Galerie des photos
Văn Hóa thế giới . Culture du Vietnam ou du monde.
Hoa này có ý nghĩa tượng trưng mạnh mẽ đối với người Hindu và Phật giáo, vì thế nó được gọi là hoa ở các đền thờ. Có lẽ đó là lý do tại sao người Chàm yêu mến loài hoa này và xem nó là biểu tượng của đất nước họ vào thời nước Chiêm Thành còn là một quốc gia chịu nhiều ảnh hưởng Ấn Độ độc lập ở miền trung Việt Nam ngày nay. Khi người dân Việt và vua Lê Thánh Tôn chiếm đất nước này, người Chàm buộc lòng phải phân tán ở Đông Dương, đặc biệt là ở Lào và Cao Mên, mang theo cây này. Hoa này được người Lào gọi là Dork Champa để tượng trưng cho hoa bị người Chàm bỏ rơi. Người Lào sau đó đã sử dụng nó cho quốc gia của họ khi họ thành lập được nước cùng Thái Lan và từ đó trở thành hoa biểu tượng của đất nước họ. Ban đầu được gọi là plumiera để vinh danh nhà thực vật học người Pháp thế kỷ 17 Charles Plumier, hoa này được gọi sau đó hoa Frangipani, được đặt theo tên của một hầu tước người Ý Đại Lợi Frangipani, người đã tạo ra một loại nước hoa từ quả hạnh nhân.
Hoa Sứ
La fleur de frangipanier a une symbolique forte chez les hindous et bouddhistes d’où son nom de fleur des temples. C’est peut-être pour cette raison que les gens du Champa adorent cette fleur et la prennent comme le symbole de leur pays à l’époque où le Champa était encore un pays indianisé indépendant dans le centre du Vietnam d’aujourd’hui. Lors de l’annexion de ce pays par les Vietnamiens avec le roi Lê Thánh Tôn, les Chams furent dispersés en Indochine en particulier au Laos et au Cambodge en emmenant avec eux cette plante. Cette fleur était appelée Dork Champa par les Laotiens pour signifier la fleur abandonnée par les Chams. Les Laotiens la reprennent plus tard pour leur compte lors de la formation de leur pays avec la Thaïlande et la font devenir désormais la fleur emblématique de leur pays. Connue au départ sous le nom de plumiera en l’honneur du botaniste français du 17ème siècle Charles Plumier, cette fleur devient après, la fleur du frangipanier en prenant le nom d’un marquis italien Frangipani qui a crée un parfum à base d’amande.
Les estampes du monde flottant
Nghệ thuật vẽ các bức hình của thế giới nổi trôi được sinh ra ở thời Edo, một thời kỳ mà con người luôn tìm kiếm hoan lạc mà cũng là thời kỳ của Mạc chúa Tokugawa đã thành công thống nhất xứ Phù Tang và đóng đô ở Edo nay là thủ đô Tokyo. Các bức hình vẽ nầy đã ảnh hưởng rất nhiều đến những hoạ sĩ nổi tiếng như Matisse, Monet và Van Gogh. Các bức hình vẽ nầy phản ảnh một thế giới sôi động và phức tạp với những thú vui phù du và tinh tế mà giới giai cấp tư sản ở thành thị thường ưa thích trong cuộc sống hằng ngày như ca kịch, thơ hay bên cạnh các kỹ nữ.
Kỹ thuật in khắc hình trên gỗ cho phép sản xuất hàng loạt và phân phối những hình ảnh rẻ tiền và định dạng khác nhau, ban đầu nhằm mục đích quảng cáo. Kỹ thuật nầy bắt đầu được thực hiện vào đầu thế kỷ XIX bởi các nghệ sĩ đến từ trường Utagawa (Kuniyoshi, Kunishada) mà một số tác phẩm được chọn và trưng bày gần đây bởi Bảo tàng Cernuschi ở Paris với tựa đề « Những phản ảnh của Nhật Bản bước vào thời kỳ tân tiến ».
L’art de peindre des images du monde flottant (ou ukiyo-e) est né à l’époque d’Edo, une période où les gens cherchaient toujours le bonheur, mais c’est aussi l’époque où le shogun Tokugawa a réussi à unifier le Japon et à fonder la ville d’Edo qui devient aujourd’hui la capitale de Tokyo. Ces estampes ont beaucoup influencé des peintres célèbres occidentaux comme Matisse, Monet et Van Gogh. Ces peintures reflètent un monde effervescent et complexe avec des plaisirs subtils et éphémères que la bourgeoisie urbaine appréciait souvent dans la vie quotidienne comme le théâtre, la poésie ou encore la compagnie des courtisanes.
La technique de l’estampe sur bois facilitant la production et la diffusion de masse de ces images peu onéreuses et sous des formats différents a pour but de servir la publicité. Elle commence à se réaliser au début du XIXème siècle avec des illustres artistes issus de l’école Utagawa (Kuniyoshi, Kunishada) dont certaines œuvres ont été choisies et exposées pour le thème intitulé « Reflets du Japon au tournant de la modernité » du musée Cernuschi (Paris).
Ít ai biết tên thật của bà trong làng văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ XIX. Chỉ gọi bà là bà huyện Thanh Quan vì chồng bà tên là Lưu Nghị, có đậu cử nhân năm 1821 (Minh Mạng thứ 2) và có một thời làm tri huyện Thanh Quan (tỉnh Thái Bình). Thật sự tên thật của bà là Nguyễn Thị Hinh người phường Nghi Tâm, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây, quận Tây Hồ (Hà Nội). Cha của bà là ông Nguyễn Lý (1755-1837) đỗ thủ khoa năm 1783 dưới đời vua Lê Hiến Tông. Qua các bài thơ nôm bi thương của bà, chúng ta thường thấy có sự nhớ thương day dứt không nguôi, có một nỗi buồn của nữ sĩ đa tài về những sự thay đổi của cảnh vật thâm trầm nhất là Thăng Long nơi mà sinh ra cũng không còn là kinh đô của đất nước mà là Huế. Còn chồng bà cũng bị cách chức một thời sau đó được thăng lên chức Bát phẩm Thư lại bộ Hình và mất sớm ở tuổi 43. Bà rất nỗi tiếng « hay chữ » nhất là về loại thơ Đường. Loại thơ nầy còn được gọi là cổ thi vì được dùng cho việc thi cử tuyển chọn nhân tài, rất phổ biến ở Việt Nam vào thời Bắc thuộc (Nhà Đường). Bởi vậy thơ nầy mới có tên là thơ Đường.
Lọai thơ nầy chỉ vỏn vẹn có 8 câu ; mỗi câu 7 chữ tức là có tất cả là 8×7= 56 chữ thế mà bà mô tả và dựng lên được một cách tài tình, một bức tranh tuyệt vời từ ngọai cảnh lẫn nội dung. Tuy nhiên thể thơ nầy nó có luật rất chặt chẽ và được điều chỉnh bởi ba quy tắc thiết yếu :vần, điệu và đối khiến ở Việt Nam từ 1925 thì các thi sĩ không còn tôn trọng quy luật bằng-trắc để có thể hiện được sự lãng mạn của mình trong từng câu thơ. Nhưng những bài thơ thất ngôn bát cú của bà Thanh Quan thì phải xem đây là những viên ngọc quý trong làng văn học Việt Nam. Bà đã thành công trong việc vẽ được một cảnh quan nhỏ bé với 56 chữ và bày tỏ cảm xúc sâu sắc của mình một cách tinh tế và sử dụng ngôn ngữ Hán Việt trong thể thơ thất ngôn bát cú một cách điêu luyện.Theo nhà nghiên cứu Trần Cửu Chấn, thành viên của Viện hàn lâm văn học và nghệ thuật Paris thì các bài thơ của bà được xem như là những viên ngọc quý được bà chọn lọc và gọt dũa đặt trên vương miện hay được cắt bằng men.
Các bài thơ Đường của bà không chỉ mang tính chất cổ điển mà còn thể hiện được sự điêu luyện trong cách dùng chữ. Bà còn có tài năng biết biến thành những biểu tượng vô hồn như đá (Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt), nước (Nước còn chau mặt với tang thương), hay cỏ cây (Cỏ cây chen đá, lá chen hoa) thành những vật thể sinh động, còn mang tính và hồn người và còn biết dùng màu sắc đậm nhạt để thể hiện sự tương phản (Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn/ Vàng tỏa non tây bóng ác tà) hay đưa quá khứ về cùng với hiện tại (Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo/Nền cũ lâu đài bóng tịch dương/Ngàn năm gương cũ soi kim cổ) khiến các bài thơ tả cảnh của bà trở thành những bức tranh thiên nhiên tuyệt vời cũng như các bức tranh thủy mà họa sĩ dùng bút lông vẽ trên lụa với sắc thái đậm nhạt nhờ quan sát chính xác.
Những bài thơ Đường của bà rất được các nho gia xưa ngâm nga yêu chuộng. Tuy rằng chỉ tả cảnh và bày tỏ nỗi cảm xúc của mình nhưng lời thơ rất thanh tao của một bà thuộc tầng lớp qúy tộc cao có học thức thường nghĩ ngợi đến nhà, đến nước. Đây là lời nhận xét của nhà nghiên cứu văn học Dương Quảng Hàm. Bà có tấm lòng thương tiếc nhà Lê nhưng đồng thời chỉ bày tỏ tâm sự của một người không bằng lòng với thời cục, mong mỏi sự tốt đẹp như đã có ở một thời xa xôi trước đây mà thôi. (Nghìn năm gương cũ soi kim cổ/ Cảnh đấy người đây luống đoạn trường). Cụ thể bà còn giữ chức Cung Trung Giáo Tập để dạy học cho các công chúa và cung phi dưới thời vua Minh Mang cûa nhà Nguyễn. Có một lần vua Minh Mạng có một bộ chén kiểu của Trung Quốc mới đưa sang và vẽ sơn thủy Việt Nam cũng như một số đồ sứ kiểu thời đó. Vua mới khoe và ban phép cho bà được làm một bài thơ nôm. Bà liền làm ngay hai câu thơ như sau :
Như in thảo mộc trời Nam lại
Đem cả sơn hà đất Bắc sang.
khiến làm vua rất hài lòng và thích thú. Phài nói người Trung Hoa hay thường xem trọng sơn hà nên thường thấy ở trên các đồ kiểu còn ở Việt nam ta thì rất hướng về ruộng lúa xanh tươi thế mà bà biết vận dụng thành thạo chữ nôm để có hai câu thơ đối gợi ý tuyệt vời.
Nhưng sau khi chồng bà qua đời, một tháng sau bà xin về hưu và trở về sinh sống ở quê quán của mình cùng 4 đứa con. Bà mất đi ở tuổi 43 vào năm 1848.(1805-1848)
Các bài thơ nôm của bà tuy không nhiều chỉ có 6 bài nhưng thể hiện được tinh thần thanh cao của các nho sĩ, cùng với tinh túy của Đường thi. Viết chữ Hán thì đã khó mà sang chữ Nôm thì càng khó hơn vì khó học mà còn dùng lời văn trang nhã, điêu luyện và ngắn gọn như bà để giữ được quy tắc chặt chẽ của thơ Đường. Thật không có ai có thể bằng bà đựợc nhất là bà biết dùng ngoại cảnh để bày tỏ nỗi cô đơn và tâm trạng của mình. Bà cũng không biết cùng ai để chia sẻ cái ray rứt ở trong lòng (Một mảnh tình riêng ta với ta./Lấy ai mà kể nổi hàn ôn?). Bà luôn luôn tiếc nuối xót xa về quá khứ với một tâm hồn thanh cao lúc nào cũng hướng về gia đình và quê hương.
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa
Lom khom dưới núí, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mâý nhà
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc
Thương nhà, mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại: trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
THĂNG LONG HOÀI CỔ
Tạo hoá gây chi cuộc hí trường
Đến nay thắm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường.
CẢNH CHIỀU HÔM
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc đưa xa vẳng trống đồn
Gác mái, ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai, gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu, sương sa khách bước dồn
Kẻ chốn chương đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nổi hàn ôn?
CHIỀU HÔM NHỚ NHÀ
Vàng tỏa non tây bóng ác tà
Đầm đầm ngọn cỏ tuyết phun hoa
Ngàn mai lác đác chim về tổ
Dậm liễu bâng khuâng khách nhớ nhà
Còi mục gác trăng miền khoáng dã
Chài ngư tung gió bãi bình sa
Lòng quê một bước dường ngao ngán
Mấy kẻ chung tình có thấu là..?
CHÙA TRẤN BẮC
Trấn bắc hành cung cỏ dãi dầu
Ai đi qua đó chạnh niềm đau
Mấy tòa sen rớt mùi hương ngự
Năm thức mây phong nếp áo chầu
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
Người xưa cảnh cũ nào đâu tá
Ngơ ngẩn lòng thu khách bạc đầu
CẢNH THU
Thấp thoáng non tiên lác đác mưa
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang sơn, say chấp rượu,
Túi lưng phong nguyệt, nặng vì thơ
Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ ?
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ ?…
Peu de gens connaissaient son vrai nom dans la communauté littéraire vietnamienne au début du XIXème siècle. On l’appelait simplement Madame le sous-préfet du district Thanh Quan parce que son mari Lưu Nghi fut reçu aux trois concours de la licence en 1821 sous le règne de l’empereur Minh Mang et fut un temps sous-préfet du district de Thanh Quan (province de Thái Binh). En fait, son vrai nom était Nguyễn Thị Hinh. Elle était issue du village Nghi Tâm du district de Vĩnh Thuận, près du lac de l’Ouest dans l’arrondissement de Tây Hồ (Hanoï). Son père était Mr Nguyễn Lý (1755-1837) ayant eu réussi être le premier dans le concours interprovincial en 1783 sous le règne du roi Lê Hiến Tông. À travers à ses poèmes élégiaques, nous remarquons toujours la douleur et la tristesse sempiternelle de la poétesse talentueuse face aux changements ayant un profond impact au paysage, en particulier à l’ancienne capitale Thăng Long où elle est née. Cette dernière n’était plus la capitale du pays mais c’était plutôt Huế. Son mari fut licencié durant un certain temps avant d’être promu au poste de secrétaire du Ministère de la Justice. Il fut décédé prématurément à l’âge de 43 ans. Elle a un penchant pour la versification Tang. Ce type de poésie est également appelé la poésie antique car il est utilisé dans les concours destinés à recruter des gens de talent et il est très populaire au Vietnam durant la période de domination des gens du Nord (dynastie des Tang). C’est pourquoi il s’appelle la poésie des Tang.
Ce type de poème composé seulement de 8 vers de 7 pieds permet d’avoir un total de 8 × 7 = 56 mots. Pourtant la poétesse réussit à décrire avec ingéniosité un magnifique tableau porté à la fois sur le paysage externe et le contenu. Cependant, ce poème des Tang a des règles très strictes et est régie par trois principes essentiels: la rime, le rythme et le parallélisme. Depuis 1925 au Vietnam, les poètes ne respectent plus les règles de la métrique pour s’exprimer librement dans le but d’obtenir le lyrisme dans chaque vers. Mais les poèmes des Tang de Mme Thanh Quan doivent être considérés comme un joyau précieux dans le monde littéraire vietnamien. Elle a réussi à décrire et à brosser un petit paysage avec 56 mots et a exprimé ses profonds sentiments de manière raffinée. Elle a utilisé la langue sino-vietnamienne sous une forme poétique de 8 vers de 7 pieds avec adresse. Selon le chercheur Trần Cửu Chấn, membre de à l’Académie des Lettres et des Arts de Paris, ses poèmes Tang sont considérés comme des perles précieuses qu’elle sélectionne, polit et met sur une couronne en or ou ciselée en émail.
Ses poèmes n’ont pas seulement le caractère classique mais ils traduisent aussi la virtuosité dans l’utilisation des mots. Elle a également le talent de savoir transformer des éléments sans vie tels que la pierre (la pierre reste toujours impassible au fil du temps), l’eau (l’eau se montre indignée devant l’instabilité des choses de la vie) ou l’herbe et les arbres (l’herbe et les arbres s’intercalent avec les rochers tandis que les feuilles s’introduisent au sein des fleurs) en des êtres vivants ayant la nature humaine et l’âme et utiliser des couleurs foncée et claire pour faire sortir les contrastes (Sous le ciel blafard, le soir ramène les ombres du crépuscule / Le jaune brille sur les montagnes de l’ouest sous les rayons du soleil couchant) ou rapprocher le passé du présent ((Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo/ Sur la vieille voie prise par les calèches, se promène l’âme des herbes d’automne)(Nền cũ lâu đài bóng tịch dương/ Les vestiges du palais somptueux sont éclairés par les rayons du soleil couchant) (Ngàn năm gương cũ soi kim cổ/ Au fil des siècles, dans ce miroir antique, on met en parallèle le passé et le présent). Cela fait de ses poèmes Tang décrivant des scènes de paysage en de merveilleuses peintures naturelles comme les aquarelles que l’artiste réussit à peindre au pinceau sur le tissu en soie avec des nuances entre le foncé et clair à l’aide d’une observation rigoureuse.
Ses poèmes des Tang sont très appréciés par les anciens érudits confucéens. Bien qu’ils ne fassent que décrire le paysage et exprimer ses sentiments, les termes employés sont tellement raffinés et écrits par une dame aristocratique très instruite qui pense souvent à son foyer et à son pays. C’est le commentaire du chercheur littéraire Dương Quảng Hàm. Elle avait un attachement profond à la dynastie des Lê mais en même temps elle n’exprimait que les sentiments de quelqu’un qui n’était pas satisfait de la situation actuelle et qui espérait de retrouver ce qui existait auparavant. ( Ngàn năm gương cũ soi kim cổ/Cảnh đấy người đây luống đoạn trường) (Devant ce tableau, mes entrailles se sentent déchirées en morceaux). La preuve est qu’elle acceptait la tâche d’enseigner les princesses et les concubines sous le règne de l’empereur Minh Mạng de la dynastie des Nguyễn. Une fois, ce dernier reçut un nouvel service à thé en céramique venant de la Chine et ayant pour décor le paysage du Vietnam. Il le montra à ses subordonnés et demanda à la poétesse de composer un distique. Elle ne tarda pas à improviser les deux sentences suivantes:
Như in thảo mộc trời Nam lại
Đem cả sơn hà đất Bắc sang.
L’herbe et les arbres du Sud sont reproduits visiblement sur la céramique ainsi que les monts et fleuves du Nord ainsi ramenés.
Sa spontanéité rendit satisfait l’empereur. Il faut reconnaitre que les Chinois font souvent attention aux montagnes et aux fleuves qu’on retrouve souvent sur les objets de décoration. Par contre au Vietnam, on s’attache à la luxuriance des rizières. Elle réussit à saisir l’essentiel et à composer ces deux vers parallèles tout en sachant respecter strictement les règles de poésie des Tang. Lors du décès de son mari, un mois plus tard, elle demanda au roi de lui permettre de désister sa fonction et retourner à sa terre natale avec ses quatre enfants. Elle mourut en l’an 1848 lorsqu’elle n’avait que 43 ans. (1805-1848)
Étant en nombre limité (6 en tout), ses poèmes réussissent à refléter l’esprit noble des poètes et la quintessence de la poésie des Tang. La composition de ces poèmes est déjà difficile en caractères chinois mais elle parait insurmontable en caractères démotiques dans la mesure où il faut respecter en plus les règles strictes de la poésie des Tang. Peu de gens arrivent à l’égaler car elle sait utiliser des mots avec une rare finesse de langage pour révéler sa solitude et son état d’âme tout en s’appuyant sur le pittoresque des scènes de la nature. Elle ne sait non plus à qui elle peut révéler ses confidences. (Một mảnh tình riêng ta với ta./Lấy ai mà kể nổi hàn ôn?). Sous le poids de son état d’âme, elle se sent seule avec soi-même. Elle continue à éprouver des regrets et se retourner vers le passé avec son esprit noble et à penser sans cesse à son foyer et à sa terre natale.
LE COL DE LA PORTE D’ANNAM (*)
Au moment je gravis le Col de la Porte d’Annam, les ombres du crépuscule s’allongent vers l’occident
L’herbe et les arbres s’introduisent dans les rochers, les fleurs éclosent au milieu des feuilles.
Au pied de la montagne marchent quelques bûcherons , le dos courbé sous le faix;
Sur l’autre côté de la rivière s’élève un marché formé de quelques cases éparses.
En pensant avec douleur à la patrie absente le râle d’eau gémit sans arrêts,
Oppressée par l’attachement au foyer, la perdrix pusse des cris ininterrompus.
Je m’arrête sur le chemin et ne vois autour de moi que ciel, montagnes et mer;
Sous le poids de cet état d’âme, je me sens seule avec moi-même.
CRÉPUSCULE (*)
Sous un ciel blafard, le soir ramène les ombres du crépuscule
Au loin le son de la trompe des veilleurs répond au tam-tam du poste de garde.
Déposant sa rame, le vieux pêcheur regagne sa station lointaine;
Le jeune bouvier frappant sur les cornes de son buffle, retourne au hameau solitaire.
Les oiseaux volent avec effort vers les immenses touffes d’abricotiers qui ondulent sous le vent;
Le voyageur presse le pas sur la route que bordent les saules enveloppés de brume.
Moi je reste au logis ; vous , vous êtes en voyage;
À qui pourrais-je exprimer toutes mes confidences?
(*) Extrait du livre intitulé « Les grandes poétesses du Vietnam », Auteur Trần Cửu Chấn. éditions Thế Giới
Được biết đến dưới bút hiệu là Hồng Hà, bà sinh ra vào năm Ất Dậu (1705) ở làng Hiến Phạm, huyện Văn Giang, Hưng Yên ở miền bắc Việt Nam. Bà đựợc xem đứng bậc nhất trong bốn nữ sĩ lỗi lạc nhất ở Việt Nam cùng với Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương và Sương Nguyệt Ánh và làm nở mày nở mặt đàn bà ở nước Nam. Có một lần đoàn sứ Mãn Thanh sang nước ta với Hàng Địch Lộc và Nhiệm Lan Chi. Triều đình nước ta mới tuyển chọn bà giã làm cô bán hàng xinh đẹp. Quen thói hống hách và khinh thường trông thấy cô bán hàng xinh đẹp, sứ Tàu giỡ trò nói đùa như sau:
Nam phương nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh.
Phương Nam có một tấc đất mà không biết bao nhiêu người cày.
Đoàn thị Điểm hiểu ý nhanh nhẹn đáp lại ngay:
Bắc quốc đại trượng phu, giai do thứ đồ xuất
Nứớc Tàu phương Bắc có lắm bậc đại phu nhưng cũng đều bởi đường ấy mà ra.
Hai câu đối trên nếu giãi nghĩa thanh thì đối nhau cũng rất thanh nhã mà muốn giải nghĩa tục thì đối nhau cũng rất tục tĩu khiến làm sứ Tàu hổ thẹn bỏ đi ngay và không còn đứng lại bỡn cợt các con gái nước Nam.
Theo gia phả thì gia đình bà thuộc về họ Lê nhưng đến đời cha của bà Đoàn Doãn Nghi (1678-1729) thì mới đổi ra họ Đoàn. Cha của bà đỗ và có làm quan một lúc dưới thời Lê Trung Hưng. Sau khi ly dị với vợ chính có một đứa con trai tên là Đoàn Doãn Sĩ, ông tái giá lại có được hai người con: con cả là Đoàn Doãn Luân và con thứ Đoàn thị Điểm. Lúc trẻ, bà không những nổi tiếng thông minh, mà còn đẹp người và đẹp nết nữa. Bà rất cần cù chăm học, có tài năng văn chương và xuất chúng luôn cả trong việc nữ công. Cho nên năm lên 16 tuổi, bà được Thượng thư Lê Anh Tuấn nhận làm con nuôi để sau nầy dâng lên chúa Trịnh nhưng bà khước từ vì không muốn bị gò bó trong triều đình. Sau đó, khi nghe cha ốm đau, bà xin cha nuôi cho phép bà trở về quê phụng dưỡng cha già. Nhờ đó bà được chăm nom và giáo dục của cha và anh, cả hai đều đổ để làm quan nhưng rồi cũng từ quan trở về dạy học cả ở làng Lạc Viên (huyện An Dương, tỉnh Kiến An; nay thuộc Hải Phòng). Bà cùng anh có dịp nghiên cứu các mô hình cổ điển và khoa học huyền bí. Những lúc thư giãn, bà hay thường cùng anh thích thi đua văn học qua các câu đối tuyệt tác với sử dụng khéo léo tài tình các chữ mà còn có cả năng khiếu đáp ứng nhanh nhẹn khiến làm chúng ta con cháu nước Việt ngày nay phải ngẩn ngơ thán phục khi đọc lại các câu đối này. Lúc lên 6 tuổi, bà được học Sử Ký của Tư Mã Thiên nên có một ngày, Đoàn Doãn Luân mới thách thức bà dựa trên sử ký mà ra câu vế đầu như sau:
Bạch xà đương đạo, Quý bạt kiếm nhi trảm chi.
Rắn trắng giữa đường, ông Quý tuốt gươm mà chém.
Quý đây muốn ám chỉ đến Hán Cao Tổ Lưu Bang.
Bà không ngần ngại đáp lại nhanh nhẹn câu vế sau cũng cũng lấy lại trong sử ký:
Hoàng long phụ chu, Vũ ngưỡng Thiên nhi thán viết.
Rồng vàng đội thuyền, Ông Vũ ngửa mặt lên Trời mà than. Vũ đây là tên của Đại Vũ vua nhà Hạ.
Có một lần, khi bà đang trang điểm nhìn qua gương thì anh bà Đoàn Doãn Luân đi ngang qua xuống ao rữa chân ngồi trên ván hồ mới thốt ra vế đầu như sau:
Chiếu kính họa my, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm.
Soi gương kẽ lông mày, một nét hoá ra hai nét.
Bà mới đáp lại vế cuối như sau:
Lâm tri ngọan nguyệt, chích luân chuyển tác song luân.
Tới ao ngắm trăng, một vầng hoá ra hai vầng.
Trong hai câu vế nầy, chữ Điểm cũng như chữ Luân được lập lại hai lần. Đây cũng là cách dùng khéo léo tài tình để ám chỉ bà và anh bà, mỗi người trở lại thành hai người trong câu đối. Bà không chỉ đáp giỏi trong loại văn biền ngẫu nầy mà còn để lại cho quần chúng những câu vế đầu thách thức khó đối như « Da trắng vỗ bì bạch ». Đây là một hình ảnh trực quan, dễ mường tượng, gợi dục nhưng rất tinh tế. Theo dân gian kể, bà Điểm đang tắm thì Trạng Quỳnh đòi vào tắm chung. Bà mới thách thức ông Trạng nếu muốn được tấm chung thì phải đối được câu đối hóc búa nầy. Bì là da mà bạch cũng là trắng. Như vậy bì bạch là da trắng nhưng hai tiếng nầy theo nghĩa nôm là từ tượng thanh (tiếng vỗ) vừa là từ tượng hình (da có mầu) vừa là từ tượng sắc (trắng). Câu Da Trắng Vỗ Bì Bạch có ngầm ý là vỗ vào chỗ da trắng nhất, chỉ để hở ra lúc tắm tức là chổ kín đáo nhất. Vì không đối được, Trạng Quỳnh phải bỏ đi. Có 300 năm qua chưa ai tìm ra được câu đối đáp tương xứng phải đúng theo nội dung, cấu trúc, thể loại nội dung, số lượng vân vân.. Phải tôn trọng thứ tự vị trí của các danh từ, tính từ và động từ, quan sát các quy tắc đối lập của các thanh bằng và trắc. Có người cho rằng đây là câu đối « chết ». Ngoài việc sử dụng tài tình các chữ trong các câu đối, bà còn viết truyện chữ Hán có tên là Truyền kỳ tân phả (khắc in lần đầu năm Tân Mùi, 1811). Quyển nầy gồm có 5 câu chuyện đầy hương vị: Vân các thần nữ, Hải Khẩu linh từ, An ấp liệt nử, Yến anh đối thoại và Mai huyễn.
Bà còn dịch nguyên bản của truyện thơ Chinh phụ ngâm khúc viết bằng chữ Hán của Đặng Trần Côn thành 412 câu thơ theo thể song thất lục bát bằng chữ Nôm. Phải nói rằng bài thơ này làm người đọc thấu hiểu được tâm sự của người phụ nữ xa chồng, phải lo phụng dưỡng mẹ già, dạy dỗ đàn con thơ của chồng với lòng không nguôi trong lúc đó chồng bà ông Nguyễn Kiều phải đi sứ sang Tàu trong suốt thời gian 3 năm cũng như lính thú đóng giữ ở biên thùy. Với tài năng lỗi lạc của bà khiến tác phẩm Hán văn của ông Đặng Trần Côn mà bà dịch trở thành một tuyệt tác so với các bản dịch khác và cũng làm người đọc quên đi cái mô hình có vẻ nhợt nhạt và lạnh lùng trong nguyên bản chính.
Chính bà làm cho người đọc thấy được cảm xúc chân thành và rung động của tâm hồn bà, nổi cô đơn buồn tủi của người phụ nữ phải xa chồng. Theo nhà nghiên cứu Trần Cửu Chấn, thành viên của Viện hàn lâm văn học và nghệ thuật Paris thì bản dịch của Phan Huy Ích được xem như một bài tập trường học so với tác phẩm vô cùng tuyệt vời của Đoàn Thị Điểm vì bà thấu hiểu và đồng cảm với tâm trạng của người chinh phụ. Chính với tuyệt tác Chinh Phụ Ngâm mà bà phiên dịch bằng chữ nôm đã đưa tên tuổi của bà lên đỉnh cao trong nền văn học nước nhà nhưng nói về tình duyên bà rất lận đận, phải thế anh giúp đở chị dâu nuôi dàn cháu thơ dại và phụng dưởng mẹ già. Vì gia cảnh khó khăn, bà cùng mẹ, chị dâu và hai cháu tản cư đến làng Chương Dương bên bờ sông Nhị Hà, gần Hà Nội. Ban đầu, bà làm nghề xem mạch bốc thuốc sau đó thành lập một trường dạy học đào tạo nhân tài. Sự nghiệp của bà thu hút rất nhiều học trò. Trong thời gian dạy học có rất nhiều người dạm hỏi cưới bà nhưng mãi đến năm 1743 bà mới chịu kết hôn với ông Nguyễn Kiều, một người học rộng và tài cao (đỗ Giải nguyên ở tuổi 18 và đỗ Tiến sĩ ở tuổi 21). Tháng 8 năm 1748, trong lúc theo chồng vào Nghệ An, bà Đoàn Thị Điểm mắc bệnh và qua đời vào ngày 11 tháng 9 năm Đinh Mão (1748). Lúc đó bà chỉ mới 43 tuổi. Phần mộ của bà còn nằm tại phường Phú Thượng, quận Tây Hồ, Hà Nội.
Connue sous le nom de plume Hồng Hà, elle est née en 1705 (année du coq de bois) au village de Hiến Phạm, sous-préfecture de Văn Giang de la province Hưng Yên dans le nord du Vietnam. Elle est classée au premier rang des quatre poétesses les plus éminentes du Vietnam avec Madame Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương et Sương Nguyệt Ánh et elle rehausse la fierté d’être la femme du Vietnam.
Une fois, lors de la visite d’une délégation chinoise de la dynastie des Qing au Vietnam avec Hàng Địch Lộc et Nhiệm Lan Chi, la cour royale de notre pays l’a récemment recrutée pour se déguiser en une belle vendeuse. Etant habitué à se montrer arrogant et méprisant vis-à-vis des Vietnamiens, l’ambassadeur chinois commença à la taquiner en lui adressant le vers supérieur suivant:
Nam phương nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh.
Phương Nam có một tấc đất mà không biết bao nhiêu người cày.
Le Sud a un seul pouce de terrain mais je ne sais pas combien de gens y ont labouré.
En saisissant bien l’insinuation, Đoàn thị Điểm répliqua avec une rapidité étonnante:
Bắc quốc đại trượng phu, giai do thứ đồ xuất
Nứớc Tàu phương Bắc có lắm bậc đại phu nhưng cũng đều bởi đường ấy mà ra.
Le Nord a beaucoup de grands docteurs mais tous sont sortis également de cette issue (ouverture).
Pour les deux sentences parallèles ci-dessus si on les explique au sens strict, il n’y a que des compliments. Par contre si elles sont interprétées au sens figuré, la vulgarité est au top avec une image obscène ( avec des putes et des gens sortis de ce trou), ce qui fait rougir de honte l’ambassadeur et le fait partir immédiatement sans oser recommencer à taquiner d’autres filles du Sud.
Selon la généalogie, sa famille appartenait à la famille Lê, mais c’était seulement avec son père Đoàn Doãn Nghi (1678-1729) que le nom de famille fut changé en Đoàn. Son père réussit aux examens et servit comme mandarin pendant un certain temps sous la dynastie des Lê postérieurs. Après avoir divorcé avec sa première femme, qui avait un fils nommé Đoàn Doãn Sĩ, il se remaria et eut deux enfants : l’aîné, Đoàn Doãn Luân, et le second, Đoàn thị Điểm. Lorsque cette dernière était jeune, elle était célèbre non seulement pour son intelligence, mais aussi pour sa beauté et son caractère. Elle était très appliquée et studieuse, possédait un talent littéraire inouïe et n’avait pas son égale dans les travaux à l’aiguille. C’était pour cela qu’à l’âge de 16 ans qu’elle fut adoptée par le ministre Lê Anh Tuấn dans le but de l’envoyer plus tard à la Cour des Trịnh mais elle refusa cette idée en prenant le prétexte de ne pas vouloir se plier aux contraintes imposées par la Cour.
Plus tard, lorsqu’elle apprit que son père était malade, elle demanda à son père adoptif de lui permettre de retourner dans sa ville natale pour prendre soin de son père âgé. Grâce à ce retour, elle reçut les soins éducatifs de son père et de son frère. Malgré la réussite de ces deux derniers à devenir mandarins, ils préférèrent retourner à l’enseignement dans le village de Lạc Viên dans le district An Dương de la province de Kiến An appartenant aujourd’hui à Hải Phòng. Elle eut cette occasion d’étudier avec son frère les modèles classiques et les sciences occultes. Durant les moments de détente, elle apprécia souvent la compétition littéraire avec son frère à travers les chefs-d’œuvre de distiques avec l’emploi habile des mots, mais aussi la capacité de répliquer de façon adéquate. Cela nous laisse muets d’admiration en tant que les descendants vietnamiens d’aujourd’hui en relisant ces distiques.
À l’âge de 6 ans, elle eut l’occasion d’apprendre « Les mémoires historiques » de l’historien chinois Sima Qian. Un jour, Đoàn Doãn Luân n’hésita pas à la défier en s’appuyant sur cet ouvrage et en lui adressant le vers supérieur comme suit:
Bạch xà đương đạo, Quý bạt kiếm nhi trảm chi.
Rắn trắng giữa đường, ông Quý tuốt gươm mà chém.
Le serpent se trouvant au milieu de la route, le bonhomme dégaine l’épée. (Le bonhomme désignant l’empereur chinois Han Gaozu.
Sans hésitation, elle réplique avec une facilité étonnante tout en s’appuyant également sur les Mémoires historiques de Sima Qian avec le vers inférieur:
Hoàng long phụ chu, Vũ ngưỡng Thiên nhi thán viết.
Rồng vàng đội thuyền, Ông Vũ ngửa mặt lên Trời mà than. Vũ đây là tên của Đại Vũ vua nhà Hạ.
Le dragon soulevant l’embarcation, Yu retourne le visage vers le Ciel avec des soupirs (Yu désignant le nom de l’empereur Da Yu de la dynastie des Xia).
Un jour, alors qu’elle se maquilla et se regarda à travers le miroir, son frère Đoàn Doãn Luân passa par là pour aller à l’étang et laver ses pieds. En s’asseyant sur la planche tendue par-dessus de l’étang, il lança le vers supérieur comme suit :
Chiếu kính họa my, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm.
Soi gương kẽ lông mày, một nét hoá ra hai nét.
En se regardant dans le miroir, on trouve les traits de son visage se dédoubler.
Elle ne tarda pas à répliquer comme d’habitude avec le vers inférieur suivant:
Lâm tri ngọan nguyệt, chích luân chuyển tác song luân.
Tới ao ngắm trăng, một vầng hoá ra hai vầng.
En contemplant la lune au bord de l’étang, on voit le disque de la lune devenir double.
Dans ces deux vers, les vocables Điểm (trait) et Luân (luân) sont répétés chacun deux fois. C’est aussi une façon ingénieuse de la désigner ainsi que son frère pour rappeler que chacun d’eux devient ainsi deux dans ce distique.
Elle excelle dans ce type de prose mais elle laisse jusqu’à aujourd’hui au public quelques sentences difficiles à trouver la réplication appropriée. C’est le cas du vers supérieur » Da trắng vỗ bì bạch (La peau blanche « tapote» la peau blanche ) ». C’est une image visuelle, facile à imaginer, sexuelle mais très raffinée.
Selon l’on-dit, elle était en train de prendre un bain lorsque Trang Quỳnh surgit entre-temps et lui demanda d’ouvrir la porte de la salle de bain pour y être ensemble. Elle lui lança le défi de trouver la sentence vraiment ardue pour pouvoir satisfaire à sa sollicitation. Bì désigne la peau mais le vocable bạch signifie « blanc ». Ainsi bì bạch c’est la peau blanche. Mais dans l’écriture démotique (nôm) ce sont deux mots se rapportant à la fois à l’image du son (vỗ), de la peau (da) et de la couleur (trắng). La phrase « Da Trắng Vỗ Bì Bạch » implique intentionnellement qu’il faut « tapoter » la partie la plus blanche du corps qu’on laisse apparaître au moment de la douche. C’est la partie la plus intime. Incapable de trouver la réplication appropriée, Trạng Quỳnh fut obligé de déguerpir.
Au cours des 300 dernières années, personne n’a trouvé une sentence appropriée permettant de prendre en compte un certain nombre de critères: le contenu, la structure, la catégorie, le nombre de mots utilisés etc. L’ordre d’emplacement des mots (noms, adjectifs ou verbes) doit être respecté ainsi que la prise en considération des règles d’opposition des registres sonores bằng et trắc. Certains ont déjà dit qu’il s’agit bien une sentence inappropriée (ou morte). À part son talent de savoir utiliser de manière ingénieuse les mots dans les distiques, elle a composé encore en caractères chinois un livre de contes intitulé « Nouveau recueil de légendes merveilleuses (Truyền kỳ tân phả) imprimé en l’an 1811» comprenant en tout 5 recueils remplis de saveur:
Vân các thần nữ (La déesse du Palais des Nuages), Hải Khẩu linh từ (la Pagode du Port de Mer), An ấp liệt nử (l’héroïne du Hameau de la Paix), Yến Anh Đối Thoại (Dialogue entre l’hirondelle et le loriot) et Mai Huyễn (L’abricotier mystérieux).
Elle a également traduit le poème original de Chinh Phụ Ngâm Khúc (ou les plaintes de la femme d’un guerrier) écrit en chinois par le savant lettré Đặng Trần Côn en 412 vers écrits en caractères démotiques (chữ nôm) sous la forme poétique de nom Song Thất Lục Bát (quatrain de deux-sept-six-huit). Il faut reconnaître que ce poème permet au lecteur de rentrer dans la confidence d’une femme éloignée de son mari, chargée de prendre soin de sa mère âgée et de s’occuper de l’éducation de jeunes enfants de son mari avec son cœur inconsolable tandis que son mari Nguyễn Kiều, a été envoyé en tant qu’ambassadeur en Chine depuis 3 ans comme un soldat envoyé à la frontière. Avec le talent inouï de Đoàn thị Điểm, le poème chinois de Đặng Trần Côn qu’elle a traduit devient un chef-d’œuvre par rapport à d’autres traductions et fait oublier au lecteur le modèle « pâle » et « froid » trouvé dans le poème original.
C’est elle qui permet au lecteur de capter les émotions sincères et vibrantes de son âme, la solitude et la tristesse d’une femme éloignée de son mari. Selon le chercheur Trần Cửu Chấn, membre de l’Académie des lettres et des arts de Paris, la traduction de Phan Huy Ich ressemble à un exercice scolaire par rapport au travail extrêmement remarquable de Đoàn Thị Điểm car elle a réussi à ressentir l’état d’âme et avoir de l’empathie pour la femme du guerrier. C’est avec le chef-d’œuvre Chinh Phụ Ngâm qu’elle a traduit en caractères démotiques que son nom figure au sommet de la littérature du pays. Quant à sa vie amoureuse, elle était très malchanceuse. Elle devait remplacer son frère décédé pour aider sa belle-sœur à élever ses petits-enfants et subvenir aux besoins de sa vieille mère. À cause de la situation familiale difficile, elle devait déménager avec sa mère, sa belle-sœur et ses petits-enfants au village Chương Dương situé au bord du fleuve Nhị Hà tout proche de Hanoï. Au début de son installation, elle dut exercer le métier du guérisseur traditionnel. Elle fonda ensuite une école dans le but de former de nouveaux talents pour servir le pays. Sa noble carrière attira beaucoup d’élèves. Durant la période d’enseignement, il y eut beaucoup de gens tentant de lui demander en mariage mais ce fut seulement en l’an 1743 qu’elle accepta de se marier avec Nguyễn Kiều, un personnage très instruit et très talentueux (licencié à l’âge 18 ans et docteur d’état à l’âge de 21 ans). Au mois d’août de l’année 1748, au moment où elle suivit son mari pour aller à la province Nghệ An, Đoàn Thị Điểm tomba malade et mourut le 11 du mois septembre de l’année du Chat de feu. Elle n’eut que 43 ans. Sa tombe se trouve toujours dans le quartier Phú Thượng, district de Tây Hồ, Hanoï.
Chùa nầy nằm ở phía Đông của cố đô Kyoto thuộc về tông phái Phật giáo và Thần đạo là một ngôi chùa rất nổi tiếng ở Nhật Bản. Được xây cất vào cuối thời kỳ Nara (778), tái thiết lại sau trận hỏa họan bởi tướng quân Tokugawa Iemitsu và được công nhận bởi UNESCO là di sản văn hóa thế giới vào năm 1994. Chùa nầy thật sự là một quận thể kiến trúc gồm có nhiều đền còn được mang tên là Thanh Thủy bởi vì nó có nguồn nước thiên chảy từ núi Otowayama. Theo tiếng Nhật Kiyomizu có nghĩa là dòng suối trong còn dera là chùa. Đặc điểm của suối nầy là có ba dòng nước nhỏ rất linh nghiệm về « trường thọ », « tình duyên », « học hành thành đạt ». Nếu du khách nào có tâm nguyện cầu khẩn uống một ngụm nước ở một trong ba dòng nước nầy thì sẽ được toại nguyện. Còn uống 2 ngụm thì sự linh ứng sẽ giảm đi một nữa. Còn uống ba ngụm nước liên tục thì chỉ còn có một phần ba trong việc linh ứng. Còn uống cả ba dòng nước thì việc linh ứng sẽ không còn nữa. Vô số người đứng nối đuôi để được uống nước suối nầy. Vì thời giờ quá eo hẹp cho mình (2 tiếng tham quan) nên mình không có nối đuôi chỉ đi chụp hình mà thôi và lại gần suối mua ở một cửa hàng một cái bùa nho nhỏ linh nghiệm về việc học hành mang về Pháp để tặng cho đứa bé cháu nội của mình.
Theo cách tương tự như được trông thấy ở nhà thờ Lourdes, từ bãi đậu xe du khách phải đi bộ trèo lên hằng ngày cái dốc để đến cổng chùa Niomon (Cổng Nhị Vương). Ở dọc hai bên đường các tiệm buôn bán lúc nào cũng đông đúc du khách và tín đồ đi hành hương để làm lễ trước pho tượng Phật Quan Âm (Kannon) có 11 đầu. Đặc điểm thứ hai của chùa là phần hiên của chính điện là hoàn toàn xây cất không dùng đến một cây đinh. Với kỹ thuật nầy, một chùa Nhật Bản như Kiyomizu-dera có ít nhất một ngàn thanh trúc nối với nhau qua các lỗ mộng. Đây cũng là đỉnh cao của kiến trúc gỗ của Nhật Bản. Đến đây du khách có thể nhìn phía dưới quang cảnh tuyệt vời của cố đô Kyoto. Có một câu thành ngữ tiếng Nhật hay thường nghe nói ở đây đó là Nhảy từ vũ đài chùa Kiyomizu. Khi ai có quyết tâm muốn làm điều gì đó thì không chỉ bất chấp hiểm nguy mà còn phải có động lực và nghị lực mới dám nhảy từ độ cao dưới sự bảo trợ của Phật bà Quan Âm thì lời cầu nguyện của mình mới thành hiện thực. Dưới thời Edo, có đến 234 lần nhảy được ghi nhận thực hiện và trong số đó có đến 85.4% người còn sống sót. Nay hành động nầy bị nghiêm cấm. Chùa Kiyomizu là một điểm du lịch không thể thiếu sót trong cuộc hành trình ở cố đô Kyoto.
Etant située à l’est de l’ancienne capitale Kyoto, cette pagode qui appartient aux sectes bouddhiste et shintoïste est très connue au Japon. Construite à la fin de la période Nara (778), reconstruite ensuite en 1633 après l’incendie par le shogun Tokugawa Iemitsu et reconnue par l’UNESCO comme patrimoine culturel mondial en 1994. En fait, elle est un complexe architectural composé de plusieurs temples et appelé aussi en vietnamien sous le nom Thanh Thủy car elle se distingue par son eau cristalline sacrée coulant du mont Otowayama. En japonais, Kiyomizu signifie « eau pure » et Dera « pagode ». La caractéristique de cette source d’eau réside dans l’existence de trois filets d’eau très efficaces en termes de « longévité », « amour » et « réussite dans les études ». Si le visiteur a le désir sincère de prendre une gorgée d’eau dans l’un de ces trois filets d’eau, son vœu sera exaucé. S’il boit 2 gorgées, l’efficacité sera réduite de moitié. Par contre si trois gorgées d’eau sont prises d’une manière continue, il ne lui restera plus qu’un tiers de l’efficacité dans la réalisation de son vœu. S’il prend en même temps tous les 3 filets d’eau, son vœu ne sera plus exaucé. Une foule immense de visiteurs continue à faire la queue pour tenter cette expérience. À cause du manque de temps limité à deux heures pour cette visite, je ne suis pas tenté de le faire. Par contre je continue à faire les photos et je vais chercher dans une boutique proche de cette source d’eau un petit talisman connu pour son efficacité dans les études. J’aime l’offrir à mon petit-fils lors de mon retour en France.
De manière analogue à celle trouvée à l’église de Lourdes, depuis le parking, les visiteurs doivent gravir tous les jours la pente de la route pour arriver à la porte de la pagode Niomon (portail Nhị Vương). Des deux côtés de cette longue route, les boutiques sont toujours bondées de touristes et de fidèles venant rendre hommage à la statue du Bouddha Guan Yin (Kannon) à 11 têtes. La deuxième caractéristique de ce complexe architectural est que l’auvent de la partie principale du temple a été entièrement construit sans recourir à l’utilisation des clous. Avec cette technique, une pagode japonaise comme Kiyomizu-dera possède au moins un millier de joints assemblés par mortaises ou tenons. C’est le summum de l’architecture japonaise en bois. C’est ici qu’en contrebas le visiteur a la vue panoramique superbe de l’ancienne capitale Kyoto. Il y a une expression japonaise qu’on est habitué à entendre souvent ici « Saut à partir de la plateforme de la pagode ». Quand quelqu’un est déterminé à faire quelque chose, il doit non seulement défier le danger, mais aussi avoir la motivation et la volonté d’oser sauter du haut de la plateforme sous les auspices du Bouddha Guan Yin (Kannon). C’est ainsi que son vœu deviendra réalité. À l’époque Edo, on a enregistré 234 sauts effectués mais il y a eu 85,4% de survivants. Cette expérience est désormais interdite. La pagode Kiyomizu-dera est un site touristique à ne pas manquer lorsqu’on a l’occasion de visiter le Japon.
Con phượng hoàng
Cũng như kỳ lân mà người Hoa tHạ thường dùng để ám chỉ một cập thì con phượng hoàng (Fenghuang) nầy cũng vậy. Phượng hay phụng chỉ con đực và hoàng là con cái. Nhưng người dân Việt chỉ gọi gắn gọn con chim nầy bằng phượng hoàng trong văn hóa. Phượng hoàng có phần tựa giống con chim trĩ có mỏ diều hâu dài, mảo trĩ, vảy cá chép, móng chim ưng và đuôi công. Lông của nó đại diện cho màu sắc của ngũ hành: đen, trắng, đỏ, xanh và vàng. Nó là một loài chim lớn ở thời tiền sử thường được coi là con chim thần thoại trong văn hóa phương Đông và hoàn toàn khác biệt với phượng hoàng trong khái niệm của phương tây. Theo truyền thuyết, phượng hoàng chỉ xuất hiện vào thời thái bình, và sẽ ẩn mình trong thời loạn lạc. Chim còn biểu thị cho sự hòa hợp âm dương. Bởi vậy chim được dùng cùng rồng để nói lên quan hệ hạnh phúc và quyền lực mà Thượng đế ban cho hoàng hậu (Âm) và vua (Dương). Nó còn biểu hiện đức hạnh và vẻ duyên dáng nữa. Trong truyền thuyết « Con Rồng Cháu Tiên » của dân tộc ta thì chim là hoá thân của mẹ Tiên Âu Cơ cùng cha rồng Lạc Long Quân. Vậy con phượng hoàng nầy nó có nguồn gốc từ đâu? Nó có phải là con linh vật của người Hoa Hạ hay của đại tộc Bách Việt? Dĩ nhiên nó xuất hiện ở Trung Hoa nhưng ở trong địa bàn của dân Bách Việt bị thôn tính bởi người Hoa Hạ vì hình tượng của nó được tìm thấy sớm nhất trên các miếng ngọc và các hiện vật của nền văn hóa Thạch Gia Hà (Shiziahé) và Lương Chữ (Lianzhu) ở vùng trung và hạ lưu của sông Dương Tử, nơi mà người dân có một lối sống định cư ổn định sớm cùng một hệ thống tưới tiêu ruộng lúa bằng nguồn nước lưu giữ qua các kênh mương. Các học giả Trung Hoa xác nhận cư dân ở đây là Vũ Nhân (羽 人) hay Vũ dân tức là những người thờ vật Chim và Thú tức là Tiên Rồng (truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên).Theo tự điển Hán nôm, chữ Vũ (羽) chỉ chung một loại chim. Tại sao Tiên Rồng? Từ thưở xưa, chim là loại vật có thể bay cao vượt núi đến bồng lai tiên cảnh, nơi cư ngụ của các tiên nữ. Còn rồng chắc chắn là thủy quái mà trong sử nước ta gọi là con thuồng luồng (giao long). Thời đó ở sông Dương Tử có một loại cá sấu nay đang ở trong tình trạng bị đe dọa tuyệt chủng. Để tránh sự tấn công của thủy quái, tộc Việt hay có tục lệ xâm mình. Bởi vậy tộc Việt ghép cho vật tổ của họ là Chim và Rồng với quan niệm song trùng lưỡng hợp (hai thành một).
Còn tên thị tộc Hồng Bàng cũng từ vật tổ Chim Rồng mà ra. Ở văn hóa Thạch Gia Hà còn thấy các hiện vật hình tròn bằng ngọc thể hiện chim phượng hoàng hay rồng được tạo tác một cách tinh vi. Theo nhà khoa học chính trị người Mỹ Charles E. Merriam của đại học Chicago thì đây là một phương thức hợp pháp hóa thực nghiệm quyền lực và giữ vai trò «miranda» [*] để buộc dân chúng phải kính trọng hai loại vật linh thiêng nầy. Bởi vậy cư dân ở đây có thói xâm hình rồng trên người và đội mũ lông chim để thể hiện điều nầy. Các tập tục nầy đều có ở dân tộc ta và được thể hiện ở trên trống Đồng Sơn. Chính ở nơi nầy về sau thời Chiến Quốc là địa bàn của nước Sở sau khi thôn tính được hai nước Ngô Việt của Ngũ Tử Tư và Câu Tiễn. Chính cũng có một thưở ban sơ trong truyền thuyết của dân tôc ta có nhắc đến họ Hồng Bàng. Cụm từ nầy cũng từ Chim Rồng mà ra. Còn nước Văn Lang, bắc tới Hồ Động Đình, đông thì Biển Đông, tây giáp với Ba Thục, nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành) thì cũng nằm hoàn toàn trong địạ bàn của nước Sở. Sự trùng hợp ngẫu nhiên nầy càng cũng cố thêm quan điểm của Edouard Chavannes[2] và Léonard Aurousseau [3]: người Việt cổ và các thần dân của nước Sở có cùng chung tổ tiên: chữ Mi ở trong ngôn ngữ nước Sở khi dịch sang Hùng (熊) trong tiếng Việt thì được xem là tên của các vị vua nước Sở và các vị vua nước Việt. Dựa trên sử ký lịch sử của Tư Mã Thiên do E. Chavannes [2] dịch, chúng ta còn biết rõ vua của nước Sở đến từ những kẻ man rợ ở miền Nam (hay Bách Vịệt). Hùng Cừ nói: Tôi là một kẻ man rợ và tôi không nhận chức tước và tên truy tặng của nước Trung Hoa cả.
Nói tóm lại, phượng hoàng là con linh vật của đại tộc Bách Việt. Bởi vậy ở vùng đất của đại tộc Bách Việt như ở Quảng Đông thuộc nước Nam Việt thưở xưa nay vẫn còn món ẩm thực nổi tiếng đó là món ăn có tên là Phượng trảo » (鳳爪) tức là chân gà hầm nấu với đậu đen. Cũng có ở môt địa diểm nổi tiếng tên là Phượng hoàng cổ trấn (Fenghuang) ở tỉnh Hồ Nam trong địa bàn nước Sở của Trung quốc ngày nay. Nơi nầy còn gìn giữ được những nét văn hóa đặc sắc của người Miêu (hay Hmong), một tộc trong đại tộc Bách Việt. Cần nhắc lại trong tập Lĩnh Nam Chích Quái có kể rằng vào đời Chu Thành Vương (Zhou Chengwang), Hùng Vương sai bề tôi tự xưng là người Việt Thường đem dâng nhà Chu một con chim trĩ trắng để liên kết sự giao hảo và thân thiện với nhà Chu trong thời bình. Có phải con chim trĩ nầy là con phượng hoàng không? Có người cho rằng con chim Lạc ở trên trống Đồng Sơn là tiền thân của hình tượng phượng hoàng ở những thời đại sau này. Có đúng hay không? Sự việc nầy chưa có phần giải đáp cho đến ngày hôm nay nhưng chúng ta có thể xác định một điều là người Việt cổ có tín ngưỡng thờ chim.
[*]miranda: thuật ngữ này liên quan đến các biểu tượng đề cập đến cảm xúc của một dân tộc nhằm áp đặt sự tôn trọng hoặc sự thán phục.
Analogue à la licorne que les Chinois ont utilisée pour se référer à un couple d’animaux, le phénix (Fenghuang) l’est aussi. Phượng (ou phụng) désigne un mâle tandis que Hoàng est réservée à la femelle. Les Vietnamiens appellent tout simplement le phénix sans distinction dans leur culture. Cet oiseau ressemble à un faisan avec un long bec de faucon, une crête de faisan, des écailles de carpe, des griffes d’aigle et une queue de paon. Ses plumes représentent les couleurs des cinq éléments (Wu Xing): noir, blanc, rouge, jaune et vert. C’est un grand oiseau préhistorique souvent considéré comme un oiseau mythique dans la culture de l’Orient et complètement différent du phénix trouvé dans les concepts occidentaux. Selon la légende, le phénix n’apparaît qu’en temps de paix et se cache en temps de trouble ou du désordre. Il manifeste également l’harmonie entre le yin et le yang. C’est pourquoi on se sert du phénix pour évoquer à la fois la relation heureuse et le pouvoir que Dieu accorde à la reine (Yin) et au roi (Yang). Il est aussi le symbole de vertu et de grâce. Dans la légende «Le fils du dragon et le petit-fils de l’Immortelle» de notre peuple, l’oiseau est la réincarnation de la fée mère Âu Cơ et du père dragon Lac Long Quan. Alors, d’où vient ce phénix ? Est-il l’oiseau sacré des Chinois ou celui des Bai Yue?
Il est apparu en Chine mais dans l’aire des Bai Yue annexée par les Chinois car son image a été retrouvée plus tôt sur les objets en jade des cultures de Shiziahé et Liangzhu se trouvant respectivement dans les cours milieu et inférieur du fleuve Yang Tse, où les gens avaient un mode de vie sédentaire précoce et un système d’irrigation et de drainage des rizières avec de l’eau emmagasinée via des canaux. Les érudits chinois confirment que les gens d’ici sont des Vũ Nhân (羽 人) ou des Vũ Dân. Ce sont les adorateurs des oiseaux et des animaux, càd les Enfants du Dragon et les Grands Enfants de l’Immortelle (Con Rồng Cháu Tiên). Selon le dictionnaire sino-vietnamien, le mot Vũ (羽) fait référence à un oiseau. Pourquoi Fée-Dragon ? Dans les temps anciens, les oiseaux sont des animaux pouvant voler au-dessus des montagnes jusqu’à l’endroit où vivent les Immortelles. Quant au dragon, il est certainement un monstre marin qui, dans l’histoire de notre pays, s’appelle le dragon d’eau (Giao Long). À cette époque, dans le fleuve Yang Tsé, il y avait un type d’alligator qui est maintenant en danger d’extinction. Afin d’éviter l’attaque de ce monstre marin, les Proto-Vietnamiens avaient coutume de se tatouer. C’est pourquoi ils associaient à leur totem le couple (Oiseau /Dragon) avec la notion de dualité (deux en un). Le nom du clan Hồng Bàng provient également du couple (Oiseau/Dragon).
Dans la culture de Shijiahé, il y a également des artefacts ronds en jade (phénix, dragons) et fabriqués de manière tellement sophistiquée. Selon le politologue américain Charles E. Merriam [1] de l’université de Chicago, il s’agit d’un moyen de légitimation empirique du pouvoir et de possession de la fonction «miranda» pour forcer les gens à respecter ces deux animaux sacrés. C’est pourquoi les gens d’ici aiment tatouer des dragons sur leur corps et porter des chapeaux de plumes pour les montrer. Ces coutumes ont été retrouvées chez notre peuple et sur le tambour de bronze de Đồng Sơn. C’est ici qui devint plus tard durant la période des Royaumes combattants, le territoire de l’État Chu après que ce dernier avait réussi à annexer les deux états Wu et Yue de Wu Zisu et Goujian. Dans le légendes de notre peuple, le nom patronymique Hồng Bàng est souvent mentionné. Ce nom trouve également toute sa source dans les mots « Oiseau » et « Dragon ».
Etant délimité au nord par le lac Dongtin, à l’est par la mer de l’Est, à l’ouest par le royaume Ba et au sud par le Champa, le royaume Văn Lang se trouvait entièrement dans l’aire géographique de l’état Chu. Cette coïncidence renforce encore les points de vues d’Édouard Chavannes[2] et de Léonard Aurousseau[3] : les Proto-Vietnamiens et les sujets de l’état Chu avaient des ancêtres communs: les noms Mi de l’état Chu traduit en Hùng (熊) en vietnamien étaient considérés comme les noms des rois de l’état Chu et ceux des rois vietnamiens. D’après les chroniques historiques de Sima Qian traduites par E. Chavannes [2], on sait aussi que le roi de Chu était issu des barbares (Man Di) du Sud (ou Bai Yue). Hùng Cừ a déclaré : Je suis un barbare et je n’accepte pas de titres et de noms posthumes en provenance de la Chine. En résumé, le phénix est l’animal sacré des Bai Yue. C’est pourquoi dans les territoires des Bai Yue, comme à Canton appartenant autrefois au royaume de Nan Yue, il existe encore un plat célèbre appelé « Griffes de Phénix » (鳳爪), où des pattes de poulet sont mitonnées avec des haricots noirs. Il y a également une ancienne ville très célèbre appelée en vietnamien « Phượng Hoàng cổ Trấn (ou village ancien Fenghuang » dans la province du Hunan faisant partie du territoire de l’état Chu d’autrefois où on conserve encore les caractéristiques culturelles uniques du peuple Miao (ou Hmong), l’une des tribus des Bai Yue.
Il est important de rappeler que dans le recueil intitulé « La Sélection des contes étranges à Lĩnh Nam (Lĩnh Nam Chích Quái », il est dit que sous le règne du roi Zhu Chengwang (Chu Thành Vương) de l’état Zhou, le roi Hùng ordonna à son ambassadeur de présenter au roi de Zhou un faisan blanc pour se lier de bonne relation et d’amitié avec l’état Zhou en temps de paix. Le faisan est-il le phénix évoqué ? Certains pensent que l’oiseau Lạc sur le tambour de bronze Đồng Sơn est le précurseur de l’image du phénix des époques ultérieures. Est-ce vrai ou pas? Ce fait n’apporte pas de réponse jusqu’à aujourd’hui. Par contre nous pouvons affirmer que les Proto-Vietnamiens croyaient au culte des oiseaux.
miranda: ce terme se rapporte aux symboles s’adressant à l’émotivité d’un peuple pour lui imposer le respect ou l’émerveillement.
Bibliographie:
[1] Charles E. Merriam, Political power : Its composition and incidence, New York-Londres, Whittlesey House/McGraw-Hil, 1934.
[2] Edouard Chavannes :Mémoires historiques de Sseu-Ma Tsien de Chavannes, tome quatrième, page 170).
[3] Léonard Rousseau: La première conquête chinoise des pays annamites (IIIe siècle avant notre ère). BEFO, année 1923, Vol 23, no 1.
[4] Shin’ichi Nakamura: Le riz, le jade et la ville. Évolution des sociétés néolithiques du Yangzi. Éditions de l’EHESS « Annales. Histoire, Sciences Sociales. 2005/5 60 année pages 1009 à 1034.
Lân là con linh vật đứng hàng thứ nhì trong bốn con vật có sức mạnh siêu phàm hay tứ linh (long, lân, qui, phụng). Trong văn hóa Việt nam, chúng ta thường bị lầm lẫn giữa con kỳ lân với con nghê. Đặc điểm để phân biệt giữa nghê và lân là ở bộ móng, nghê mang móng vuốt còn kỳ lân mang móng guốc. Lân thường xuất hiện ở đình, chùa, đền, miếu hay những công trình kiến trúc nghệ thuật. Theo nhà nghiên cứu việt Đinh Hồng Hải thì Lân có nguồn gốc Trung Hoa, một linh vật tưởng tượng ngoại nhập. Thật sự khi gọi kỳ lân, tức là nói đến một cặp: con đực gọi là kỳ và lân là con cái. Khi du nhập vào văn hóa việt thì người Việt quên đi « con kỳ » mà chỉ kêu là lân thôi. Chỉ có những vị quân vương hiền minh mới xứng đáng được trông thấy nó. Ở Sân Đại Triều Nghi trước Điện Thái Hòa của Tử Cấm Thành (Huế) có hai con lân được đặt ở hai góc sân mang ý nghĩa thời thái bình mà còn biểu tượng nhắc nhở đến sự uy nghiêm giữa chốn triều đình. Lân còn là con vật tiêu biểu báo điềm lành. Nó còn có khả năng nhận ra được người hiền lành và kẻ gian trá. Người dân Việt thường biết nó qua múa lân sư được biểu diễn trong các dịp lễ hội, đặc biệt là Tết Nguyên Đán, Tết Trung Thu hay khánh thành cửa hàng mới vì loại thú nầy tượng trưng cho thịnh vượng và hạnh phúc. Còn trong đạo Phật, nó là hiện thân của bát nhã tức là trí tuệ tối cao hay gíác ngộ.
Version française
La licorne figure au deuxième rang parmi les quatre animaux sacrés aux pouvoirs surnaturels (dragon, licorne, tortue et phénix). Dans la culture vietnamienne, on est habitué à confondre souvent la licorne avec le chien-lion (con nghê). La caractéristique permettant de faire la distinction entre ce dernier et la licorne se retrouve dans les ongles. Le chien-lion possède des griffes tandis que la licorne a des sabots. Les licornes sont visibles souvent dans les maisons communales, les pagodes, les temples, les sanctuaires ou les œuvres d’art architecturales. Selon le chercheur vietnamien Đinh Hồng Hải, la licorne (ou Lân) est d’origine chinoise. Il s’agit d’une mascotte imaginaire importée de l’étranger. En fait, lorsqu’on évoque la licorne, on se réfère souvent à un couple d’animaux : le mâle est connu sous le nom « kỳ » tandis que la femelle s’appelle « lân ». Au moment de l’introduction de la licorne dans la culture vietnamienne, on n’a gardé que la femelle (Lân). Seuls les monarques sages sont dignes de pouvoir la voir. Dans l’esplanade des Grands Saluts devant le somptueux palais de la suprême harmonie (Điện Thái Hoà) de la Cité pourpre interdite (Huế), il y a deux licornes placées dans deux coins différents pour marquer non seulement la période de paix mais aussi le caractère hiératique de la cour impériale. La licorne est un animal de bon augure. Elle est capable de discerner la probité et la malhonnêteté chez un homme. Les Vietnamiens ont l’habitude de la connaître grâce à la danse de la licorne à l’occasion des fêtes importantes (Le Nouvel An, la fête de la Mi-Automne, l’inauguration de la nouvelle boutique etc.) car elle est le symbole de la prospérité et du bonheur. Quant au bouddhisme, la licorne est l’incarnation de l’esprit intuitif de la Prajna (l’intelligence suprême ou l’illumination).
Tokyo về đêm.
Tokyo au fil de la nuit
Sau khi viếng thăm chùa Senso-ji và học cách thức pha và uống trà theo phong cách người Nhật thì tối đó tụi nầy được anh HDV dẫn đi tham quan khu Shinjuku ở cách xa khác sạn tụi nầy 3 trạm métro. Nhờ vậy mình mới có dịp biết tàu điện ngầm của Tokyo. Đến nơi này mọi người đều phải mua ticket với máy tự động, giá cả cũng không đắc mà cũng không có màn leo hàng rào qua cổng như ở Paris. Có thể qua cửa dễ dàng nhưng người Nhật họ có kỹ cương giáo huấn từ thưở nhỏ nên ai cũng tôn trọng luật lệ cả. Không có trò chen lấn như ở Paris hay xô đẩy như ở Việt Nam, mọi người đều nối đuôi chờ tàu điện đến trong một không gian yên lặng. Chỉ có buổi sáng lúc giờ cao điểm thì có các nhân viên làm nhiệm vu đẩy các hành khách cuối cùng lên tàu, đảm bảo không ai bị kẹt khi tàu đóng cửa lại. Ở ngoài cửa hầm điện cũng có dân vô gia cư nhưng không có trò ăn xin cướp bóc, cho thì họ lấy chớ không bám theo người để năn nỉ lạy lục. Thật lạ trong tầm mắt chứ, làm mình ngẩn ngơ khâm phục. Ra khỏi hầm đện thì có cảm giác là mình lọt vào tổ kiến khó mà định ra phương hướng và không dễ tìm đường ra với sự hiện diện của nhiều hành lang ngầm. Tiếc hai hôm ở Tokyo thời tiết rất xấu nên mình không thể chụp hình vừa ý nhưng có còn hơn không.
Khu Shinjuku là một Tokyo mới, không có nhiều địa điểm lịch sử. Các toà nhà văn phòng chọc trời của Tokyo đều tập trung ở phía tây của ga Shinjuku. Mỗi ngày có đến 250.000 nguời đến đây làm việc. Năm 1991, khi chính quyền thành phố dời về toà cao ốc Văn phòng Thị Chính Tokyo, 48 tầng do kiến trúc sư Tange Kenzo thiết kế thì mọi người gọi Shinjuku là shin toshin (trung tâm thành phố mới). Ở đây có luôn hai đài quan sát ở tầng 45 của hai tháp đôi (Bắc và Nam) của toà thị chính, vào cửa miễn phí và nhìn thấy được núi Phú Sĩ khi trời tốt. Lúc tụi nầy đến tham quan cũng có 10 giời tối mà còn thấy các toà nhà văn phòng còn đèn sáng. Người Nhật làm việc đến khuya và sau đó còn la cà ở các quán ăn dọc theo hai bên đường. Lúc trở về khách sạn, tụi nầy cùng anh HDV đi bộ. Mình mới nhận thấy ra người Nhật họ rất siêng năng làm việc. Mình nhớ lại có một lần một người Nhật đến làm thực tập ở nơi mình làm việc. Mình có dịp hỏi anh nầy vậy ở Pháp có gì anh thích. Anh nầy mới trả lời với nụ cười khoái chí: Ở Pháp tôi thích có ngày nghỉ nhiều nhất là trò nghỉ cầu vòng. Thật vậy người Nhật đã quen sống khổ cực với động đất, núi lửa, sóng thần và cuồn phong nên họ buộc lòng phải siêng năng, tận tụy với công việc họ có. Nhật Bản là đất nước có nhiều nghịch lý vì ở đó bạn không chỉ tìm thấy những truyền thống mà còn có cả những điều lập dị. Đây là những gì bạn có thể khám phá ở quán cà phê Neko. Những người thuê nhà không thể nuôi mèo có thể đến quán cà phê Neko dành ra 1 giờ ngồi âu yếm khoảng 20 con mèo bằng cách trả phí vào cửa 1000 yen mà không cần đồ uống. Do đó, họ có thể xoa dịu đi tâm trạng ức chế và áp lực mà họ gặp hằng ngày trong công việc.
Version française
Après avoir visité le temple bouddhique Senso-ji et assisté à la séance de préparation du thé à la japonaise, notre guide nous a emmenés visiter ce soir- là, le quartier de Shinjuku situé à 3 stations de métro de notre hôtel. Grâce à cela, j’ai eu l’occasion de connaître le métro de Tokyo. Une fois arrivé sur place, chacun de nous doit acheter un billet avec le distributeur automatique. Le prix n’est pas trop cher et il n’y a pas non plus la tentation de tricher en sautant la barrière de la porte d’entrée comme à Paris. Il est possible de la franchir illégalement mais les Japonais sont éduqués de façon plus disciplinée dès leur jeune âge, chacun devant respecter les règlements. Il n’y a aucune bousculade comme à Paris ou au Vietnam. Tout le monde se met dans une file d’attente à l’arrivée du train dans un espace calme. Il n’y a que le matin où l’on voit aux heures de pointe, les agents de transport chargés de pousser les derniers voyageurs à entrer dans le compartiment avec l’assurance de ne blesser personne avant le départ du train. À l’extérieur du métro, quelques gens sans domicile fixe (SDF) sont présents mais on ne trouve point la mendicité et le vol à la tire. Ceux-ci acceptent de recevoir l’argent avec plaisir mais en aucun cas ils ne supplient personne pour l’aumône. C’est très étrange à portée de ma vue. Cela me laisse pantois d’étonnement et d’admiration. En sortant du métro, on a l’impression d’être dans une fourmilière où on n’arrive pas à se repérer par la présence d’un grand nombre de couloirs souterrains. Il est regrettable pour moi de perdre deux jours d’affilée à cause du mauvais temps. Mieux vaut avoir quelques photos à la place de rien du tout.
Le quartier de Shinjuku est un nouveau Tokyo où on trouve peu de sites historiques. Par contre les gratte-ciel de bureaux de Tokyo sont concentrés du côté ouest de la gare de Shinjuku. Chaque jour, il y a au moins 250 000 personnes venant y travailler. En 1991, lors de la décision du gouvernement de la ville d’effectuer le déménagement dans le bâtiment de 48 étages du « Tokyo Metropolitan Office » conçu par l’architecte Tange Kenzo, les gens ont appelé dès lors Shinjuku en Shin Toshin (nouveau centre-ville). Il y a ici deux observatoires situés au 45ème étage des deux tours jumelles de la mairie où l’entrée est gratuite et on peut voir le mont Fuji par beau temps. Lors de notre visite, il était déjà 22 heures et nous voyions encore les immeubles de bureaux éclairés. Les Japonais travaillent jusque tard dans la nuit, puis ils traînent dans les restaurants du quartier. De retour à l’hôtel, nous préférons de marcher avec le guide. Je viens de réaliser que les Japonais sont très laborieux dans leur travail. Je me rappelle d’une fois qu’un Japonais de nom Ono était venu faire un stage à l’endroit où je travaillais. J’ai eu l’occasion de lui demander ce qu’il aimait en France. Mr Ono m’a répondu avec un sourire heureux: J’aime qu’il y a beaucoup de jours de vacances en France, en particulier les « ponts ». En effet, les Japonais sont habitués à vivre durement avec les tremblements de terre, les volcans, les tsunamis et les ouragans. Ils sont donc obligés d’être diligents et dévoués entièrement à leur travail. Le Japon est un pays de paradoxes car on y trouve non seulement les traditions mais aussi les excentricités. C’est ce qu’on peut découvrir avec les Neko cafés. Les locataires japonais n’ayant pas la possibilité de garder les chats peuvent venir dans les Neko cafés pour passer tranquillement une heure avec une vingtaine de chats et les câliner en payant un droit d’entrée de 1000 yens sans boisson. Ils peuvent ainsi calmer leur frustration et leur stress journalier qu’ils subissent dans le travail.