Anciennes techniques de pêche (Cách thức cổ điển bắt cá)

 

Cách thức cổ điển bắt cá.

Nhũi là một dụng cụ dùng để bắt cá. Nó có hai cái cán bằng tre tréo vơi nhau dươí dạng hình chữ X mà ở giữa lại có một tấm « sáo » bện bằng những cọng tre vót nhỏ mà ở cuối đầu dưới thì có một miếng gỗ lưỡi mỏng. Khi cầm hai cán  nhũi đẩy thì một số lượng nước đi vào nhũi và thoát ra ở phiá sau qua các cọng tre chỉ còn ở lại cá,cua hay tôm. Người đi nhũi hay thường mang theo rọ tre để đựng cá.

Nhũi est un outil de pêche très efficace pour attraper les poissons. Il est constitué de deux longues manches en bambou attachées  en forme de croix au milieu desquelles se trouve une armature  creuse faite avec des  petites tiges de bambou et terminée à sa partie inférieure par un  mince morceau de bois. Au moment de son utilisation, il y a une quantité d’eau qui s’y introduit et s’échappe par derrière à travers ses tiges de bambou, ce qui permet de retenir les poissons, crabes et crevettes. Le pêcheur est habitué à emmener avec lui le panier à goulots pour contenir ces crustacés. 

 

Un bistro au cœur du vieux quartier de Hanoï

Quán ăn Hanoï 1930 Bistro
Le restaurant Hanoï 1930 Bistro
 
Kỳ nầy trở ra Hànôi lúc hè 2022 mới khám phá ra các quán ăn mà tụi nầy thích ăn ở phố cổ phần đông đều đóng cửa sau khi bệnh dịch Covid. Tuy nhiên tụi nầy cũng kiếm ra một quán ăn Việt có tiêu chuẩn Châu Âu ăn cũng ngon và có một góc nhìn xuống quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục rất đẹp về đêm ở giữa lòng phố cổ Hànoï.
 
De retour à la capitale Hanoï en été 2022, nous avons constaté la disparition d’un grand nombre important de restaurants préférés durant l’épidémie de COVID. Cependant nous avons réussi à trouver un nouveau restaurant conforme aux normes européens où la cuisine vietnamienne est assez bonne et ayant une vue superbe au fil de la nuit sur la place célèbre Đông Kinh Nghĩa Thục au cœur du vieux quartier de Hanoï.

Jupe des femmes Hmong (Váy của phụ nữ Hmong)

 

Version française

Chiếc váy xoè  có hơn 200 xếp ly  của người phụ nữ Hmong được xem trong tự điển hiện vật văn hoá các dân tộc Việt Nam là cầu kỳ nhất trong việc trang trí thêu các họa tiết. Tùy theo mỗi nhóm người  Hmong (Hmong Hoa,  Hmong Đen, Hmong Trắng hay Hmong Đỏ) mà hoa văn họa tiết lại khác nhau. Thường thấy trên váy các chấm tròn xen lẫn đường kẻ thẳng hay là hình hoa lá  hoặc hình xoán ốc  nhưng các hoa văn họa tiết nầy  phản ánh đời sống của người Hmong với thiên nhiên. Váy nầy được may bằng vải lanh nhuộm chàm. Màu nầy  là màu căn bản  thường được trọng dụng bởi các phụ nữ Hmong trong việc may quần áo. Màu xanh tuyệt vời này  tô điểm cuộc sống của họ  từ lúc còn bé (6 hay 7 tuổi).  Bởi vậy  các phụ nữ Hmong được xem là  những phụ nữ khéo tay. Những chiếc váy sặc sỡ,  những tác phẩm thêu thùa  trang nhã  và những trang sức tinh xảo  làm họ  có tiếng tăm ở  khắp vùng Đông Nam Á. Đây cũng là biểu tượng độc đáo của bản sắc dân tộc Hmong. Họ thường được đa số người ở thế giới tiếp tục gọi họ là  «dân tộc đa sắc » như chiếc cầu  vồng.

Version française

Dans le dictionnaire des artefacts culturels des ethnies vietnamiennes, la jupe de la femme Hmong comportant de nombreux plis est considérée toujours comme la plus sophistiquée dans la décoration et la broderie de motifs. En fonction de chaque groupe des Hmong (Hmong fleuri, Hmong Noir, Hmong Blanc ou Hmong Rouge) les modèles de texture sont  très variés.  On est habitué à voir sur les jupes  des points ronds  entrecoupés de lignes droites ou de fleurs ou de spirales, mais ces motifs de texture reflètent  bien la vie des Hmong avec la nature.

Cette jupe est en lin et teint à l’indigo. Cette couleur est la couleur primaire couramment utilisée par les femmes Hmong dans la confection de leurs vêtements. Cette superbe bleu indigo colore bien leur vie depuis leur enfance. (6 ou 7 ans). C’est pour cette raison qu’on dit qu’elles ont la main bleue. Les jupes bigarrées, les broderies élégantes et les bijoux fins font incontestablement leur réputation à travers l’Asie du Sud -Est. C’est aussi le symbole unique de leur identité. Les Hmong sont toujours appelés par la majorité des gens dans le monde sous la dénomination « peuple-arc-en-ciel »

Photos superbes exposées au musée des femmes du Vietnam (Hanoï)

les photos des minorités ethniques

prises par le muséologue Christine Hemmet ou Hoàng Minh Quốc
au  musée des femmes du Vietnam (Hanoï)

Le tigre dans l’art ancien du Vietnam (Hổ trong mỹ thuật cổ Việt nam)

Hổ trong mỹ thuật cổ Việt Nam

Version française

Đối với đại đa số  người Việt, hổ là  một con vật  đáng kính sợ. Vì sợ  hổ trả thù nên họ dành cho hổ những dấu hiệu tôn thờ qua những ngôi miếu dành riêng cho hổ  hay thường thấy được nằm rải rác ở  khắp khu rừng sâu thẩm ở miền núi. Đến nay  còn thấy nhiều dân tộc  ở miền núi còn thờ hổ.  Có  thể có liên quan đến tín  ngưỡng vạn vật hữu linh  của cư dân thưở xưa. Ngoài sức manh  uy phong  lẫm liệt của hổ, nó còn thường được xem là con vật có khả năng nghe lén các cuộc đàm thoại của họ. Vì vậy hổ được gọi là ông thính. Để tránh gọi tên hổ, người dân Việt  hay thường ám chỉ hổ với cái  tên là « ông ba mươi ».

Ngay cả trước khi giết hổ  sau khi bắt được nó,  họ cũng không quên bày tỏ lòng tôn kính lần cuối bằng cách tổ chức một buổi  nghi lễ trước đó.  Họ thường so sánh  họ với hổ qua câu châm ngôn như sau:

Hùm chết để da, người chết để tiếng.

Rất tiếc ngày nay hổ  ở  Đông Dương không còn nhiều nữa và đang ở trong tình trạng nguy cơ  tuyệt chủng vì các bộ phận của hổ được dùng làm thuốc đông y,  được bán với giá cao trên thị trường chợ đen, giá 100 gram cao hổ cốt bán tới 1.000 đôla.

Sự xuất hiện hình ảnh hổ trong nghệ thuật  cổ  được thấy từ  thời kỳ Đồng Sơn qua các chuôi dao gâm thường   được kết hợp  với voi hay rắn được thấy ở di chỉ Làng Vạc  ở  Nghệ An chẵng hạn  hay các thạp đồng như thạp VạnThắng (Cẩm Xuyên, Phú Thọ).  Thạp nầy được trưng bày ở bảo tàng lịch sử quốc gia với  bốn tượng  hổ cập mồi rất sinh động quay vòng trên nấp thạp hay chiếc qua đồng có hình hổ  được  khắc  hai mặt  với  những chấm trên thân được  nhà khảo cứu Pháp Louis Pajot sưu tầm và đưa về  trưng bày  ở  bảo tàng Finot (nay là bảo tàng lịch sử quốc gia  ở  Hànội). Ngoài ra còn có các hình hổ trang trí bằng họa tiết chìm. Điều nầy thể hiện  được  nghệ thuật điêu khắc và trang trí của người Đồng Sơn mang tính tả thực và ước lệ. So với các hình ảnh rồng, phượng, hưu, cá, vịt vân vân  thì  hình ảnh hổ rất hiếm hoi trên đồ gốm. Tuy nhiên thạp gốm hoa nâu nổi tiếng nhất là thạp hoa nâu khắc hình ba con hổ đuổi nhau được thấy  ở bảo tàng Guimet (Paris).

Những hình hổ được thấy ngày nay không còn mang ý nghĩa tâm linh, tín ngưỡng hay sợ hải nữa mà chỉ dùng để thể hiện  sự phong phú đa dạng trong việc trang trí trên các đồ gốm hay tạo ra  bằng đá nhầm để lại một dấu ấn riêng biệt theo sở thích của người đặt mua hàng.

Version française

Pour la grande majorité des Vietnamiens, le tigre est un animal redoutable. Par peur de vengeance, ils donnent aux tigres des signes d’adoration à travers des temples dédiés aux tigres, souvent dispersés dans la forêt profonde des montagnes. Jusqu’à présent, de nombreux groupes ethniques des régions montagneuses vénèrent encore les tigres. Cela peut être lié aux croyances animistes des anciens habitants. Outre la force imposante et majestueuse du tigre, il est aussi souvent considéré comme un animal capable d’écouter leurs conversations, ce qui fait de lui connu sous le nom « Monsieur l’écouteur (Ông thính) ». Pour éviter de l’appeler sous son propre nom « Hổ ou cọp), les Vietnamiens se réfèrent aux tigres avec le nom « Monsieur Trente ». Avant même de le tuer  après l’avoir attrapé, ils n’ont pas oublié de lui rendre un dernier hommage en lui organisant au préalable un rituel. Ils se comparent souvent aux tigres à travers le proverbe suivant:

Le tigre mort laisse sa peau et l’homme décédé sa réputation.

Malheureusement, il n’y a pas beaucoup de tigres en Indochine aujourd’hui. Ces derniers sont en voie d’extinction car toutes les organes de leur corps  sont utilisés dans la médecine traditionnelle chinoise et sont vendues à prix d’or sur le marché noir.  C’est le cas  de la poudre issue d’os de tigre et proposée avec un prix élevé de 100 grammes  à 1 000 dollars.

On voit apparaître les images des tigres souvent associées à des éléphants ou des serpents dans l’art ancien à  l’époque de  Đồng Sơn,  sur les lames des poignards trouvés sur le site de Làng Vạc à Nghệ An par exemple, ou  bien des situles en bronze comme la situle  Vạn Thắng. (Cẩm Xuyên, Phú Thọ). Cette dernière est exposée au musée national de l’histoire  avec quatre blocs de statues de tigres capturant la proie et  répartis de manière circulaire sur le couvercle de la situle  ou la hache en bronze (qua đồng) recueillie par le chercheur français Louis Pajot qui a eu le mérite  de l’offrir au musée Finot (*). On trouve  l’image d’un tigre gravée sur les  deux faces  de la hache avec des points.  Il existe également des images de tigre décorées de motifs en creux. Cela montre que l’art de la sculpture et de la décoration du peuple dôngsonien  est réaliste et conventionnel. Comparées aux figures de dragons, de phénix, de cerfs, de poissons, de canards etc., celles des tigres sont très rares sur la céramique. Pourtant  le vase à glaçure brune le plus célèbre est celui de trois tigres dans la poursuite,  trouvé au musée Guimet (Paris). Les images des tigres vues aujourd’hui ne  reflètent plus le caractère  spirituel, religieux ou de peur. Elles sont utilisées uniquement dans le but de montrer la richesse et la diversité de la décoration dans la céramique ou dans la pierre et de laisser  ainsi  une  marque particulière selon le goût et les préférences de l’acheteur.

(*) C’est le musée national de l’histoire de Hanoï.

Photos de Jean-Marie Duchange sur les Hauts Plateaux.

 

Version française

Un grand hommage au photographe

Jean-Marie  Duchange 

Jean-Marie Duchange sinh ra ở Saint Nazaire (Loire Atlantique) vào năm 1919. Dù ông không phải là một nhà dân tộc học như Georges Condominas mà cũng không phải nhà nhiếp ảnh viên chuyên nghiệp ở thời đó nhưng các tác phẩm ảnh mà gia đình ông tặng cho bảo tàng Quai Branly (Paris) và bảo tàng dân tộc học ở Hànội rất hiếm hoi và vô giá. Sau 4 năm trong quân đội, ông từ bỏ quân ngũ và làm việc 3 năm sau, từ năm 1952-1955 ở vụ y tế công cộng ở miền núi Nam Đông Dương (Tây Nguyên), ông có dịp đi nhiều nơi di chuyển  bằng xe jeep, cưỡi voi, đi bộ, đi thuyền vân vân.. Nhờ đó ông chụp được nhiều ảnh rất độc đáo với máy ảnh  Rolleyflex et Samflex để thỏa mãn sở thích chụp hình của ông. Đấy là những lời mở đầu được ghi lại trong cuốn sách mà ông dự định xuất bản khi ông ở tuổi 88. Nhưng không may ông qua đời khiến cô con gái của ông, bà Evelyne Duchaine và cô cháu ngọai bà Nadège Bourdoin không ngần ngại cứu vớt các tác phẩm ảnh nầy bằng cách cống hiến tất cả các phim âm bản cho bảo tàng Quai Branly (Paris) và  bảo tàng dân  tộc học ở Hànội. Nhờ vậy mới có cuộc trưng bày  để tưởng nhớ đến ông và để đáp lại sự hảo tâm của gia đình ông. Phải công nhận các tác phẩm của ông vẫn còn sống động và để lại cho những người đi xem như mình một niềm vui vô hạn.

Version française

Jean-Marie Duchange est né à Saint Nazaire (Loire Atlantique) en 1919. Bien qu’il ne soit ni ethnologue comme Georges Condominas ni photographe professionnel à cette époque, les œuvres photographiques que sa famille a offertes au musée du Quai Branly (Paris) et au musée d’ethnographie de Hanoï sont  rares et inestimables. Après 4 ans dans l’armée, il quitta l’armée et travailla 3 ans plus tard, de 1952 à 1955 au service de santé publique dans le sud de l’Indochine (Les Hauts Plateaux) du Vietnam, il avait l’occasion de voyager dans de nombreux endroits en jeep, à dos d’éléphant, à pieds, en pirogue  etc. Grâce à cela, il prit de nombreuses photos très originales avec son appareil photo Rolleyflex et Samflex pour assouvir sa passion  pour les photos. Ce sont les premiers mots d’introduction trouvés dans le livre qu’il envisagea de publier à l’âge de 88 ans. Mais à cause de sa mort précipitée,  sa fille Evelyne Duchaine et sa nièce Nadège Bourdoin n’hésitèrent pas à sauver son travail en offrant tous les négatifs au musée  Quai Branly (Paris)  et  au  musée d’ethnographie de Hanoï. Grâce à ce don, il y a eu une exposition au musée d’ethnographie de Hanoï  en l’honneur de sa mémoire et en reconnaissance  de la générosité de sa famille. Il faut reconnaître que ses œuvres sont toujours vivantes et laissent à des visiteurs passionnés comme moi une joie incommensurable.

 

Thác Dãi Yếm (Casacade Dãi Yếm, Mộc Châu)

Thác Dãi Yếm

Thác Dải Yếm

Version française

Thác Dải Yếm được hình thành từ hai khe nước bo Tá Cáu và bo Co Lắm ở bản Vặt cách thác 600m về phía tay trái và cùng nằm trên QL43. Ngày xưa, nhiều người còn gọi thác này là Thác Nàng, Thác Bản Vặt, tuy nhiên cái tên được nhiều người biết đến nhất vẫn là Thác Dải Yếm. Cái tên thác đã gắn liền với sự tích về hai cô thôn nữ dũng cảm cứu chàng trai khỏi nước lũ. Nằm cách trung tâm thị trấn Mộc Châu khoảng 8km, làng nầy của người Thái được toạ lạc cách suối 600 thước  bên tay trái và trên quốc lộ 43. Thác Dải Yếm  còn là ngọn thác lớn thuộc địa phận xã Mường Sang, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.

Version française

La cascade Dãi Yếm se forme lors de la rencontre de deux cours d’eau, Bó Co Lắm  et Bo Tá Cháu dans le village de Vặt. Loin du centre-ville de Mộc Châu à peu près de 8km,  ce village des Thaïs  est situé  à 600 m de la cascade sur le côté gauche et sur la route nationale 43. Autrefois, beaucoup de gens appelaient également cette cascade Thác Nàng, Thác Bản Vặt, mais le nom le plus célèbre est toujours la cascade Dãi Yếm dont  le nom est lié  étroitement à l’histoire de deux courageuses villageoises ayant sauvé un garçon lors d’une inondation. La cascade Dãi Yếm est une chute d’eau importante appartenant à la commune de Mường Sang du district de Mộc Châu, dans la province de Sơn La.

 

Quartier piétonnier (Huế)

Khu phố Tây ba lô

Cũng như mọi thành phố, Huế cũng có phố đi bộ  hay thường gọi là khu phố Tây ba lô vì người Âu Châu hay thường cư trú ở nơi nầy trong thời gian viếng thăm cố đô Huế. Cũng có đường mang tên Phạm Ngũ Lão như ở thành phố Saïgon nhưng không có náo nhiệt và đông đảo người chi cho lắm.  Tuy nhiên nó  là nơi mà người du khách có thể tìm kiếm các trò vui chơi và giải trí về đêm giữa lòng cố đô trầm tư và sâu lắng. 

Comme toutes les villes du Vietnam, Huế possède également le quartier des routards européens  car ils y résident fréquemment lors de leur visite dans l’ancienne cité de Huế. C’est étonnant de trouver une rue nommée Phạm Ngũ Lão comme celle de  la ville de Saïgon, mais elle n’est pas assez animée et bondée de gens. Cependant, c’est un endroit où les touristes peuvent trouver des divertissements et peuvent trainer  une vie nocturne au cœur de l’ancienne capitale calme et contemplative.

Huế au fil de la nuit (Huế về đêm)

Huế au fil de la nuit