Palais Kiến Trung (Điện Kiến Trung)

Điện  Kiến Trung

Version française

Nằm ở điểm cực bắc của trục thần đạo xuyên qua trung tâm Tử Cấm thành, Điện Kiến trung là một  công trình kiến trúc được vua Khải Định  cho xây vào năm 1921-1923. Đây cũng là điện đầu tiên  có sự  phối hợp  phong cách Âu châu gồm có kiến trúc Pháp, kiến trúc Phục hưng của Ý  Đại Lợi cùng  với kiến trúc cổ truyền Việt Nam. Mặt tiền của điện thì  được  trang trí  một cách cầu kỳ với các hoa văn, các họa tiết  với   các mảnh gốm sứ nhiều màu, mang đậm bản sắc của cung đình triều Nguyễn. Tòa điện này được hoàn thành chỉ trong vòng 2 năm, từ 1921 đến 1923 với  sự cố vấn của một số kiến trúc sư, kỹ sư người Pháp và Bộ Công, trên nền cũ mà trước đó là có  hai công trình kiến trúc khác, đó là Minh Viễn Lâu (1827) và Du Cửu Lâu (1913) và nhầm để đáp ứng theo  thị  hiếu thẩm mỹ thời bấy giờ. Theo Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế, điện nầy được lấy tên là Kiến Trung  với chữ Kiến  mang ý nghĩa là dựng  lên và  Trung thì có hàm ý là không sai lệch, ngay thẳng. Điện nầy được xem là nơi ăn ở của  hai nhà vua cuối cùng của triều đại Nhà Nguyễn: Khải ĐịnhBảo Đại.  Chính ở nơi nầy vua Khải Định băng hà vào ngày 6 tháng 11 ,1925. Dưới thời vua Bảo Đại  thì điện được tu sửa toà điện, tân trang  các tiện nghi theo thể cách Tây Phương  trong đó có cả buồng tắm. Cũng tại điện nầy  hoàng hậu Nam Phương hạ sinh Thái Tử  Bảo Long (4-1-1936). Với những năm chiến tranh Việt Nam,  điện  cùng các công trình khác ở Tử Cấm Thành bị tàn phá nên chỉ còn nền mà thôi. Từ năm 2013, Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế đã khởi động dự án phục hồi điện Kiến Trung. Dự án này đã được thực hiện từ  tháng 2 năm 2019 với tổng kinh phí hơn 123 tỉ đồng và  hoàn tất vào tháng 8 năm 2023. Nay điện Kiến Trung trở thành một nơi ưa thích nhất của du khách khi đến tham quan  Tử Cấm Thành.

Version française

Situé à l’extrémité nord de l’axe sacré traversant le centre de la Cité Interdite pourpre, le  palais Kiến  Trung est une œuvre architecturale édifiée par le roi Khải Định en 1921-1923. C’est aussi le premier bâtiment où il y a la combinaison  entre le  style européen  comportant à la fois l’architecture française et  l’architecture de la Renaissance italienne et celui de l’architecture traditionnelle vietnamienne. La façade de ce palais est richement décorée de motifs et de fragments de céramique colorés, portant ainsi l’empreinte de l’identité de la cour royale de la dynastie des Nguyễn.  Sur les conseils de plusieurs architectes et ingénieurs français et du ministère des Travaux publics, ce palais répondant au goût esthétique de l’époque fut  achevé seulement en deux  ans, de 1921 à 1923 sur l’ancien emplacement où ont eu lieu précédemment  deux autres œuvres architecturales connues successivement sous les noms de Minh Viễn Lâu (1827) et Du Cửu Lâu (1913). D’après le Centre de conservation des monuments de Huế, il a été connu sous le nom de  Kiến Trung  (Kiến   » érigé  » et Trung « droit, pas de déformation »). Ce palais était considéré comme le lieu de résidence des deux derniers rois de la dynastie des Nguyễn: Khải Định et Bảo Đại. C’était ici que le roi Khai Dinh fut  décédé le 6 novembre 1925.Sous le règne du roi Bảo Đại, le palais et  son intérieur ont été rénovés selon le style occidental, y comprise la salle de bain. C’était également dans ce palais que la reine Nam Phương donna naissance au prince héritier Bảo Long (4 janvier 1936). Durant la guerre au Vietnam, ce palais était  entièrement détruit ainsi que d’autres résidences de la cité interdite. Depuis 2013, le Centre de conservation des monuments de Huế a commencé à lancer  le projet de restauration du palais Kiến Trung. Ce projet fut mis en œuvre depuis février 2019  et achevé en août 2023 avec un coût total de plus de 123 milliards de đồng. Aujourd’hui, le palais Kiến  Trung est devenu l’endroit préféré de tous les  touristes lors de la visite de la Cité pourpre interdite

Le palais Kiền Trung est visible à travers le long

couloir Trường Lang (Điện Kiến Trung được nhìn thấy qua Trường Lang)

Myth of the household geniuses

Version vietnamienne

Version française

The myth of the household geniuses is based on the tragic story of a woodcutter and his wife. It has its roots in Taoism. This modest couple lived happily together until the day they discovered they couldn’t have children. The unfortunate husband began to drink and abuse his wife. Unable to bear it any longer, she left him and married a hunter from a neighboring village. But one day, overcome with loneliness and remorse, the woodcutter decided to visit his wife to apologize.

Meanwhile, the hunter returned home. To avoid any misunderstanding, the young woman hid her first husband in a thatched stable near the kitchen where the hunter was smoking his game. By misfortune, an ember escaped from the fireplace and set fire to the barn.

Panic-stricken, the young woman ran to the burning barn to save her ex-husband. The hunter followed to rescue her, and all three perished in the inferno. The Jade Emperor (Ngọc hoàng), deeply moved by this sad fate, divinized the three unfortunates from his celestial throne and entrusted them with looking after the welfare of the Vietnamese people in the advantageous location of the kitchen. From then on, they became the geniuses of the home.

During the week when the genies are in heaven, the Vietnamese fear that their homes will be unprotected. To prevent any incursion of evil spirits into their homes, they erect a tall bamboo pole (cây nêu) in front of their homes, on which clay plates (or khánh in Vietnamese) vibrate sonorously in the wind to ward off the spirits. At the top of the pole floats a piece of yellow cloth bearing the Buddhist emblem.

Vietnamese kitchen

This custom has its origins in a Buddhist legend entitled “The Woodcutter’s Tết”, according to which the Vietnamese have to confront evil spirits.

It’s always on the twenty-third day of the last lunar month that each Vietnamese organizes a ceremony to send the genie of the household to heaven. Not only are fruits, delicacies and flowers placed on his altar, but also appropriate travel equipment (3 pairs of boots, 3 hats, clothes, votive papers) and three carp placed in a small bowl. At the end of the ceremony, the votive papers are burned and the carp released into a pond or river for the genie to use to fly to heaven. The genie must report everything he has seen on earth to the Jade Emperor, particularly in the home of every Vietnamese. His stay in heaven lasts six days. He must return home on New Year’s Eve until the start of the New Year.

(*) cây nêu: This is a cosmic tree linking the earth to the sky, due to the beliefs of ancient sun-worshipping peoples, including the Proto-Vietnamese, but it is also used to demarcate their territory.

Mausolée des trois empereurs Dục Đức, Thành Thái et Duy Tân

Khu lăng mộ  của 3 vị vua triều Nguyễn: Dục Đức, Thành TháiDuy Tân.

Version française

So với lăng tẩm khác của các vua nhà Nguyễn, lăng Dục Đức có kiến trúc đơn giản và khiêm tốn. Khu lăng mộ hình chữ nhật, có diện tích 3.445m2, bên trong không có tượng đá như các lăng vua khác. Muốn vào lăng phải đi qua hai cổng tam quan, có mái giả bằng xi măng. Lăng Dục Đức (An lăng) nằm trên đường Duy Tân, phường An Cựu, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, thuộc Quần thể di tích cố đô Huế.

Đây là nơi yên nghỉ của 3 thế hệ làm vua triều Nguyễn, gồm: Dục Đức (cha, 1852-1883), Thành Thái (con, 1879-1954) và Duy Tân (cháu, 1900-1945). Khu di tích này có diện tích khoảng 6ha, gồm 2 công trình chính là lăng mộ vua Dục Đức cùng hoàng hậu (bên phải) và điện Long Ân (bên trái). Mộ vua Thành Thái và Duy Tân được bao quanh bởi khu tập thể cũ phía sau điện Long Ân. 

Comparable à d’autres mausolées des empereurs de la dynastie des Nguyễn, celui de l’empereur Dục Đức possède une architecture très simple et modeste.  Étant de forme rectangulaire, celui-ci possède  une superficie de 3 445 mètres carrés et ne contient pas  des statues de pierre à l’intérieur comme les mausolées des autres rois. Pour y entrer on doit franchir les deux portails à trois entrées avec les faux toits en ciment. Connu sous le nom An Lăng, ce mausolée est situé sur la rue Duy Tân dans le district An Cựu de la ville Huế de la province Thừa Thiên Huế et fait partie du complexe des vestiges de la ville de Huế. C’est le lieu de repos des  rois des trois générations de la dynastie des Nguyen:  Dục Đức (père, 1852-1883), Thành Thái (fils, 1879-1954) và Duy Tân (petit-fils, 1900-1945). Ce complexe  d’environ 6 hectares comprend deux bâtiments principaux: le mausolée  du roi Dục Đức  et de son épouse (à droite) et le palais de Long An (à gauche). Les mausolées de Thành Thái et Duy Tân sont entourés par l’ancien quartier collectif derrière le palais Long Ân. 

DUC_DUC

 

 

 

Les pionniers de l’art moderne vietnamien (Mai Thứ, Lê Phổ, Vũ Cao Đàm)

     

   Lê Phổ

   Mai Thứ

   Vũ Cao Đàm

 

Musée des Beaux-arts de Saïgon (Bảo tàng mỹ thuật Saïgon)



Version française
Được tọa lạc tại số 97 Phó Đức Chính, Quận 1, bảo tàng mỹ thuật trước đó là  dinh thự  của một thương gia gốc Hoa  giàu có  bậc nhất ở Saigon tên là Hứa Bổn Hòa. Ông nầy có nhờ kiến trúc sư người Pháp Diego Rivera  thiết kế dinh thự nầy vào năm 1929 và hoàn thành vào năm 1934. Toà nhà nầy được xây cất trên một diện tích có hơn 3000m2 với phong cách kiến trúc độc đáo (kiến trúc Art déco)  và thể  hiện được sự hài hoà giữa nét đẹp mỹ thuật của châu  Âu và châu Á khiến nhờ  đó  nó thu hút hiện nay  không ít  những người   yêu chuộng nghệ  thuật và thích sống ảo.  Bảo tàng mỹ thuật lưu giữ hiện nay rất nhiều tác phẩm có giá trị không những về phương diện lịch sử mà còn luôn cả về điêu khắc và hội họa. Bảo tàng nầy lấy màu vàng làm chủ đạo nên bên ngoài  các tường đều sơn màu vàng còn mái nhà  thì ngói âm dương màu đỏ với diễm mái tráng men màu xanh lục trông rất cầu kỳ lạ mắt. Dinh thư  nầy có 99 cánh cửa lớn nhỏ. Con số nầy  biểu tượng cho sự viên mãn. Mỗi cửa mang phong cách kiến trúc khác nhau. Các ô cửa sổ thì làm bằng kính màu  có trang trí hoa văn. Còn các ban công  thì có cấu trúc  hình vòm  đưa  ra ngoài cùng với hệ thống lan can sắt  trang trí với  nhiều hoa văn độc đáo. Còn bên trong dinh thự  có nhiều gian  được trang trí  như trên trần sảnh với các hoa văn đắp nổi và các đèn chùm theo kiểu Pháp. Cầu thang được lát đá cẩm thạch, sàn nhà được lát gạch bông với hoa văn phong phú. Nhờ có  những cửa lớn của dinh thự  nên lúc nào cũng tràn ngập ánh nắng khiến dễ chụp hình.  Chính ở căn nhà 99 cửa nầy có thang máy đẩu tiên ở  thành phố Saïgon.

Situé au numéro 97 Phó Đức Chính du premier arrondissement, le musée des beaux-arts était auparavant le manoir de l’homme d’affaires chinois le plus riche de Saigon, nommé Hứa Bổn Hòa. Celui-ci  demanda à l’architecte français Diego Rivera de concevoir ce manoir en 1929 et l’acheva en 1934. Ce manoir a été édifié sur une superficie  ayant plus de 3000m2  avec le style architectural unique (Art Déco) et a réussi à montrer l’harmonie entre la beauté artistique de l’Europe et de l’Asie, ce qui permet d’attirer pas mal de gens passionnés de l’art et aimant vivre dans l’illusion. Le Musée des Beaux-Arts conserve actuellement de nombreuses œuvres de grande valeur, non seulement en termes d’histoire mais aussi de sculpture et de peinture. Ce musée utilise le jaune comme couleur principale. Ses murs extérieurs sont peints en jaune et sa toiture est composée de tuiles rouges yin et yang avec des bords en céramique  colorés en vert donnant l’aspect étrange et  fantaisiste. Ce manoir possède 99 grandes et petites portes. Ce nombre symbolise la perfection. Chaque porte a un style architectural différent. Les fenêtres sont en vitraux avec des motifs décoratifs. Quant aux balcons, ils sont en forme d’arc saillant avec un système de balustrades en fer ornées de motifs singuliers. À l’intérieur du manoir, de nombreuses pièces sont décorées avec des motifs en relief et des lustres de style français sur leur plafond. Les escaliers sont carrelés de marbre tandis que  le sol est pavé de riches motifs. Grâce à ses  grandes portes, le manoir est toujours inondé de lumière, ce qui facilite la prise des photos. C’est aussi ici qu’on trouve le premier ascenseur installé à Saïgon.


 

Kiến An Cung (Sadéc)


Version française

Tọa lạc ở giữa trung tâm thành phố Sa Đéc, chùa nầy còn đựợc bết với cái tên là chùa ông Quách.Chùa nầy được xây dựng vào năm 1927 bởi nhóm người Phúc Kiến đến lập nghiệp ở Sa Đéc nhầm để tôn vinh tổ tiên của họ và để giữ liên lạc mật thiết với cộng động của họ ở Trung Hoa.Chùa nầy có hình chữ Công (工) nên có 3 gian Đông lang, Tây lang và khu chính điện. Chùa được lợp ngói âm dương theo kiểu rồng lượn sóng. Đặc điểm ở chùa nầy là có một kiến trúc độc đáo  không có kèo chỉ dùng các đòn tay  ráp mộng để chịu đựng sức nặng trên những cột gỗ tròn. Ngoài cổng chùa thì có sự hiện diên  hai con kỳ lân còn ở trong nội điện th ì  trang trí với màu sắc rực rỡ và  trên những bức tường của chùa thì thấy được những hình ảnh  ở trong Tây du ký, Tam Quốc Diễn Nghĩa vân vân…

Située au centre de la ville de Sa Đéc, cette pagode est également connue sous le nom de pagode ông Quách. Cette pagode fut édifiée  en 1927 par les gens de Fujian venant s’installer à Sa Déc dans le but d’honorer leurs ancêtres et garder des contacts étroits avec leur communauté en Chine. Ayant la forme du caractère Cong (工), elle comporte donc 3 pièces: Đông lang, Tây lang et le hall principal.  La pagode est couverte de tuiles yin et yang dans un style de dragon ondulé. La caractéristique de cette pagode est qu’elle présente une architecture unique sans arbalétrier, reposant uniquement sur des poutres à bras mortaisées afin de  supporter le poids grâce à  des piliers ronds en bois. À l’extérieur de la pagode, il y a la présence de deux licornes, tandis que  dans le hall intérieur on trouve la décoration avec des couleurs vives et sur les murs des illustrations trouvées dans le pèlerinage vers l’Ouest, les Trois Royaumes  etc.

KAN

Sa Déc ( Đồng Tháp)

 

Version française

Dưới thời Pháp thuộc  Sa Đéc được xem là  thị trấn nhỏ, yên tĩnh  ở đồng bằng sông Cửu Long.Tên nó có nguồn gốc từ tiếng Khơ Me  Psar Dèk. Nay Sa Déc thuộc về tỉnh Đồng Tháp.  Chính đây là vùng Tây Nam Bộ, nơi có được một bức tranh văn hóa đa sắc với  bốn tộc chính là người Việt, Khơ Me, Hoa và Chăm.  Chính cũng nơi nầy có một chuyện tình lãng mạn, không hồi kết cuộc của một chàng trai người Việt  gốc Hoa  Huỳnh Thủy Lê cùng cô con gái người Pháp lúc còn thiếu niên, trở  thành nhà văn hào Pháp nổi tiếng về  sau với tên Marguerite Duras  qua  quyển sách « Người Tình » của bà,  được giải thưởng  Goncourt 1984 và  đã được chuyển thể thành phim và dịch ra 42 thứ tiếng. Nay chỉ còn dấu ấn của Huỳnh Thủy Lê qua ngôi nhà cổ của ông  được xếp hạng là di sản lịch sử của đất nước.

Durant la période coloniale française, Sa Đéc était considérée comme une petite ville tranquille du delta du Mékong. Son nom est dérivé du mot khmer Psar Dek. Sa Déc appartient désormais à la province de Đồng Tháp. Il s’agit de la région du Sud-Ouest de la Cochinchine, où l’on retrouve un tableau culturel multicolore avec quatre groupes ethniques principaux : les Vietnamiens, les Khmers, les Chinois et les Cham. C’est également ici que se déroule une histoire d’amour romantique sans fin entre un Vietnamien d’origine chinoise Huỳnh Thủy Lê et une adolescente française, qui deviendra plus tard une célèbre écrivaine nommée Marguerite Duras grâce à son best-seller intitulé « L’Amante » ayant remporté le prix Goncourt en 1984 et ayant été adapté en film et traduit en 42 langues. Aujourd’hui il ne reste que la trace de Huỳnh Thủy Lê grâce à sa vieille maison classée désormais comme le patrimoine historique du Vietnam.
 

 

Technique de dorure sur bois laqué (Sơn son thếp vàng)

Technique de dorure sur bois laqué

Version française

Sơn son thếp vàng là một kỹ thuật cực kỳ công phu  hay thường được sử dụng trong việc chế tác các vật phẩm có tính chất tâm linh như các tựơng Phật và các đồ thờ như hương án, khám thờ, ngai thờ, bài vị, hoành phi câu đối vân vân… ở chùa chiền hay biểu tượng sự gìàu có và khẳng định sự tôn nghiêm, quyền lực của vương quyền trong chế độ phong kiến qua các cung đình. Nó không chỉ làm nổi bật lên vẻ đẹp, uy nghi và sang trọng mà còn gia tăng độ bền bỉ của các vật phẩm theo thời gian. Những năm gần đây, nhờ sự sùng tu Lầu Ngũ Phụng,Trường Lang, điện Thái Hoà vân vân trong Tử Cấm Thành, chúng ta mới nhận thấy kỹ thuật nầy không chỉ đòi hỏi nghệ nhân phải có tay nghề cao, kinh nghiệm, tĩ mĩ mà còn có tâm huyết và phải hiểu rõ luôn cả kiến thức xây dựng và mỹ thuật để hoàn thiện được phong cách của thời đại triều Nguyễn và làm nổi bật cái riêng biệt của mỗi cung điện. Trước hểt kỹ thuật « Sơn son thếp vàng” được tạo thành từ hai cụm từ « sơn son » và « thếp vàng ».Như vậy có hai khâu chính trong kỹ thuật nầy đó là khâu Sơn Son và Thép Vàng nhưng khâu sơn son lại đặc biệt quan trọng và phức tạp hơn nhiều so với khâu thếp vàng. Danh từ  « sơn » nầy dùng  để  ám chỉ  loại sơn được chế ra từ nhựa cây sơn ở trong rừng nước ta.  Nó có thể mọc tự nhiên hay được trồng để thu hoạch. Sau đó phài để sơn nó lắng đọng đến từ  ba  hay bốn tháng liên tục mới  có thể  gạn ra sau đó nhiều lớp nhưng lớp trên cùng là lớp lỏng có màu nâu là lớp  tốt nhất. Dù vật phẩm có tầm vóc cở nào, có thể  là tượng Phật hay cột ở trong cung đình Huế  đi nữa thì  nghệ nhân  cũng phải  tiến hành qua một số giai đoạn như sau: gắn kết, hom, lót.

Sau khi tạo cốt cho vật phẩm, nghệ nhân tiến hành đến việc sơn. Có nhiều giai đoạn  trong việc sơn son thếp vàng.Trước hết phäi xử lý phần thô vật phẩm qua việc trộn nước sơn với bột đá hay mùn cưa để lấp đi các vết rạn nứt của vật phẩm, giúp ngăn chặn sự nứt gãy, chống thấm nước, không bị mối mọt ăn. Đây là giai đọan  gắn kết. Nếu sau khi nước sơn khô, bề mặt của sản phẩm vẫn còn khuyến tật  thì nghệ  nhân buộc lòng dùng đất thó  trộn với nước sơn theo tỷ lệ nhất định. Có  thể  nước sơn nầy  được dùng đến nhiều lần  khi nó chưa đạt được yêu cầu. Tiếp theo  sau đó  đến việc mài  nhiều lần với nước làm cho nhẵn bề mặt và  sơn phủ lót nhiều lần toàn thể vật phẩm  với  nước sơn cuối (sơn sửa  chửa). Nói tóm lại  giai đọan Hom  nầy mất  rất nhiều thời gian và phải cần kiểm soát nghiêm khắc nhất là phải để các lớp sơn nó được khô. Thời gian khô của các lớp sơn nầy sẽ khác nhau mà còn tùy thuộc vào điều kiện thời tiết.

Còn thếp vàng là khâu dùng để trang trí và dán trên mặt  vật phẩm, lớp vàng lá hay vàng quỳ. Vàng nầy được dát thật mỏng đặt  lên  các mặt vật phẩm làm bằng gỗ mà được sơn lót trong khâu « Sơn Son » và lúc nước sơn lót chưa khô hoàn toàn. Chính nhờ vàng quỳ mà vật phẩm trưng bày  có được màu vàng tự nhiên, tạo ra  ánh kim dễ thu hút sư chú  ý và làm nổi bật giá trị qua sự  thay đổi màu sắc tùy theo độ « chín » của nước sơn.

Version française

La technique de dorure sur bois laqué est une technique extrêmement élaborée et souvent utilisée dans la fabrication d’objets ayant le caractère spirituel tels que les statues de Bouddha et les objets de culte comme les brûleurs d’encens, les édicules, les autels, les tablettes avec des sentences parallèles etc. trouvés surtout dans les pagodes ou le caractère solennel pour témoigner de la richesse et du pouvoir du régime féodal à travers ses palais. Elle met en valeur non seulement la beauté, la majesté et l’élégance, mais aussi la durabilité de ces objets dans le temps. Ces dernières années, grâce à la restauration du belvédère de 5 phénix, le long couloir Trường Lang, le palais de la Suprême Harmonie etc. dans la cité pourpre interdite de Huế, nous avons l’occasion de trouver que cette technique nécessite non seulement les artisans hautement qualifiés, pleins d’années d’expérience, méticuleux mais aussi leur dévotion au métier. Ils doivent avoir toutes les connaissances en construction et en arts pour parfaire le style de la période de la dynastie des Nguyễn en réussissant à mettre en valeur le caractère spécifique de chaque palais. D’abord le nom de cette technique provient de l’association de deux groupes de mots « Sơn son (Peinture d’un rouge vermillon) et «Thếp vàng (dorure sur bois laqué) ». Ceux-ci correspondent exactement à deux étapes importantes trouvées dans la réalisation de cette technique. Mais la première reste la phase la plus sophistiquée par rapport à la deuxième. Le mot «Sơn» fait référence au type de peinture fabriquée à partir de la sève de l’arbre sơn des forêts de notre pays. Cet arbre peut pousser naturellement ou être cultivé pour le rendement industriel. Ensuite, on doit laisser la peinture reposer durant trois ou quatre mois consécutifs avant de pouvoir la décanter en plusieurs couches mais la couche liquide supérieure brune reste la meilleure couche.
 
Quelle que soit la taille de l’objet (statue de Bouddha ou colonne du palais royal), l’artisan est obligé d’entamer le même processus composé de plusieurs étapes suivantes: boucher et sceller les fissures, rendre lisse la surface réparée en plusieurs fois avec les ingrédients différents (poudre de pierre, terre d’argile, sciures de bois etc.) et appliquer à la fin de ce processus la dernière couche de peinture avec le temps de séchage variable.
 
Après avoir créé l’ossature de l’objet, l’artiste commence à entamer la peinture. Il existe de nombreuses étapes dans la technique de dorure. Premièrement, la partie brute de l’objet doit être traitée en mélangeant de la peinture avec de la poudre de pierre ou de la sciure de bois pour couvrir et empêcher les fissures de l’objet en question et résister à l’eau et aux termites. C’est la phase d’agrégation et de réparation. Si après le séchage de la peinture, la surface de l’article continue à avoir toujours des défauts, l’artiste sera obligé d’utiliser de la terre d’argile mélangée à la peinture dans une certaine proportion bien déterminée. Cette peinture mélangée peut être utilisée à plusieurs reprises si elle ne répond pas aux exigences voulues. Ensuite vient le ponçage répété avec de l’eau afin de rendre lisse la surface et un apprêt répété de l’ensemble de l’article avec une couche de peinture finale (ou de retouche). Bref, cette phase Hom prend beaucoup de temps et nécessite un contrôle strict, en laissant sécher notamment les couches de peinture. Le temps de séchage de ces couches varie mais il dépend également des conditions météorologiques.
 
La dorure est une étape de décoration permettant de coller sur la surface d’un objet, une couche de feuille d’or. Cet or est laminé très finement et déposé sur les surfaces des objets en bois en question qui sont apprêtés lors de l’étape « Sơn Son » et qui ne sont pas complètement secs. Grâce à cette décoration, l’objet exposé a une couleur jaune naturelle et crée ainsi un éclat métallique qui retient facilement l’attention et fait ressortir sa valeur grâce au changement de couleur en fonction de la « maturité » de la peinture.

2025

L’art du bronze émaillé (Kỹ thuật pháp lam)

L’art du bronze émaillé.

Version française

Đây là kỹ thuật  làm các sản phẩm  bằng đồng  trên bề mặt được tráng men, dùng  trang trí trong  mỹ thuật ở cung đình Huế hay thường  được gọi với cái tên pháp lam. Nó có nguồn gốc từ chữ « pha lang (France) » mà người Trung Hoa gọi để chỉ kỹ thuật  được các nhà truyền bá Tây Phương mang sang, hướng dẫn cho họ làm trong việc sản xuất. Kỹ thuật pháp lam  sau đó được du nhập sang Việt Nam với các nghệ nhân Trung Hoa  vào thời ngự trị của vua Minh Mạng (1820-1841). Chính triều đình nhà Nguyễn mới  ra quyết đinh xây dựng các xưởng ở Quảng Bình và Quảng Trị nhưng  các bí mật sản xuất vẫn được các nghệ nhân Trung Quốc bảo vệ một cách nghiêm ngặt. Nhưng nhờ sự kiên trì, các thủ công Việt ngày xưa đã  khám phá  ra được   bí  quyết và thành công  trong việc sử dụng các màu không  thể xóa nhoà   khiến các sản phẩm  đồng tráng men có  được  một linh hồn. Mỗi màu  phải tương ứng  với một lớp men và đựợc đung với nhiệt độ khác nhau.

Để tránh tên húy của chúa Nguyễn Phúc Lan (1635-1648), pháp lang từ đó trở thành pháp lam và được trọng dụng ở trong cung điện  triều  Nguyễn nhất là trong việc trang trí ở ngoại thất. Có một thời kỹ thuật pháp lam nầy  bị suy tàn  dưới thời Pháp thuộc. Kỹ thuật nầy  làm cho  các hoa văn trang trí ở cung điện Huế có nét đẹp kiêu sa mà được thấy lại gần đây qua các cuộc sùng tu  ở các cung điện Huế như sân sau của điện Thái Hoà, điện Kiến Trung (*), cầu Trung Đạo của lăng Minh Mạng vân vân.


Version française

C’est la  technique de fabrication des produits en bronze aux surfaces émaillées qui est  fréquemment utilisée pour la décoration  dans l’art de Huế  et communément appelée sous le nom « Pháp Lam ». Elle tire son origine du mot « pha lang (France)» que les Chinois emploient pour désigner la technique apportée par les missionnaires occidentaux dans le but de les aider dans la production. Cette technique a été introduite ensuite au Vietnam avec les artisans chinois sous le règne du roi Minh Mang (1820-1841). C’est la dynastie des Nguyễn  qui  a décidé de construire des ateliers  à Quảng Binh et à Quảng Tri mais les secrets de production ont été encore  strictement  protégés par les artisans chinois. Grâce à leur  ténacité, les artisans vietnamiens d’antan ont  découvert le secret de fabrication et ils ont réussi à utiliser des couleurs indélébiles donnant ainsi  une âme à ces produits en  bronze émaillés. Chaque couleur correspondait ainsi à une couche d’émail et un cuisson à température différente.    

Pour éviter d’appeler le surnom du seigneur Nguyễn Phúc Lan (1635-1648),, la technique « Pháp Lang » est devenue désormais  « Pháp Lam ». Elle est très utilisée  dans les palais de la dynastie des Nguyễn, en particulier dans la décoration de leur partie extérieure.  Il y a une époque où cette technique a périclité  sous l’occupation française. Cette technique permet aux motifs décoratifs de posséder  la beauté éclatante qu’on a l’occasion de retrouver récemment lors de la restauration des palais de la citadelle impériale Huế. C’est le cas du palais de l’Harmonie suprême, le palais Kiến Trung (*), le pont de l’Intelligence et de la droiture du mausolée Minh Mạng etc. 

(*) Résidence des deux derniers empereurs du Vietnam ( Khải Định et Bảo Đại) 

2025

Phước Minh Cung (Temple de Guan Yu, Trà Vinh)

Phước Minh Cung

Quan Công là người hội đủ các đức tính trung dũng, tình nghĩa, độ lượng và công minh chính trực và cũng  là nhân vật nổi tiếng ở thời Tam Quốc hậu Hán. Chính vì vậy khi ông qua đời, người ta đã tôn thờ ông như một vị thánh. Bởi vậy nơi nào có người Hoa cư trú thường thấy họ hay thờ Quan Công. Ở Trà Vinh nơi thờ ông hay được gọi là Phước Minh Cung.

Étant un personnage réussissant à avoir toutes les vertus de courage, de loyauté, de générosité et de justice, Guan Yu est aussi  l’un des généraux célèbres chinois de l’époque des Trois Royaumes et de la fin des Han. C’est pour cela que  les Chinois le vénèrent comme un Saint lors de sa mort. Partout où la présence des Chinois est importante, on y trouve toujours un temple dédié à ce général. À Trà Vinh, le temple est connu sous le nom de Phước Minh Cung.