
Chansons populaires (Ca Dao)
Version vietnamienne
English version
Les chansons populaires sont une tradition orale que le peuple vietnamien a su conserver depuis quatre mille ans de son histoire derrière les haies de bambou du village. Elles sont employées souvent comme une expression populaire reflétant la vie quotidienne et la pensée des paysans en opposition aux lettrés imposant la morale et enserrant l’individu dans la morale et dans le réseau impératif de rites et d’obligations avec leur littérature savante écrite en nôm.
Selon l’écrivain Thuần Phong, la chanson populaire est considérée par les intellectuels vietnamiens comme le genre littéraire le plus caractéristique et le plus spécifiquement vietnamien car elle est la littérature orale, anonyme et issue du monde rural. De plus ca dao est un chant non soumis à des divisions en couplets et sans accompagnement de musique. Le Six-Huit est le mètre des chansons populaires. Différents genres de ca dao sont divulgués du Nord jusqu’au Sud: berceuse (ru con) dans le Nord, (hát đưa em) dans le Sud, chant des sampaniers (đò đưa), chants du tambour de guerre (trống quân) etc. Malgré cela, la chanson populaire est exposée dans le souci de respecter l’ordre établi sur les cinq devoirs et les trois relations (Ngũ Thường và Tam Cang) de la société confucéenne et féodale et de manifester le bon sens, la sagesse, l’amour de la vie, l’optimisme, le satire de la société féodale.
Comme le Viêt-Nam est un pays agricole, la vie quotidienne du paysan est toujours dominée par des facteurs qu’il n’arrive pas à maîtriser à l’avance comme l’inondation, la sécheresse, le typhon etc. Son existence est une lutte perpétuelle. De plus, lors d’une invasion étrangère, le paysan doit prendre les armes et défendre la terre. Dès lors c’est la femme qui doit assumer la relève et le remplacer dans tous les travaux journaliers. Ces difficultés journalières sont souvent citées dans la chanson populaire où le paysan jouit non seulement d’une certaine liberté même restreinte pour exprimer ses sentiments humains mais aussi de la possibilité de créer un monde verbal où les méchants sont fustigés et ricanés et de dépeindre ses animaux proches avec réalisme et précision. C’est le cas des animaux familiers comme l’aigrette , le buffle et le cochon.
Etant un animal chasseur-cueilleur ayant l’air noble et innocent dans les rizières et plus proche des paysans, l’aigrette doit chercher durement de jour comme de nuit la nourriture mais elle peut s’envoler librement à tout moment vers le ciel bleu comme tant de paysans rêvent avoir toujours la foi en l’avenir et l’optimisme en opposition aux lettrés. Pour le paysan, la liberté n’a pas de prix en dépit du labeur journalier qu’il est habitué à partager avec le buffle. Quant au cochon, il est synonyme de richesse et de prospérité.
La chanson populaire citée ci-dessous évoque le sort des paysans face à la calamité sous le régime féodal. Analogue à l’aigrette, le paysan n’échappe pas à la mort mais elle souhaite mourir avec dignité au lieu d’être décédé dans le déshonneur. C’est là qu’on trouve l’essence de la chanson populaire qui a suscité l’admiration de plusieurs générations des Vietnamiens.
Con cò mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi, ông vớt tôi nào,
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.
Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.
L’aigrette qui la nuit cherche sa nourriture
D’une branche flexible est tombée dans la mare
Monsieur, repêchez-moi d’ici
Si j’ai mal fait, vous pourrez me faire cuire aux pousses de bambou.
Mais si c’est fait, il vaut mieux le faire dans une eau limpide
Une eau trouble ferait mal au cœur de la petite aigrette.
L’image du buffle est liée étroitement au paysage rural du Vietnam. On a l’habitude de voir souvent les buffles herser le sol après le labourage dans les rizières. C’est pourquoi la tâche pénible du buffle est décrite dans les chansons populaires suivantes :
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cầy cấy vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.
Ô mon buffle, écoute ce que je te dis
Tu vas à la rizière, tu laboures avec moi;
Labourer et repiquer c’est le métier des laboureurs
Moi que voici, toi que voilà, qui de nous plaint sa peine.
Trên đồng cạn dưới đồng sâu,
Chồng bừa vợ cấy con trâu đi cày.
Dans la rizière basse et dans la rizière profonde,
Le mari herse, la femme repique, le buffle laboure.
Analogue au buffle, le cochon est aussi un animal souvent cité dans les chansons populaires vietnamiennes. Il est employé d’abord pour décrire la situation d’une personne polygame au Viêt-Nam:
Một vợ nằm giường lèo,
Hai vợ nằm chèo queo,
Ba vợ thì xuống chuồng heo mà nằm.
Avec une femme, on a le droit de dormir dans le lit d’une manière convenable,
Avec deux femmes, on commence à dormir tout seul
Mais avec trois femmes, on mérite d’être à la porcherie.
La critique est acerbe pour les gens qui maltraitent leurs collègues quand ceux-ci sont pauvres et sans ressources et qui courbent leur tête et montrent leur docilité face à des gens puissants et riches :
Mèo tha miếng thịt xôn xao,
Hùm tha con lợn thì nào thấy chi.
On s’agite quand le chat happe un morceau de viande,
On reste impassible quand le tigre dévore un cochon.
On se sert de la physionomie pour donner une indication sur une personne rencontrée :
Trông mặt mà bắt hình dong,
Con lợn có béo thì lòng mới ngon.
En regardant le visage de quelqu’un, on a déjà une idée sur sa personnalité comme dans le cas d’un cochon gras, on sait qu’il a toujours des boyaux délicieux.
C’est aussi par la chanson populaire ci-dessous qu’on connait l’attachement profond du paysan à sa terre natale. L’eau de son étang est la plus agréable malgré les aléas de la nature et les hauts et les bas de la vie qu’il a eus.
Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn
Retournons chez nous et baignons nous dans notre étang.
Que l’eau soit limpide ou trouble, l’étang de chez nous est toujours meilleur.
Version vietnamienne

Ca dao là truyền thống truyền miệng (truyền khẩu) mà người dân Việt đã gìn giữ trong suốt bốn ngàn năm lịch sử sau những hàng tre của ngôi làng. Chúng thường được dùng như một câu nói phổ biến phản ánh đời sống và suy nghĩ thường ngày của những người nông dân, không giống như các sĩ phu áp đặt đạo đức và ràng buộc cá nhân vào mạng lưới của các nghi lễ và nghĩa vụ bằng văn học uyên bác của họ được viết bằng chữ Nôm.
Theo nhà văn Thuần Phong, ca dao được giới trí thức Việt Nam coi là thể loại văn học đặc trưng và riêng biệt nhất của Việt Nam vì đây là thể loại văn học truyền miệng, vô danh và có nguồn gốc đến từ nông thôn. Hơn nữa, ca dao là một bài hát không chia ra thành từng câu và không có nhạc đệm. Thể thơ Lục Bát hay thường dùng trong các bài ca dao. Có rất nhiều loại ca dao khác nhau từ Bắc đến Nam: hát ru con ở miền Bắc, hát đưa em ở miền Nam, hát đò đưa, hát trống quân… Mặc dù vậy, ca dao quan tâm đến việc tôn trọng trật tự đã được thiết lập dựa trên ngũ thường và tam cang trong xã hội phong kiến và nho giáo, đồng thời nó còn thể hiện sự lương tri, trí tuệ, tình yêu cuộc sống, sự lạc quan, châm biếm xã hội phong kiến.
Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp nên cuộc sống hàng ngày của người nông dân luôn bị chi phối bởi những yếu tố mà họ không thể kiểm soát trước, chẳng hạn như lũ lụt, hạn hán, bão vân vân. Sự tồn tại của họ là một cuộc đấu tranh triền miên. Hơn nữa, khi có cuộc xâm lược từ bên ngoài, người nông dân phải cầm vũ khí và bảo vệ đất đai. Từ đó trở đi, người phụ nữ phải là người thay thế chồng trong mọi công việc hàng ngày. Những khó khăn thường ngày này thường được nói đến trong những ca dao, nơi người nông dân hưởng quyền tự do tối thiểu để thể hiện không chỉ cảm xúc của mình mà còn tạo ra cho mình một thế giới mà có thể dùng lời nói để chế giểu và trừng phạt những kẻ độc ác và để miêu tả những con vật gần gũi của mình một cách chân thực và chính xác. Đây là trường hợp của con cò, con trâu và con heo.
Là loài động vật săn bắt và hái lượm trông vẻ cao quý và ngây thơ trên những cánh đồng lúa và gần gũi với người nông dân, con cò phải vất vả kiếm ăn ngày đêm nhưng nó có thể lựợn bay tự do bất cứ lúc nào hướng về bầu trời xanh cũng như bao nhiêu người nông dân hay thường mơ ước có được niềm tin trong tương lai và sự lạc quan, không giống như các sĩ phu. Đối với người nông dân, tự do là vô giá bất chấp công việc nhọc nhằn hàng ngày mà họ phải chia sẻ với con trâu. Còn với con lợn, nó đồng nghĩa với sự giàu có và thịnh vượng.
Bài ca dao dưới đây gợi lên cảnh ngộ khốn khổ của người nông dân phải đối mặt với tai ương dưới chế độ phong kiến. Tương tự như loài cò, người nông dân không thoát khỏi cái chết nhưng muốn chết với danh dự thay vì qua đời trong tủi nhục. Đây chính là nơi mà chúng ta tìm thấy được bản chất thật sự của bài ca dao nầy. Nó đã khơi dậy sự ngưỡng mộ của nhiều thế hệ người dân Việt.
Con cò mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi, ông vớt tôi nào,
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.
Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.
Hình ảnh con trâu thường được gắn liền với phong cảnh nông thôn của nước Việt. Chúng ta hay quen nhìn thấy trâu thường xới đất sau khi cày trên ruộng lúa. Đây là lý do việc cực nhọc vất vả của con trâu được miêu tả trong những bài ca dao sau đây:
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cầy cấy vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.
hay là
Trên đồng cạn dưới đồng sâu,
Chồng bừa vợ cấy con trâu đi cày.
Tương tự như trâu, lợn cũng là loài vật thường được nhắc đến nhiều trong các ca dao. Trước hết, lợn được sử dụng để mô tả tình trạng của một người đa thê ở Việt Nam:
Một vợ nằm giường lèo,
Hai vợ nằm chèo queo,
Ba vợ thì xuống chuồng heo mà nằm.
Những lời chỉ trích nặng nề đối với những người đối xử tệ bạc với đồng nghiệp khi họ nghèo khổ, túng thiếu và cúi đầu, tỏ ra ngoan ngoãn trước những người quyền lực và giàu có:
Mèo tha miếng thịt xôn xao,
Hùm tha con lợn thì nào thấy chi.
Người ta cũng dùng ngoại hình để đoán ra được người mà ta gặp:
Trông mặt mà bắt hình dong,
Con lợn có béo thì lòng mới ngon.
Khi nhìn vào khuôn mặt của một người, chúng ta đã có ý niệm về tính cách của họ, cũng giống như chúng ta biết về một con lợn béo thì nó luôn có ruột ngon.
Cũng nhờ qua bài ca dao dưới đây người ta mới biết sự gắn bó sâu sắc của người nông dân với đất nước. Nước ao nhà vẫn dễ chịu dù có sự biến đổi thất thường của thiên nhiên và sự thăng trầm trong cuộc sống của họ.
Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn
Bibliographie:
Thuần Phong: Ca dao giãng luân. Explication et commentaire des chansons populaires. Editions Á Châu, Saigon, 1958, 196 pages
Lê Thành Khôi: Aigrettes sur la rizière. Chants et poèmes classiques du Vietnam. Connaissances de l’Orient. Gallimard