Ngô Quyền (Version anglaise)

Ngô Quyền

Version  vietnamienne

Version française

Faced with the Chinese army, which is accustomed to resorting to force and brutality during its conquest and domination of other countries, the Vietnamese must find the ingenuity to emphasize flexible and inventive tactics adapted essentially to the battlefield in order to reduce its momentum and its material superiority in men and numbers. One must never throw oneself headlong into this confrontation, as in this case one seeks to oppose the hardness of egg to that of stone (lấy trứng chọi đá) but one must fight the long with the short, such is the military art employed by the talented generalissimo Ngô Quyền. This is why he had to choose the place of the confrontation at the mouth of the Bạch Đằng River, anticipating the intention of the Southern Han to want to use it with their war fleet led by Crown Prince Liu Hung-Ts’ao (Hoằng Thao) ordered by his father Liu Kung (Lưu Cung) as King of Jiaozhi to quickly facilitate the landing in Vietnamese territory.

This celestial fleet entered the river mouth as planned. Ngô Quyền had pointed iron-covered stakes planted in the riverbed and invisible during high water prior to this confrontation.  He tried to lure the celestial fleet beyond these iron-covered pointed stakes by incessantly harassing them with flat-bottomed boats. At low tide, the Chinese ships retreated in disarray in the face of attacks from Vietnamese troops, and were besieged on all sides and now hindered by the barrage of emergent piles, resulting not only in the annihilation of Chinese ships and troops, but also the death of Hung-Ts’ao.

 Bạch Đằng river

Ngô Quyền was a fine strategist as he managed to perfectly synchronize the movement of the tides and the appearance of the celestial fleet in a time frame requiring both great precision and knowledge of the place. He knew how to turn the superiority of the opposing force to his advantage, for the army of the Southern Han was known to be excellent in maritime matters, and always made water or the river Bạch Đằng its ally in the fight against its adversaries. Water is the vital principle for the Vietnamese flooded rice civilization, but it is also the lethal principle, as it can become an incomparable force in their battles.  As a high-ranking Chinese mandarin, Bao Chi, later noted in a confidential report to the Song emperor: the Vietnamese are a race well-suited to fighting on water.

If the Vietnamese fled to the sea, how could Song’s soldiers fight them, as the latter were afraid of the wind and the wave (1). Ngô Quyền knew how to refer to the three key factors: Thiên Thời, Địa Lợi, Nhân Hòa (being aware of weather and propitious conditions, knowing the terrain well and having popular support or national concord) to bring victory to his people and to mark a major turning point in Vietnam’s history. This marked the end of Chinese domination for almost 1,000 years, but not the last, as Vietnam continued to be a major obstacle to Chinese expansion to the south.  The leading figure of Vietnamese nationalism in the early 20th century Phan Bội Châu regarded him as the first liberator of the Vietnamese nation (Tổ trùng hưng).

How could he succeed in freeing his people from the Chinese yoke when we knew that at that time our population was about a million inhabitants facing a Chinese behemoth estimated at more than 56 million inhabitants. He must have had courage, inventive spirit and charisma to succeed in freeing himself from this yoke with his supporters. But who is this man that the Vietnamese still consider today as the first in the list of Vietnamese heroes?

Đường Lâm village

Ngo Quyen was born in 897 in Đường Lâm village, located 4 kilometers west of the provincial town of Sơn Tây. He was the son of a local administrator, Ngo Man. When he was young, he had the opportunity to show his character and his willingness to serve the country. In 920, he served Dương Đình Nghệ, a general from the family of Governor Khúc of Ái Châu (Thanh Hóa) province. Dương Đình Nghệ had the merit of defeating the Southern Han by taking the capital Đại La (formerly Hànội) from them in 931 and now declared himself governor of Jiaozhi. He entrusted Ngo Quyen with the task of administering the Ái Châu province. Finding in him great talent and determination to serve the country, he decided to grant him the hand of his daughter. During his 7 years of governance (931-938), he proved to bring peaceful life to this region.

In 937, his father-in-law Dương Đình Nghệ was assassinated by his subordinate Kiều Công Tiễn to take the post of governor of Jiaozhi. This heinous act provoked the anger of all sections of the population. Ngô Quyền decided to eliminate him in the name of his in-laws and the nation because Kiều Công Tiễn asked for help from the Southern Han emperor, Liu Kung. For the latter it was a golden opportunity to reconquer Jiaozhi.

Unfortunately for Liu Kung, this risky military operation ended a long Chinese domination in Vietnam and allowed Ngô Quyền to found the first feudal dynasty in Vietnam. In 939, he proclaimed himself king of Annam and established the capital at Cổ Loa (Phúc Yên). His reign lasted only 5 years. He died in 944. His brother-in-law Dương Tam Kha took advantage of his death to seize power, which provoked the anger of the entire population and led to the breakup of the country with the appearance of 12 local warlords (Thập nhị sứ quân).This political chaos lasted until the year 968 when a brave boy from Ninh Binh, Dinh Boy Linh, succeeded in eliminating them one by one and unifying the country under his banner. He founded the Dinh Dynasty and was known as « Dinh Tien Hoang ». He settled in Hoa Lu in the Red River region and Vietnam at that time was known as « Dai Co Việt (Great Việt) ».

Bibliography

Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Univisersité bouddhique de Vạn Hạnh Saigon 1966 p. 257
Lê Đình Thông: Stratégie et science du combat sur l’eau au Vietnam avant l’arrivée des Français. Institut de stratégie comparée.
Boudarel Georges. Essai sur la pensée militaire vietnamienne. In: L’Homme et la société, N. 7, 1968. numéro spécial. 150° anniversaire de la mort de Karl Marx. pp. 183-199.
 Trần Trọng Kim: Việtnam sử lược, Hànội, Imprimerie Vĩnh Thanh 1928

water bus Saïgon ( Du thuyền trên sông Bạch Đằng)

Version française

English version

Dù rất mệt hai ngày liên tiếp khi đến Saïgon, mình rất thích trải nghiệm đi xe bus hôm nay trên sông Saịgon. Đây là một dịch vụ giải trí mới mẻ để mình chiêm ngưỡng các kiến trúc đồ sộ của thành phố Saigon dưới  sông với góc nhìn hoàn toàn khác lạ và cũng có dịp để mình tìm ra những góc chụp mới mẽ. Một thưở nào xa xôi, Saigon là hòn ngọc Viễn Đông, nay nó trưởng thành siêu đô thị với  sự  biến  đổi đáng  kể. Với xe bus trên sông Saigon, bạn có thể dừng chân lại ở các bến tàu như sau: Bạch Đằng, Thủ Thiêm, Bình An, Thanh Đa, Bình Chánh và Linh Đông và bạn có thể  tìm được  những nơi giải trí và các quán ăn. Một trải nghiệm đáng nhớ cho mình với một tô bún riêu.

French version

Malgré la fatigue que j’ai eue successivement durant mes deux premiers jours à Saigon, je suis content de faire l’expérience de prendre aujourd’hui  le bateau-bus sur le fleuve de Saigon.  C’est un nouveau service de divertissement pour permettre au visiteur de découvrir les grandes constructions architecturales de la ville de Saigon visibles d’une manière totalement différente sur l’eau et c’est aussi une occasion pour moi de chercher  les nouveaux angles de prises de vue pour les photos. Étant connue à une époque lointaine  la perle de l’Extrême-Orient, Saïgon devient aujourd’hui la mégapole avec tant de changements notables. En prenant le bateau-bus sur le fleuve Saigon, on peut s’arrêter aux quais suivants : Bạch Đằng, Thủ Thiêm, Bình An, Thanh Đa, Bình Chánh và Linh Đông et on peut y trouver des endroits de distraction et des restaurants. Une expérience mémorable pour moi avec un bol de soupe de vermicelles de riz au crabe.

 

English version

Despite the fatigue I had during my first two days in Saigon, I am happy to experience taking the water bus on the Saigon River today. It is a new entertainment service to allow visitors to discover the great architectural constructions of the city of Saigon visible in a completely different way on the water and it is also an opportunity for me to look for new angles of shots for photos. Known in a distant time as the pearl of the Far East, Saigon today becomes the megacity with so many notable changes. By taking the water bus on the Saigon River, you can stop at the following wharves: Bạch Đằng, Thủ Thiêm, Bình An, Thanh Đa, Bình Chánh và Linh Đông and you can find places of entertainment and restaurants there. A memorable experience for me was a bowl of crab rice vermicelli soup.

 

 

Why do the Thai have a piece of history with the Vietnamese people?

 

Tại sao dân tộc Thái có một đoạn đường chung

với dân tộc Việt?

Version française
Version vietnamienne

According to Western scholars such as archaeologist Bernard Groslier, the Thai were grouped with the Vietnamese in the Thai-Vietnamese group, especially as they only founded their country in the 14th century, and there were black and white Thai sub-groups in Vietnam. So, are these the Thais found in Thailand today?

Repulsed by the Tsin of Shi Huang Di, the Thai tried to resist many times. For the Vietnamese writer Bình Nguyên Lôc, the subjects of the Shu and Ba kingdoms (Ba Thục) annexed very early by the Tsin in Sichuan (Tứ Xuyên)(1) were the proto-Thais (or Tay). According to this writer, they belonged to the Austro-Asiatic group of the Âu branch (or Ngu in Mường language or Ngê U in Mandarin Chinese (quan thoại)) to which the Thai and the Tày were attached.

For him, as for other Vietnamese researchers Trần Ngọc Thêm, Nguyễn Đình Khoa, Hà Văn Tấn etc., the Austro-Asiatic group includes 4 distinct subgroups: Môn-Khmer subgroup, Việt Mường subgroup (Lạc branch), Tày-Thái subgroup (Âu branch) and Mèo-Dao subgroup to which must be added the Austronesian subgroup (Chàm, Raglai, Êdê etc.) to define the Indonesian (or proto-Malay) race (2) (Chủng cổ Mã Lai).

The Thai contribution to the founding of the Au Lac Kingdom of the Viet of Thục Phán (An Dương Vương) is no longer in doubt after the latter succeeded in eliminating the last Hùng king of the Văn Lang kingdom because the name « Au Lac » (or Ngeou Lo) obviously evokes the union of two Yue ethnic groups of the Au branch (Proto-Thai) and the Lac branch (Proto-Viet). Moreover, Thục Phán was a Yue of the Au branch, which shows to such an extent the union and the common historical mission of these two ethnic groups in the face of Chinese expansion. According to Đào Duy Anh, Thục Phán was a prince of the Shu kingdom.This is what was reported in Chinese historical writings (Kiao-tcheou wai-yu ki or Kouang-tcheou ki), but it was categorically refuted by some Vietnamese historians because the Shu kingdom was located too far at that time, from the Văn Lang kingdom. It was annexed very early (more than half a century before the foundation of the Âu Lạc kingdom) by the Tsin. But for the Vietnamese writer Bình Nguyên Lôc, Thục Phán having lost his homeland, had to take refuge very young in the company of his faithful at that time in a country having the same ethnic affinity (culture, language) as him, namely the Si Ngeou kingdom (Tây Âu) located next to the Văn Lang kingdom of the Vietnamese. Furthermore, the Chinese have no interest in falsifying history by reporting that it was a prince of Shu ruling the kingdom of Âu Lạc. The asylum of the latter and his followers in the kingdom of Si Ngeou must have taken some time, which explains at least half a century in this exodus before the foundation of his kingdom Âu Lạc. This hypothesis does not seem very convincing because there was a 3000 km walk. In addition, he was at the head of an army of 30,000 soldiers. It is impossible for him to ensure logistics and make his army invisible during the exodus by crossing mountainous areas of Yunnan administered by other ethnic groups who were enemies or loyal to the Chinese. It is likely that he had to find from the Si Ngeou (or the Proto-Thais) everything (armament and military personnel, provisions) that he needed before his conquest.

There is recently another hypothesis that seems more coherent. Thục Phán was the leader of a tribe allied to the Si Ngeou confederation and the son of Thục Chế, king of a Nam Cương kingdom located in the Cao Bằng region and not far from Kouang Si in today’s China. There is a total concordance between everything reported in the legend of the magic crossbow of the Vietnamese and the rites found in the tradition of the Tày (Proto-Thai). This is the case of the golden turtle or the white rooster, each having an important symbolic meaning. An Dương Vương (Ngan-yang wang) was a historical figure. The discovery of the remains of its capital (Cổ Loa, huyện Đông An, Hànội) no longer casts doubt on the existence of this kingdom established around three centuries BC. It was later annexed by Zhao To (Triệu Đà), founder of the kingdom of Nan Yue.

Lac Long Quan-Au Cơ myth cleverly insinuates the union and separation of two Yue ethnic groups: one of the Lac branch (the Proto-Vietnamese) descending into the fertile plains following the streams and rivers, and the other of the Au branch (the Proto-Thai) taking refuge in the mountainous regions. The Muong were among the members of this exodus. Linguistically close to the Vietnamese, the Muong managed to preserve their ancestral customs because they were pushed back and protected in the mountains. They had a social organization similar to that of the Tày and the Thai. Located in the provinces of Kouang Tong (Quãng Đông) and Kouang Si (Quãng Tây), the kingdom of Si Ngeou (Tây Âu) is none other than the country of the proto-Thais (the ancestors of the Thais). It is here that Thục Phán took refuge before the conquest of the Văn Lang kingdom. It should also be remembered that the Chinese emperor Shi Houang Di had to mobilize at that time more than 500,000 soldiers in the conquest of the kingdom of Si Ngeou after having succeeded in defeating the army of the kingdom of Chu (or Sỡ) with 600,000 men. We must think that in addition to the implacable resistance of its warriors, the kingdom of Si Ngeou would have to be of a significant size and populated enough for Shi Houang Di (Tần Thủy Hoàng) to engage a significant military force.

Despite the premature death of a Si Ngeou king named Yi-Hiu-Song (Dịch Hu Tống), the resistance led by the Thai or (Si Ngeou)(Tây Âu) branch of the Yue managed to achieve some expected successes in the southern Kouang Si region with the death of a general T’ou Tsiu (Uất Đồ Thu) at the head of a Chinese army of 500,000 men, which was recorded in the annals of Master Houa-nan (or Houai–nan–tseu in Chinese or Hoài Nam Tử in Vietnamese) written by Liu An (Lưu An), grandson of Emperor Kao-Tsou (or Liu Bang), founder of the Han Dynasty between 164 and 173 BCE.

Si Ngeou was known for the valor of his formidable warriors. This corresponds exactly to the temperament of the Thais of yesteryear described by the French writer and photographer Alfred Raquez:(3)


Being warlike and adventurous, the  Siamese of yesteryear were almost continually at war with their neighbors and often saw their expeditions crowned with success. After each successful campaign, they took prisoners with them and settled them in a part of the territory of Siam, as far as possible from their country of origin.


After the disappearance of Si Ngeou and Âu Lạc, the proto-Thais who remained in Vietnam at that time under the rule of Zhao Tuo (a former Chinese general of the Tsin who later became the first emperor of the kingdom of Nanyue) had their descendants forming today the Thai ethnic minority of Vietnam. The other proto-Thais fled to Yunnan where they united in the 8th century with the kingdom of Nanzhao (Nam Chiếu) and then with that of Dali (Đại Lý) where the Buddhism of the Great Vehicle (Phật Giáo Đại Thừa) began to take root. Unfortunately, their attempt was in vain. The Shu, Ba, Si Ngeou, Âu Lạc (5), Nan Zhao, Dali countries were part of the long list of countries annexed one after the other by the Chinese during their exodus. In these subjugated countries, the presence of the Proto-Thais was quite significant. Faced with this relentless Chinese pressure and the inexorable barrier of the Himalayas, the Proto-Thais were forced to descend into the Indochinese peninsula (4) by slowly infiltrating in a fan-like manner into Laos, the North-West of Vietnam (Tây Bắc), the north of Thailand and upper Burma.

According to Thai historical inscriptions found in Vietnam, there were three major waves of migration by the Yunnan Thais into north-western Vietnam during the 9th and 11th centuries. This corresponds exactly to the period when the kingdom of Nanzhao was annexed by the kingdom of Dali, which was in turn annihilated 3 centuries later by Kubilai Khan’s Mongols in China. During this infiltration, the proto-Thai divided into several groups: the Thai of Vietnam, the Thai in Burma (or Shans), the Thai in Laos (or Ai Lao) and the Thai in northern Thailand. Each of these groups began to adopt the religion of their host country. 


The Thai in Vietnam did not have the same religion as those in other territories. They continued to retain animism (vạn vật hữu linh) or totemism. For this reason, they constituted the ethnic minorities of today’s Viet Nam.

Từ bao giờ có khu 36 phố phường ở Hà Nội?

Từ bao giờ có khu 36 phố phường ở Hà Nội?
Depuis quand il y a le quartier des 36 rues et corporations  à Hanoï?

Version française 

Thăng Long được xuất phát từ làng Long Đỗ. Từ thế kỷ  thứ năm, vua Lý Nam Đế đã xây ở  đây « mộc thành» của nước Vạn Xuân. Nhà Đường, sau khi xâm chiếm nước ta lấy nơi nầy làm trị sở trên đất Long Đỗ và đổi tên nó ra Tống Bình.

Lý Công Uẩn dưới sự giúp đở của sư Vạn Hạnh nhận ra tiềm năng của vùng đất nầy vì nó là điểm giao nhau của các trục đường bộ và đường sông trong việc vận chuyễn hàng hóa. Vã lại nó còn  đáp ứng cho việc cân bằng  giữa các yếu tố  nước và đất hay là giữa dòng khí tốt (Rồng xanh) và dòng khí xấu (hổ trắng)   trong phong thủy mà được tướng nhà Đường Cao Biền du nhập vào nước ta. Tục truyền Cao Biền dùng bùa phép yểm trấn thành Đại La nhưng nhờ thần Bạch Mã  trợ  giúp mà Lý Thái Tổ thành công trong  việc xây thành Thăng Long trên nền móng cũ của  thành Đại La. Đền thờ Bạch Mã vẫn  còn ngày nay ở phố Buồm (Rue des voiles). Vì vậy vào mùa thu 1010, Lý Công Uẩn mới ra quyết định dời đô từ Hoa Lư về vùng đất « Rồng cuộn, hổ ngồi ». Ngài muốn chọn một nơi để phát triển kinh tế  cho vận nước được lâu dài và tính kế lâu dài  cho con cháu được  muôn vạn thế hệ và muôn vật được phồn thịnh và phong phú.

Từ đó, ngài cần lập các công xưởng thủ công để sản xuất các hàng hóa mà triều đình cần dùng và tiêu thụ.  Không những các thợ thụ công giỏi đua nhau đến Thăng Long làm việc mà luôn cả các nông dân ở thôn quê vùng sông Hồng  lúc nhàn rỗi  cũng tham gia sản xuất các sản phẩm hàng thủ công bán cho các con buôn mà những người này họ mang về kinh thành bán lại để kiếm lời. Lúc đầu họ tụ hợp ở các phiên chợ  của bốn chợ lớn tại các cửa  ô kinh thành. Nhưng về sau vì các xưởng sản xuất của triều đình không thể cung ứng đủ nên khiến một số thương nhân dần dần tập trung tại khu phố  ở cửa Đông vì ở đây địa thế của chợ nầy rất thuận lợi cho việc chuyên chở hàng hóa bằng thuyền từ nông thôn ra kinh thành qua sông Hồng, Tô Lịch và các kênh. Phía trước mặt chợ  thời đó là đền Bạch Mã. Còn bên phải là sông Tô Lịch và thưở đó có cái cầu bắc ngang sông hiện nay đó là phố Hàng Đường. Bởi vậy ở thế kỉ 14 mới  có thành ngữ  « Kẻ Chợ » (những người của chợ) để nói đến khu phố tấp nập này. Chính  nơi nầy được gọi về sau là  khu 36 phố phường để bán các sản phẩm  thủ  công mà các làng nghề  xung quanh và ở nông thôn cung cấp. Các cửa hàng đều là những  nhà chòi dùng để làm cơ xưởng hay để buôn bán dọc theo phố (hay đường).

Tựa như các nhà ở đồng quê, các cửa hàng nầy được dựng lên bằng gỗ, tre, mái rơm và tường trét bùn. Nhà nào cũng có chum nước để ở trên mái  khi có hỏa họan  thì kéo đổ xuống mái. Quá sợ hỏa hoạn, người dân lập đền Hỏa Thần (nay nó nằm ở Hàng Điếu) để ngày rằm cầu xin thần lửa đừng gây cháy.  Kẻ Chợ dần dần thoát khỏi sự phụ thuộc vào kinh thành từ thế 17 dưới sự ngự trị của các chúa Trịnh nhờ có một  loạt nghị quyết như giảm thuế, thống nhất hệ thống tiền bạc và xây dựng nhiều công trình đô thị lớn dẫn đến sự phát triển đáng kể. Các thủ công nhà buôn từ các làng nghề đổ xô về cư ngụ lâu dài ở thành phố và các nhà con buôn nước ngoài  thì bắt đầu lập chi nhánh tại kinh thành khiến làm nền kinh tế nó rất sôi động hơn. Nhờ đó mà kinh thành trở nên trung tâm buôn bán lớn nhất của miền bắc Việt Nam.

Các thợ  thủ công và các thương nhân cùng một làng quê gốc tập hợp thành các phương hội rồi cùng nhau  chuyên sản xuất hay  bán ở phường. Để kiếm hàng cần mua thì chỉ cần đến phường mà trước lối cổng vào thì có một tấm bảng ghi rõ chất  lượng và loại hàng được bán.Thời kỳ này chữ phố cũng chưa được dùng. Theo nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến thì chữ phố vẫn được dùng với nghĩa là bến sông. Bởi vậy mới có câu « Gác mái ngư ông về viễn phố » (nhớ về bến xa)  trong bài thơ « Chiều hôm nhớ nhà » của bà Huyện Thanh Quan.Theo nhà sử học Pháp Philippe Papin, thì chữ phố được sử dụng vào năm 1851 ở huyện Thọ Xuyên và Vĩnh Thuân nên mới có chức trưởng phố  trong  quyến sách mang tựa đề là  « Lịch sử Hà Nội ». Còn trong sách Đại Nam nhất thống chí thì có chép như sau: Hà Nội là kinh đô xưa, nguyên trước có 36 phố phường …. Còn trong cuốn « Chuyến đi thăm Bắc Kỳ năm Ất Hợi  (1876) của học giả Trương Vĩnh Ký thì ông có kể ra 21 phố gồm có: Hàng Buồm, phố nầy cũng là phố Khách Trú có nhiều tiệm thuốc bắc, nhiều hàng cao lâu, Hàng Quảng Đông (Hàng Ngang hiện nay) nơi nầy cũng toàn  người khách trú ở, Hàng Mã thì gắn liền với nghề sản xuất, buôn bán đồ giấy, đồ vàng mã cúng lễ, ma chay vân vân… Như vậy chữ phố có thể ra đời từ đầu thời vua Tự Đức.

Các thợ kim hoàn xuất phát từ làng Châu Khê thì định cư ở phố Hàng Bạc. Còn thợ tiện gỗ đến từ làng Nhị Kê thì ở phố Tô Tịch vân vân…Họ luôn luôn giữ liên lạc với ngôi làng gốc của họ ở nông thôn trong việc tuyển nhân công, cung ứng nguyên liệu, ghi tên vào gia phả của làng, tham gia mỗi năm và các ngày hội của làng.

VILLAGE_URBAIN

 

Các làng ở nông thôn trở thành các nơi cung cấp không những cho làng phố  đô thị các sản phẩm đạt trình độ kỹ thuật cao mà còn luôn cả nông phẩm cho kinh thành. Có thể nói các làng ở nông thôn và các làng phố ở kinh thành phụ thuộc lẫn nhau. Chính nhờ thế tình thần đoàn kết giữa các làng phố đô thị và các làng ở nông thôn càng chặt chẽ hơn nữa. Mỗi làng phố  đô thị được xây dựng dọc theo phố hay một đoạn của phố và lệ thuộc một hay nhiều làng cùng làm một nghề thủ công. Thời đó đăc điểm của làng phố là ở mỗi đầu của làng phố là có cổng ra vào. Các cổng nầy đều đóng lại lúc về đêm. Mỗi làng phố còn có một  bộ máy hành chánh riêng biệt cũng như có một trưởng phố, một  ngôi đình riêng tư nhầm để thờ các ông tổ của nghề hay là  các thần hoàng của các làng gốc ở nông thôn.  Dưới thời Pháp thuộc, để tránh hỏa hoạn thì chính quyền Pháp mới ra chỉ thị xây dựng lại thành phố qua  các công trình kiến trúc  kiên cố với các  ngôi nhà  hình ống mà  chúng ta được thấy ngày nay ở phố cổ Hà Nội mà họ còn  lấp đi nhiều ao hồ như hồ Hàng Đào, hồ Mã Cảnh, hồ Hàng Chuối, hồ Liên Trì vân vân…  Năm 1894, Pháp lấp đọan đầu sông Tô Lịch để xây chợ Đồng Xuân. Họ lại phá tường thành Hà Nội và các cửa thành. Nay chĩ còn duy nhất Ô Quan Chưởng hay (Ô cửa Đông) còn khúc sông Tô Lịch dưới chân thành cũng bị lấp đi.  Giờ  đây nhiều phố  chỉ còn tên mà thôi như phố Hàng Bè chớ cát bồi đưa sông ra xa nên bè mảng không còn vào được sát chân đê nữa. Như vậy đâu  còn bè mà cũng không còn chợ cái bè trên đê nữa. 

Còn các nhà hình ống nầy mang đậm phong cách phương tây nhất là mặt tiền với ban công, lô gia, hiên nhà vân vân. Còn vật liệu xây dựng thì gồm có xi măng, cốt thép, bê tông, kính vân vân … Tuy nhiên theo sử gia Pháp Philippe Papin thì các nhà ống ở Hànội là ảnh hưởng của cộng đồng người Hoa. Luận chứng nầy  không hẳn là sai nếu có  dịp đến tham quan các nhà cổ  của  người Hoa ở  Hội  An.  Nhưng theo nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến thì  dưới thời vua Minh Mạng,  đánh thuế  cửa hàng không  căn cứ  nhà đó  buôn to hay nhỏ  hay chiều sâu mà chỉ  đo mặt tiền.  Mặt tiền rộng đóng thuế  cao, hẹp thì  thuế  ít. Vì vậy mặt tiền rộng hay thường chia ra nhiều cửa hàng. Đôi khi con trai lập gia đình và không có điều kiện mua chỗ buộc cha mẹ phải nhường một phần cửa hàng nên mới có  sự  hình thành nhà ống.  Các nhà ống tuy mặt tiền rất eo hẹp nhưng có  thể có chiều dài lên đến 60 thước. Loại nhà nầy thường có ba phần: phiá trước dùng để buôn bán hay cơ xưởng  còn ở  giữa  hay thường  có  cái sân, nơi có một nhà nhỏ xây vòm cuống giống một cái lò cao 1,8 thước để chứa các đồ  qúi giá  phòng khi cháy chớ nếu không mất trắng tay và phần cuối thì để ở.

Trong quyển sách  được mang tên là « Miêu tả về vương quốc Bắc Kỳ », ông Samuel Baron, một thương gia người Anh có nhắc đến phố cổ qua một số tài liệu hình ảnh và những gì ông  mô tả  thật thú vị. Tuy rằng nhỏ hẹp so với diện tích của Việt Nam, khu phố cổ Hà Nội nó là minh chứng tiêu biểu của  nền văn hóa thương mại và đô thị của người dân Việt qua nhiều thế kỷ. Đây là một kiểu mẫu mà cần thiết phải biết tường tận để hiểu rõ  được cái cấu trúc truyền thống của đô thị trong thế giới làng mạc của người  dân Việt.

Version française

Thăng Long était issue  du village de Long Đỗ. Dès le Vème siècle, le roi  Lý Nam Đế construisit ici la « citadelle en bois » du royaume de Vạn Xuân. Après avoir envahi notre pays, la dynastie des Tang a pris cet endroit comme le quartier général de son armée sur les terres de  Long Đỗ et a changé son nom en Tống Binh. Lý Công Uẩn aidé par le  moine Van Hanh, a  trouvé l’énorme  potentiel de cet endroit  car il était à  l’intersection des routes et des voies fluviales pour faciliter le transport de marchandises. De plus, il a  répondu  également à l’équilibre et l’harmonie  entre les éléments Eau et Terre ou bien  entre le souffle  bienfaisant  (Dragon vert) et le souffle malfaisant (Tigre blanc) dans la géomancie  introduite dans notre pays par le général Tang Gao Pian. La légende racontait  qu’il  se servit des sortilèges pour protéger la citadelle de Đại La, mais grâce à l’aide  apportée par le génie  « métamorphosé en Cheval Blanc », Lý Thái Tổ réussit à édifier  la citadelle de Thăng Long sur les anciennes fondations de la citadelle de Đại La. Le temple dédié au culte du Cheval Blanc  existe encore aujourd’hui  dans la rue des voiles (Phố Buồm). C’était pourquoi à l’automne 1010, Lý Thái Tổ vint de décider le transfert de la capitale, de Hoa Lư à la région où le dragon s’enroulait et le tigre était assis. Il voulait choisir un endroit pour développer l’économie à long terme et prévoir un avenir radieux avec prospérité et abondance pour dix mille  générations futures. 

Il dut créer  dès lors des usines artisanales pour produire les marchandises dont la cour royale avait besoin pour la consommation.  Il y avait non seulement des artisans talentueux  se précipitant à  travailler à Thăng Long, mais aussi des agriculteurs vivant dans les campagnes de la région du fleuve Rouge. Ces derniers,  durant leur temps libre, ont également participé à la production de produits artisanaux destinés à être vendus aux intermédiaires  qui les ont ramenés dans la capitale pour les revendre dans le but de gagner de l’argent. Dans un premier temps, ils s’étaient rassemblés aux quatre grands marchés se trouvant tout près des  portes de la capitale. Mais comme les usines royales ne pouvaient pas approvisionner suffisamment les  produits, ils  s’étaient  progressivement regroupés  dans le quartier de la Porte Est car le terrain d’ici  était très propice au transport fluvial des marchandises  de la campagne vers la capitale en passant par le fleuve Rouge jusqu’à Tô Lich et les canaux.

À cette époque, devant le marché se trouvait le temple du Cheval Blanc (Bạch Mã). Sur sa droite il y avait la rivière Tô Lich et  un pont, le tout devenant aujourd’hui la rue  du sucre (Hàng Đường). C’était  pourquoi au 14ème siècle l’expression « Kẻ Chợ »  (ou les gens du marché) était employé  pour désigner ce quartier animé. C’était cet endroit qui devenait  plus tard  le  quartier de 36 rues et corporations  destiné à vendre tous les produits artisanaux fournis par les villages artisanaux et ruraux  aux alentours.  Les magasins  étaient entièrement  des huttes utilisées comme des ateliers de fabrication  ou des lieux pour faire du commerce tout le long de la rue.

Analogues à des maisons de campagne, ces magasins étaient  construits en bois et en bambou, avec des toits de paille et des murs enduits de boue. Chaque maison possédait  une jarre d’eau sur le toit qui, en cas d’incendie, pouvait  être renversée  sur le toit pour éteindre le feu. Étant effrayés par le feu, les gens ont décidé de construire  un temple  destiné au génie du feu (situé aujourd’hui dans la rue des pipes) pour lui demander de ne pas provoquer d’incendie tout le 15ème  jour du mois lunaire.  Kẻ  Chợ s’’était  progressivement échappé de la dépendance de la capitale depuis le XVIIème siècle sous le règne des seigneurs Trinh grâce à une série de résolutions telles que la réduction des impôts, l’unification du système monétaire et la réalisation de nombreux  projets urbains conduisant à un développement important. Les artisans  commerçants  des villages artisanaux affluèrent vers la capitale pour y vivre de manière permanente et les commerçants étrangers commencèrent à ouvrir aussi des succursales dans la capitale, ce qui rendait  l’économie plus dynamique. Grâce à cela, la capitale était  devenue ainsi  le plus grand centre commercial dans le  nord du Vietnam.

Les artisans et les commerçants d’un même village se regroupaient en corporations et se spécialisaient ensemble dans la production ou la vente dans le quartier. Pour trouver les produits dont vous avez besoin,  il vous suffit de vous rendre au quartier dont le portail d’entrée porte un panneau indiquant clairement la qualité et le type de produits vendus. Durant cette période, le mot rue n’était pas utilisé. Selon l’écrivain Nguyễn Ngoc Tiến, le mot rue était encore employé  pour désigner le quai fluvial. C’est pourquoi il y a la phrase « En déposant la rame, le pêcheur  se dépêche de retourner à la rive lointaine » dans le poème «L’après-midi  teinté de nostalgie» de Mme Huyện Thanh Quan. Selon l’historien français Philippe Papin, le mot « rue » était utilisé en 1851 dans les districts de Thọ Xuyên et Vĩnh Thuận. C’est pour cela que  le poste du chef de la rue est apparu  dans son  livre intitulé « Histoire de Hanoi ».

Dans le livre intitulé  Đai Nam Nhất Thống Chí (Géographie du Viet Nam), il est écrit ainsi: Hanoï était l’ancienne capitale, elle comptait à l’origine 36 rues etc. Dans le livre « Un voyage au Tonkin de  l’année du cochon en bois (1876) » de l’érudit Trương Vĩnh Ký, il a répertorié 21 rues dont: Hàng Buồm (Rue des voiles), cette rue étant aussi la rue des immigrants chinois  avec de nombreux magasins de médecine traditionnelle et des restaurants chinois , Hàng Quảng Đông  c’était la rue des Cantonnais à l’époque française (rue Hang Ngang d’aujourd’hui), Hàng Mã  (Rue du cuivre à l’époque française) était  associée à la production et au commerce de papiers votifs, des objets de funérailles, etc. Le mot rue pourrait donc être né dès le début du règne du roi Tự Đức.

Les bijoutiers venus du village de Châu Khê s’étaient installés dans la rue des changeurs (Hàng Bạc). Quant aux tourneurs sur bois du village de Nhi Kê, ils habitaient dans la rue Tô Tịch et ainsi de suite… Ils gardaient toujours le contact avec leur village d’origine à la campagne en recrutant des ouvriers, en fournissant du matériel, en inscrivant leurs noms dans la généalogie du village et en participant chaque année aux fêtes villageoises.

Les villages ruraux étaient  devenus ainsi  des lieux qui approvisionnaient non seulement les villages urbains en produits de haute technologie mais aussi en produits agricoles pour la capitale. On peut dire que les villages de la campagne et les villages de la capitale dépendaient les uns des autres. Grâce à  cette interdépendance, l’esprit de solidarité entre les villages urbains et les villages ruraux était encore plus serré. Chaque village urbain était construit le long d’une rue ou d’un tronçon de rue et dépendait d’un ou plusieurs villages exerçant le même métier. A cette époque, la particularité du village résidait sur le fait qu’à chaque extrémité du village il y avait toujours un portail d’entrée qui était fermé durant la nuit. Chaque village disposait  également d’un appareil administratif distinct ayant un chef de village, une maison communale dédiée  au culte des ancêtres du métier ou  des génies du village dont les gens étaient issus.  Durant la période coloniale française, afin d’éviter les incendies, le gouvernement français prit la décision de réorganiser la ville au moyen des travaux architecturaux avec des maisons tubulaires que l’on voit aujourd’hui dans la vieille ville de Hanoï, mais il fit disparaître également  de nombreux étangs et lacs comme le lac Hàng Đào, lac Mã Cảnh, lac Hàng Chuối, lac Liên Trì  etc. pour construire les maisons et les bâtiments publics. En 1894, les Français ont asséché la partie supérieure de la rivière Tô Lich pour construire le marché de  Đồng Xuân. Ils ont de nouveau détruit les murs de la citadelle de Hanoi et ses portes. Il ne restait désormais que la porte Quan Chưởng  (porte  de l’Est) et la rivière Tô Lich en contrebas de la citadelle a également été comblée de sable et d’alluvions. À présent, de nombreuses rues n’ont plus que leur nom, comme la rue Hàng Bè (rue des radeaux), car le sable a repoussé la rivière plus loin, de sorte que les radeaux ne peuvent plus s’approcher du pied de la digue. Donc il n’y a plus de radeau. Alors  il n’y a non plus de marché des radeaux sur la digue.

Quant aux maisons tubulaires, on les voit mettre en valeur le style occidental, notamment leur  façade avec balcon, loggia, porche etc. Les matériaux de construction comprennent le ciment, les barres d’armature, le béton, le verre etc. Cependant, selon l’historien français Philippe Papin, les maisons tubulaires de Hanoï sont influencées par la communauté chinoise. Cet argument n’est pas forcément faux si on a l’occasion de visiter les anciennes maisons des Chinois à Hội An. Mais selon l’écrivain Nguyễn Ngoc Tiến, sous le règne du  roi Minh Mang, l’impôt sur les magasins n’était pas basé sur la taille ou la profondeur du magasin, mais uniquement sur la façade. Le propriétaire d’un magasin  ayant une façade relativement large doit payer une taxe plus élevée par rapport à celui possédant une  petite façade. On a intérêt de diviser  la grande façade en plusieurs petites façades donc en plusieurs boutiques. Parfois, un fils  qui se marie et n’a pas les moyens d’acheter un nouveau logement est obligé de demander à ses parents de céder une partie de leur boutique, ce qui donne naissance à la création des maisons tubulaires. Bien que celles-ci aient des façades très étroites, elles peuvent avoir une longueur allant jusqu’à 60 mètres. Ce type de maison comporte généralement trois parties: le devant avec sa façade est réservé au commerce ou à l’atelier tandis qu’au milieu se trouve généralement  une  petite cour où on édifie  une petite maison avec un dôme  ressemblant à un four de 1,8 mètre de haut pour garder des objets de valeur en cas d’incendie  et le derrière  du magasin est destiné à l’habitation.

Dans son livre intitulé « Une description du royaume de Tonkin », le commerçant anglais Samuel Baron en a parlé avec ses illustrations et ses descriptions intéressantes. 
Malgré sa taille insignifiante par rapport à celle du Vietnam, le vieux quartier de Hanoï témoigne incontestablement de la culture commerciale et urbaine des Vietnamiens au fil de plusieurs siècles. C’est un modèle dont on a besoin pour connaître d’une manière approfondie la structure traditionnelle de la « ville » dans le monde rural des Vietnamiens.

Bibliographie :

Nguyễn Bá  Chính : Hà Nôi Chỉ Nam. Guide de Hanoï. Nhà xuất  bản Nhã Nam, Hà Nội.
Philippe Papin : Histoire de Hanoï. Editeur Fayard.
Hữu Ngọc: Hà Nội của tôi. Nhà xuất bản Văn Học.
Nguyễn Ngọc Tiến: Làng Làng Phố Phố Hà Nội. Nhà xuất bản hội nhà văn.

Đình Minh Hương Gia Thạnh (Chợ Lớn, Saigon)

Temple Minh Hương Gia Thạnh 

Version française

Tọa lạc ở số 380 đường Trần Hưng Đạọ (Saïgon) , đình Minh Hương Gia Thạnh được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật bởi bộ Văn Hóa.  Đình nầy được coi xem là có lâu đời nhất  ờ vùng Saïgon-Chợ lớn do người Minh Hương xây dựng từ năm 1789. Người Minh Hương là những Việt gốc Hoa mà tổ phụ của họ là người Hoa, thần dân của nhà Minh sang định cư ở Đàng Trong sau khi nhà Minh bị  sụp đổ, được chúa Nguyễn Phúc Tần cho phép hai vị tổng binh cựu thần của nhà Minh Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên cư trú  ở miền nam tức là vùng đất của Chân Lạp cùng với 3000 binh sĩ và gia đình vào năm Kỷ Mùi (1679).  Dương Ngạn Địch  vào khai thác vùng Mỹ Tho còn Trần Thượng Xuyên thì vào khai khẩn vùng Biên Hoà (Cù Lao Phố), một vùng đất trù phú. Người ngoại quốc thường tới lui buôn bán ở nơi nầy. Trong thời kỳ chiến tranh giữa nhà Tây Sơn và Nguyễn Ánh, thì tất cả người Minh Hương đều đứng về phía chúa Nguyễn nên nhà Tây Sơn  tàn phá nhà  cửa của họ  vào năm 1776. Họ buộc lòng phải  lánh nạn  về  ở vùng đất Đề Ngạn xưa tức là Chợ  Lớn ngày nay. Đến năm kỷ dậu (1789)  dưới thời  Lê Mẫn Hoàng Đế  thì con cháu nhà Minh có quyền lập ra Minh Hương xã. Ban đầu chữ « hương » dùng chữ có nghĩa là « hương hỏa » (香火), đến năm 1827 đổi sang chữ có  nghĩa là « làng ». Như vậy Minh Hương có thể hiểu là « làng của người Hoa, thần dân của nhà Minh. Bởi vậy chúng ta cũng thường gọi họ là khách trú. Lúc đầu làng Minh Hương không có ranh định biên giới như các làng khác vì họ ở khắp mọi nơi của vùng đất mới. Người Minh Hương khỏi đi lính và khỏi đi làm xâu.  Nếu họ phạm phép  thì Minh Hương xã phân xử. Mặc dầu có đặc quyền như vậy, Minh Hương xã rất nghiêm ngặt trừng trị và  lo lắng  dạy dỗ con cháu họ. Bởi vậy họ sống rất hoà đồng với người dân Việt khiến  mới có câu ca dao như sau:

Gỏi chi ngon bằng gỏi tôm càng
Đố ai lịch sự bằng làng Minh Hương.

Chính vua Tự Đức đã có sắc tặng cho làng Minh Hương  bốn chữ: Thiện Tục Khả Phong (Phong tục tốt đẹp cần giữ lưu truyền), khắc vô một tấm biển, nay treo trước căn giữa Chánh điện của đình. Theo giáo sư Lâm Vĩnh Thế  thì năm 1865, Thống Đốc Nam Kỳ lúc bấy giờ là Đô Đốc De La Grandière ban hành quyết định chấm dứt quy chế làng của Minh Hương Xã, viện lý do là Sài Gòn và Chợ Lớn là châu thành tức là  thủ phủ của tỉnh, làng Minh Hương không còn có lý do tồn  tại nữa.  Đình Minh Hương Gia Thạnh không phải là nhà làng nữa mà trở thành từ đó nhà hương hỏa chung của tất cả hội viên, của tất cả công dân Việt Nam gốc Hoa có hơn hai trăm năm nay vì họ nói tiếng Việt, mặc quốc phục  trong các dịp tế lễ, cho con cái học trường Việt và hành xử hoàn toàn như là một công dân Việt Nam. Trịnh Hoài ĐứcNgô Nhân Tịnh, hai người Minh Hương làm quan đến chức thượng thư.

Đình được xây cất  theo kiểu nhà năm gian. Mái đình lợp ngói ống, trang trí hình lưỡng long tranh châu, cá hóa long, tượng ông Nhật bà Nguyệt, phù điêu trích từ các tuồng tích Trung Quốc. Trên cột và các đà ngang treo nhiều hoành phi, câu đối, phần lớn được làm từ đầu và giữa thế kỷ 19. Tại đình vẫn còn lưu giữ  nhiều cổ vật quý giá nhất là  đình có giá trị về nghệ thuật thư pháp, nghệ thuật chạm khắc gỗ mang phong cách Việt nam. Nhờ sự giải thích của chị Vân,một thành viên của ban tri sự quản lý  đình hôm đến tham quan, mình  được chị giải thích  biết nhiều  về  các cổ  vật trưng bày  của đình. Thật thú vị và  cũng tiện đây có một lời cám ơn chị qua bài viết nầy.

GIA THANH

Située au numéro 380 rue Tran Hung Dao (Saïgon), la Maison communale Minh Huong Gia Thanh est reconnue comme un monument architectural et artistique par le ministère de la Culture. Cette maison communale est considérée comme la plus ancienne de la région de Saïgon-Cholon, construite par les partisans de la dynastie des Ming  (ou Minh Hương) en 1789.

Les Minh Hương sont des Vietnamiens d’origine chinoise dont les ancêtres étaient des Chinois, sujets de la dynastie Ming qui s’étaient  réfugiés dans le sud après la chute de la dynastie Ming en Chine. Le seigneur Nguyễn Phúc Tần permit aux deux anciens généraux de la dynastie Ming, Dương Ngạn Địch et Trần Thượng Xuyên, de  trouver refuge dans le sud du Vietnam, l’ancien territoire du Chen La avec 3 000 soldats et leurs familles en l’année de la Chèvre (1679). Dương Ngạn Địch était allé exploiter la région de Mỹ Tho et  Trần Thượng Xuyên la région de Biên Hoà (Cù Lao Phố), un territoire riche et peuplé. Les étrangers le fréquentaient souvent pour y faire  des affaires. Durant la confrontation armée entre les Paysans de l’Ouest (Tây Sơn)  et Nguyễn Ánh, tous les Minh Hương s’étaient rangés du côté de ce dernier. Furieux, les Tây Sơn pillèrent leurs maisons en 1776. Les Minh Hương  étaient  obligés de se réfugier dans la région de Đề Ngạn (Cholon d’aujourd’hui). En 1789, sous le règne de l’empereur Lê Mẫn, les Minh Hương  obtinrent  le droit de fonder leur propre village.

Le mot « Hương » était initialement  écrit avec le pictogrammepour évoquer le culte des ancêtres (香火), mais il était remplacé ensuite  par le pictogramme  鄉 en 1827 pour signifier le village. Minh Hương  pouvait être compris ainsi comme  le village des sujets de la dynastie Ming. C’était pour cela on était habitué à les appeler « les résidents étrangers».

Au début, le village des Minh Hương n’était pas délimité par des frontières  comme les autres villages  grâce à leur possibilité de s’installer partout sur le nouveau territoire. Les Minh Hương  étaient exemptés du service militaire et ils n’étaient pas forcés de travailler gratuitement pour l’état. En cas de la violation de la  loi, ils seront punis par leur propre village. En dépit des privilèges qu’ils ont eus, les Minh Hương ne cessaient pas de respecter les lois avec sévérité et ils étaient toujours soucieux d’aider leurs enfants dans l’éducation. C’était pourquoi ils vivaient en harmonie avec les Vietnamiens, ce qui donnait naissance  à  la chanson populaire suivante :

Gỏi chi ngon bằng gỏi tôm càng
Đố ai lịch sự bằng làng Minh Hương.

Quelle salade peut-on trouver  aussi délicieuse comme celle de crevettes ?
Y a t-il quiconque plus poli que le village des Minh Hương ?

L’empereur Tự Đức  lui-même signa pour le  village des Minh Hương un décret comportant  quatre mots suivants: Thiện Tục Khả Phong (Les bonnes coutumes doivent être gardées et transmises), gravés sur une pancarte, désormais accrochée devant la salle principale de la maison communale. Selon le professeur Lâm Vĩnh Thế, en 1865, le gouverneur de la Cochinchine de l’époque, l’amiral De La Grandière, décida de mettre  fin au statut de la création du  village de Minh Hương Xã en prenant prétexte que Saigon-Cholon était la capitale de la province.  Le village des Minh Hương n’avait plus de raison d’exister. Mais il  était devenu dès lors la maison communale  dédiée au culte des ancêtres  pour tous ses membres et pour tous les citoyens vietnamiens d’origine chinoise depuis plus deux siècles car ils parlaient le vietnamien,  ils portaient des vêtements nationaux lors des cérémonies, ils envoyaient leurs enfants dans les écoles vietnamiennes et se comportaient entièrement  comme des citoyens vietnamiens. Trinh Hoài Đức  et Ngô Nhân Tịnh issus des  Minh Hương  étaient au poste de ministre.

La maison communale a été construite dans le style d’une maison à cinq compartiments. Son toit est recouvert de tuiles tubulaires, décoré d’un couple de dragons se disputant la perle enflammée, de poissons se transformant en dragons,  de génies de mariage et des tableaux en relief extraits des opéras chinois. Sur les colonnes et les poutres horizontales sont suspendus de nombreux panneaux horizontaux et des sentences parallèles dont la plupart ont été réalisés au début et au milieu du XIXème siècle.

La maison communale conserve encore de nombreuses antiquités, les plus précieuses étant l’art de la calligraphie et de la sculpture sur bois dans le  style vietnamien.  Grâce aux explications de Mme Vân, membre du comité de gestion  de cette association,  j’ai  beaucoup d’informations à savoir   sur les antiquités exposées.  Pour moi, c’est  très intéressant et  aussi  une opportunité  de lui rappeler ma gratitude à travers cet article.

 

 

Eglise en bois (Nhà thờ gỗ Kontum)

en bois
 
Nhà thở gỗ ở giữa thành phố Kontum, được thiết kế theo lối kiến trúc Roman kết hợp với kiểu nhà sàn rong của dân tôc Ba Na.
Une église en bois a été conçue dans le style architectural roman au cœur de la ville de Kontum tout en trouvant l’inspiration dans la maison communale Rong de l’ethnie Ba Na.
A wooden church has been designed in the Romanesque architectural style in the heart of the town of Kontum, inspired by the Rong communal house of the Ba Na ethnic group.
kontum_eglise

Cascade Pa Sỹ (Măng Đen, Kon Tum)

 

Thác Pa Sỹ

Version française

Theo tiếng dân tộc Rơ Mâm, thác nầy  có nghĩa là 3 nguồn suối lớn nhất ở Măng Đen chụm lại thành một dòng nước nên được gọi là Pau Suh Thác được đọc chệch bởi dân  bản xứ nên  nên trở  thành Pa Sỹ. Đến đây phải ăn cơm lam gà nướng , rết ngon tuyệt vời. 

Selon la langue de l’ethnie Rơ Mâm, cette cascade signifie le point de rencontre  des trois plus grandes sources de M ăng Đen se rejoignant dans un cours d’eau. C’est pour cela qu’elle est appelée Pau Suh qui devient au fil des années Pa S ỹ à cause de la mauvaise prononciation des gens locaux. En venant ici, il faut manger du riz gluant dans un tronçon de bois avec le poulet grillé. C’est extrêmement délicieux.

Măng Đen (Kon-Tum)

Măng Đen (Kon Tum)

Version française

Được mệnh danh là « Đà Lạt thu nhỏ » với rừng nguyên sinh, hồ thác nước  Pa Sỹ, Măng Đen là một thị trấn nhỏ, rộng 148,07 km2 trên cao nguyên, thuộc huyện Kon Plong, cách thành phố Kon Tum khoảng chừng 60 cây số. Đi từ Pleiku đến  đây bằng ô  tô  thì mất chừng 2 tiếng. Đây là vùng đất linh thiên với bức tượng Đức Mẹ Fatima mà cũng  là  nơi  hành hương mỗi năm của người công giáo ở Tây Nguyên.

Surnommée « Dalat en miniature » avec sa forêt vierge et sa chute d’eau Pa Sỹ, Măng Đen est une petite ville d’une superficie de 148,07 km2. Elle est située environ 60 km de la ville de Kon Tum sur le plateau montagneux dans le district de Kon Plong.  Il faut compter environ deux heures en voiture pour venir de Pleiku. C’est non seulement  un lieu sacré avec sa statue de Notre-Dame de Fatima mais aussi un lieu de pèlerinage annuel pour les catholiques des Hauts Plateaux.

Le lever du soleil ( Bình minh ở vịnh Lan Hạ)

LHB

Còn chút gì để nhớ Pleiku, Gia Lai


                                                           Biển hồ T’nưng

Còn chút gì để nhớ Pleiku, Gia Lai

Version française

Lúc về Việt Nam vào tháng 11 vừa qua, minh  được  anh Phát, người sáng lập Trường Không Biên giới mời đến Pleiku để  dự lễ tưởng niệm  vợ anh  quá cố được  Mái Ấm Thiên Ân tổ chức ở Pleiku. Đây là nơi được sơ Nguyễn Thị Kim Chi, thuộc dòng các nữ tu thuộc tu viện St. Paul de Chartres ở Pháp thành lập từ năm 2010 và che chở  hàng trăm em nhỏ người đồng bào dân tộc thiểu số có hoàn cảnh khó khăn, ít học hoặc bị cha mẹ bỏ rơi.  Mái Ấm Thiên Ân được tọa lạc ở thôn 4, xã Chư Á, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai, mái ấm Thiên Ân cách trung tâm thành phố Pleiku khoảng chừng 9 cây số.

Nhắc đến Pleiku làm mình không thể quên bài  « Còn  chút gì để nhớ của nhà thơ Vũ Hữu Định mà được nhạc sỹ Phạm Duy phổ biến thành nhạc. Có dịp đến Pleiku  rồi hôm nay trở về Paris tự hỏi mình còn chút gì để nhớ Pleiku hay không? Còn  chứ, còn nhớ nhiều lắm, nhớ Mái Ấm Thiên Ân, nơi bao bọc các em nghèo thuộc dân tộc thiểu số (Jarai, Ede), nhớ đến các sơ  không ngại khó khăn nhọc nhằn  kiếm tiền từng xu  qua cách trồng trọt cà phê, hạt điều, va ni vân vân và tháo vát bán buôn và đa năng để đem lại  ấm no cho 189 em nghèo thiểu số, nhớ đến một thành phố hiền hoà ít xe cộ bụi bặm náo nhiệt  như Saïgon thưở nào, nhớ  đến phố núi đầy sương mù như Đà Lạt, nhớ đến vườn hoa tuyệt vời, một thiên đàng xinh xắn nho nhỏ  được săn sóc tĩ  mĩ  với đầu óc thẩm mỹ  của các sơ, nhớ đển buổi lễ tưởng niệm chị Marie Consolata ở nhà thờ, nhớ biển hồ T’nưng, nhớ  đến buổi  cơm tối  ngày đầu khi ba chú cháu dùng  ở một quán cơm dân dã đậm chất quê hương  nhất là để  lại một ấn tượng với món cá chiên dầm xoài nước mắm. Một kỷ niệm khó quên, một thành phố đáng nhớ trong cuộc hành trình nầy.

Mái Ấm Thiên Ân

Pleiku_Thien_An

Quelque chose à retenir de Pleiku, Gia Lai

À mon retour au Vietnam en novembre dernier, j’ai été invité par Mr  Phát, fondateur de l’’École sans Frontières, à  venir à Pleiku pour assister à la messe commémorative de sa défunte épouse organisée par le « Refuge Thiên Ân ». Il s’agit d’un havre fondé en 2010 par sœur Nguyễn Thị Kim Chi appartenant à l’ordre des Religieuses de Saint Paul de Chartres en France et abritant des centaines d’enfants de minorités ethniques en situation difficile, sans éducation ou abandonnés par leurs parents. Le refuge Thiên Ân est situé dans le village 4, commune Chu Á ville de Pleiku, province de Gia Lai, Il est à environ 9 kilomètres du centre-ville de Pleiku. En évoquant Pleiku, je ne peux pas oublier la chanson « Ce qu’il reste à retenir » du  musicien talentueux Pham Duy ayant trouvé son inspiration dans le célèbre poème du poète Vũ Hữu Định.

Ayant eu l’occasion d’aller à Pleiku puis de retour à Paris aujourd’hui, je me demande si j’ai encore quelque chose à retenir de Pleiku  ou non? Oui, il y a plein de choses à retenir. D’abord  je me souviens  du refuge Thien An, l’endroit qui abrite les enfants pauvres des minorités ethniques (Jarai, Ede), puis des religieuses polyvalentes qui n’ont pas peur des épreuves et des difficultés pour gagner  de l’argent  en cultivant du café, des noix de cajou, de la vanille, etc. et qui se débrouillent pas mal dans la vente au détail et en gros pour apporter la nourriture à 189 enfants pauvres des minorités ethniques, de la ville Pleiku  paisible et moins polluée avec peu de voitures semblable à la ville Saïgon d’une époque lointaine, de la ville de montagne plongée dans la brume comme Dalat, du magnifique jardin fleuri, un joli petit paradis soigneusement entretenu par l’esprit esthétique  et créatif des religieuses, de la messe commémorative en l’honneur de Marie Consolata à l’église, du lac T’nưng et enfin du dîner du premier jour où nous avons mangé tous les trois dans un restaurant populaire et  typique de notre pays, en nous laissant à la fin du repas  une impression particulière avec le poisson frit mariné dans une sauce à la mangue. Un souvenir inoubliable, une ville mémorable pour ce voyage.