi-Automne ou l’inauguration d’un nouveau magasin (ou une boutique) car ces animaux sacrés symbolisent la prospérité et  le bonheur. Cet animal légendaire dont la tête est  décorée magnifiquement et dont tout  le corps est porté par plusieurs danseurs, ondule au rythme des sons des tambourins. Il est toujours accompagné par un autre danseur hilare et ventru agitant son éventail et portant une robe de couleur safran (Ông Ðịa). C’est la danse-combat entre l’homme et l’animal, entre le Bien et le Mal qui se termine toujours par le triomphe de l’homme sur l’animal.

Tình bạn bè (L’amitié)

Tình Bạn Bè

Version française

Không tựa  như tình yêu, tình bạn bè đòi hỏi ít nhất những đức tính được tìm thấy ở một người nào đó để  rồi mới khơi dậy được tình cảm. Một số nhà tư tưởng Hy Lạp như Epicure và Ciceron nhận thấy ở trong tình bạn phải có dấu hiệu của thành tích cá nhân. Những người khác như Platon cho rằng tình bạn bè giữ một vai trò trọng yếu trong việc hình thành và duy trì các thành quốc Hy Lạp.

Đây cũng là trường hợp của Việt Nam, nơi mà tình bạn bè  không chỉ là xi măng xã hội mà còn là một trong năm mối quan hệ đặc ân mà được Nho giáo Việt Nam coi trọng trong việc duy trì  liên kết xã hội. Tình bạn không phải do ngẫu nhiên mà có bởi vì nó thường được gắn bó với môi trường xã hội mà chúng ta đang sống. Nhưng đây ở Việt Nam thì tình bạn bè luôn luôn được  gắn bó mật thiết với tầm nhìn của nho giáo. Đúng hơn, nó được sinh ra từ lòng quý trọng.

Không bao giờ có hàng rào giai cấp trong tình bạn cả.  Chúng ta  có thể kết bạn với ai đó nếu chúng ta tìm thấy ở họ có  những đức tính của một người hào hiệp. Người này không nhất thiết thuộc về tầng lớp quý tộc hay giai cấp tư sản. Tình bạn có được  sức sống và sức mạnh của nó từ những dữ kiện lịch sử mà được tiếp tục trích dẫn và kể lại cho đến nay  ở đất nước chúng ta.

Đây là trường hợp của mục phu  Ðào Duy Từ với chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Là tác giả cuốn « Ngọa Long Cương mục », học giả Ðào Duy Từ, chán với cuộc sống thế gian và thất bại  trong các kỳ thi quan lại vì nạn tham ô của các giám khảo, nên quyết định ẩn dật  ở Qui Nhơn thuộc miền trung Việt Nam. Để cung ứng cho nhu cầu của mình, ông đồng ý thành người chăn trâu. Sự hiện diện của ông đã được báo cáo cho chúa Nguyễn Phúc Nguyên.  Chúa nầy liền triệu tập ông ta vào dinh của mình. Thấy lãnh chúa tiếp mình với y phục buồng ngủ và mang đôi  màu xanh, ông liền dừng lại trước cổng. Ông mới nói với một người thân cận của chúa mà cũng là cha vợ của ông  là Trần Ðức Hòa như sau: Chúa thượng  xem thường tài năng của tôi. Bởi vậy chúa thượng mới rước tôi như một người tầm thường với y phục như vậy.

Được mách lại với sự nhận xét này, chúa  Nguyễn mới trở vào trong phòng, mặc lễ phục đàng hoàng và ra sân để chào đón Ðào Duy Từ. Nhìn thấy chủ nhân tiếp đón mình lần này với vẻ trang trọng, Ðào Duy Từ chịu quỳ xuống tạ tội. Bằng nghĩa cử cao cả này, chúa Nguyễn đã chứng tỏ cho Ðào Duy Từ  thấy ngài  không chỉ là người đáp ứng được  kỳ vọng  của ông mà còn là một lãnh chúa khôn ngoan và khoan dung.  Đào Duy Từ  không lâu trở thành cố vấn và tri kỷ của chúa Nguyễn.  Ông là tác giả của một số mưu kế chống lại chúa Trịnh, trong đó nổi tiếng nhất vẫn là mưu kế dựa trên cách chơi chữ được trình bày dưới dạng các câu thơ viết bằng chữ « nôm » trên một thẻ bài đặt trong khay hai tầng để  tuyên bố  sự  từ chối phục tùng của chúa Nguyễn với  chúa Trịnh Tác.

Mâu nhi vô dịch
Mịch phi kiến tích
Ái lạc tâm trường
Lực lai tương địch.

Cả triều đình không ai giải và hiểu nổi các câu thơ đành nhờ đến sĩ phu Phùng Khắc Khoan giải thích giùm. Chữ mâu (矛) viết không có dấu phết thì thành chữ dư (予). Chữ mịch (覔) mà bỏ chữ kiến (見) là chữ bất (不).  Chữ ái (愛) nếu viết thiếu chữ tâm (心) thì ra chữ thụ (受). Chữ lực (力) để cạnh chữ lai (來)  sẽ thành chữ sắc (勑). Như vậy  bốn câu trên là: dư bất thụ sắc (ta không nhận sắc) cùng với  tờ sắc phong  mà Trịnh Tác ban cho chúa Nguyễn.

Ông là người đưa ra các kế hoạch xây dựng các đồn lũy  Trường Dục và Ðồng Hới để đối mặt với các cuộc xâm lược của nhà Trịnh mà ông cũng là một trong những người chủ trương chinh phục và thôn tính các lãnh thổ ở  phía Nam (Chiêm Thành, Nam Kỳ) với các chiến sĩ nông dân. Nhờ Ðào Duy Từ, lãnh thổ của các chúa Nguyễn càng ngày càng bành trướng thêm. Nhờ tài trí và mưu kế, Đào Duy Từ đã đem lại cho chúa Nguyễn những gì mà Khổng Minh Gia Cát Lượng đã làm với Lưu Bị (Lưu Hoài Đức) vào thời Tam Quốc ở Trung Quốc.

Tình bạn cũng đồng nghĩa với lòng trung thành. Đây là trường hợp của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cùng hai bộ hạ của ông  Dã Tượng và Yết Kiêu. Yết Kiêu có tài  bơi lội xuất sắc mà Hưng Đạo Vương đã giao cho nhiệm vụ giữ  thuyền ở  bên bờ  sông trong cuộc dọ thám  chớp nhoáng ở  vùng đất của quân Mông Cổ. Bị  phát hiện và truy đuổi, Hưng Ðạo Vương đang do dự định đi  về hướng khác thì được  Dã Tượng nhắc nhở ông rằng Yết Kiêu tiếp tục đợi vẫn chờ ông ở bờ sông. Nhờ lòng tin cậy và tính hào hiệp mà Hưng Ðạo vương  luôn có  đối với các thuộc hạ trung thành nên ông đã được cứu trong gang tấc. Tình bạn này tiếp tục được tôn vinh cho đến ngày nay vì chúng ta không chỉ tìm thấy trên bàn thờ Hưng Ðạo Vương, vị anh hùng, mà còn có hai người hầu trung thành của ông.

Tình bạn bè bắt buộc phải có nghĩa vụ mà đôi khi có thể dẫn đến sự hy sinh. Đây là trường hợp của tướng Võ Tánh với chúa Nguyễn Ánh, vị hoàng đế tương lai Gia Long.

Cảm phục dũng cảm và mưu trí của Võ Tánh, chàng thanh niên Nguyễn Ánh đã không tiếc công sức để  kết bạn với ông mà còn  gả người em gái nhỏ của ngài cho ông tức là công chúa Ngọc Du. Vài năm sau Võ Tánh trở thành một trong những danh tướng tài ba của Nguyễn Ánh. Để chống lại quân Tây Sơn, ông được giao nhiệm vụ bảo vệ thành Qui Nhơn. Điều này làm nhà Tây Sơn phải huy động  nhiều tháng một lực lượng quan trọng. Mặc dù có lời năn nỉ của  Gia Long và những người thân cận nên từ bỏ Qui Nhơn, ông chọn lựa  tự sát thay vì đầu hàng khi thành phố thất thủ.

Đây cũng là một cái bẫy mà ông ta muốn giăng ra cho kẻ thù của mình nhưng cũng là một nghĩa vụ mà ông ta muốn đền đáp, như một dấu hiệu của tình bạn, lòng trung thành và lòng biết ơn, đối với Nguyễn Ánh bằng cách giúp Nguyễn Ánh  chiếm Huế rất dễ dàng hơn vì quân Tây Sơn rất ít ỏi. Học giả Ðặng Ðức Siêu, thượng thư  bộ lễ, được Nguyễn Ánh ủy nhiệm soạn bài tang lễ vài năm sau để tưởng nhớ Võ Tánh, tình bạn và lòng trung thành của ông.

Tình bạn bè là  nguyên nhân của một số truyền thuyết Việt Nam, trong đó nổi tiếng nhất vẫn là Lưu Bình Dương Lễ. Đây là câu chuyện kể lại một tình bạn chân thật  của hai chàng trai Lưu Bình và Dương Lễ. Lưu Bình xuất thân từ một gia đình giàu có trong khi Dương Lễ sống khổ cực. Lúc cha mẹ họ mất, Lưu Bình đón  rước Dương Lễ về nhà để  cùng chung  sống. Họ cùng  học giống nhau và có cùng sở thích. Nhận thức được hoàn cảnh bấp bênh của mình, Dương Lễ rất chăm học và cần cù. Mặt khác, Lưu Bình, ỷ lại  giàu có  mà lo ăn chơi trác tán. Đến ngày thi cử, Dương Lễ được  đổ  làm quan ở  vùng xa. Còn Lưu Bình thì  thất bại trong cuộc thi. Vì cuộc sống sa đọa nên mấy năm sau, Lưu Bình bị sạt nghiệp và chạy đến cầu cứu  ở người bạn là Dương Lễ.  Ngạc nhiên  vô  cùng, Lưu Bình  không được Dương Lễ tiếp đón nồng hậu mà còn cho thị vệ đuổi đi.

Bị đau đớn với sỉ nhục này, Lưu Bình  tự hứa với bản thân mà không thực  tin tưởng chi cho mấy rằng mình sẽ thành công trong cuộc thi  tới để mà rửa hận.Trên đường trở về quê, anh ta  ghé vào một quán trọ do Châu Long, một cô phụ nữ trẻ độc thân điều hành. Được  cô  nầy bày tỏ ra sự  thông cảm, Lưu Bình  tự  để  mình bị thuyết phục bởi sự động viên và quan tâm của cô  khiến anh ta  bắt đầu chuẩn bị học lại nghiêm túc cho cuộc thi  tới. Nhờ đó anh ta  thành công trúng cử  trong kỳ thi tới. Anh ta vội vả  trở  về phòng trọ báo tin vui  này cho Châu Long.

Anh quá  thất vọng vì nhà trọ đóng cửa và Châu Long đã biến mất. Anh ta đã nhanh chóng tìm bạn của mình là Dương Lễ để dạy cho anh nầy một bài học. Anh rất ngạc nhiên trước sự đón tiếp chu đáo và thân thiện của Dương Lễ. Anh ta định trách móc Dương Lễ về hạnh kiểm và thói đạo đức giả của anh nầy. Nhưng anh bất ngờ trước sự xuất hiện đột ngột của Châu Long. Sau đó anh mới được biết Châu Long là vợ thứ hai của Dương Lễ và Dương Lễ đã giao cho Châu Long nhiệm vụ giúp đỡ anh về vật chất và động viên anh trên con đường học vấn để mà thành công. Anh hiểu rằng đây chỉ là một kế hoạch do người bạn của mình nghĩ ra để giúp anh vượt qua mọi khó khăn. Vừa xúc động, anh ta hòa thuận lại với  Dương Lễ và  mạnh mẽ ôm lấy hắn.

Tình bạn hiếm khi bị cắt đứt ở vùng đất huyền thoại này. Chúng ta thường coi trọng tình bạn nầy cho đến cuối cuộc đời. Đây là trường hợp của  vua Gia Long với  Cha Cả Pigneau de Béhaine hoặc trường hợp của Hồ Chí Minh với ủy viên Pháp Jean Sainteny.

Mặc dù vua Gia Long  không có thiện cảm với các nhà truyền giáo nước ngoài, nhưng ngài vẫn thích chấp nhận sự hiện diện của họ trong thời kỳ trị vì của mình. Điều này phần lớn là do sự biết ơn  và lòng trung thành của ngài đối với người đàn ông đã liều mình che giấu và giúp đỡ ngài  giành lại ngai vàng cùng với những người lính đánh thuê người Pháp. Còn cụ Hồ Chí Minh, mặc dù có sự khác biệt về chính trị với Jean Sainteny, nhưng ông luôn dành sự quan tâm sâu sắc cho vị ủy viên này vì trong thâm tâm của họ, họ vẫn tôn trọng lẫn nhau. Mỗi người đều biết rằng dù muốn dù không khi ở phe đối lập  trong cuộc đối đầu, mỗi bên ai cũng cố gắng bảo vệ đất nước của mình bằng mọi giá. Các cuộc thương lượng kéo dài càng kéo dài thì lòng kính trọng giữa hai người càng ngày càng tăng lên. 

Sự  đối mặt không ngăn trở  được sự cảm tình và sự ngưỡng mộ lẫn nhau. Ánh  mắt của họ không ngớt  nhìn nhau trên chiếc thủy phi cơ đưa họ đến điểm hẹn ở Vịnh Hạ Long với đô đốc D’Argenlieu vào ngày 24 tháng 3 năm 1946. Tình bạn này đã minh chứng cho sự hiện diện và cảm xúc tột cùng của ủy viên Jean Sainteny trong ngày tang lễ của  cụ Hồ Chí Minh, vào ngày 9 tháng 9 năm 1969 tại Hànội mà Jean Sainteny đã tiết lộ sau này trong cuốn sách có tựa đề  « Face à Hồ Chí Minh », Seghers, 1970.

Tình bạn bè không chỉ là lối sống khôn khéo  mà nó còn phản ánh lối suy nghĩ của người  dân Việt đã được hun đúc bởi tầm nhìn của nho giáo  qua bao năm tháng.

L’amitié

A la différence de l’amour, l’amitié exige néanmoins des qualités trouvées en quelqu’un pour pouvoir faire naître les sentiments. Certains penseurs grecs comme Epicure et Cicéron voient dans l’amitié un signe de la réalisation personnelle. D’autres comme Platon accordent à cette amitié un rôle déterminant dans la formation et le maintien des cités.

C’est aussi le cas du Vietnam où l’amitié n’est pas non seulement un    ciment social mais aussi l’une des cinq relations privilégiées à laquelle la société confucéenne vietnamienne accorde une grande importance dans le maintien de la cohésion sociale. L’amitié ne naît pas par hasard car elle est liée d’une manière générale à l’environnement ou le milieu social où on vit. Mais ce n’est pas le cas du Vietnam où l’amitié est toujours en relation étroite avec la vision confucéenne. Elle est née plutôt de l’estime.

Il n’y a jamais la barrière sociale dans cette amitié. On peut se lier d’amitié avec quelqu’un si on trouve en ce dernier les qualités d’un gentilhomme. Celui-ci n’appartient pas nécessairement à l’aristocratie ou à la bourgeoisie. L’amitié puise sa vitalité et sa force dans les faits historiques qui continuent à être cités et relatés jusqu’à aujourd’hui  dans notre pays.

C’est le cas du bouvier Ðào Duy Từ avec le seigneur Nguyễn Phúc Nguyên. Auteur de la « Cime du Dragon couché » (Ngọa Long Cương), le lettré Ðào Duy Từ, lassé de la vie mondaine et de l’échec qu’il avait eu aux concours mandarinaux à cause de la corruption des examinateurs, préféra de se retirer à Qui Nhơn dans le Centre du Vietnam. Pour pourvoir à ses besoins, il accepta de devenir le gardien de buffles. Sa présence fut rapportée auprès du seigneur Nguyễn Phúc Nguyên. Celui-ci ne tarda pas à le convoquer dans sa résidence. En voyant le seigneur le recevoir avec une robe de chambre et des semelles de couleur verte, il s’arrêta devant le portail. Il dit à l’un des proches du seigneur qui n’était autre que  son beau-père Trần Ðức Hòa:

Le seigneur sous-estime mon talent. C’est pour cela je suis reçu comme une personne ordinaire avec cette tenue.

Saisi par cette remarque, le seigneur retourna dans sa chambre, s’habilla avec un costume d’apparat et se présenta dans la cour pour accueillir Ðào Duy Từ. En voyant le seigneur le recevoir cette fois avec solennité, Ðào Duy Từ accepta de s’agenouiller et de lui présenter ses excuses. Par ce geste magnanime, le seigneur montra à Ðào Duy Từ qu’il était non seulement à la hauteur de son attente mais aussi un homme de valeur, de sagesse et de tolérance. Ðào Duy Từ ne tardait pas à devenir son conseiller et son confident. Il était l’auteur de plusieurs stratagèmes contre les Trịnh dont le plus connu restait le stratagème s’appuyant sur un jeu de mots présentés sous forme de vers écrits en « nôm » sur une carte rangée dans un plateau à deux étages pour signifier au seigneur Trịnh Tác le refus de soumission du seigneur Nguyễn.

Mâu nhi vô dịch
Mịch phi kiến tích
Ái lạc tâm trường
Lực lai tương địch.

Toute la cour n’arrivait  pas à donner des explications  aux quatre vers trouvés sur cette carte placée  dans ce plateau et était obligée de recourir au talent du lettré de ce temps Phùng Khắc Khoan.  Le mot (矛)  sans virgule devenait le mot  dư (予). Le mot  mịch (覔) dépourvu du mot kiến (見) était le mot bất (不). Le mot  ái (愛) écrit sans le mot  tâm (心) n’était autre que le mot  thụ (受). Le mot  lực (力) trouvé côte à côte avec le mot   (來) devenait ainsi  le mot  sắc (勑). On pouvait donner à ces 4 vers l’interprétation suivante: dư bất thụ sắc (Je refuse la nomination royale).

Il était à l’origine des plans des fortifications de Trường Dục et Ðồng Hới pour faire face aux invasions des Trịnh mais il était aussi l’un des acteurs préconisant la conquête et l’annexion des territoires du Sud ( Champa, Cochinchine ) par l’intermédiaire des paysans soldats. Grâce à Ðào Duy Từ, le territoire des seigneurs Nguyễn s’agrandit ainsi. Par son ingéniosité et par ses stratagèmes, Ðào Duy Từ a su apporter aux seigneurs Nguyễn ce qu’avait fait le conseiller Zhuge Liang (Khổng Minh Gia Các Lượng ) à Liu Bei (Lưu Hoài Ðức) à l’époque des Trois Royaumes en Chine.

L’amitié est aussi synonyme de fidélité. C’est le cas du général Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn avec ses serviteurs Dã Tượng et Yết Kiêu.  Ce dernier était un excellent nageur à qui Hưng Ðạo Vương avait confié la tâche de garder l’embarcation au bord d’un fleuve lors d’une excursion éclair sur le terrain des Mongols. Découvert et poursuivi par ces derniers, Hưng Ðạo Vương, hésitant et étant sur le point de prendre une autre direction, fut rappelé par son serviteur Dã Tượng que Yết Kiêu continuait à l’attendre au bord du fleuve. Grâce à la confiance et la magnanimité que Hưng Ðạo avait su entretenir toujours envers ses subordonnées et à leur fidélité infaillible, il fut sauvé de justesse. Cette amitié continue à être honorée jusqu’à aujourd’hui car on trouve non seulement sur l’autel dédié à Hưng Ðạo Vương, le héros lui-même mais aussi ses deux fidèles serviteurs.

L’amitié impose des devoirs qui peuvent même parfois conduire jusqu’au sacrifice. C’est le cas du général Võ Tánh avec le jeune seigneur Nguyễn Ánh, le futur empereur Gia Long. Admirateur de la bravoure et de la témérité de Võ Tánh, le jeune Nguyễn Ánh ne tardait à se lier d’amitié avec lui et à lui accorder la main de sa petite soeur, la princesse Ngọc Du. Võ Tánh devint quelques années plus tard l’un des généraux brillants de Nguyễn Ánh. Pour contrer l’armée des Tây Sơn ( ou Paysans de l’Ouest ) , il fut chargé de protéger la ville Qui Nhơn. Cela permit de mobiliser durant des mois entiers le gros des forces de Tây Sơn. Malgré les supplications de Gia Long et de ses proches d’abandonner Qui Nhơn, il préféra de se suicider au lieu se rendre lors de la chute de la ville.

C’était un piège qu’il voulait tendre à ses ennemis mais aussi un service qu’il rendait, en signe d’amitié, de fidélité et de reconnaissance, à Nguyễn Ánh en permettant à ce dernier de prendre Huế plus facilement car celle-ci était dégarnie entièrement. Le lettré Ðặng Ðức  Siêu, ministre des rites, fut chargé par Nguyễn Ánh de composer quelques années plus tard une oraison funèbre en l’honneur de Võ  Tánh, de son amitié et de sa fidélité.

L’amitié est à l’origine de plusieurs légendes vietnamiennes dont la plus célèbre reste Lưu Bĩnh Dương Lễ. C’est l’histoire d’une vraie amitié, celle de deux garçons Lưu Bình et Dương Lễ. Lưu Bình était issu d’une famille riche tandis que Dương Lễ vivait dans la misère. A la mort de leurs parents respectifs, Lưu Bình accueillit Dương Lễ dans sa maison et le fit profiter de son aisance. Ils faisaient les mêmes études et partageaient les mêmes loisirs. Conscient de sa situation précaire, Dương Lễ était studieux et laborieux. Par contre, Lưu Bình, fort de son héritage, s’adonnait aux plaisirs et aux jeux. Le jour des concours nationaux, Dương Lễ fut reçu au poste du gouverneur dans une contrée lointaine. De son côté Lưu Bình échoua. A cause de sa vie de débauche, il fut ruiné quelques années plus tard et alla chercher de l’aide auprès de son ami Dương Lễ. A sa grande surprise, il ne fut pas reçu par Dương Lễ et fut chassé par les gardes de ce dernier.

Meurtri par cette humiliation, il se promit sans trop y croire de réussir l’année prochaine aux concours afin de faire sa revanche.

Sur le chemin de retour dans son village natal, il s’arrêta dans une auberge tenue par Châu Long, une jeune femme célibataire. Comme celle-ci lui témoignait de la sympathie, Lưu Bĩnh finit se laisser convaincre par ses encouragements et ses attentions et se remit a préparer sérieusement son concours. Il réussît brillamment à la session suivante. Il se dépêcha de retourner à l’auberge pour annoncer cette nouvelle à Châu Long.

Il fut déçu car l’auberge était fermée et Châu Long avait disparu. Il ne tardait pas à aller chercher son ami Dương Lễ pour lui infliger une leçon. Il fut surpris par son accueil en grande pompe et son amabilité. Il fut sur le point de reprocher à Dương Lễ sa conduite et son hypocrisie. Mais il fut étonné par l’apparition subite de Châu Long. Il apprit par la suite que Châu Long était la seconde femme de Dương Lễ et que celui-ci lui donnait pour mission de l’aider matériellement et de l’encourager sur le chemin de la réussite. Il comprit qu’il s’agissait d’un plan élaboré par son ami pour l’aider à surmonter ses difficultés. Emu, il se réconcilia avec Dương Lễ et l’embrassa fortement.
L’amitié se rompt rarement sur cette terre des légendes. On préfère de l’honorer jusqu’à la fin de la vie. C’est le cas de l’empereur Gia Long avec Monseigneur Pigneau de Béhaine ou celui de Hồ Chí  Minh avec le commissaire Jean Sainteny.

Le premier, malgré son antipathie envers les missionnaires étrangers, préférait tolérer leur présence durant son règne. Cela a été dû en grande partie à sa reconnaissance et sa fidélité à la mémoire de l’homme qui avait risqué sa vie pour le cacher et le nourrir et qui l’avait aidé à reconquérir le trône avec ses mercenaires français.

Quant au second, malgré sa divergence politique avec Jean Sainteny, il avait toujours un égard profond envers ce commissaire car au fond d’eux-mêmes, ils se respectaient mutuellement. Chacun savait que quand on était bon gré mal gré dans la partie adverse et dans l’affrontement, on essayait  de défendre  chacun à tout prix sa patrie. Plus les discussions traînaient en longueur, plus de l’estime naissait entre ces deux hommes. Le face à face n’empêchait pas la  sympathie et leur admiration réciproque. Leur regard se croisait inlassablement dans l’hydravion qui les conduisit le 24 Mars 1946 au rendez-vous de la baie d’Along avec l’amiral D’Argenlieu. Cette amitié témoignait de la présence ultime et de l’émotion de Jean Sainteny lors des funérailles de Hồ Chí Minh, le 9 Septembre 1969 à Hànội, ce qu’a révélé plus tard Jean Sainteny dans son livre « Face à Hồ Chí Minh », Seghers, 1970.

L’amitié n’est pas seulement sur cette terre des légendes une voie de sagesse mais elle reflète aussi le mode de pensée du peuple vietnamien qui a été  façonné au fil des années par la vision confucéenne.

 

 

 

 

 

 

 

Les maisons funéraires des Jaraï ( Các nhà mộ của người Gia Lai)

Nhà mộ của người Gia Lai (hay Gia Rai)

Version française

Ai  đã có dịp đến tham quan viện bảo tàng Hà Nội thì thấy  ngôi nhà mộ của người Gia Lai được dựng theo  nguyên mẫu của ngôi nhà mộ của làng Kép Pinh huyện Chư Pả, tỉnh Gia Lai. Dân làng ở đây không dám làm nhà mồ  nầy cho bảo tàng vì không có lễ bỏ mả (hay lễ Pơ Thi), một lễ được xem là quan trọng theo tập tục của người Gia Lai. Nếu làm thì họ sẽ bị hồn ma hại. Vì vậy phải nhờ đến năm người Gia Lai của một làng khác để mà xây dựng. Theo nhà khảo cổ học Việt Ngô Văn Doanh,  nghi thức mai táng của người Gia Lai không những có sự tương tự  với các dân tộc  Tây Nguyên như dân tộc Bà Na chẳng hạn  mà luôn cả  với các dân tộc thiểu số ở Đông Nam Á và Thái Bình Dương.

Nhìn thoáng qua nhà mồ của người Gia Lai thì cảm thấy rợn người vì nó có vẻ huyền  bí nhất là ở xung quanh mộ có một hàng rào (krep) được dựng với các cột trụ tạc bằng rìu  không có trau chuốt tĩ mĩ. Đây là cách gợi và tạc các bức tượng bằng gỗ rất sinh động và có mang tín ngưỡng phồn thực: cảnh sinh hoạt tình dục của vợ chồng với các bộ phận sinh dục không cân xứng, nam nữ giao hợp, phụ nữ có thai, nhân vật ngồi xổm, người ôm mặt với hai tay vân vân … Chính các bức tượng  ôm mặt nầy được phổ biến và đựợc thấy ở 4 góc bờ  hàng rào. Theo các dân làng thì các tượng gỗ nầy là những kẻ phục vụ và hầu hạ ma người chết khi chưa có làm lễ bỏ mả. Thưở xưa người hậu hạ bị chôn sống theo người  địa chủ giàu  chết. Ngày nay hình tượng nầy gợi lại cái cảnh thân nhân đến viếng thăm mộ, mang thức ăn để « nuôi dưởng người chết » hằng ngày qua chiếc ống cấm sâu xuống lòng  ngôi mộ và buồn rầu than thở trong tư thế ngồi xổm trên mộ hai tay chống lên đầu gối hay ôm má. Các bức tượng bằng gỗ nầy chỉ được dựng và trông thấy cùng các mái nhà trang trí trước thời gian ngày lễ bỏ mả.

Đối với người Gia Lai, chết không phải là kết thúc cuộc sống này mà là sự khởi đầu của một cuộc sống khác ở thế giới bên kia. Linh hồn mà người Gia Lai gọi là « m’gàt » sẽ trở thành một vong linh hay hồn ma (hoặc atâu theo tiếng Gia Lai). Từ  đó người chết trở về  sống với tổ tiên ở  trong thế giới thần linh (poloi atâu).  Nhưng  trước khi lễ  bỏ  mả,  hồn ma cũng cần có thức ăn, quần áo và một cái nhà nhỏ tạm thời  để ở cũng như bao nhiêu người  thân thuộc còn sống  với các dụng cụ cần thiết để ma người chết sẽ đem theo sang sống ở thế giới bên kia nhưng tất cả được thu nhỏ lại bằng gỗ (rìu, dao, cuốc, gùi, vỏ bầu đựng nước vân vân…) Bởi vậy thường thấy dựng tạm trên mộ một ngôi nhà nhỏ. Đấy là nhà của ma người chết (hay bang atâu). Nhà mộ dài  8,25 thước và rộng 2,25 thước. Tính luôn  cả hàng rào bao chung quanh thì ngôi nhà mộ có một diện tích khoảng 45 mét vuông. Bởi vậy  người Gia Lai có tục chôn chung  có nghĩa là trong một mộ lớn như vậy có thể chứa  được nhiều quan tài thuộc những người thân thuộc với nhau. Nhà mộ có gắn liền với lễ bỏ mả. Thời gian tang chế  có  thể  mấy tháng mà cũng có thể cả năm trời, gia đình của người chết cố  kéo giữ hồn ma ở  lại trong gia đình. Thời gian nầy thường gọi là thời gian  bảo trì  ngôi mộ (dja m’xàt) thì người  thân thuộc phải đến dọn dẹp nhà mồ  thường xuyên, phải đem thức ăn cho  người chết và phải cúng kiến heo gà mỗi tháng. Theo tập tục  thì  hồn ma vẫn hiện diện ở chung quanh nhà mồ tạm. Mỗi năm, sau mùa mưa và sau khi kết thúc mùa thu hoạch thì  thấy người Gia Lai hay thường tổ chức lễ bỏ mả trong những ngày trông sáng ba ngày liên tục nhưng trước đó họ phải dành cả mấy tháng trời để dựng  một ngôi nhà mới  lại  thay thế  ngôi nhà tạm nhỏ  bé nhưng ngôi nhà nầy  nó chỉ là một cái xác vật chất không có linh hồn vì ma người chết đã  đi về với tổ tiên trong thế giới thần linh. Trong ba ngày lễ nầy, mọi người tổ chức ăn cỗ linh đình, uống rượu cần, tấu cồng chiêng, cùng nắm tay nhau múa vũ điệu truyền thống. Từ đây  các người thân thuộc của người chết mới cắt đứt vĩnh viễn mối quan hệ  với người chết. Người goá vợ hay góa chồng có  quyền lập lại cuộc đời. Còn nhà mộ nó tự  phân hủy một cách tự nhiên theo ngày tháng dù nó có hoành tráng hay trang trí thật đẹp vì theo tập tục, người thân thuộc mong rằng người chết có được một cuộc sống tốt đẹp ở thế giới bên kia. Tuy nhiên, nhà tang lễ  nầy  rất đáng được chú ý về mặt nghệ thuật và văn hóa qua  một số  tượng hình trang trí, các hoa văn được thấy trên các mái nhà của nhà mộ  để nói lên sự luân hồi của kiếp người cũng như sinh sôi nảy nở theo quan niệm của dân tộc Tây Nguyên.

Version française

Quiconque a eu l’occasion de visiter le musée d’ethnographie de  Hanoï voit probablement la maison funéraire des Jaraï construite suivant  le modèle du village Kep Pinh du district de Chu Pa de la province de Gia Lai. Les gens  de ce village n’osent pas la bâtir  pour le musée car il n’y a pas la cérémonie d’abandon de la tombe (ou cérémonie Pơ Thi), qui est considérée comme importante selon les coutumes des Jaraï.  En cas de construction de cette maison funéraire, ils seront punis par les esprits. C’est pour cela que le musée doit compter sur cinq personnes issues d’un autre village pour la construire. Selon l’archéologue vietnamien Ngô Văn Doanh, les rites funéraires des Jaraï ont non seulement des similitudes à celles des ethnies des Hauts Plateaux du Centre Vietnam (comme les Bahnar) mais aussi à  celles d’autres minorités ethniques de l’Asie du Sud- Est et de l’océan Pacifique.  En jetant un coup d’œil sur la tombe des Jaraï,  il  est possible d’être effrayé  car elle paraît être mystérieuse du fait qu’il y a autour de cette tombe, une palissade (krep) faite  de piliers massifs (ameh) sculptés sans aucune  finition avec des haches. C’est une façon d’évoquer  des sculptures très expressives en bois liées au culte de fertilité: des scènes d’activités sexuelles  entre mari et femme avec des organes génitaux démesurés,  des copulations entre hommes  et femmes,  des femmes enceintes,  des figures  accroupies, des personnages  se serrant le visage  avec leurs mains etc… Ce sont ces derniers qui sont de loin les plus populaires et qu’on retrouve aux quatre coins de la clôture.  Selon les villageois, ils représentent les gens destinés à servir les morts lorsque la cérémonie d’abandon de leur tombe n’a pas encore lieu.

Autrefois, les serviteurs  devaient  être enterrés vivants avec leurs riches propriétaires qui venaient  d’être décédés. Aujourd’hui, ces sculptures rappellent bien la scène où les  proches du défunt doivent rendre visite à sa maison funéraire  et alimenter quotidiennement  son « esprit » par l’intermédiaire d’un tuyau enfoncé au fond de sa tombe et se lamenter en position accroupie sur sa tombe avec les deux mains sur les genoux ou sur la joue. La mise en place de ces figures en bois en même temps que la décoration réalisée sur les toitures doit avoir lieu  juste avant  la période précédant la cérémonie d’abandon de la tombe.

Pour les Jaraï, la mort n’est pas la fin de cette vie mais le début d’une autre vie dans l’au-delà. L’âme que les Jaraï appellent  « m’gat »  se transforme en un un fantôme ou un esprit  (ou atau en Gia Lai). Désormais il rejoindra ses  ancêtres vivant dans le monde des esprits (poloi atau). Mais avant la cérémonie d’abandon de la tombe, le fantôme a besoin de nourriture, de vêtements et d’une petite maison temporaire pour y vivre comme ses proches encore en vie  avec les outils nécessaires au quotidien et emmenés avec lui dans la vie d’au-delà. Ceux-ci  sont réduits en miniature  (hache, couteau, pioche, hotte, calebasse d’eau etc…). C’est pourquoi on est habitué à voir l’installation temporaire  d’une hutte  sur la tombe. C’est la maison de l’esprit du défunt (ou bang atau). La tombe mesure 8,25 mètres de long et 2,25 mètres de large.

Y compris la clôture environnante, la maison funéraire a une superficie d’environ 45 mètres carrés. Les Jaraï ont la coutume d’enterrer ensemble les morts, ce qui signifie qu’une tombe aussi grande peut contenir de nombreux cercueils appartenant à des personnes proches les unes des autres.

La maison funéraire est associée souvent  à la cérémonie d’abandon de la tombe. La période de deuil peut durer des mois voire des années. La famille du défunt tente de garder le plus longtemps possible  le fantôme dans la famille. Cette  période est souvent appelée période d’entretien de la tombe (dja m’xàt): les proches doivent nettoyer régulièrement la tombe, apporter de la nourriture pour les morts et faire des offrandes alimentaires (poulets, porcs) tous les mois.

Selon la coutume, le fantôme ou l’esprit du trépassé est  toujours présent autour de la hutte provisoire. Chaque année, après la saison des pluies et après la fin de la saison des récoltes, les Jaraï organisent souvent la cérémonie d’abandon de la tombe  durant les trois jours lumineux consécutifs  mais avant cela, ils doivent passer plusieurs mois à construire la maison funéraire. Celle-ci va remplacer  la hutte provisoire  mais elle n’est qu’une  carcasse physique sans âme car l’esprit du défunt  est déjà parti pour rejoindre ses ancêtres dans le monde des esprits. Durant ces trois jours, les gens s’organisent pour faire le festin, boire de l’alcool de riz, jouer des gongs, se tenir la main  dans les danses traditionnelles.

Désormais, les proches du défunt  couperont définitivement les liens avec le mort. Les veuves ou les veufs ont le droit de refaire leur vie. Quant à la maison funéraire, elle se décompose naturellement au fil des années malgré qu’elle soit grandiose ou magnifiquement décorée. Selon la coutume, les proches espèrent que le trépassé  aura  une belle vie dans l’au-delà.

Cependant, cette maison funéraire mérite de retenir une plus grande  attention artistique et culturelle à travers un certain nombre de figurines décoratives et de motifs retrouvés  sur les deux toits principaux et sur les deux petits toits à pignons triangulaires car cela représente la réincarnation de la vie humaine ainsi que la fécondité selon le concept du peuple des Hauts Plateaux.

 

 

Les eunuques de la dynastie des Nguyễn (Thái giám dưới triều đại nhà Nguyễn)

Version française 

Thái giám dưới triều đại nhà Nguyễn

 

Khác với người bình thường, thái giám hay hoạn quan là người chuyên hầu hạ và phục vụ vua chúa dưới thời phong kiến. Đất nước ta có ba người đại tài hoạn quan và có công trạng ít ai có thể so sánh bằng vì họ  đem lại không những cho dân tộc ta một trang sử  vẻ vang rạng rỡ  vào bậc nhất mà còn cả niềm tự hào lớn lao. Đó là danh tướng  hoạn quan vĩ  đại nhất dưới triều đại nhà Lý, Lý Thường Kiệt, có công phá Tống bình Chiêm. Sau đó là Nguyễn An, kiến trúc sư tài năng bị lưu đày về Trung Quốc  bởi tướng Trương Phụ khi nhà Minh xâm chiếm Việt Nam và  làm thái giám với tên gọi A Lưu. Chính ông là người  kiến trúc trưởng thiết kế trong việc xây cất  Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh   dưới thời Minh Thành Tổ  Chu Đệ (Vĩnh Lạc). Sau cùng Lê Văn Duyệt  là một khai quốc công thần nhà Nguyễn mà đền thờ của ông  được mọi người chiêm bái ở Sàigon (hay thành phố Hồ Chí Minh) và  được gọi là Lăng Ông. Ông là người có công trạng bình định và phát triển vùng đất Nam kỳ với chức vụ Tổng Trấn Gia Định.

Tục lệ kén chọn hoạn quan nầy đã có từ thời nhà Lý nhưng nhiệm vụ chỉ để hầu hạ vua  chớ  không có quyền can dự chính sự và không có khả năng chuyên quyền  như  ở Trung Hoa  với hoạn quan Triệu Cao của Tần Thủy Hoàng  ở giai đoạn cuối của nhà Tần. Nếu sinh ra mà phi nam phi nữ gọi là giám sinh. Còn tự thiến thì gọi là giám lặt. Còn một khi vào đại nội để chuyên hầu vua thì gọi là yêm hoạn hay hoạn quan tức là  kẻ hạ đẳng phục vụ  chốn hoàng cung. Lý Thường Kiệt, ông là cháu năm đời của Ngô Quyền. Theo  lời kể trong quyển sách « Kể chuyện các quan thái giám trong lịch sử Việt Nam » của tác giả Phạm Minh Thảo thì mẹ ông, bà Hàn Diệu Chi trước khi có bầu sinh ra ông thì có gặp một ông lão già xem thiên văn tiên đoán rằng bà sẽ có  tin vui, có một người con trai khôi ngôi tuấn kiệt, sẽ uy danh lừng lẫy không những mang lại vinh quang cho dòng họ Ngô mà còn làm  rạng rỡ  nước Nam ta nữa nhưng có một điều là không có con để nối dòng. Ông khởi đầu sự nghiệp với một chức quan kỵ mã hiệu uý dưới triều nhà Lý. Tuy có vợ nhưng không có con. Có một lần đi săn, vua Lý Thái Tông gặp được ông đem lòng qúi mến nhưng muốn được ở gần vua thì phải « tự yêm ». Còn với Nguyễn An thì cuộc đời rất trôi nổi lúc còn trẻ. Ông bị tướng nhà Minh Trương Phụ lưu đày mang về Trung Hoa để làm hoạn quan phục vụ trong cung vua nhà Minh sau khi chiếm nước ta và không ngần ngại áp đặt chính sách  lùng bắt tất cả trai trẻ có tài của nước ta. Bởi vậy Nguyễn An trở thành ho ạn quan của vua Minh Thành Tổ (Chu Đệ) dưới cái tên Hoa là A Lưu. Ông là một nhà kiến trúc sư đại tài xuất chúng vì  ông không chỉ có công thiết kế, giám sát xây dựng cổ thành Bắc Kinh trong vòng ba năm với một vạn binh  chứ không năm năm với 18 vạn thợ  theo dự đoán của bộ công mà còn có tài trong các công trình trị thủy sông Hoàng Hà  của Trung Quốc. Theo  nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm thì Trung Quốc  đời sau cố lờ đi vì A Lưu là người An Nam nhưng may thay có bài viết của  nhà sử học đương đại  Trương Tú Dân được đăng báo công nhận vai trò quang trọng của Nguyễn An trong việc xây dựng lại Tử Cấm Thành (Bắc Kinh) và nhất là gần đây với phim tài liệu của Tây Đức « Tử Cấm Thành Bắc Kinh ». 

Sau cùng là Lê Văn Duyệt hay thường gọi là Tả Quân Duyệt. Có một lần Nguyễn Ánh (hay vua Gia Long về sau)  bị truy nã bởi quân Tây Sơn  chạy trốn ở vùng Rạch Gầm, làng Long Hưng tỉnh Mỹ Tho (nay là Tiền Giang)  và thuyền của ngài  được cứu bởi  Lê Văn Duyệt trong một đêm bão tố. Sau đó Nguyễn Ánh nhìn thấy Lê Văn Duyệt một cậu bé khác thường và có công cứu mạng ngài nên không ngại tuyển dụng ông làm thái giám để bảo vệ ngài và  cung quyến lúc đó ông chỉ 17 tuổi. Theo nhà văn Hoàng Lai Giang, Lê Văn Duyệt là một tấm gương soi sáng muôn đời ở phương nam. Ông không những là một danh tướng tài ba mà còn là một nhà ngoại giao khôn khéo, một nhà chính trị có tài năng khiến vùng đất Gia Định trở thành giàu có. Dám chặt đầu cha vợ của vua Minh Mạng là Huỳnh Công Lý để giữ công bằng cho dân khiến làm vua Minh Mạng đố kỵ, xem ông là cái gai chọc vào mắt mình nên chỉ cần có cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi, con nuôi của Lê Văn Duyệt  để có dịp hài tội công lao của ông bằng cách  san bằng mộ Lê Văn Duyệt mà còn có thêm tám chữ « Quyền yêm Lê Văn duyệt phục pháp xử » ở trên bia. Chỉ có ông khi gặp vua được miễn qùi bái  cho thấy vua Gia Long rất qúi trọng  như thế nào. Như vậy cũng biết được cái nhìn của vua Gia Long không sai về con người Lê Văn Duyệt mà Minh Mạng quên đi lại nghe lời dèm pha. Sau nầy  các vua  Thiêu Trị Tự Đức cho phép  đắp lại mồ của Lê Văn Duyệt  và sửa sang miếu thờ.

Chỉ có dưới thời vua Minh Mệnh thứ 17 (1836) nhà vua ban dụ nhằm hạn chế tối đa quyền hành của thái giám một cách rõ ràng. Theo dụ nầy, thái giám không được dự vào phẩm cấp quan chế, không được xem như quan lại. Tuy nhiên trong chức vụ thái giám, cũng có năm bực mà mỗi bực có một vai trò trách nhiệm khác nhau nhưng với chủ đích để sai khiến và phục vụ  vua trong nội cung. Thái giám là người gần gũi vua nhiều nhất  nên phải sắp xếp  ngày giờ, các công việc liên hệ giữa vua và các cung phi và phải ghi chép lại tên họ trong trường hợp bà cung phi  nào có con thì được xác nhận. Bởi vậy cung phi nào muốn  được vua yêu chuộng thì cần nhờ đến tài ăn nói của thái giám.  Ngoài ra, thái giám còn phải phục vụ các bà cung phi goá bụa  ở các lăng tẩm. Để phân biệt với các quan, các thái giám mặc một chiếc áo dài bằng lụa xanh, ở trước ngực thì có một mảng dệt hoa và có mũ theo một kiểu riêng tư.  Họ có một cuộc sống cũng  đáng thương. Khi ốm đau, thì họ không có quyền  ở lại trong đại nội mà phải về ở Cung Giám Viện nằm ở phiá bắc hoàng thành. Nếu chữa không hết bệnh  thì nằm  ở  đây chờ chết chớ không được quay về đại nội. Lúc còn trẻ nếu là  giám sinh thì phải đến trình quan địa  phương  rồi sau đó được đưa về kinh đô vào bộ lễ để  được tấu thay và được sai khiến và trọng dụng ở nội đình. Còn được tuyển làm thái giám thì được hưởng nhiều quyền lợi vật chất nhất là cha mẹ được triều đình cấp dưỡng và khi có đại lễ thì được thưởng tiền bạc hay vải vóc. Lúc về già, không có con để nối dòng và thờ phụng lúc qua đời nên họ  phải cùng nhau đóng góp tiền để tu sửa chùa Từ Hiếu ở Huế vào năm 1893 và mượn nơi đó làm nơi  an nghỉ và tìm lại sự bình yên. Bởi vây dưới thời Pháp thuộc, người Pháp họ gọi chùa nầy là « chùa thái giám » vì  còn có rất nhiều lăng mộ của các thái giám dưới triều Nguyễn.

Version française

Contrairement aux gens ordinaires, les eunuques sont destinés à être au service du roi à l’époque féodale. Notre pays a trois grands eunuques avec lesquels peu de gens peuvent  se rivaliser car ils ont réussi à donner non seulement à notre peuple une page d’histoire glorieuse et  particulièrement resplendissante mais aussi une grande fierté. D’abord c’est le général eunuque célèbre Lý Thường Kiệt de la dynastie des Lý  ayant réussi à écraser l’armée des Song et pacifier le Champa. Puis un architecte talentueux  de nom Nguyễn An  a été capturé et exilé de force en Chine par le général Tchang Fou (Trương Phụ) au moment de l’annexion du Vietnam par les Ming. Il fut engagé ensuite comme eunuque et connu dès lors sous le nom chinois «Ruan An». Il  devint ainsi l’architecte concepteur en chef  dans le projet de construction de la Cité interdite de Pékin sous le règne du troisième empereur des Ming, Yong Le. Enfin le dernier est le général eunuque Lê Văn Duyệt qui  est l’un des mandarins méritants et brillants   de la dynastie  des Nguyễn dont le temple est connu par tout le monde à Saigon (ou Ho Chi Minh Ville) sous le nom « Lăng Ông ». Il avait le mérite de pacifier et développer la région de Cochinchine en tant que gouverneur de Gia Định (ancien nom donné à Saïgon ou Hồ Chí Minh d’aujourd’hui).

La coutume de choisir les eunuques  date de l’époque de la  dynastie des Lý mais leur fonction consiste à  servir uniquement le roi mais en aucun cas  elle n’a pas le droit d’interférer dans la politique et  n’a pas la capacité d’abuser du pouvoir comme en Chine avec l’eunuque Zhao Cao (Triệu Cao) de l’empereur Qin Shi Huang Di (Tần Thủy Hoàng) à la fin de la dynastie des Qin.  Si on est né sans avoir la possibilité de connaître clairement le sexe, on est appelé « giám sinh (ou état d’ambiguïté sexuelle) » en vietnamien ». Par contre si on pratique  l’auto-castration, on est appelé  «  giám lặt (état de se débarrasser de son sexe)   en vietnamien ». Une fois sélectionné et devenu la personne chargée de servir le roi dans la citadelle, on est appelé eunuque c’est-à-dire un subalterne  au service du roi dans le palais. Lý Thường Kiệt est le descendant de la cinquième génération de Ngô Quyền

D’après le livre intitulé « Les récits sur la vie des  eunuques dans l’histoire du Vietnam» de l’écrivain Pham Minh Thảo,  avant d’être enceinte, sa mère de nom Hàn Diệu Chi, avait l’occasion de rencontrer  un vieux maître  astrologue. Ce dernier lui prédit qu’elle  aura une bonne nouvelle. Elle aura un  beau garçon, un fils  devenu  très célèbre en apportant non seulement  la gloire à la famille Ngô, mais aussi  la radiance dans notre pays du Sud.  Mais il n’aura pas de rejeton pour assumer la descendance.  Lý Thường Kiệt  commença sa carrière en tant que capitaine de cavalerie sous la dynastie des Lý. Malgré qu’il fût marié, il n’avait pas d’enfant. Il y avait une fois au moment de la chasse, il eut l’occasion de rencontrer le roi Lý Thái Tông. Celui-ci lui montra son affection. Pour être plus proche du roi, il fut obligé de s’auto-castrer. Quant à Nguyễn An, sa vie ressemble à celle d’un galérien durant sa jeunesse. Il fut capturé et renvoyé de force en Chine par le général chinois  Tchang Fou (Trương Phụ) pour devenir l’eunuque dans la cour des Ming après avoir annexé notre pays et mis en place la politique de traque de toutes les forces vives de notre nation. C’est pour cette raison qu’il devenait l’eunuque de l’empereur des Ming Chenzu (Chu Đệ), connu  sous le nom chinois Ruan An (A Lưu).   Il était un architecte talentueux hors norme car il avait le mérite de concevoir et  de superviser  non seulement  la construction de la cité interdite de Pékin dans trois ans avec dix mille  soldats à la place de cinq ans avec dix huit mille ouvriers dans la prévision du ministère public mais aussi  les travaux hydrauliques importants du Fleuve Jaune en Chine. Selon le chercheur Trần Ngọc Thêm, la Chine a tenté d’oublier  Ruan An dans la construction de la cité interdite car ce dernier était un Vietnamien mais heureusement il y a l’article écrit  par l’historien chinois contemporain de nom Trương Tú Dân dans le journal n’hésitant pas à rapporter le rôle important de Ruan An dans la construction de la Cité interdite de Pékin. 

Enfin, il y a  le général eunuque Lê Văn Duyệt, appelé communément Tả Quân Duyệt. Une fois le jeune prince Nguyễn Ánh (ou l’empereur Gia Long plus tard) fut poursuivi par l’armée des Tây Sơn. Il fut obligé de trouver refuge dans le village de Long Hưng de la contrée Rạch Gầm dans la  province de Mỹ Tho (devenue aujourd’hui Tiền Giang) et son embarcation fut sauvée par le jeune Lê Văn Duyệt dans une nuit orageuse. Nguyễn Ánh aperçut que Lê Văn Duyệt  était un garçon au talent exceptionnel ayant eu le mérite de le sauver si bien qu’il n’hésita pas  à l’engager comme eunuque chargé de le protéger et sa famille alors que Lê Văn Duyệt n’avait que 17 ans. Selon l’écrivain Hoàng Lai Giang, Lê Văn Duyệt  est un exemple qui s’éclaire éternellement dans le Sud. Il n’est pas non seulement un général talentueux mais un diplomate habile, un homme politique  reconnu  dans sa capacité de transformer la région Gia  Định en une zone prospère et florissante. Ayant osé décapiter le père de la concubine du roi Minh Mạng (Huỳnh Công Lý) pour maintenir la justice au peuple, il provoque la jalousie du roi Minh Mạng. Celui-ci trouve qu’il est une épine qui s’introduit dans son œil. C’est pourquoi il suffit d’avoir la révolte de son  fils adoptif  Lê Văn Khôi pour donner l’occasion au roi de remettre en cause son grand  mérite en rasant sa tombe et en y élevant de plus une stèle portant  les 8 lettres suivantes « Quyền yêm Lê Văn duyệt phục pháp xử  ou le lieu où l’eunuque Lê Văn duyệt reçoit la condamnation ». Il n’y a que lui qui avait le droit d’être exempté  de s’agenouiller devant l’empereur Gia Long. Cela montre  à tel point  le respect que ce dernier avait entretenu envers lui. On connait ainsi le jugement juste  de l’empereur Gia Long à l’égard du personnage Lê Văn Duyệt.  Minh Mạng n’en tenait pas compte à cause des calomnies de son entourage. Plus tard, ses successeurs Thiệu Trị et Tự Đức ont ordonné la reconstruction de sa tombe et la réparation de son temple.

L’autel de Lê Văn Duyệt (Saïgon)

C’est sous le règne du roi  Minh Mạng en 1836 qu’il y avait un édit royal destiné à limiter au maximum le pouvoir de l’eunuque. Selon cet édit, les eunuques n’étaient  pas autorisés à participer au rang de mandarins et ils n’étaient pas considérés comme des mandarins. Cependant, dans la fonction d’eunuque, il y avait  aussi cinq grades, chacun ayant un rôle déterminé  et une responsabilité différente mais le but restait  de servir le roi dans le palais intérieur.

Étant la personne la plus proche du roi, l’eunuque devait donc organiser la date et l’heure des contacts  entre le roi et ses concubines et devait enregistrer leur nom au cas où une concubine  était enceinte  et  confirmer la naissance  de l’enfant. En conséquence, toute concubine voulant retenir l’attention du roi  devait compter sur l’éloquence de l’eunuque.

En outre, l’eunuque devait s’occuper des concubines veuves vivant dans les mausolées. Pour se distinguer des mandarins, les eunuques avaient l’habitude de porter une tunique en soie de couleur verte avec un morceau de tissu à motif floral sur leur poitrine et un chapeau fait de façon particulière. Ils avaient aussi une vie misérable.

Lorsqu’ils étaient malades, ils n’avaient pas le droit de rester dans le palais royal mais ils  devaient retourner au palais « Cung Giám Viện »  situé au nord de la citadelle impériale. Si l’eunuque ne pouvait pas être guéri,  il devait y rester  et attendait de mourir.  Il ne pouvait pas retourner au palais royal Quand il était jeune et dans un état d’ambiguïté sexuelle, il devait se rendre aux autorités locales. Puis il était renvoyé au ministère des rites dans la capitale et il était condamné  à travailler dans la cour intérieure, une fois son état reconnu. Au cas où il était choisi comme l’eunuque du roi, il  avait un grand nombre d’avantages matériels. Ses parents recevaient les subventions de la cour royale. Au cas où une grande fête avait lieu, il recevait de l’argent ou des étoffes en récompense. 

Quand les eunuques devenaient vieux, ils n’avaient pas d’enfants pour maintenir la lignée et le culte au moment de leur mort.  Ils étaient obligés d’apporter conjointement leur contribution pour réparer la pagode Từ  Hiếu  à Hué en 1893 et ​​se servir de cet endroit comme lieu de repos et de paix. C’est pourquoi à l’époque coloniale, les Français appelaient ce lieu  sous le nom « pagode  des eunuques » car il y a encore aujourd’hui  de nombreuses tombes d’eunuques de la dynastie des  Nguyễn.

 

La palanche (Chiếc đòn gánh)

 

Chiếc đòn gánh (la palanche).

Version française

 Khi đến đất nước ta các người ngoại quốc được nhìn thấy ít nhất một lần người bán hàng rong nhẹ nhàng nhún nhảy bên phải bên trái với đôi quang gánh trên đường phố.  Đối với họ, đây là một hình ảnh thật lạ mắt  và quyến rũ nhưng đối với chúng ta nó là một hình ảnh quá quen thuộc, nó làm chúng ta nao lòng, nặng trĩu trong tâm hồn vì nó gợi lại cho chúng ta hình ảnh của nguời phụ nữ  Việt nam  can đãm,  hy sinh, chịu đựng  dù nghèo khổ  đến đâu  vẫn cố gắng bán rong tần tão nuôi con hay gia đình nhờ  chiếc  đòn gánh dung dị nầy. Đối với họ, một người phụ nữ nhỏ bé Việt Nam nầy làm sao lại có thể  gánh nổi đến hàng chục cân chỉ nhờ cây đòn gánh mỏng manh, quả thật  một điều kỳ dị phi thường. Theo kết quả được được công bố vào  đầu tháng 1 năm 2020 từ  sự hợp tác của ba đại học Edith Cowan (Mỹ),  Calgary (Gia Nã Đại) và trường y dược của đại học Thái Nguyên thì chúng ta  biết được những người mang  chiếc đòn gánh bằng tre tiết kiệm tới 20% năng lượng so với các đòn gánh cứng.  Chính nhờ sự điều chỉnh được sự cân bằng của họ trong bước đi khiến giảm đến 18% lực mà số tạ ép lên vai nhất là họ có thể chuyển vai nên bớt mệt mỏi. Nguyên liệu làm đòn gánh dồi dào nhất là tre được  trông thấy  ở đồng bằng còn ở  các vùng thượng du thì làm bằng gỗ. Ngay từ khi làm chiếc đòn gánh, phải cẩn thận trong việc  chọn lựa  những gốc tre già và thẳng, không bị kiến làm tổ trong ống và có đốt đều nhau. Rất quan trọng khi làm đòn gánh, đó là độ dẻo dai. Nếu đòn gánh quá cứng thì người gánh lâu sẽ rất đau vai, mềm quá thì sẽ không đỡ được trọng lượng ở  hai đầu, dễ bị gãy.  Chính nhờ ờ  sự dẻo dai của chiếc quang gánh nên sự uyển chuyển của người phụ nữ Việt trông rất mềm mại duyên dáng trong bước đi.

Theo nhà văn Hữu Ngọc, cái vật lãng mạn nhất ở phương Đông, chẳng rõ nó có từ bao giờ có lẽ nó được kết tinh từ nền văn hóa nông nghiệp với trí óc tưởng tượng của người cần lao  để rồi nó  trở thành một phương  tiện di chuyển hữu hiệu  ở  trên các bờ ruộng chật hẹp và các đường về làng lại nhỏ bé.

Lúc đầu người nông dân dùng gánh lúa nặng kẽo kẹt để đi qua các cánh đồng vài cây số  mang lúa về nhà. Nhạc sỹ Phạm Duy có dịp nhắc đến chiếc đòn gánh trong nhạc phẩm « Gánh Lúa » như sau :

Lúc trời mà rạng đông, rạng đông
Bóng người thấp thoáng cuối đường thanh vắng
Bước đều mà quang gánh nặng vai….

Nó còn dùng để gánh nước giếng  ở trong làng. Có tục lệ là dù nghèo hay giàu  phải gánh nước đêm ba mươi  để  tượng trưng đầy đủ những tiện nghi vật chất ở trong nhà. Nếu nhà có đầy nước thì có nghĩa là chúng ta có một mái nhà sung túc, có cơm ăn, có áo mặc vân vân … Sau đó nó trở thành bầu bạn của bao nhiêu thế hệ phụ nữ Việt Nam bán rong ở các phiên chợ hay  len lỏi chân bước liêu  xiêu  trên các nẻo đường phố tấp nập mà chúng ta hay thường trông thấy giờ đây ở các đô thị. Đó là hình ảnh của những người mẹ tảo tần nuôi con từ lúc còn thơ, chẳng từ gian nan gồng gánh cả gia đình với chiếc quang gánh. Nói như nhà thơ Nguyễn Vân Thiên trong bài thơ «Cây  đòn  gánh» :

Da xương bào cật tre mòn
Trăm năm mẹ gánh đời con qua đèo
Gánh yêu thương, gánh khổ nghèo
Gánh mơ ước lẫn gieo neo đi về…

Phải cật tre tuy rất cứng thế lại mòn vì thấm ướt  bao nhiêu năm nay mồ hôi nước mắt của mẹ.  Lúc còn thơ, con còn được ngồi trong quang gánh lúc chiều  về.  Còn bây giờ  con càng lớn  thì  quang gánh của mẹ càng thêm nặng dù con không có ngồi đi nữa, đôi vai mẹ càng thêm hao gầy, lưng mẹ vẫn còng thêm vì gia đình. Biết bao giờ cho con gánh mẹ lại một lần, đó cũng là niềm ước mơ của nhạc sỹ Quách Beem  trong nhạc phẩm « Gánh Mẹ ». Hình ảnh của  người phụ nữ  bán rong với  đôi quang gánh  trên đường  phố  nó ăn sâu từ bao giờ trong tâm khảm của  biết bao nhiêu người dân Việt và nói lên sự can đảm  phi thường, tình yêu bao la thắm thiết  của  một người mẹ, một người vợ, người phụ nữ sống vì các con, vì chồng, vì cuộc sống  lam lũ hằng ngày. Uớc mong một ngày nào đó ở  đất nước chúng ta hình ảnh quen thuộc này nó chỉ còn là một ký ức của một thời xa xôi nhờ  sự phát triển của công nghệ hoá khiến chúng ta  không còn thấy nao lòng  mà cảm thấy  hân hoan vì nó là một  biểu tượng đặc trưng từ đây trong  văn hóa Việt Nam cũng như trống đồng, chiếc áo dài, hoa sen, con trâu vân vân…

La palanche 

Débarqués dans notre pays, les  touristes étrangers ont  l’occasion de voir au moins une fois une marchande ambulante balancer doucement son corps  au rythme de son déplacement tantôt à gauche, tantôt à droite avec la palanche et ses deux paniers dans les rues de la ville. Pour eux, il s’agit d’une image étrange à leurs yeux et séduisante. Par contre pour nous, c’est une image très familière qui nous rend profondément attristés et nous  fait mal au cœur car elle nous évoque l’image d’une femme vietnamienne courageuse, résignée à vivre dans une extrême pauvreté, n’arrêtant pas à faire beaucoup de sacrifices et s’efforçant de colporter, grâce à cette palanche rudimentaire, ses marchandises journalières pour nourrir sa famille.  Pour ces touristes, comment cette femme  vietnamienne de petite taille  arrive-t-elle à porter des dizaines de kilos avec seulement une mince tige en bambou allongée et incurvée?  C’est en fait un miracle extraordinaire. Selon les résultats récemment connus au début du mois de janvier 2020 provenant de la coopération des universités Edith Cowan (USA), Calgary (Canada) et l’école de médecine et de pharmacie de  l’université Thái Nguyên, on sait que les  gens portant  la palanche en bambou économisent jusqu’à 20 % de leur énergie par rapport à ceux se servant des  tiges en bois rigide en ajustant leur équilibre dans la marche, ce qui fait diminuer de 18%  le poids du fardeau  supporté avec la possibilité de changer d’épaule leur palanche pour soulager la fatigue.

 

Le matériau de base  employé  abondamment dans la fabrication de la palanche  est le bambou que l’on trouve surtout dans les plaines et dans les hautes terres, elle est faite de bois. Au moment de sa fabrication, il faut prendre soin de choisir bien droit le pied du vieux  bambou. Celui-ci  ne porte aucune trace du nid de fourmis dans sa cavité et ayant des entre-nœuds uniformément répartis. Il est important de connaître son degré de flexibilité lors de cette fabrication. Si la tige est trop dure, la personne qui la porte longtemps aura beaucoup de douleur à l’épaule. Par contre  une tige trop molle ne peut pas supporter le poids aux deux extrémités, ce qui facilite la cassure.

 

 

(Chiếc đòn gánh)

C’est grâce à la flexibilité de la palanche que le mouvement de la femme vietnamienne fait preuve de sa souplesse étonnante  et sa grâce dans ses pas.

Selon l’écrivain Hữu Ngọc, on ne connait pas exactement  la date d’apparition de l’objet le plus romantique de l’Orient. Celui-ci  provient probablement de la civilisation  agricole avec l’esprit d’invention d’un « ouvrier-paysan »  afin de devenir le moyen de transport le plus efficace sur la lisière des champs étroits et des petits chemins d’accès au village.

Au début, la paysanne se sert de la palanche pour ramener à la maison la lourde charge du riz paddy à travers des champs  sur quelques kilomètres. Le célèbre compositeur Phạm Duy a eu l’occasion d’évoquer cet instrument dans sa chanson « Gánh Lúa » comme suit:

Lúc trời mà rạng đông, rạng đông
Bóng người thấp thoáng cuối đường thanh vắng
Bước đều mà quang gánh nặng vai….

Au moment de l’aube se profilent au bout du chemin peu fréquenté les ombres des gens …
Leurs pas sont réguliers mais la palanche commence à se faire sentir sur leurs épaules ….

La palanche  est également utilisée pour transporter l’eau du puits du village. Il existe une coutume selon laquelle les pauvres ou les riches doivent ramener de l’eau avec la palanche  la trentième nuit du nouvel an pour symboliser tout le confort matériel qu’ils ont dans  leur maison.

Si la maison a assez d’eau, cela signifie qu’on est aisé, on a assez de la nourriture à manger, des vêtements à s’habiller etc…

Puis la palanche est devenue le compagnon de nombreuses générations de femmes vietnamiennes tentant de vendre leurs marchandises aux coins des marchés ou se faufilant à petits pas chancelants dans les rues animées que l’on voit souvent aujourd’hui dans les zones urbaines. C’est l’image des mères  prenant soin de leurs enfants dès leur plus jeune âge et  ne renonçant pas à affronter les difficultés et les afflictions en subvenant aux besoins de la famille (grâce à  leur palanche) . Comme l’a dit le poète Nguyễn Văn Thiên dans le poème intitulé « La palanche »:

Da xương bào cật tre mòn
Trăm năm mẹ gánh đời con qua đèo
Gánh yêu thương, gánh khổ nghèo
Gánh mơ ước lẫn gieo neo đi về…

Ayant sa peau ratatinée ressemblant  à l’écorce  de la tige du bambou usée, la mère continue à «accompagner l’enfant tout au long de sa vie » au fil des années, garder constamment  l’amour, supporter la pauvreté,  continuer  à avoir des rêves ainsi que des difficultés rencontrées.

Même si l’écorce de la palanche en  bambou est très coriace, elle  est usée car elle  a été mouillée au fil de nombreuses années par la sueur et les larmes de notre  mère. Quand  nous étions enfants, nous pouvions encore nous asseoir dans les paniers suspendus à la fin de la journée. Mais  maintenant nous sommes grands et nous ne pouvons plus nous y asseoir. Malgré cela, les  épaules de notre mère continuent à s’amaigrir, son dos ne s’arrête pas à  se courber à cause de la famille. Comment pourrais-je porter une fois ma mère ? C’est le souhait ardent du musicien vietnamien  Quách Beem dans la chanson « Gánh Mẹ ».

L’image d’une colporteuse vietnamienne trainant dans la rue sa palanche et ses deux suspensions est ancrée depuis longtemps  dans le fond du cœur de nombreux Vietnamiens et témoigne du courage extraordinaire et de l’immense amour d’une mère, d’une épouse, d’une femme qui vit pour ses enfants, pour son mari et pour sa vie quotidienne.

Espérons qu’un jour cette image familière ne soit que le souvenir d’une période lointaine grâce au développement de la technologie dans notre pays. Elle ne nous rend plus attristés mais elle va nous réjouir  car elle devient désormais un symbole de représentation  dans notre culture vietnamienne comme les tambours de bronze, la tunique (Áo dài), le lotus, le buffle etc…

Giếng nước (Puits)

Giếng nước (Puits)

Version française

Cây đa, mái đình, giếng nước là những thành phần không thể thiếu được  trong bức tranh của các làng quê ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Bao lần đi tham quan chùa chiền hay đình làng ở miền Bắc thì lúc nào cũng thấy có cái giếng ở đâu đó. Người Việt cổ có quan niệm «thiên viên địa phương (trời tròn đất vuông)» nầy nên có thói quen chia mãnh đất ra làm chín lô với mô hình dựa trên chữ  tĩnh  (giếng nước) viết bằng chữ Hán. Lô ở trung tâm dùng để xây cái giếng còn 8 lô  xung quanh còn lại để xây cất nhà. Đây là đơn vi gia cư đâu tiên  trong xã hội nông nghiệp và từ đó dẫn đến việc thành hình làng cổ.  Giếng nước hay thường được thấy ở trong làng quê dưới dạng hình tròn tượng trưng cho trời, giếng hình vuông tượng trưng cho đất.  Giếng còn thấy ở trước cổng chùa hay đình vì theo phong thủy, những nơi nầy được xem là « địa linh », là những nơi có « huyệt đạo » thì giếng ở đó không bao giờ cạn nước được dù có ở đỉnh núi cao như núi Nưa nơi thờ Bà Triệu (Thanh Hoá). Trong những ngày lễ hội, các bộ  lão hay dùng nước giếng để nấu chè cúng thần linh  ở  đình hay Phật (ở chùa)  và để tắm rửa các tượng. Ngoài ra giếng được xem bởi người dân trong làng là một không gian để hẹn hò gặp gỡ. Đi làm ở đồng về thì cũng ghé qua cái giếng nước để  rửa mặt hay rửa tay cho mát, có khi lại uống nước nếu là giếng mát và sạch. Nói tóm lại ở đâu có làng là có giếng nên giếng được xem lúc nào là hồn xưa của làng, đấy là cái vẻ đẹp ngàn đời của nông thôn Việt Nam mà nhà thơ Nguyễn Bính nhắc đến trong không gian làng quê.

Trong văn hóa nhân loại thì giếng nước mang lại sự dồi dào, sung mãn và đầy đủ. Bởi vậy người Pháp hay thường dùng câu « nguồn hiểu biết » để ám chỉ  các nhà học giả bởi vì họ biết lắm chuyện cũng như giếng nước, múc mấy cũng không cạn.

Giếng còn mang cả những huyền tích lịch sử và ý nghĩa tâm linh nữa. Ở  đền Cổ Loa, huyện Đông Anh, thì có giếng Ngọc nằm ngay trước cửa đền An Dương Vương nhắc  đến chuyện tình éo le của Trọng Thủy -Mỵ Châu. Ở trong khu đền các vua Hùng (Phú Thọ) thì có đền Giếng, nơi mà  hai nàng công chúa Ngọc Hoa và Tiên Dung, con của Vua Hùng thứ 18 thường đến đây soi gương chải tóc.  Còn ở hoàng thành Thăng Long (Hà Nội)  thì qua các  công trình khảo cứu, người ta tìm được cho đến ngày nay  26 giếng nước. Có nhiều tập tục vẫn còn giữ  và có liên quan đến giếng nước chẳng hạn  như  đến thời điểm này, trai ở làng Diềm (Bắc Ninh) đi hỏi vợ vẫn mang gạo nếp ra, lấy nước ở giếng vo để thổi xôi đem đi hỏi vợ. Hay là  ở làng Mông Phụ (Đường Lâm, Sơn Tây) có cái giếng được gọi là « giếng xin sữa ».  Mặc  dù giếng rất nhỏ, nhưng đã ngàn năm nay nước giếng vẫn luôn đầy và trong vắt. Những bà mẹ ở làng Đường Lâm thiếu sữa nuôi con thường đến làm lễ xin sữa, rồi uống nước giếng là có đủ sữa cho con bú. Ở phiá nam Hà Thành, các làng  Mai Động và  Hoàng Mai nhờ làm từ giếng nước nên món Đậu Phụ rất ngon cũng như ở Hội An với món Cao Lầu làm từ nước giếng Ba Lễ, một giếng cổ trứ danh của vùng. Trong kho tàng ca dao Việt Nam, hình tượng giếng nước rất khá phổ biến mà còn đa dạng về ý nghĩa và mang nhiều sắc thái thẩm mĩ độc đáo. Thưở xưa người thiếu nữ ở làng quê  hay thường bị ép duyên lấy chồng bởi gia đình nên mới có sự may rủi và mới có câu dao như sau:

Thân em như hạt mưa rào
Hạt rơi xuống giếng, hạt và vườn hoa

Như cái giếng nước, người thiếu nữ phải chấp nhận số  phận của mình:

Thân em như giếng giữa đường
Người khôn rửa mặt, người thường rửa chân.

Sống trong một xã hội phong kiến lạc hậu, người đàn ông vẫn thường được xem ưu tú trọng đãi, có thể làm nên sự  nghiệp  dù  có  nông nổi đi nữa. Còn đàn bà dù có sâu sắt chi cho mấy mà tấm lòng nông cạn  cũng như cái khơi không sâu  đựng trầu.   Đây là một câu tục ngữ được sử dụng  với nghĩa châm chọc và thể hiện trọng nam khinh nữ trong xã hội cũ.

Đàn ông nông nổi giếng khơi
Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu

Nói đến giếng nước thì không thể nào không nhắc đến bài  « Ngọc tỉnh liên phú (Hoa sen trong giếng ngọc) » của Mạc Đỉnh Chi. Sen là loại cây mà sĩ phu Mạc Đỉnh Chi lựa chọn để bộc lộ tài năng xuất chúng và thiên tài chưa từng thấy. Vua Trần Anh Tôn ngần ngại phong ông làm « tiến sỹ » đầu tiên vì ông quá xấu xí vào thời điểm ông nhận bằng. Để thuyết phục nhà vua, ông tự ví mình như hoa sen trong giếng ngọc ở núi Hoa Sơn.  

Giống quý ấy ta đây có sẳn
Tay áo nầy ta chứa đã lâu
Phải đâu đào , lý thô màu
Phải đâu mai, trúc dãi dầu tuyết sương
Cũng không phải tăng phường câu kỷ
Cũng không là Lạc Thủy mẫu đan
Cũng không là cúc, là lan
Chính là sen ở giếng vàng đầu non.

Giờ đây, trong quá trình đô thị hóa rất nhanh ở các vùng nông thôn  khiến tạo ra một khuôn mặt mới ở các làng quê. Biết rằng đời sống kinh tế nó linh hoạt hơn, nó giúp dân ta ra khỏi nghèo đói nhưng nó  cũng làm mất đi  phần nào cái yên tĩnh, những tập tục, những nghề truyền thống, những kỷ niệm của một thời thơ ấu, những biểu tượng  ở các làng quê. Giếng làng vừa thể hiện nét đẹp của làng quê mà vừa  là nơi sinh hoạt rất thân thương nhưng giờ đây không còn nữa, được lấp đi để phân lô, xây nhà bê tông cột  thép.  Làm sao có thể  bám giữ được « đất lề, quê thói » ? Đây là một thách thức không nhỏ để giữ  được giá trị truyền thống của làng quê.

Version française

 

 

 

 

 

 

 

Le puits d’eau

Le banian, le toit de la maison communale et le puits sont les éléments ne pouvant pas être manquants dans le paysage des  villages situés dans le delta du Fleuve Rouge. En visitant maintes fois les pagodes ou les maisons communales du Nord, on s’aperçoit qu’il y a toujours  quelque part un puits. Ayant  toujours l’idée que le ciel est rond et la terre plate,  les Proto-Vietnamiens  sont habitués à morceler une portion de terrain en neuf lots en prenant comme modèle le caractère Han 井 tĩnh  désignant le puits (giếng nước). Le lot au centre est prévu pour la construction d’un puits d’eau et les huit lots restants sont destinés pour la construction des maisons, ce qui constitue  ainsi la première unité d’habitation dans la société agricole et aboutit ainsi à la  formation d’un ancien village. Le puits est fréquemment visible dans le village soit sous la forme d’un cercle symbolisant le ciel soit sous la forme d’un carré représentant la terre. On le trouve aussi devant l’entrée de la pagode ou la maison communale car selon le Feng Shui, ces lieux sont considérés sacrés, des endroits ayant une structure topographique spéciale, ce qui ne fait pas tarir le puits même s’il est au sommet d’une montagne. C’est le cas de la montagne Nưa où il y a l’autel dédié à la dame Triệu. (Thanh Hoá).

Durant les jours de fête, les sages du village ont l’habitude de prendre l’eau du puits dans la préparation du thé pour offrir aux génies de la maison communale ou Bouddha (dans les pagodes) et dans les ablutions des statues. D’autre part, le puits est considéré par les villageois comme l’endroit idéal pour se donner le rendez-vous  et se rencontrer. En revenant des champs et des rizières, les villageois s’arrêtent au puits pour se laver le visage ou les mains et boire parfois de l’eau de puits si celle-ci est fraîche et propre.

Bref, là où il y a un village, on trouve aussi un puits. Celui-ci  est considéré en quelque sorte comme l’âme ancienne du village. C’est la beauté éternelle  de la campagne vietnamienne que le poète Nguyễn Bính a évoquée dans l’espace du village. Dans la culture de l’humanité, le puits évoque l’abondance, la plénitude et la complétude. C’est pourquoi les Français ont l’habitude de se servir de l’expression « puits de science ou puits d’érudition»  pour faire allusion aux érudits car ils connaissent beaucoup de choses comme un puits de savoir, un puits qu’on n’arrive pas à tarir malgré le puisement régulier d’eau.  Le puits revêt une importance toute particulière en légendes et a une signification spirituelle. Dans la citadelle  Cổ Loa du district Đồng Anh, se trouve  juste en face du temple du roi An Dương Vương le puits de jade évoquant l’histoire d’amour de Trọng Thuỷ- Mỵ Châu.  Dans le temple des Rois Hùng (Phú Thọ), il y a le Temple du Puits, où deux princesses Ngọc Hoa et Tien Dung, les filles du 18ème Roi Hùng, viennent souvent ici pour se regarder dans le miroir et se brosser les cheveux. Quant à la citadelle Thăng Long (Hà Nội), grâce aux fouilles archéologiques, on arrive à recenser jusqu’à aujourd’hui 26 puits d’eau. Il existe un grand nombre de traditions encore conservées et en liaison étroite avec l’eau du puits. C’est le cas des garçons du village de Diềm (Bắc Ninh) continuant à garder  jusqu’à aujourd’hui la tradition de laver du riz gluant à l’eau du puits pour faire « xôi vò »  avant de l’apporter à leurs fiançailles. Ou bien dans le village Mông Phụ (Đường Lâm, Sơn Tây) ; il existe un puits d’eau nommé « puits destiné à alimenter du lait maternel ». Malgré l’étroitesse du puits, celui-ci continue à être rempli et son eau reste limpide. Les femmes du village Đường Lâm n’ayant pas assez du lait maternel ont l’habitude de venir ici, d’y faire des offrandes avant de boire son eau. C’est ainsi qu’elles arrivent à avoir du lait maternel pour allaiter leur enfant. Dans le sud de Hanoï, les villages  Mai Động et Hoàng Mai sont connues pour leur plat Đậu Phụ fait avec l’eau de leur puits. C’est aussi le cas de Hội An (ou Faifo)  avec la spécialité gastronomique Cao Lầu préparée à partir de l’eau de  Ba Lễ, un ancien puits célèbre dans cette région. Dans le trésor des chansons populaires vietnamiennes, l’image du puits est assez répandue. Elle revêt non seulement plusieurs significations différentes mais aussi des nuances esthétiques originales. Autrefois, la fille du village est obligée d’épouser le mari selon l’arrangement imposé par sa famille. C’est pourquoi il y a le risque de se retrouver dans une situation aberrante et pour cela il y a l’humour ironique dans le vieil adage suivant:  

Thân em như hạt mưa rào
Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa

Mon sort ressemble à celui des pluies d’averse
Certaines tombent dans le puits, d’autres dans le jardin des fleurs.
Analogue à un puits d’eau, la fille est à la merci du destin.

Thân em như giếng giữa đường
Người khôn rửa mặt, người thường rửa chân.

Je suis comparée au puits trouvé sur la route
L’homme décent y lave le visage, le vulgaire y rince les pieds.

L’homme est toujours bien considéré  comme un puits profond dans une société féodale et arriérée malgré que le fait qu’il soit superficiel. Par contre malgré sa profondeur dans son âme, la femme est toujours taxée de ressembler à une boîte de bétel à rebord très court.  C’est  le proverbe qu’on emploie pour l’ironie et pour le mépris des femmes dans l’ancienne société.

Đàn ông nông nổi giếng khơi
Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu

L’homme, si superficiel soit-il est un puits profond
La femme, si profond soit-elle, est analogue à une boîte de bétel à rebord très court.

En parlant du puits d’eau, il est impensable de ne pas évoquer le poème intitulé « Ngọc tỉnh liên phú (Le lotus dans un puits de jade) » du lettré Mạc Đỉnh Chi. Le lotus est la plante choisie par lui-même pour révéler son talent inouï et son génie indescriptible lorsque le roi Trần Anh Tôn hésite à le nommer « Premier docteur » en le trouvant trop laid au moment de la remise du diplôme. Pour convaincre le roi, il se compare au lotus dans un puits de  jade  au sommet de la montagne Hoa Sơn

Giống quý ấy ta đây có sẳn
Tay áo nầy ta chứa đã lâu
Phải đâu đào , lý thô màu
Phải đâu mai, trúc dãi dầu tuyết sương
Cũng không phải tăng phường câu kỷ
Cũng không là Lạc Thủy mẫu đan
Cũng không là cúc, là lan
Chính là sen ở giếng vàng đầu non.

J’ai cette espèce précieuse à ma disposition
La manche de cette veste la contient depuis longtemps
Elle n’est ni le pêcher, ni le jambosier perdant l’éclat de la couleur
Elle n’est ni l’abricotier ni le bambou exposés aux intempéries de la neige et des rosées
Elle n’est pas non plus la baie dont l’odeur doit être évitée
ou la pivoine de Lạc Thủy,
ou le chrysanthème ou la fleur du magnolia
mais c’est le lotus dans un puits d’or au sommet de la montagne.

À présent, dans le processus d’urbanisation accéléré des campagnes, un nouveau visage se crée dans les villages. Sachant que la vie économique est plus dynamique, elle peut aider notre peuple à sortir de la pauvreté, mais elle détruit aussi en grande partie la tranquillité, les coutumes, les métiers traditionnels, les souvenirs d’enfance, les symboles représentatifs du village. Le puits  incarne non seulement la beauté particulière du village mais aussi le lieu d’activité intime et préféré de tous. Aujourd’hui il commence à disparaître  et à être remplacé  par la répartition des lots pour la construction des maisons en béton avec des colonnes de fer. Comment peut-on réussir à garder « les règles et les traditions locales de chaque village »? C’est un grand défi de pouvoir garder les valeurs traditionnelles du village dans les années à venir.