Culture
Culture des pays d’Asie du Sud Est, de la Chine ou du monde
Jupe des femmes Hmong (Váy của phụ nữ Hmong)
Chiếc váy xoè có hơn 200 xếp ly của người phụ nữ Hmong được xem trong tự điển hiện vật văn hoá các dân tộc Việt Nam là cầu kỳ nhất trong việc trang trí thêu các họa tiết. Tùy theo mỗi nhóm người Hmong (Hmong Hoa, Hmong Đen, Hmong Trắng hay Hmong Đỏ) mà hoa văn họa tiết lại khác nhau. Thường thấy trên váy các chấm tròn xen lẫn đường kẻ thẳng hay là hình hoa lá hoặc hình xoán ốc nhưng các hoa văn họa tiết nầy phản ánh đời sống của người Hmong với thiên nhiên. Váy nầy được may bằng vải lanh nhuộm chàm. Màu nầy là màu căn bản thường được trọng dụng bởi các phụ nữ Hmong trong việc may quần áo. Màu xanh tuyệt vời này tô điểm cuộc sống của họ từ lúc còn bé (6 hay 7 tuổi). Bởi vậy các phụ nữ Hmong được xem là những phụ nữ khéo tay. Những chiếc váy sặc sỡ, những tác phẩm thêu thùa trang nhã và những trang sức tinh xảo làm họ có tiếng tăm ở khắp vùng Đông Nam Á. Đây cũng là biểu tượng độc đáo của bản sắc dân tộc Hmong. Họ thường được đa số người ở thế giới tiếp tục gọi họ là «dân tộc đa sắc » như chiếc cầu vồng.
Dans le dictionnaire des artefacts culturels des ethnies vietnamiennes, la jupe de la femme Hmong comportant de nombreux plis est considérée toujours comme la plus sophistiquée dans la décoration et la broderie de motifs. En fonction de chaque groupe des Hmong (Hmong fleuri, Hmong Noir, Hmong Blanc ou Hmong Rouge) les modèles de texture sont très variés. On est habitué à voir sur les jupes des points ronds entrecoupés de lignes droites ou de fleurs ou de spirales, mais ces motifs de texture reflètent bien la vie des Hmong avec la nature.
Cette jupe est en lin et teint à l’indigo. Cette couleur est la couleur primaire couramment utilisée par les femmes Hmong dans la confection de leurs vêtements. Cette superbe bleu indigo colore bien leur vie depuis leur enfance. (6 ou 7 ans). C’est pour cette raison qu’on dit qu’elles ont la main bleue. Les jupes bigarrées, les broderies élégantes et les bijoux fins font incontestablement leur réputation à travers l’Asie du Sud -Est. C’est aussi le symbole unique de leur identité. Les Hmong sont toujours appelés par la majorité des gens dans le monde sous la dénomination « peuple-arc-en-ciel »
Musée des femmes du Viet Nam ( Bảo tàng phụ nữ)
Le tigre dans l’art ancien du Vietnam (Hổ trong mỹ thuật cổ Việt nam)
Hổ trong mỹ thuật cổ Việt Nam
Đối với đại đa số người Việt, hổ là một con vật đáng kính sợ. Vì sợ hổ trả thù nên họ dành cho hổ những dấu hiệu tôn thờ qua những ngôi miếu dành riêng cho hổ hay thường thấy được nằm rải rác ở khắp khu rừng sâu thẩm ở miền núi. Đến nay còn thấy nhiều dân tộc ở miền núi còn thờ hổ. Có thể có liên quan đến tín ngưỡng vạn vật hữu linh của cư dân thưở xưa. Ngoài sức manh uy phong lẫm liệt của hổ, nó còn thường được xem là con vật có khả năng nghe lén các cuộc đàm thoại của họ. Vì vậy hổ được gọi là ông thính. Để tránh gọi tên hổ, người dân Việt hay thường ám chỉ hổ với cái tên là « ông ba mươi ».
Ngay cả trước khi giết hổ sau khi bắt được nó, họ cũng không quên bày tỏ lòng tôn kính lần cuối bằng cách tổ chức một buổi nghi lễ trước đó. Họ thường so sánh họ với hổ qua câu châm ngôn như sau:
Hùm chết để da, người chết để tiếng.
Rất tiếc ngày nay hổ ở Đông Dương không còn nhiều nữa và đang ở trong tình trạng nguy cơ tuyệt chủng vì các bộ phận của hổ được dùng làm thuốc đông y, được bán với giá cao trên thị trường chợ đen, giá 100 gram cao hổ cốt bán tới 1.000 đôla.
Sự xuất hiện hình ảnh hổ trong nghệ thuật cổ được thấy từ thời kỳ Đồng Sơn qua các chuôi dao gâm thường được kết hợp với voi hay rắn được thấy ở di chỉ Làng Vạc ở Nghệ An chẵng hạn hay các thạp đồng như thạp VạnThắng (Cẩm Xuyên, Phú Thọ). Thạp nầy được trưng bày ở bảo tàng lịch sử quốc gia với bốn tượng hổ cập mồi rất sinh động quay vòng trên nấp thạp hay chiếc qua đồng có hình hổ được khắc hai mặt với những chấm trên thân được nhà khảo cứu Pháp Louis Pajot sưu tầm và đưa về trưng bày ở bảo tàng Finot (nay là bảo tàng lịch sử quốc gia ở Hànội). Ngoài ra còn có các hình hổ trang trí bằng họa tiết chìm. Điều nầy thể hiện được nghệ thuật điêu khắc và trang trí của người Đồng Sơn mang tính tả thực và ước lệ. So với các hình ảnh rồng, phượng, hưu, cá, vịt vân vân thì hình ảnh hổ rất hiếm hoi trên đồ gốm. Tuy nhiên thạp gốm hoa nâu nổi tiếng nhất là thạp hoa nâu khắc hình ba con hổ đuổi nhau được thấy ở bảo tàng Guimet (Paris).
Những hình hổ được thấy ngày nay không còn mang ý nghĩa tâm linh, tín ngưỡng hay sợ hải nữa mà chỉ dùng để thể hiện sự phong phú đa dạng trong việc trang trí trên các đồ gốm hay tạo ra bằng đá nhầm để lại một dấu ấn riêng biệt theo sở thích của người đặt mua hàng.
Pour la grande majorité des Vietnamiens, le tigre est un animal redoutable. Par peur de vengeance, ils donnent aux tigres des signes d’adoration à travers des temples dédiés aux tigres, souvent dispersés dans la forêt profonde des montagnes. Jusqu’à présent, de nombreux groupes ethniques des régions montagneuses vénèrent encore les tigres. Cela peut être lié aux croyances animistes des anciens habitants. Outre la force imposante et majestueuse du tigre, il est aussi souvent considéré comme un animal capable d’écouter leurs conversations, ce qui fait de lui connu sous le nom « Monsieur l’écouteur (Ông thính) ». Pour éviter de l’appeler sous son propre nom « Hổ ou cọp), les Vietnamiens se réfèrent aux tigres avec le nom « Monsieur Trente ». Avant même de le tuer après l’avoir attrapé, ils n’ont pas oublié de lui rendre un dernier hommage en lui organisant au préalable un rituel. Ils se comparent souvent aux tigres à travers le proverbe suivant:
Le tigre mort laisse sa peau et l’homme décédé sa réputation.
Malheureusement, il n’y a pas beaucoup de tigres en Indochine aujourd’hui. Ces derniers sont en voie d’extinction car toutes les organes de leur corps sont utilisés dans la médecine traditionnelle chinoise et sont vendues à prix d’or sur le marché noir. C’est le cas de la poudre issue d’os de tigre et proposée avec un prix élevé de 100 grammes à 1 000 dollars.
On voit apparaître les images des tigres souvent associées à des éléphants ou des serpents dans l’art ancien à l’époque de Đồng Sơn, sur les lames des poignards trouvés sur le site de Làng Vạc à Nghệ An par exemple, ou bien des situles en bronze comme la situle Vạn Thắng. (Cẩm Xuyên, Phú Thọ). Cette dernière est exposée au musée national de l’histoire avec quatre blocs de statues de tigres capturant la proie et répartis de manière circulaire sur le couvercle de la situle ou la hache en bronze (qua đồng) recueillie par le chercheur français Louis Pajot qui a eu le mérite de l’offrir au musée Finot (*). On trouve l’image d’un tigre gravée sur les deux faces de la hache avec des points. Il existe également des images de tigre décorées de motifs en creux. Cela montre que l’art de la sculpture et de la décoration du peuple dôngsonien est réaliste et conventionnel. Comparées aux figures de dragons, de phénix, de cerfs, de poissons, de canards etc., celles des tigres sont très rares sur la céramique. Pourtant le vase à glaçure brune le plus célèbre est celui de trois tigres dans la poursuite, trouvé au musée Guimet (Paris). Les images des tigres vues aujourd’hui ne reflètent plus le caractère spirituel, religieux ou de peur. Elles sont utilisées uniquement dans le but de montrer la richesse et la diversité de la décoration dans la céramique ou dans la pierre et de laisser ainsi une marque particulière selon le goût et les préférences de l’acheteur.
(*) C’est le musée national de l’histoire de Hanoï.
Giải mã các truyền thuyết của dân tộc Việt.
Giải mã những thông điệp mà người Việt cổ để lại trong truyền thuyết.
Déchiffrer les messages laissés par les Proto-Vietnamiens dans leurs légendes.
Tại sao dân tộc Việt có nhiều chuyện cổ tích và truyền thuyết hơn mọi dân tộc khác trong vùng Đông Nam Á? Đôi khi làm người đọc tự hỏi các truyền thuyết nầy có thật hay không hay là được viết ra do sự tưởng tượng của con người, có phần kì ảo và không có thật. Thật sự nguồn gốc của người Việt rất mơ hồ trong lịch sử bởi vì chỉ dựa trên các truyền thuyết đôi khi còn làm ta khó tin và phi lý như truyền thuyết «Lạc Long Quân-Âu Cơ » với cái bọc nở ra một trăm trứng.
Đối với nhà nghiên cứu Paul Pozner [1], thuật chép sử Việt Nam đều dựa trên truyền thống lịch sử lâu dài và vĩnh cửu và được thể hiện bởi cách truyền miệng kéo dài từ nhiều thế kỷ của thiên niên kỷ đâu tiên trước công nguyên dưới hình thức các truyền thuyết lịch sử được phổ biến ở trong các đền thờ cúng tổ tiên. Tại sao dân tộc ta không có được sử sách như người Trung Hoa tuy có sự hiện diện lâu đời ở Đông Nam Á. Nơi nầy còn được xem là cái nôi của nền văn minh nhân loại qua sự nhận xét của nhà vật lý người Anh Stephen Oppenheimer trong tác phẩm «Địa đàng ở phương Đông» [2]. Chính cũng ở đất nước ta với các cuộc khai quật ở đầu thế kỷ 20 mà nhà nữ khảo cổ Pháp Madeleine Colani khám phá được văn hoá Hòa Bình (18000-10000 TCN) vào năm 1922. Đây cũng là một nền văn hoá khởi nguồn cho nền văn minh của người Việt cổ, một nền văn minh trồng lúa nước. Sở dĩ dân ta không có sử sách mà còn bị người Hoa thống trị có gần một ngàn năm. Lúc nào họ cũng cố tình xóa bỏ nguồn gốc của dân tộc ta từ thời nhà Hán với Hán Vũ Đế. Sử ký của Tư Mã Thiên [3] đều viết có ý đồ chính trị và tham vọng của kẻ xâm lăng nhầm Hán hoá các dân tộc bị thống trị và tăng cường quyền lực và uy tín con của Trời (thiên tử) trong một quốc gia đa dạng về mặt dân tộc học và để phù hợp sau cùng với ý nghĩa hai chữ Trung Quốc ((zhōngguó) (中華)(centre de l’univers). Bởi vậy trong lịch sử Trung Hoa có nhiều chuyện hoang đường khó tin nổi lấy râu thằng A cắm qua thằng B nhất là thời tam hoàng ngủ đế. Tất cả điều này một phần lớn là do sự vay mượn các truyền thống, phong tục và các nhân vật thần thoại hoặc động vật từ các dân tộc mà họ đã thành công trong việc hán hóa. Các nhà nho giáo người Việt đôi khi cũng nhầm lẫn dựa trên sách vở của người Hán như trong Đại Việt Sử Ký Ngoại Kỷ Toàn Thư mà nói người Giao Chỉ (Việt cổ) (Jiaozhi) không biết cày cấy cần nhờ thái thú Cửu Chân thời nhà Tây Hán Nhâm Diên (Ren Yan) dạy dân khai khẩn ruộng đất, hàng năm cày trồng để cho trăm họ no đủ. Luôn cả các nhà khảo cổ phương Tây thì cũng vậy, cho rằng người Việt Cổ chỉ là những người sống bằng nghề đánh cá, săn bắn và hái lượm dựa trên sách vở của Trung Hoa.
May thay nhờ các tài liệu nghiên cứu di truyền của Hugh McColl cùng nhóm đồng nghiệp [4] và các cuộc khai quật khảo cổ trong thời gian qua thì biết rõ ngày nay cư dân Hoà Bình là những người đầu tiên biết rõ về kỷ thuật trồng lúa nước và nông nghiệp khác như ngũ cốc vân vân…(Hang Ma chẳng hạn). Sau đó có một trận lụt lớn đã xảy ở thời điểm 12000 năm trước khiến làm một phần lớn đất đai mà các nhóm cư dân tiền sử sinh sống như lưu vực sông Hồng đã chìm xuống dưới biển khiến buộc lòng họ phải mạo hiểm di tản khắp mọi nơi phía nam ở Châu Đại Dương, phía đông ở Thái Bình Dương hoặc phía tây ở Ấn Độ hay phía bắc ở vùng sông Dương Tử mang theo đặc trưng văn hóa Hòa Bình với di chỉ Tiên Nhân động (Xian Ren Dong) chẳng hạn ở Giang Tây (Jiangxi). Họ có dừng chân ở lưu vực sông Dương Tử vì nơi nầy thuận lợi ở thời điểm đó cho việc phát triển trồng lúa nước. Rồi có một nhóm người vẫn tiếp tục hành trình đi lên vùng Đông Á, đem theo lúa đã được họ thuần hóa (di chỉ Thường Sơn, Shangshan) qua ngã Chiết Giang (Zhejiang) và kê để rồi định cư không những ở đồng bằng sông Hoàng Hà mà còn lên đến tận vùng sông Liêu (Nội Mông). Chính họ hợp nhất ở nơi nầy vớí cư dân cổ Bắc Á, những người du mục có dấu tích ở hang Devil’s Gate thuộc vùng lãnh thổ Nga giáp ranh giới với Triều Tiên (Tây Bá Lợi Á) mà tạo ra người Mongoloid phương Bắc điển hình và văn hoá Hồng Sơn được tìm thấy từ khu Nội Mông đến Liêu Ninh (Hoa Bắc).
Những người Mông Cổ phương Bắc còn tiến xuống vùng sông Hoàng Hà, nơi có người Miêu tộc cư trú và gỉỏi về làm ruộng. Họ được gọi là bộ tộc « Yi » Bởi vậy chữ tượng hình Yi 夷 được có nguồn gốc từ hình chữ người 人 có mang một cây cung 弓 Họ được nổi bật trong việc cởi ngựa bắn cung và họ rất thiện chiến. Bởi vậy họ dành thắng lợi với Hoàng Đế (Yandi) trong cuộc chiến tranh với người Miêu tộc do Xi Vưu (Chiyou) cầm đầu tại Trác Lộc (Zhuolu) ở Hà Bắc (Hebei) vào năm 2704 TCN, dẫn đến sự thành hình nền văn minh Hoa Hạ (Ngưỡng Thiều (Yangshao) và Đại Vấn Khẩu (Dawenkou)) và tạo ra chủng Mongoloïd phương Nam với cư dân cổ Đông Nam Á. Người Mongoloïd phương Nam càng ngày càng tăng số lượng và trở thành chủ nhân của lưu vực Hoàng Hà từ đó. Họ cũng là tổ tiên của người Hán (Trung Hoa) hiện đại. Ở lưu vực sông Dương Tử có sự thành hình cộng đồng tộc Việt Tai-Kadai từ sự gần gũi của các cư dân bản địa thuộc hệ ngữ Nam Á và cư dân tiền Nam Đảo, Tai-Kadai đến sau. Từ các yếu tố di truyền do sự hoà huyết giữa các cư dân bản địa và di cư mới đến với các làn sóng di cư từ Bắc Á xuống Nam Á và ngược lại qua cả nghìn năm khiến có sự thay đổi ở trong cấu trúc của gen nhất là có sự ảnh hưởng của môi trường sinh sống khiến có sự thay đổi dĩ nhiên về dáng vóc cũng như màu da và dẫn đến sự thành hình người Hoa Bắc, Hoa Nam cùng người Việt thuộc chủng Nam Á.
Chủng nầy là chủng tộc hợp nhiều sắc tộc ở Đông Á. Chính cũng ở nơi nầy mà tộc Việt nhận thức họ khác biệt rõ ràng với các tộc du mục ở khu vực sông Hoàng Hà. Họ tự xưng họ là Yue. Chữ « Việt (Yue 越 (rìu)) » mà họ dùng để tự xưng họ là cư dân sống ở khu vực sông Dương Tử hay có thói quen dùng chiếc rìu để canh tác trồng trọt và tự vệ khi có sự xâm lựợc của người Hoa Hạ chớ những người nầy lúc nào vẫn xem họ là Man Di. Chính họ dẫn đến sự thành hình các nền văn hóa lớn như Lương Chử (Liangzhu) và Thạch Gia Hà (Shijiahé) ở sông Dương Tử. Chính nhờ những cuộc khai quật khảo cổ ở phía hạ lưu sông Dương Tử vào thập kỷ 1970 mà chúng ta được biết đến văn hóa Lương Chử. Văn hoá nầy còn tiến bộ hơn nhiều lần so với văn hoá Ngưỡng Thiều (Yangshao) vì nó có từ 3.300 đến 2500 TCN với sự khám phá chữ tượng hình được khắc trên đá, yếm rùa, xương thú trong bói toán và cúng tế. Chữ nầy có sớm hơn Giáp cốt văn Ân Khư 2.000 năm.
Được biết người cư dân Lương Chử có một lối sống định cư ổn định cùng một hệ thống tưới tiêu bằng nguồn nước lưu giữ qua các kênh mương và một tổ chức xã hội cần nhiều nhân lực cho việc sản xuất và phân phối. Theo tài liệu khảo cổ và truyền thuyết nói về Thần Nông (sống khoảng 3320-3080) thì có sự trùng hợp hoàn toàn với nền văn hóa nầy.
Vua Thần Nông là vị vua đầu tiên ở phương nam còn phương bắc thì các tộc du mục được vua Hoàng Đế (người Hoa Hạ) cai trị. Theo học giả Hà Văn Thùy thì khoa học xác nhận, từ vật chứng ADN lấy trực tiếp trên di cốt Lương Chử thì dân cư xứ nầy gồm có hai dạng có mã di truyền M122 (chủng Indonesian) và M119 (chủng Melanesian). Hai chủng người nầy đa số đều người từ Đông Nam Á di cư lên Hoa lục cách đây 12000 năm trước. Hai chủng người nầy làm nên dân cư người Lương Chử. Các đồ tạo tác đặc trưng nhất của nền văn hóa Lương Chử là các đĩa bi có lỗ ở giữa và các tông mà tông lớn nhất được khai quật nặng 3,5 kg hay là những vật bằng ngọc thạch mang tính lễ nghi được làm một cách tinh xảo và thường được chạm khắc theo mô dạng thao thiết (taotie) hay là rìu. Những lưỡi cày bằng đá đạt đến kích thước lớn hơn nhiều, trong một số trường hợp dài tới 60 cm. Những chiếc máy cày thì chắc chắn do gia súc kéo (có thể là trâu). Liềm, dụng cụ dùng để thu hoạch, cũng được trọng dụng đáng kể. Nền văn hóa nầy có hệ thống phân cấp xã hội thể hiện ở sự khác biệt về chôn cất trong các mộ đất của những người có quyền lực và qúi phái và những người nghèo.Trong các mộ của giới qúi phái thì các đồ vật dùng bằng ngọc bích, ngà, lụa hay sơn mài trong khi đó ở giới hạ lưu thì chỉ có đồ gốm. Các đĩa bi được sử dụng trong bối cảnh nghi lễ và thường có nhiệm vụ bảo vệ người về thế giới bên kia. Bi thường được kết nối với trời và màu xanh, trong khi tông, với hình dạng hình ống vuông ở bên ngoài và hình tròn bên trong, được liên kết với đất và màu vàng. Quan niệm nầy làm chúng ta nhớ đến hình dáng bánh chưng bánh dày của tộc Việt nhân dịp Tết nguyên đán.
Ngoài ra trên những hình thao thiết hay thường thấy «Thần nhân thú diện» tức là biểu hiệu của thần Xi Vưu thể hiện lòng can đảm theo học giả Hà Văn Thùy [5]. Còn theo nhà khảo cổ người Pháp Alain Thote thì đây là một biểu tượng nhận dạng mang tính cách ma lực tôn giáo và có ý tưởng liên quan đến cái chết khi ông nghiên cứu các thanh gươm của người Việt cổ (Ngô -Việt) ở thời Đông Châu Liệt Quốc [6]. Tuy thời gian quá cách xa từ văn hoá Lương Chử đến thời nhà Đông Châu có cả nhiều thế kỷ, việc chạm khắc trang trí «Thần nhân thú diện» trên các gươm không phải ngẫu nhiên nhất là chỉ trang trí một mặt và theo chiều hướng từ cán ra đến đầu lưởi gươm chắc chắn có ngụ ý cần đến sự che chở của thần nhân tức là thần Xi Vưu. Sau khi bị giết, ông được trở thành một vị thần chiến tranh nhầm bảo hộ các tộc người Việt trên đất Trung Hoa ở phương nam cùng chung một gốc trong đó có người Lương Chử được các học giả Trung Hoa xác nhận là Vũ Nhân (羽 人) hay Vũ dân, những người thờ vật Chim và Thú tức là Tiên Rồng (truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên). Theo tự điển Hán nôm, chữ Vũ (羽) chỉ chung một loại chim. Tại sao Tiên Rồng? Từ thưở xưa, chim là loại vật có thể bay cao vượt núi đến bồng lai tiên cảnh, nơi cư ngụ của các tiên nữ. Còn rồng chắc chắn là thủy quái mà trong sử nước ta gọi là con thuồng luồng (giao long). Thời đó ở sông Dương Tử có một loại cá sấu nay đang ở trong tình trạng bị đe dọa tuyệt chủng. Để tránh sự tấn công của thủy quái, tộc Việt hay có tục lệ xâm mình. Bởi vậy tộc Việt ghép cho vật tổ của họ là Chim và Rồng với quan niệm song trùng lưỡng hợp (hai thành một). Còn tên thị tộc Hồng Bàng cũng từ vật tổ Chim Rồng mà ra. Văn hóa Lương Chử nằm ở hạ lưu sông Dương Tử trong khi đó nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương thì tới bắc Hồ Động Đình, đông thì Biển Đông, tây giáp với Ba Thục, nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành). Theo học giả Hà Văn Thùy thì ta thừa biết ranh giới quốc gia và ranh giới văn hóa chỉ tương đối mà thôi vì hay thường có sự chồng lấn lên nhau.
Lý do gì mà văn hoá Lương Chử lại biến mất và được thay sau đó bởi văn hóa Thạch Gia Hà (Shijiahé). Văn hóa nầy được xem thừa kế của văn hoá Khuất Gia Lĩnh (Qujialing (3400-2500 TCN) phát triển ở mức độ cao hơn qua các đồ bằng ngọc hình tròn tượng trưng cho trời như rồng hay chim phượng hoàng và được tập trung chung quanh khu vực Động Đình Hồ. Như vậy ta thấy rõ hơn nước Xích Quỷ của tộc Việt bao gồm các khu vực của hai nền văn hóa Lương Chử và Thạch Gia Hà. Tại sao gọi nước ta là Xích Quỷ? Thuật ngữ Xích 赤 được dùng để chỉ màu đỏ và ngụ ý chỉ phương nam. Còn Quỷ thì nói đến ngôi sao đỏ Yugui Qui, một chòm sao rực rỡ trong Nhị thập bát tú theo cách chia trong thiên văn học phương Đông.
Sự sụp đổ của nền văn hóa Lương Chử đã gây ra rất nhiều tranh cãi trong cộng đồng khảo cổ học. Một giả thuyết được phổ biến mạnh mẽ là thiên tai lũ lụt khiến tàn phá nhà cửa ở vùng đất nầy suốt một thời gian dài và buộc lòng cư dân ở đây phải di cư ẩn trốn ơ ở nơi khác. Họ đem đi với họ ngọc bích, nghề trồng lúa, nuôi tầm và sơn mài. Cũng có thể là đúng vì theo truyền thuyết Tam Hoàng Ngũ Đế của Trung Hoa thì Đại Vũ (vua đầu tiên của nhà Hạ) có công trị thủy để ổn định cuộc sống và phát triển việc cày cấy nên được vua Thuấn truyền ngôi lập ra nhà Hạ (2255 TCN – 2207 TCN) lúc mà văn hoá Lương Chử biến mất. Nhưng cũng khó tin nỗi vì đây là truyền thuyết được ghi chú lại trong sử ký của Tư Mã Thiên ở thời Tây Hán và cũng chưa có gì chứng minh xác thực nhà Hạ có thật hay không? Nhưng gần đây, giả thuyết nầy được nhà địa chất học người Áo, Christophe Spötl [7] của đại học Innsbruck cùng các đồng nghiệp xác nhận trong tạp chí Science Advances qua một nghiên cứu ngày 24 tháng 11 2021. Sự sụp đổ của văn hoá Lương Chử và các nền văn hóa ở thời kỳ đồ đá mới khác ở vùng hạ lưu sông Dương Tử là do sự biến đổi khí hậu, mưa lũ không ngừng khiến cư dân ở đây phải bỏ trốn ra đi.
Nhưng theo nhà nghiên cứu Nhật Bản Shin’ichi Nakamura [8] của đại học Kanazawa thì văn hóa Lương Chử biến mất vì sự cạn kiệt tài nguyên ngọc bích. Đối với văn hóa Lương Chử, toàn bộ nguồn sức mạnh chính trị đều dựa trên ngọc bích. Chỉ có những người sở hữu những thứ này mới có thể nắm giữ được quyền lực và tính hợp pháp của nó. Bởi vậy ở giai đoạn cuối cùng của nền văn hóa Lương Chử thì thấy các hiện vật như cong ngọc không còn được xuyên suốt nửa. Ngược lại ở trung lưu sông Dương Tử thì văn hóa Thạch Gia Hà (Shijiahe) được có kỷ thuật điêu khắc ngọc ở mức độ hoàn hảo và vượt trội hơn hai nền văn hoá Lương Chử và Hồng sơn qua 250 di chỉ bằng ngọc bích được các nhà khảo cổ tìm thấy ở địa điểm Tanjialing (Hồ Bắc) vào năm 2015. Văn hóa nầy trở thành một nơi trung tâm có tầm quan trọng hơn với sự thành hình của đại tộc Bách Việt (百越).
Tương tự thành phố Lương Chử, thành phố Thạch Gia Hà có một hệ thống kênh mương được đào xung quanh các khu đô thị và kết nối với các con sông gần đó. Trong số các hiện vật được tìm thấy ở văn hóa nầy ngoài đĩa bi, ngọc tông và rìu còn có một hiện vật cần có sự chú ý của mọi người đó là chiếc bình gốm lại có hình một thủ lỉnh mà trên đầu có cái gù trang sức với lông chim rất phù hợp với hình người nhảy múa mặc bộ đồ bằng lông chim trên các trống đồng (Ngọc Lũ chẳng hạn) của nền văn hoá Đồng Sơn. Cũng chính là biểu tượng của tộc Việt. Trong văn hóa Thạch Gia Hà còn thấy các hiện vật hình tròn bằng ngọc thể hiện chim phượng hoàng hay rồng được tạo tác một cách tinh vi. Theo nhà khoa học chính trị người Mỹ Charles E. Merriam của đại học Chicago thì đây là một phương tiện hợp pháp hóa kinh nghiệm quyền lực và đóng vai trò «miranda» để buộc dân chúng phải kính trọng hai loại vật linh thiêng nầy [9]. Bởi vậy cư dân ở đây thích xâm hình rồng trên người và đội mũ lông chim để thể hiện điều nầy. Tâp tục xâm mình nầy dân tộc ta chỉ bỏ đi dưới thời vua Trần Anh Tôn. Văn hóa Thạch Gia Hà nằm ở trong địa bàn của nước Văn Lang tộc Việt. Qua sự mô tả địa lý trong truyền thuyết thì được biết nước Văn Lang thời đó đóng đô ở Phong Châu, có đất đai rộng lớn giáp ranh bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba Thục (Tứ Xuyên). Tên Văn Lang có nguồn gốc từ tiếng Việt cổ là Blang hay Klang mà các dân tộc miền núi thường dùng để ám chỉ vật tổ, có thể đây là một loài chim nước thuộc họ chim Diệc. Có thể xem thời đó nước Văn Lang như một liên bang của các cộng đồng tộc Việt. Đây cũng là nhà nước đầu tiên của tộc Việt theo truyền thuyết trong lịch sử Việt Nam.
(miranda: có liên quan đến các biểu tượng đề cập đến cảm xúc của một dân tộc nhầm áp đặt họ phải kính nể và thán phục)
Theo truyền thuyết Phù Đổng Thiên Vương (hay Thánh Gióng) thì có một cuộc xung đột xảy ra giữa nước Văn Lang và nhà Thương dưới thời vua Hùng vương thứ VI. Trong Kinh Dịch được dịch bởi giáo sư Bùi Văn Nguyên thì tác giả có nói đến một cuộc viễn chinh quân sự được thực hiện trong vòng ba năm bởi vua hiếu chiến của nhà Thương tên là Wuding (Vũ Định) ở lãnh thổ của Ðộng Ðình Hồ (Kinh Châu) chống lại các dân du mục, thường gọi là « Quỷ ». Bởi vậy nước Văn Lang không có thiết lập bất kỳ mối quan hệ thương mại nào với nhà Thương cả. Những khám phá về các đồ vật bằng đồng ở Ninh Hương (Hồ Nam) vào những năm 1960 đã dẫn chứng cho ta thấy trong các chiến lợi phẩm được mang về trong cuộc viễn chinh ở phía nam Trung Quốc nầy thì có sự hiện diện một chiếc bình rượu bằng đồng được trang trí với khuôn mặt hình người Melanesian mà không có sự giải thích nào cả. Còn ở những nơi khác cùng thời thì có sự thành hình các nền văn hóa Nhị Lý Đầu của nhà Hạ ở Hà nam (Erlitou, Henan) hay của nhà Ân-Thương ở thung lũng sông Hoàng Hà thì thấy được có sự ảnh hưởng của các nền văn hoá Lương Chử và Thạch Gia Hà nầy ít nhiều qua các mẫu hình thao thiết tượng trưng cho khuôn mặt động vật (Taotie) hay phượng rồng.
Đến thời điểm 2000 TCN thì có hạn hán ở vùng trung lưu của sông Dương Tử qua các cuộc nghiên cứu khảo cổ và khí tượng khiến làm cư dân ở Thạch Gia Hà cũng noi gót cư dân Lương Chử phải di tản vì không còn tiếp tục hoạt động trồng lúa được nửa. Dựa trên các nghiên cứu gen của Hugh McColl và các đồng nghiệp thì cư dân nông nghiệp ngữ hệ Nam Á nầy lại quay trở về lại Đông Nam Á cách đây 2000 năm TCN và hoà hợp một số ít với dân cư bản xứ sống nghề hái lượm và săn bắn. Liên bang của các tộc Việt ở sông Dương Tử cũng bị tan rã [10]. Sự việc nầy làm biến mất đi hai nền văn hóa Lương Chử và Thạch Gia Hà. Có thể xem sự tan rã nầy nó rất phù hợp với truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ lúc chia tay: 50 đứa con theo cha đi xuống đồng bằng (Lạc Việt), 50 đứa con theo mẹ Âu Cơ lên núi (Âu Việt hay Tây Âu). Được cai trị bởi các Hùng Vương, nước Văn Lang cũng bị thu hẹp lại sau đó với 15 bộ lạc từ 1879 TCN.
Có một điều đáng làm ta chú ý đến là ở văn hoá Thạch Gia Hà nầy có một hiện vật được gọi là nha chương mà nó có ý nghĩa là cái răng bằng ngọc dùng để tế núi sông và được phát hiện sớm nhất từ văn hóa Đại Vấn Khẩu (4100 -2600 TCN)(Dawenkou) ở khu vực tỉnh Sơn Đông (Shandong) mà được các nhà khảo cổ công nhận hiện nay. Nha chương (lame de jade) nầy được tìm thấy ở các ngôi mộ của các người có quyền lực và cấp bậc cao ở trong xã hội. Riêng ở Việt Nam hiện nay tìm được 8 nha chương ở Phùng Nguyên và Xóm Rền (tỉnh Phú Thọ, Việt Nam) có niên đại vào khoảng 1700-1400 TCN tức là thuộc về văn hóa Phùng Nguyên của dân tộc ta mà giáo sư Hà văn Tấn chứng minh chính xác luôn có sự liên tục không bị phá vở với các nền văn hóa Đồng Đậu-Gò Mun[11] trước văn hóa Đồng Sơn qua các niên đại carbon phóng xạ và tương ứng với thời kỳ của các vua Hùng (Hồng Bàng). Như vậy các nha chương nầy nó có phải đến từ văn hóa Thạch Gia Hà ở sông Dương Tử, trên dòng di cư của tộc Việt quay về lại Đông Nam Á (Vietnam) cách đây 4000 năm trước qua cuộc nghiên cứu nhân chủng học của nhà nghiên cứu Hirofumi Matsumura cùng các đồng nghiệp vào năm 2019 hay không [12] hay các hiện vật nầy là đến từ văn hoá Tam Tinh Đôi ở Tứ Xuyên (Sichuan)?
Chắc chắn là không đến từ văn hoá Tam Tinh Đôi ở Tứ Xuyên vì văn hoá nầy chỉ có niên đại vào khoảng 1200 TCN tức là sau văn hoá Phùng Nguyên có đến khoảng 500 năm. Như vậy nha chương Phùng Nguyên phải có nguồn gốc từ vùng Dương Tử với văn hóa Thạch Gia Hà. Nha chương được sử dụng như một dụng cụ lễ khí trong các dịp tế lễ được tìm thấy ở văn hoá Tam Tinh Đôi (Tứ Xuyên) hay dùng với chức năng đại diện quyền lực ở giai đọan đầu của thời Hùng Vương? Một câu hỏi chưa có phần giải đáp chính xác. Nhưng dù sao đi nửa chúng ta cũng tự hào là con Rồng cháu Tiên vì chính nhờ các truyền thuyết mà ông cha ta khéo léo dựng ra để ta tìm lại được chính xác cội nguồn qua các cuộc nghiên cứu di truyền và các cuộc khai quât khảo cổ trong thời gian qua.
Pourquoi le peuple vietnamien a-t-il plus de contes et de légendes que tout autre peuple d’Asie du Sud-Est ? Parfois, le lecteur se demande si ces légendes sont vraies ou non ou bien écrites par l’imagination humaine, quelque peu « magique » et irréelle. En fait, l’origine du peuple vietnamien est volontairement vague dans l’histoire car elle ne repose que sur ces légendes qui la rendent parfois difficile à croire et absurde comme la légende du « Lạc Long Quân- Âu Cơ » avec un sac qui a fait éclore une centaine d’œufs.
Pour le chercheur Paul Pozner [1], l’historiographie vietnamienne s’appuie sur une tradition historique longue et éternelle et s’exprime par une tradition orale se répétant sur plusieurs siècles du premier millénaire avant J.-C. sous la forme de légendes historiques qui se sont diffusées dans les temples ancestraux. Pourquoi notre nation n’a-t-elle pas de recueils d’histoire comme les Hans (les Chinois) malgré notre longue présence en Asie du Sud-Est ? Ce lieu est également considéré comme le berceau de la civilisation humaine à travers les commentaires du physicien britannique Stephen Oppenheimer dans l’ouvrage « Paradis à l’Est » [2].
C’est aussi dans notre pays que l’archéologue française Madeleine Colani a découvert, lors des fouilles archéologiques au début du 20ème siècle, la culture de Hoà Bình (18000-10000 avant JC) en 1922. C’est aussi la culture donnant naissance à la civilisation des Proto-Vietnamiens, une civilisation du riz inondé. La raison pour laquelle notre peuple n’a pas de recueil d’histoires est due à la domination chinoise durant presque mille ans. Ils ont toujours délibérément effacé l’origine de notre peuple à partir de la dynastie des Han de l’Ouest avec l’empereur Wudi. Les mémoires historiques de Si Ma Qian [3] ont été toutes écrites avec l’intention politique et les ambitions de l’agresseur de siniser les peuples gouvernés et de renforcer le pouvoir et le prestige du fils du Ciel (empereur) dans un pays multi-ethnies et se conformer enfin à la signification de deux caractères chinois ((zhōngguó) (中華)(centre de l’univers). C’est pour cela que dans l’histoire de la Chine qu’il y a une incohérence visible dans de nombreux mythes. On est habitué à prendre l’habit de A pour recouvrir B en particulier à l’époque des Trois Augustes et Cinq Empereurs. Tout cela est dû en grande partie à l’emprunt de traditions, de coutumes et de figures mythologiques ou animales aux autres peuples que les Han ont réussi à siniser durant leur conquête. Les lettrés vietnamiens ont eu tort de s’appuyer sur les recueils d’histoire chinois comme le cas du livre intitulé « Đại Việt Sử Ký Toàn Thư » où les Giao Chỉ (les Proto-Vietnamiens) avaient besoin de l’aide du préfet chinois Ren Yan (Nhâm Diên) de Cửu Chân à l’époque des Han de l’Ouest pour savoir labourer la terre et cultiver le riz. Il en va de même pour les archéologues occidentaux. En s’appuyant sur les livres chinois, ces derniers pensaient également que les Giao Chỉ (Jiaozhi) n’étaient que des gens vivant de la pêche, de la chasse et de la cueillette.
Heureusement, grâce aux documents de recherche génétique de Hugh McColl et ses collègues [4] et aux fouilles archéologiques dans le passé, on sait maintenant que les habitants de Hoà Bình étaient les premiers à connaître la culture du riz irrigué et d’autres techniques agricoles comme la culture des céréales etc. (La cave des esprits par exemple).
Puis il y a une grande inondation (un déluge) ayant eu lieu il y a 12.000 ans. Cela a fait s’enfoncer dans la mer une grande partie des terres habitées par des populations préhistoriques comme le bassin du Fleuve Rouge. Ces dernières étaient obligées de le quitter et de s’enfuir en se réfugiant partout dans le monde: à l’est dans l’océan Pacifique, à l’ouest en Inde ou au nord dans la région du fleuve Yang Tsé en emmenant avec elles les objets caractéristiques de la culture Hoà Binh trouvés dans le site Xian Ren Dong (Tiên Nhân động) de la province Jiangxi (Giang Tây) par exemple. D’après les travaux de recherche génétique, il s’agit bien d’anciens habitants de l’Asie du Sud-Est (ou les gens de Hoà Bình) faisant leur arrêt dans le bassin du fleuve Yangtze car cet endroit était propice à l’époque au développement de la riziculture irriguée. Mais il y a encore un autre groupe de personnes qui aimaient à continuer leur migration vers l’Asie de l’Est en emmenant leur riz domestiqué (site de Shangshan, Thượng Sơn) et leur millet et en empruntant le passage à Zhejiang (Chiết Giang) pour s’installer non seulement dans le delta du Fleuve Jaune mais aussi jusqu’à la région du Fleuve Liao dans la Mongolie intérieure de la Chine d’aujourd’hui (Liêu Hà, Nội Mông Trung Hoa). C’est dans cette dernière qu’ils s’étaient unis aux autochtones nomades de l’Asie du Nord dont les vestiges étaient trouvés dans la grotte de la Porte du Diable sur le territoire russe limitrophe de la Corée (Sibérie occidentale) pour donner naissance à une race mongoloïde du Nord typique et une culture nommée « Hong Shan (Hồng Sơn) » découverte de la région de la Mongolie intérieure jusqu’à Liaoning. Ces Mongoloïdes du Nord étaient descendus dans la région du fleuve Jaune où vivaient les Hmongs qui étaient très doués en agriculture. Ils faisaient partie de la tribu Yi.
Étant à l’origine le dessin d’un homme 人 portant un arc 弓, ce caractère « Yi » 夷 nous donne une idée précise sur la particularité de ces gens du Nord. Ils se distinguaient par le tir à l’arc et ils étaient très habiles au combat. C’est pourquoi ils réussirent à gagner les victoires contre les Hmong dirigés par leur leader Chiyou (Xi Vưu) à Zhuolu (Trác Lộc) en l’an 2704 B.C. dans la province Hebei (Hà Bắc) et Shennong (Thần Nông) trois fois de suite, ce qui donna naissance ensuite à la civilisation chinoise (Yangshao (Ngưỡng Thiều) et Dawenkou (Đại Vấn Khẩu) et à la nouvelle race mongoloïde du Sud avec les anciens habitants de l’Asie du Sud Est. Étant de plus en plus nombreux, ces nouveaux mongoloïdes du Sud devenaient ainsi les sujets du bassin du fleuve Jaune et les ancêtres des Chinois d’aujourd’hui.
Dans le bassin du fleuve Yang Tsé, la formation de la communauté ethnique Yue-Tai-Kadai avait lieu du fait de la proximité des habitants autochtones de la famille linguistique austro-asiatique et des Pré-Austronésiens -Tai-Kadai venus plus tard. Compte-tenu des facteurs génétiques dus à la fusion des autochtones et des nouveaux venus issus des vagues de migration de l’Asie du Nord vers l’Asie du Sud et vice versa sur des milliers d’années, il y a eu des modifications dans la structure des gènes, notamment sous l’influence de l’environnement, cela a provoqué une changement naturel de la taille et de la couleur de la peau et a conduit à la formation des Mongoloïdes du Nord et du Sud et des Yue de la famille austro-asiatique. Celle-ci est constituée de plusieurs ethnies dans l’Asie de l’Est. C’est ici que les Yue se rendaient compte qu’ils étaient clairement différents des tribus nomades de la région du fleuve Jaune. Ils se disaient Yue (越). Le mot « Yue (hache) » qu’ils utilisaient pour se désigner eux-mêmes en tant que les gens vivant dans la région du fleuve Yang Tsé ou ayant l’habitude d’utiliser la hache pour cultiver les céréales et se défendre lorsqu’il y avait l’invasion des gens du Nord (les Chinois). Ceux-ci les considéraient toujours comme des Man Di (des Sauvages). Pourtant ce sont eux qui ont conduit à la formation des grandes civilisations comme Liangzhu et Shijìahé. C’est grâce aux fouilles archéologiques entamées dans le cours inférieur du fleuve Yangtsé dans les années 1970 que l’on connaît la culture de Liangzhu. Celle-ci était bien plus avancée que la culture de Yang Shao puisqu’elle remonta à 3300 ans avant J.C. avec la découverte des pictogrammes sculptés sur la pierre, les plastrons de tortue, les os des animaux dans les séances de divination et des offices religieux. Ces dessins figuratifs étaient antérieurs de plus de 2 000 ans aux inscriptions oraculaires des Shang. On sait que les habitants de Liangzhu avaient un mode de vie sédentaire stable avec un système d’irrigation avec de l’eau emmagasinée par des canaux et une organisation sociale nécessitant beaucoup de main-d’œuvre pour la production et la distribution. Selon les documents archéologiques et la légende du roi Shennong (ayant eu vécu vers 3320-3080), il y a une coïncidence parfaite avec la culture de Liangzhu).
Le roi Shennong était le premier roi du Sud tandis que dans le Nord les tribus nomades étaient gouvernées par l’empereur jaune des Chinois Huang Di. Selon l’érudit vietnamien Hà Văn Thùy, les travaux scientifiques ont confirmé, à partir des preuves ADN effectuées directement sur les restes des habitants de Liangzhu, la présence de deux halo-groupes génétiques M122 (souche indonésienne) et M119 (souche mélanésienne). Ces deux races sont principalement des personnes originaires d’Asie du Sud-Est qui ont émigré en Chine il y a 12 000 ans. Ces deux races constituent la population de Liangzhu. Les artefacts les plus caractéristiques de la culture Lianzhu sont les disques en jade avec un trou circulaire au centre, les Cong dont le plus grand excavé pèse jusqu’à 3,5 kg et des objets de jade finement sculptés portant le caractère cérémoniel et présentés sous la forme d’un taotie ou d’une hache. Les socs en pierre ont des tailles beaucoup plus grandes, jusqu’à 60 cm de long dans certains cas. Les charrues sont certainement tirées par des animaux domestiques (éventuellement des buffles). La faucille, l’outil utilisé pour la récolte, est également d’une utilité considérable. Cette culture a une hiérarchie sociale qui se reflète par les différences d’inhumation dans les tombes des gens détenant le pouvoir, des aristocrates et des pauvres. Dans les tombes des aristocrates, les objets utilitaires sont en jade, ivoire, soie ou laque tandis que dans le milieu pauvre, on ne trouve que des objets en céramique. Les disques bi sont employés dans le cadre d’un rituel et ont le rôle de protéger les trépassés dans le monde des morts. Le disque bi est souvent associé au Ciel et a la couleur verte tandis que le Cong dont la forme est tubulaire à l’extérieur et cylindrique à l’intérieur, est assimilé à la Terre et a la couleur jaune. Ce concept nous fait penser à la forme du gâteau de riz gluant à l’occasion de notre nouvel an (Tết).
De plus, sur les objets de masque taotie on voit souvent l’emblème du dieu Chiyou faisant preuve de courage à travers son visage animalier d’après l’érudit Hà Văn Thùy [5]. Mais selon l’archéologue français Alain Thote, il s’agit bien d’un symbole ayant une valeur magico-religieuse liée à la mort lorsqu’il étudie les épées des anciens Yue (Wu-Yue) à l’époque des Zhou orientaux [6]. Bien que la distance dans le temps soit trop éloignée entre la culture de Liangzhu et la dynastie des Zhou orientaux au fil de nombreux siècles, la décoration du masque taotie sur les épées n’est pas fortuite. Elle est effectuée seulement sur une face tournée vers la lame. Cela implique certainement l’intercession et la protection d’une divinité, est ce le dieu Chiyou ? Après avoir été tué par Huang Di, Chiyou est devenu le dieu de la guerre et protège ainsi tous les groupes ethniques Yue vivant dans le sud de la Chine, y compris les gens de Liangzhu reconnus par les érudits chinois comme les adorateurs des oiseaux et des animaux Vũ Nhân ( 羽 人) ou Vũ Dân càd les Enfants du Dragon et les Grands Enfants de l’Immortelle (Con Rồng Cháu Tiên).
Selon le dictionnaire sino-vietnamien, le mot Vũ (羽) fait référence à un oiseau. Pourquoi Fée-Dragon ? Dans les temps anciens, les oiseaux sont des animaux pouvant voler au-dessus des montagnes jusqu’à l’endroit où vivent les Immortelles. Quant au dragon, il est certainement un monstre marin qui, dans l’histoire de notre pays, s’appelle le dragon d’eau (Giao Long). À cette époque, dans le fleuve Yang Tse, il y avait un type d’alligator qui est maintenant en danger d’extinction. Afin d’éviter l’attaque de ce monstre marin, les Proto-Vietnamiens avaient coutume de se tatouer. C’est pourquoi ils associaient à leur totem le couple (Oiseau /Dragon) avec la notion de dualité (deux en un). Le nom du clan Hồng Bàng provient également du couple (Oiseau/Dragon). La culture de Lianzhu est localisée dans le cours inférieur du fleuve Yang Tsé, tandis que le pays Xích Qủi de Kinh Dương Vương est délimité au nord par le lac Động Đình, à l’est par la mer de Hainan, à l’ouest par le royaume Ba Shu (Ba Thục) et au sud par le Champa (Hồ Tôn). Selon le chercheur Hà Văn Thùy, on sait bien que les frontières nationales et les frontières culturelles ne sont que relatives car elles se chevauchent souvent les unes sur les autres.
Pour quelle raison la culture de Liangzhu a-t-elle disparu pour être remplacée plus tard par la culture de Shijiahé ? Cette dernière a été considérée comme l’héritière de la culture de Qujialing (3400-2500 av. J.-C.). Elle s’est développée aussi à un niveau supérieur à travers des objets ronds en jade représentant le ciel comme les dragons ou les phénix et s’est concentrée communément autour du lac. On voit donc plus clairement que le pays de Xich Gui du peuple vietnamien englobe les zones de deux cultures de Liangzhu et de Shijiahé. Pourquoi notre pays s’appelle-t-il Xích Quỷ? Xích désigne la couleur rouge et fait allusion au sud, tandis que le terme Quỷ fait référence à l’étoile brillante de couleur rouge Yugui Qui parmi les 28 loges nocturnes stellaires organisées dans un système de subdivision du ciel utilisé dans l’astronomie orientale.
L’effondrement de la culture de Liangzhu a suscité de nombreuses controverses et de débats dans la communauté des archéologues. On retient la thèse la plus répandue selon laquelle les catastrophes naturelles ont provoqué des inondations dévastant ainsi les habitations de cette région pendant longtemps et forçant les habitants d’ici à migrer et à se cacher ailleurs. Ils ont emporté avec eux le jade, la riziculture, l’élevage des vers à soie et la laque. C’est peut-être vrai car selon la légende des Trois Augustes et des Cinq Empereurs de Chine, You le Grand (le premier monarque de la dynastie des Xia) avait le mérite d’inventer les techniques d’irrigation pour maîtriser les fleuves, stabiliser la vie de ses habitants et développer l’agriculture. C’est pour cela que l’empereur Shun (vua Thuấn) lui céda le trône pour fonder la dynastie des Xia (2255 avant JC – 2207 avant JC) lors de la disparition de la culture Liangzhu. Mais c’est difficile d’accepter aussi cette version car il s’agit bien d’une légende recopiée dans les mémoires historiques de Sima Qian sous la dynastie des Han occidentaux et rien n’apporte la preuve de l’existence de la dynastie des Xia. Mais récemment, cette hypothèse a été confirmée par le géologue autrichien Christophe Spötl [7] de l’université d’Innsbruck et ses collègues dans la revue « Science Advances» au travers d’une étude datée du 24 novembre 2021. L’effondrement de la culture Liangzhu et d’autres cultures néolithiques dans la région du cours inférieur du fleuve Yang Tsé ont été dues au changement climatique, aux pluies incessantes et aux inondations incitant les habitants à fuir.
Mais selon le chercheur japonais Shin’ichi Nakamura [8] de l’université de Kanazawa, la culture Liangzhu a disparu à cause de l’épuisement des ressources en jade. Pour la culture Liangzhu, toute la source du pouvoir politique était basée sur le jade. Seuls ceux qui possèdent ces ressources peuvent détenir leur pouvoir et leur légitimité. À la dernière étape de la culture de Liangzhu, des artefacts en jade comme les Cong ne sont plus translucides et contiennent des impuretés. En revanche, au milieu du fleuve Yang Tse, la culture Shijiahé possède une technique de sculpture de jade à un niveau de perfection supérieur à celui de deux cultures Liangzhu et Hongshan au travers de 250 objets en jade que les archéologues ont trouvés lors des fouilles sur le site de Tanjialing (Hubei) en 2015. Cette culture occupe désormais une grande place importante avec la formation des Cent Yue.
Dans la culture Shijiahé, il y a également des artefacts ronds en jade (phénix, dragons) représentant le Ciel et fabriqués de manière tellement sophistiquée. Selon le politologue américain Charles E. Merriam de l’université de Chicago, il s’agit d’un moyen de légitimation empirique du pouvoir et de possession de la fonction «miranda» pour forcer les gens à respecter ces deux animaux sacrés.[9]. C’est pourquoi les gens d’ici aiment tatouer des dragons sur leur corps et porter des chapeaux de plumes pour le montrer. Cette coutume de tatouage n’a été abandonnée que sous le règne du roi Trần Anh Tôn.
un leader de Shijiahé
(miranda: se rapporte aux symboles liés à l’émotivité d’un peuple pour lui imposer le respect et l’émerveillement.)
La culture de Shijiahé est localisée dans l’aire du royaume des Proto-Vietnamiens Văn Lang. À travers la description géographique de la légende, on sait qu’à cette époque le royaume Văn Lang avait Phong Châu pour capitale. Il était délimité au nord par le lac Dongting (Hunan) (Động Đình, Hồ Nam), au sud par le Champa (Hồ Tôn), à l’est par la mer de Hainan et à l’ouest par le royaume Ba Shu (Sichuan). Le nom Văn Lang est dérivé de l’ancien mot Yue Blang ou Klang que les montagnards utilisent souvent pour désigner le totem, c’est peut-être un oiseau aquatique de la famille des hérons. Le royaume de Văn Lang peut être considéré à cette époque comme une fédération de communautés ethniques Yue. C’est aussi le premier état de l’ethnie Yue selon la légende de l’histoire vietnamienne.
Selon la légende du Seigneur Phù Đổng (ou Thánh Gióng), il y eut un conflit entre le royaume Văn Lang et la dynastie des Shang sous le roi Hùng Vương VI. Dans le Yi King traduit par le professeur Bùi Văn Nguyên, l’auteur mentionne une expédition militaire menée en trois ans par le roi guerrier de la dynastie des Shang nommé Wuding (Vũ Định) dans le territoire du lac Động Đình (Kinh Châu, Jīngzhōu ) contre les nomades souvent appelés « Diables ». Ce conflit pourrait expliquer la raison principale pour laquelle le royaume de Văn Lang n’a établi aucune relation commerciale avec les Shang. Les découvertes d’objets en bronze à Ningxiang (Hunan) dans les années 1960 ont montré que dans le butin ramené lors de cette expédition dans le sud de la Chine, il y avait la présence d’un vase à vin en bronze orné d’un visage humain mélanésien sans aucune explication.
un vase à vin en bronze
Dans d’autres endroits à la même époque, il y a la formation des cultures Erlitou de la dynastie des Xia dans le Henan ou de la dynastie des Shang dans la vallée du fleuve Jaune. L’influence de ces cultures Liangzhu et Shijiahé y est plus ou moins visible à travers les modèles ayant des visages d’animaux (Taotie) ou des animaux phénix et dragon. Au moyen des études archéologiques et météorologiques, on sait qu’en l’an 2000 avant J.C, il y avait une sécheresse dans la région moyenne du fleuve Yang Tsé, ce qui obligea les habitants de Shijiahé à suivre les traces des habitants de Liangzhu à évacuer la région car ils ne pouvaient plus continuer à faire la riziculture. Sur la base d’études génomiques de Hugh McColl et de ses collègues, cette population agraire austro-asiatique Yue était obligée de revenir en Asie du Sud-Est il y a 2 000 ans et d’effectuer la fusion en une infime partie avec la population indigène vivant sur place de la cueillette et de la chasse. L’union des tribus Yue du fleuve Yang Tsé a également été dissoute [10]. Cet incident a causé la disparition de deux cultures Liangzhu et Shijiahé. On voit que cette dissolution est très conforme à la légende du roi Lạc Long Quân et de la princesse Âu Cơ au moment de la séparation: 50 enfants ont suivi le père dans les plaines (Luo Yue) et 50 autres enfants ont accompagné la mère Âu Cơ dans les montagnes (Si Ngeou). Dirigé par les rois Hung, le royaume Văn Lang se rétrécit plus tard avec ses 15 tribus à partir de 1879 av. J.C.
Une chose à laquelle il convient de prêter attention est que dans cette culture Shijiahé, il existe un artefact appelé nha chương (ou une dent de jade) utilisée pour faire des offrandes aux montagnes et aux rivières et reconnue et attribuée jusque-là à la culture Dawenkou (Đại Vấn Khẩu) dans la région de la province du Shandong (Shandong) par les archéologues. Cette lame de jade se trouve dans les tombes des personnes détentrices du pouvoir et de haut rang dans la société. Particulièrement au Vietnam, il y a actuellement 8 lames trouvées à Phùng Nguyên et Xóm Rèn (province de Phú Thọ, Vietnam) datant d’environ 1700-1400 avant J.C. Cela signifie qu’elles appartiennent à la culture Phùng Nguyên de notre peuple. Le professeur Hà Văn Tấn a prouvé avec précision qu’il existe toujours la continuité ininterrompue de cette culture avec celles de Đồng Dậu et Gò Mun[11] qui sont antérieures à la culture Đồng Sơn au moyen des datations au radiocarbone et qu’il correspond ainsi à la période des rois Hùng (Hồng Bàng). Ces lames de jade doivent donc provenir de la culture Shijiahé du fleuve Yang Tsé lors de la migration des Proto-Vietnamiens vers l’Asie du Sud-Est (Vietnam) il y a 4000 ans rapportée par l’étude anthropologique du chercheur Hirofumi Matsumura et ses collègues en 2019 [12] ou elles sont issues de la culture Sanxingdui de Sichuan ?
Certainement elles ne viennent pas de la culture Sanxingdui au Sichuan car cette dernière ne date que d’environ 1200 avant J.C., soit environ 500 ans de décalage avec la culture Phùng Nguyên. Ainsi, la lame de jade de Phùng Nguyên doit provenir de la région du Yang Tse avec la culture Shijiahé. La lame de jade est utilisée comme un outil rituel dans les occasions cérémonielles de la culture Sanxingdui (Sichuan) ou comme un objet du pouvoir au début de la période des rois Hùng? C’est une question dont on n’a pas encore la réponse juste. Mais quoi qu’il en soit, nous sommes toujours fiers d’être les descendants du Dragon et les Grands Enfants de l’Immortelle car grâce aux légendes que nos ancêtres ont savamment inventées et aux études génétiques et aux fouilles archéologiques dans un passé récent nous réussissons à retrouver notre origine avec exactitude.
Paris le 28/02/2023
Bibliographie
[1] Paul Pozner: Le problème des chroniques vietnamiennes, origines et influences étrangères. BEFO, année 1980, vol 67, no 67, p275-302
[2] Stephen Oppenheimer: Địa đàng ở Phương Đông. Lịch sử huy hoàng của lục địa Đông Nam Á bị chìm ? NXB Lao Động; 2005.
[3] Edouard Chavannes: Mémoires historiques de Se-Ma Tsien de Chavannes, tome quatrième.
[4] Hugh McColl, Fernando Racimo, Lasse Vinner, et al. (2018). The prehistoric peopling of Southeast Asia. Science;361(6397) 88-92.
[5] Hà Văn Thùy: Phát hiện di vật văn hóa Lương Chữ tại Viêt Nam. Nghiên cứu lịch sử.
[6] Alain Thote: Note sur la postérité du masque de Liangzhu à l’époque des Zhou orientaux, Arts asiatiques. Tome 51, 1996. pp. 60-72.
[7] Christoph Spotl, Haiwei Zhang, and all (2021) Collapse of the Liangzhu and other Neolitic cultures in the lower Yantze region in response to climate change. Science Advances Vol 7, Issue 48.
[8] Shin’ichi Nakamura: Le riz, le jade et la ville. Évolution des sociétés néolithiques du Yangzi. Éditions de l’EHESS « Annales. Histoire, Sciences Sociales. 2005/5 60e année | pages 1009 à 1034.
[9] Charles E. Merriam, Political power : Its composition and incidence, New York-Londres, Whittlesey House/McGraw-Hil, 1934.
[10] Lang Linh: Lịch sử hình thành và tan rã của cộng đồng tộc Viêt. Lược sử tộc Việt.
[11] Hà văn Tấn: Theo dấu các văn hóa cổ. Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội. Hànội 1998.
[12] Hirofuma Matsumura, Hsiao-chun Hung, Charles Higham et al. (2019). Craniometrics reveal « Two Layers » of Prehistoric Human Dispersal in Eastern Eurasia. Scientifics reports; 9(1): 1451.
Dominique Lelièvre: La grande époque de Wudi. Editions You Feng. 2001
Bai Shouyi: Précis d’histoire de Chine. Editions en langues étrangères. Beijing, 1988
René Grousset: Histoire de la Chine. Des origines à la seconde guerre mondiale. France-Loisirs, Paris 1997
Norman Jerry- Mei tsulin 1976 The Austro asiatic in south China : some lexical evidence, Monumenta Serica 32 :274-301
Sun, Jin & Li, Yingxiang & Ma, Pengcheng & Yan, Shi & Cheng, Hui-Zhen & Fan, Zhi-Quan & Deng, Xiao-Hua & Ru, Kai & Wang, Chuan-Chao & Chen, Gang & Wei, Ryan. (2021). Shared paternal ancestry of Han, Tai-Kadai-speaking, and Austronesian-speaking populations as revealed by the high resolution phylogeny of O1a-M119 and distribution of its sub-lineages within China. American journal of physical anthropology. 174. 10.1002/ajpa.24240.
Corinne Debaine-Francfort : La redécouverte de la Chine ancienne. Editions Gallimard 1998.
Léonard Rousseau: La première conquête chinoise des pays annamites (IIIe siècle avant notre ère). BEFO, année 1923, Vol 23, no 1.
Bình Nguyên Lộc: Lột trần Việt ngữ. Talawas.
Chim Lạc có phải vật tổ của người dân Việt không?
L’oiseau Lạc est -il l’oiseau totémique des Proto-Vietnamiens?
Chim Lạc có phải vật tổ của người dân Việt không ?
Câu hỏi nầy thường được nêu ra sau thời kỳ các nhà khảo cổ học thuộc Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp (Louis Pajot, Olov Jansen) phát hiện ra một số đồ đồng cổ ở thung lũng Mã, đặc biệt là ở làng Đồng Sơn (Thanh Hóa) vào năm 1924. Sau đó với sự đề xuất của nhà khảo cổ học ngừời Áo R. Heine-Geldern thì văn hóa này được gọi là « Văn hóa Ðồng Sơn » tức là văn hóa của người Việt cổ.
Ngoài việc tranh dành về nguồn gốc trống đồng giữa hai nước Việt Nam và Trung Hoa, còn có thêm cuộc tranh luận về các hình tượng trang trí được thấy nhiều trên mặt trống đồng nhất là con chim chi không biết là loại chim gì chân cao mỏ dài trong tư thế bay hay ngồì. Học giả Đào Duy Anh đã ngộ nhận và kết luận trong quyển Lịch sử cổ đại Việt Nam rằng đây là con chim lạc chỉ một loại hậu điểu tương tự như ngỗng trời là vật tổ của người Lạc Việt. Thưở xưa, các thị tộc ở xã hội nguyên thủy hay thường lấy tên thị tộc mà đặt tên cho vật tổ tức là con chim lạc. Nhưng dù thuyết vật tổ của ông là lý thuyết sai lầm theo sư nhận xét của sử gia Trần Gia Phụng hay nhà văn Đinh Hồng Hải nhưng vì ông là một trong những học giả uyên thâm hàng đầu Việt Nam ở th ời đó nên dễ thuyết phục dư luận. Sự nhận định nầy khiến ít ai dám phủ nhận cả mà còn tạo ra một ý niệm về mối quan hệ mật thiết giữa người Lạc Việt và loài chim nầy. Rồi ý niệm nầy trở thành từ đó quan niệm chim Lạc, vật tổ của người Lạc Việt. Theo sử gia Trần Gia Phụng tất cả tài liệu có nói đến chữ Lạc như Thủy kinh chú của Lịch Đạo Nguyên (thế kỷ thứ 6) hay An Nam chí lược của Lê Tắc (thế kỷ 13) đều dựa trên sách cổ « Giao Châu ngoại vực ký » của Trung Hoa được xuất hiện khoảng giữa đời nhà Tấn (265-420) trong đó có một đoạn văn viết như sau: Giao Chỉ tích hữu quận huyện chi thời, thổ địa hữu lạc điền. Kỳ điền tòng thủy triều thượng hạ. Dân khẩn thực kỳ điền, nhân các vị Lạc dân, thiết Lạc vương, Lạc hầu chủ chư quận huyện. Đa vi Lạc tướng, đồng ấn thanh thụ. Xưa, khi Giao Chỉ chưa thành quận huyện, đất đai có ruộng gọi là ruộng lạc, ruộng đó tùy thủy triều lên xuống mà làm. Dân khẩn ruộng đó mà ăn, vì thế tất cả gọi là dân Lạc. Họ lập Lạc vương, Lạc hầu để coi quận huyện. Có nhiều Lạc tướng, có ấn đồng lụa xanh.
Chữ Lạc đọc ở trên đây theo âm Hán Việt chớ người Hoa họ đọc theo âm Trung Hoa thì là « lo, ló, lô » như thành Lạc Dương thủ đô nhà Châu thì được phiên âm theo chữ Latin ra là Loyang. Như vây chữ có âm « lo, ló, lô » trong tiếng Việt cổ là gì ? Nó chỉ là lúa gạo. Bởi vậy từ Thừa Thiên đến Nghệ An, mọi người hay thường dùng chữ ló để ám chỉ lúa. Tại vùng Quảng Bình ở miền trung mới có câu tục ngữ « Cơm mô cho vừa bụng chó, ló mô cho vừa bụng gà». Như vậy chữ Lạc là từ ngữ phát âm theo lối Hán Việt chớ chữ Lạc mà cố tìm sự giải thích nào khác cũng hoàn toàn vô nghĩa vì nó không phải là chữ phiên âm từ tiếng của người Việt cổ. Có thể nói chữ Lạc mà tìm hiểu nghĩa theo chữ Trung hoa thì sẽ bị lạc hướng. Người Hoa dùng chữ Lạc đễ phiên âm tiếng Ló của người Giao Chỉ và để chỉ tộc người có nền văn minh lúa nước.
Bởi vậy bất cứ chữ Lạc nào với bất cứ bộ thủ nào, họ cũng đọc là Lo cả theo sự nhận xét của cố học giả Hoàng Văn Chí trong sách Duy văn sử quan. Ngày nay có nhiều dân tộc miền núi hay nhiều điạ phương ở nước ta vẫn còn dùng từ ngữ ló để nói lúa gạo như Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình hay từ ngữ lọ ở Thanh Hóa. Còn người Mường thì gọi với một âm tiết khá nặng giữa chữ lỏ và lọ (như cơm mường vó, lọ mường vang) (Đinh Hồng Hải, trang 72). Như vậy con chim Lạc là con chim không có thật sự trong môi trường thiên nhiên ở đất nước ta. Nó cũng không có ghi chú trong các từ điển của nước ta để ám chỉ con chim lạc cả. Nó không phải là con vật tổ của người Việt cổ thì nếu không nó được nằm ở vị trí trung tâm của mặt trống đồng. Tuy nhiên nó phải sống, gần gũi mật thiết hằng ngày với người trồng lúa nước ở trên đồng cũng như con trâu đi trước cái cày theo sau trong nền văn hóa Đồng Sơn. Nó được xem như là mô típ trang trí được ghi khắc trên trống đồng làm cho ta liên tưởng đến con cò, con hạc hay con sếu. Các chim nầy đều có mỏ dài và chân cao cả nhưng xét dưới gốc độ gần gũi và thân thiết với người nông dân Việt thì cò ở đâu cũng có hiên diện không những trên ruộng đồng Viêt Nam mà luôn cả trong tục ngữ ca dao Việt Nam. Còn xét duới gốc độ tín ngưỡng thì hạc là loại chim có tính biểu tượng cao thượng được thấy ở các nơi thờ tự như ở Văn Miếu (Hànội). Nhìn lại lịch sử và truyền thuyết thì người Việt cổ (hay Lạc Việt) đã thừa nhận họ là thị tộc Hồng Bàng (tức là chim và rắn tức là Tiên Rồng). Như vậy họ đã ghép cho vật tổ của họ là Chim và Rắn rồi với quan niệm song trùng lưỡng hợp (hai trong một) theo học giả Hà Văn Thùy. Bởi vậy họ tự cho họ là con Rồng cháu Tiên. Tên Văn Lang có nguồn gốc từ tiếng Việt cổ là Blang hay Klang mà các dân tộc miền núi thường dùng để ám chỉ vật tổ, có thể đây là một loài chim nước thuộc họ chim Diệc. Có thể xem thời đó nước Văn Lang như một liên bang của các cộng đồng tộc Việt. Đây cũng là nhà nước đầu tiên của tộc Việt theo truyền thuyết trong lịch sử Việt Nam. Nói như nhà văn Đinh Hồng Hải thì cần có những phương pháp nghiên cứu sâu hơn để làm rõ danh tính của loại chim nầy. Còn sử gia Trần Gia Phụng, những hình ảnh trên trống đồng đều là hình “câm”. Bởi vậy giả thuyết nầy chỉ là sự phỏng đoán chưa có phần kết luận. Giả thuyết nào hợp lý sẽ đứng vững mà thôi.
Cette question est souvent posée après la découverte d’ un grand nombre d’objets datant de l’âge de Bronze dans la vallée de Mã, notamment dans le village de Ðồng Sơn en 1924 par les archéologues de l’Ecole Française d’Extrême-Orient (BEFO) (Louis Pajot, Olov Jansen). Puis, sur la proposition de l’archéologue autrichien R. Heine-Geldern, cette culture a été appelée « culture de Đồng Sơn », c’est-à-dire la culture des Proto- Vietnamiens. (ou des Luo Yue)
En outre, à cause du différend de longue date sur l’origine du tambour de bronze entre le Vietnam et la Chine, il y a aussi un débat sur les images décoratives trouvées sur la surface du tambour, en particulier un oiseau de quelle famille il s’agit. On n’arrive pas à l’identifier avec ses longues pattes et son long bec en posture volante ou assise. L’érudit Đào Duy Anh l’a reconnu par erreur dans son livre intitulé « Histoire ancienne du Vietnam » en affirmant que cet oiseau Lạc (Luo) semblable à une oie sauvage était l’oiseau totémique des Lo Yue (ou des Proto-Vietnamiens)? Autrefois, les clans de la société primitive avaient l’habitude de prendre souvent le nom du clan pour l’attribuer à leur totem. C’était le cas de l’oiseau Lạc (ou Luo). Selon l’historien Trần Gia Phụng ou l’écrivain Đinh Hồng Hải, malgré sa fausse théorie, l’érudit Đào Duy Anh continua à convaincre l’opinion publique car il fut l’un des érudits de renom au Vietnam à cette époque. Personne n’osa contester sa capacité de discernement mais par contre cela créa en revanche une idée de relation très étroite entre les Luo Yue et cet oiseau. Puis cette idée devint ainsi un jour sans même en rendre compte l’acceptation du nom « Luo » (ou Lạc) en vietnamien pour cet échassier, l’oiseau totémique des Luo Yue. Selon l’historien Trần Gia Phụng, tous les livres historiques contenant le mot « Lạc » ou (Luo) » comme « Thủy kinh chú » de Lịch Đạo Nguyên ( 6ème siècle) ou « Les archives abrégées d’An Nam » de Lê Tắc (13ème siècle) sont basées essentiellement sur le livre ancien chinois « Giao Châu ngoại vực ký » dont la date d’édition a lieu à l’époque des Jin (265-420) et dans lequel figure un paragraphe écrit en caractères Han-Viet comme suit: Giao Chỉ tích hữu quận huyện chi thời, thổ địa hữu lạc điền. Kỳ điền tòng thủy triều thượng hạ. Dân khẩn thực kỳ điền, nhân các vị Lạc dân, thiết Lạc vương, Lạc hầu chủ chư quận huyện.
Autrefois, lorsque Jiaozhi (ou Viet Nam) n’était pas encore un district, sa terre possédait des champs des riz appelés des champs « Luo ». En fonction de la montée ou la descente des marées, ces derniers étaient labourés. Les gens qui y travaillaient étaient appelés les Luo Yue (Les gens de Luo). Leur roi était connu sous le nom «Roi Luo (Lạc Vương », leurs marquis « Luo » étaient appelés « Lạc hầu » et ils avaient la mission de contrôler les districts. Il y a beaucoup de généraux ayant des sceaux en bronze avec la soie bleue.
Le mot « Lạc » ci-dessus est prononcé en caractère sino-vietnamien (Hán Việt) par les Vietnamiens. Par contre les Chinois le prononcent en recourant à la transcription phonétique. Ce mot phonétique devient ainsi « lo, ló, lô ». C’est le cas du nom de la capitale Lạc Dương des Chu qui devient Loyang lors de la transcription phonétique en chinois. Que devient-il le mot « lo, ló, lô » employé par le Chinois dans la langue des Proto-Vietnamiens ? Il désigne le paddy ou le riz. C’est pourquoi de la région Thừa Thiên jusqu’à la province Nghệ An du Viet Nam, tout le monde est habitué à employer le mot « ló » pour faire allusion au riz. Dans la région Quảng Bình du Centre-Vietnam, il y a un proverbe suivant « Cơm mô cho vừa bụng chó, ló mô cho vừa bụng gà»(Le riz cuit donne satisfaction au ventre du chien tandis que le grain de riz remplit bien l’estomac du poulet). Étant en caractère sino-vietnamien, le mot « Lạc » n’a aucune signification car il s’agit bien d’une transcription phonétique employée par les Chinois à partir du mot ló des Proto-Vietnamiens (ou des gens de Jiaozhi) pour les désigner comme des gens ayant la culture du riz inondé. C’est pourquoi quel que soit le radical employé avec le mot « Lạc », les Chinois continuent à le prononcer en Ló selon la remarque du feu érudit Hoàng Văn Chí dans son livre intitulé «Duy văn sử quan ». Aujourd’hui, il reste pas mal des montagnards ou des gens locaux de notre Vietnam continuent à employer le mot « ló» pour évoquer le riz comme les gens de Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình ou le mot «lọ» dans la région de Thanh Hóa. Selon l’écrivain Đinh Hồng Hải, les cousins proches des Vietnamiens, les Mường le prononcent avec un accent situé entre les mots lỏ et lo (cơm mường vó, lọ mường vang) pour évoquer le riz de la région Mường Vó et le paddy de Mường Vang. Ainsi on peut dire que l’oiseau Lạc n’existe pas réellement dans la nature de notre pays. On ne trouve pas non plus son nom dans les dictionnaires vietnamiens. Il n’est en aucun cas l’oiseau totémique des Proto-Vietnamiens sinon on doit le trouver au centre de la surface du tambour de bronze.
La grue au temple de la littérature
Cependant, il doit être proche des riziculteurs et vivre quotidiennement avec eux dans le champ comme le buffle précédant la charrue dans la culture de Đồng Sơn. Il est considéré comme un motif de décoration gravé sur le tambour en bronze. Cela nous fait penser à une aigrette ou une grue. Ces oiseaux ont tous de longs becs et de hautes pattes, mais compte tenu de la proximité et de l’intimité journalière avec les riziculteurs vietnamiens, les aigrettes sont présentes partout non seulement dans les champs mais aussi dans les chansons populaires. Du point de vue religieux, la grue est une sorte d’oiseau afférent au caractère noble que l’on retrouve dans les lieux de culte comme au Temple de la Littérature (Văn Miếu, Hanoï). En jetant un regard dans l’histoire et les légendes des Lo Yue (Lạc Việt) ou Proto- Vietnamiens (ou Lac Viet), ils se reconnurent depuis la nuit des temps comme des gens appartenant au clan Hồng Bàng (Hồng désignant l’oiseau et Bàng le serpent càd l’Immortelle et le dragon). C’était pourquoi ils avaient associé à leur totem le couple (Oiseau/Dragon) avec la notion de dualité (deux en un) selon l’érudit Hà Văn Thùy. Ils étaient fiers d’être Enfants du Dragon et Grands Enfants de l’Immortelle (Con Rồng cháu Tiên). Le nom Văn Lang est dérivé de l’ancien mot Yue Blang ou Klang que les montagnards utilisent souvent pour désigner le totem, c’est peut-être un oiseau aquatique de la famille des hérons. Le royaume de Văn Lang peut être considéré à cette époque comme une fédération de communautés ethniques Yue. C’est aussi le premier état de l’ethnie Yue selon la légende de l’histoire vietnamienne. Selon l’écrivain Đinh Hồng Hải, il faut des méthodes de recherche approfondies pour clarifier l’identification de cet échassier. Pour l’historien Trần Gia Phung, les images trouvées sur les tambours sont toutes « muettes ». Par conséquent, cette hypothèse n’est qu’une conjecture sans conclusion. Toute hypothèse logique sera debout seulement.
Références bibliographiques
- Đinh Hồng Hải. Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa truyền thống Việt Nam. Tập 3. Các con vật linh. Nhà xuất bản Thế Giới.
- Trần Gia Phụng: Hình chim trên trống đồng Lạc Việt.
- Hoàng văn Chí. Duy văn sử quan. Nhà Xuất bản Cành Nam, Hoa Kỳ,1990 tt 78-79
- Đào Duy Anh: Lịch sử Việt Nam. Nhà Xuất Bản Văn hóa thông Tin 2002
Danse du lion ou de la licorne (Múa lân sư)
Múa Lân Sư
Nhắc đến Tết không có ai có thể không nhắc đến múa Lân. Đây là môn nghệ thuật múa dân gian được thấy trên đường phố ở Việt Nam. Nó được gọi là múa lân ở trong Nam còn ở ngoài Bắc thì gọi là múa sư (tức là sư tử (hay wǔshī ). Lân là con linh vật đứng hàng thứ nhì trong bốn con vật có sức mạnh siêu phàm hay tứ linh (long, lân, qui, phụng). Trong văn hóa Việt nam, chúng ta thường bị lầm lẫn giữa con kỳ lân với con ghê. Đặc điểm để phân biệt giữa nghê và lân là ở bộ móng, nghê mang móng vuốt còn kỳ lân mang móng guốc. Thật sự khi gọi kỳ lân, tức là nói đến một cặp: con đực gọi là kỳ và lân là con cái. Múa Lân thường được biểu diễn trong các dịp lễ hội, đặc biệt là Tết Nguyên Đán, Tết Trung Thu hay khánh thành cửa hàng mới vì các loại thú nầy tượng trưng cho thịnh vượng và hạnh phúc. Con lân có cái đầu được trang trí trông rất đẹp mắt và thân thể của nó được nâng lên bởi một số vũ công uốn lượn theo nhịp điệu âm thanh của các tiếng trống. Nó luôn luôn đi cùng với một vũ công bụng phệ, vui cười hay vẫy quạt, thường đeo mặt nạ và mặc áo choàng màu vàng nghệ (Ông Địa). Đây là cuộc khiêu chiến giữa người và động vật, giữa Thiện và Ác, luôn luôn kết thúc bằng chiến thắng của con người trên động vật.
Danse de la licorne ou du lion.
En évoquant le Têt, personne n’oublie de mentionner la danse de la licorne ou du lion. C’est un art de la danse folklorique que l’on trouve dans les rues du Vietnam. On l’appelle la danse de la licorne dans le Sud et la danse du lion dans le Nord (ou wǔshī bính âm). La licorne occupe la deuxième place parmi les quatre animaux au pouvoir surnaturel (tứ linh)(long, lân, qui, phụng). Dans la culture vietnamienne, on a l’habitude de confondre la licorne avec le chien-lion (con nghê). La principale caractéristique permettant de faire la distinction entre la licorne et le chien-lion réside dans les doigts de pied, la licorne étant armée des sabots et le chien-lion des griffes. Quand on parle de la licorne (Kỳ Lân), on a affaire à un couple d’animaux : kỳ c’est le mâle tandis que Lân est une femelle. La danse de la licorne est souvent pratiquée lors des fêtes traditionnelles, notamment le Nouvel An lunaire, la fête de la Mi-Automne ou l’inauguration d’un nouveau magasin (ou une boutique) car ces animaux sacrés symbolisent la prospérité et le bonheur. Cet animal légendaire dont la tête est décorée magnifiquement et dont tout le corps est porté par plusieurs danseurs, ondule au rythme des sons des tambourins. Il est toujours accompagné par un autre danseur hilare et ventru agitant son éventail et portant une robe de couleur safran (Ông Ðịa). C’est la danse-combat entre l’homme et l’animal, entre le Bien et le Mal qui se termine toujours par le triomphe de l’homme sur l’animal.
Art de Huế (Mỹ Thuật Cung Đình Huế)
Trường Lang ( Long couloir de la cité impériale de Huế)
Trường lang ở Đại Nội
Trong mười năm qua, trung tâm bảo tồn di tích ở Huế đã hồi phục lại trường lang chính với tổng chiều dài chừng 900 mét sau một thời gian bị phá hủy một cách trầm trọng chỉ còn nền móng vì chiến tranh thiên tai và nắng mưa. Không những Trường Lang có vai trò chính là bảo vệ các lối đi qua lại và liên kết với các công trình kiến trúc khác ở Tử Cấm Thành mà nó còn là một hệ thống kiến trúc có mái che rất phong phú đa dạng. Tùy theo vị trí và hình dạng mà nó có tên gọi khác nhau như Trực Lang, Dực Lang và Hồi Lang nhưng Trường lang là tên gọi chung cho các hành lang nầy. Trường Lang được xây dựng hoàn toàn bằng gổ quý và được bài trí rất cầu kỳ. Hệ thống nầy được phục hồi lại gần đây nhất là Dực lang nằm ở phía bên phải điện Cần Chánh và khánh thành vào cuối tháng 4/2016. Một số bức ảnh của các vị vua nhà Nguyễn, 18 bài thơ của vua Minh Mạng và hình ảnh tư liệu về kiến trúc của các cung điện được treo dọc theo ở các hành lang nầy.
Au cours des dix dernières années, le centre de préservation des monuments de Huế a restauré le couloir principal Trường Lang d’une longueur totale d’environ 900 mètres après une période de destruction extrêmement sévère, ne laissant que les fondations dues aux guerres, aux catastrophes naturelles et au changement climatique. Trường Lang a pour rôle principal de protéger non seulement les passages permettant d’être en liaison avec d’autres œuvres architecturales de la Cité Interdite, mais c’est aussi un système architectural riche et diversifié doté de toits de protection. En fonction de l’emplacement géographique du lieu et la forme, il porte différents noms tels que Trực Lang, Dực Lang et Hồi Lang, mais Trường Lang est le nom commun de ces couloirs. Trường Lang est entièrement construit en bois précieux et décoré avec beaucoup de raffinement trouvé dans l’art de Huế. La restauration la plus récente de ce système est Dực Lang située à droite du palais de Cần Chánh et elle a été inaugurée fin avril 2016. Quelques photos des rois de la dynastie des Nguyễn, 18 poèmes du roi Minh Mang et des documents photographiques concernant l’architecture des palais sont accrochés tout le long de ces couloirs.
Le belvédère des cinq phénix (Lầu Ngũ Phụng)
Lầu ngũ phụng là một trong những công trình kiến trúc bậc nhất của triều đại nhà Nguyễn ở Tử Cấm Thành. Nhìn tổng thể thì lầu Ngũ Phụng chỉ có 5 dãy lầu mang hình tượng 5 con chim phượng hoàng đậu xoè cánh thân thiết bên nhau. Đây là hình tượng mang tính cách liên tưởng đến sự hòa hợp âm dương nói lên thời hoàng kim của nước Đại Nam hùng mạnh của vua Minh Mạng. Phụng là loại chim chỉ xuất hiện ở thời bình chớ thời loạn nó ẩn dật trong truyền thuyết. Lầu ngũ phụng thật sự là một tổ hợp kiến trúc được dựng lên bằng gỗ lim và được xem như một lễ đài dùng để tỗ chức các cuộc lễ hàng năm của triều đình như lễ Truyền Lô (nêu danh các sĩ phu trúng tuyển trong các khoa thi Hội, thi Đình), lễ Ban Sóc (lễ ban lịch năm mới), lễ Duyệt Binh v.v…Nó là phần trên của tổng thể kiến trúc Ngọ Môn mà phần dưới là nền đài cao gần 6 thước, rộng 27 m và dài 58 m, được xây trên mặt bằng chữ U với phần lõm quay ra ngoài, vật liệu dùng là gạch vồ, đá thanh và đồng thau khiến hai phần trên dưới được ăn khớp nên có sự hài hoà từ tổng thể đến chi tiết theo sự nhận xét của nhà nghiên cứu Phan Thuận An. Chính ở hệ thống nền đài (thân cổng) nầy được thấy có 3 lối đi vào song song nhau: lối chính giữa dành cho vua, Tả Giáp Môn và Hữu Giáp Môn dành cho các quan văn võ đi theo trong đoàn ngự đạo. Còn có thêm hai lối bên hông nằm ở trong lòng của hai cánh chữ U gọi là Tả Dịch Môn và Hữu Dịch Môn dành cho lính tráng và voi ngựa. Tất cả các lối đều có cánh gỗ kiên cố và sơn màu đỏ thẫm chỉ trừ cửa chính giữa thì sơn màu vàng, màu dành cho Thiên Tử (con của Trời). Ở mặt tường trên vòm cửa giữa có gắn hai chữ Hán lớn: “Ngọ Môn”. Ngọ Môn tức là là cổng chính nằm ở phiá nam. Theo Phan Thuận An , chữ ngọ dùng ở đây có ý nghĩa mang tính không gian chớ không phải thời gian. Bởi vậy là lúc mặt trời đứng bóng nên không thể dịch Ngọ Môn bằng « Porte du midi » hay « Noon time gate » . Lầu Ngũ Phụng có hai tầng, tầng dưới thì để trống đón gió phô ra một hệ thống 100 cột thanh thoát tựa như các chân phụng và sơn màu đỏ. Chính ở tầng nầy có một một toà nhà giữa có hệ thống cửa gương ở mặt trước và măt sau là nơi được vua ngự tọa để xem duyệt binh khi có các cơ hội quan trọng. Còn tầng trên thì các gian nhà làm theo lối nhà giường phố biển ở miền trung thường gọi là nhà cổ diêm (*). Mặt trước của dảy gian nhà ở ô giữa thì dùng cửa lá sách còn xung quanh thì nong ván nhưng có thấy nhiều nơi có cửa sổ với các hình dạng khác nhau: hình cái quạt, hình tròn, hình cái khánh v. v. Tầng trên gồm có 9 nóc nhà, giáp các mái lại với nhau thành một dãy 5 lầu gác chạy dài theo chiều ngang và hai dãy khác bên hông, mỗi dãy hai lầu nhô ra phía trước. Toàn bộ mái nhà của lầu Ngũ Phụng đều lợp bằng các gói ống tráng men màu xanh lục chỉ trừ bộ mái ở dãy ô giữa thì màu vàng óng ả.
Các bờ nóc, bờ dải và góc mái đều được trang trí rất tỉ mỉ và lộng lẫy với các hình rồng, dơi, hưu, vịt , mây cụm hay hoa lá bốn mùa (lan, mai, cúc, trúc). Bởi vậy để nhắc đến cổng thành Ngọ Môn, mới có hai câu thơ dân gian như sau trong ca dao:
Ngọ Môn năm cửa chín lầu
Một lầu vàng, tám lầu xanh, ba cửa thẳng, hai cửa quanh.
Triết lý Âm Dương Ngũ Hành nó được gắn bó mật thiết hằng ngày với đời sống của người dân Việt nên những con số âm dương cũng đươc áp dụng một cách chính xác ở trong kiến trúc Ngọ Môn chẳng hạn số 5, số 9 và số 100. Ngọ Môn có 5 con phụng xoè cánh, 5 lối vào, 9 mái nhà và 100 cây cột nhà ở lầu Ngũ Phụng. Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An thì con số một trăm cây cột (100= 55+45) có được là từ các số cộng lại tìm thấy ở trong Hà Đồ (55) và Lạc Thư (45) của Kinh Dịch. Đây không phải là ý kiến của chuyên gia Liễu Thượng Văn. Con số một trăm (100) thể hiện sức mạnh trăm họ hay bách tính và phản ảnh quan điểm dân vi bản (lấy dân làm gốc) trong việc cai trị của triều đại nhà Nguyễn. Nhưng dù thế nào đi nửa người xưa đã có ý gửi gắm nhiều ẩn số và ẩn ý sâu xa trong công trình kiến trúc nầy qua lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Ngọ môn được khởi công xây dựng lại vào năm Minh Mạng thứ 14 (1833). Đây không những là một kiệt tác trong nghệ thuật kiến trúc ở cố đô Huế mà Ngọ Môn còn mang đậm tính bản địa và bản sắc của dân tộc Việt.
(*) khoảng cách giữa hai mái gọi cổ diêm.
Le belvédère des Cinq phénix est l’une des œuvres architecturales les plus remarquables de la dynastie des Nguyễn dans la Cité interdite. Dans l’ensemble, on le voit comme un groupement de cinq rangées de dépendances à l’image de 5 phénix juchés intimement avec leurs ailes déployées. C’est une image que l’on aime associer à l’harmonie trouvée dans le Ying et le Yang et à l’âge d’or du puissant royaume Đại Nam dirigé par le roi Minh Mạng. Le phénix est un oiseau qui n’apparaît qu’en temps de paix et se cache en cas de troubles dans les légendes. Le belvédère des Cinq Phénix est en fait un complexe architectural construit en bois de fer et il est utilisé comme la tribune de la cour royale destinée à organiser des cérémonies annuelles telles que la cérémonie Truyền Lô (nomination des lettrés dans les concours royaux et provinciaux), la cérémonie Ban Sóc (publication du nouveau calendrier lunaire), cérémonie Duyệt Binh (défilé militaire) etc. Il est situé dans la partie supérieure du complexe architectural Ngọ Môn tandis que la partie inférieure de ce dernier est un puissant massif en maçonnerie environ de 6 mètres de haut, 27 m de large et 58 m de long et construite sur une surface en forme de U avec la partie concave tournée vers l’extérieur. Le matériau utilisé est en brique, en pierre « thanh » et en laiton. Selon l’observation du chercheur Phan Thuận An, ces deux parties sont bien engrenées dans une cohésion parfaite, de la totalité de l’ensemble jusqu’aux détails.
C’est dans la partie inférieure du complexe architectural Ngọ Môn qu’on trouve trois portes parallèles dont celle située au milieu est réservée uniquement au roi tandis que les deux autres Tả Giáp Môn et Hữu Giáp Môn sont pour les mandarins faisant partie du cortège royal. Il y a aussi deux autres portes latérales situées au cœur des deux ailes en forme de U appelées Tả Dich Môn et Hữu Dich Môn. Celles-ci sont destinées aux soldats et aux éléphants. Toutes les portes ont des battants en bois massif et peints en vermillon, à l’exception de la porte réservée au roi peinte en jaune. C’est la couleur préférée par le Fils du Ciel. Il y a deux grands caractères écrits en caractères chinois: « Ngọ Môn » sur la façade de la porte principale pour signifier que celle-ci est orientée dans la direction sud. Selon Phan Thuận An, le mot Ngọ utilisé porte une signification liée à la notion d’espace mais il n’a aucun rapport avec la notion de temps comme tant de gens ont mal traduit Ngọ Môn par la « Porte du midi » ou « Noon time gate ». Le belvédère des Cinq Phénix a deux étages. Son étage inférieur est laissé presque vacant à part le système de 100 colonnes visiblement dégagées et ressemblant aux pattes des phénix et peintes en rouge. C’est dans cet étage qu’on trouve un bâtiment ayant un système de portes miroirs établi sur sa façade extérieure pour permettre au roi de voir le défilé militaire à des occasions importantes. Quant à son étage supérieur, on trouve les dépendances construites dans le style d’architecture « cổ diêm (*) trouvé fréquemment dans le centre du Viet Nam. Les fenêtres de devant de la rangée des dépendances située dans la partie centrale ont des persiennes facilitant la vue sur l’extérieur. D’autres fenêtres sont présentes aux alentours sous des formes très variées: éventail, cercle, gong etc. L’étage supérieur se compose de 9 toits liés ensemble en une rangée horizontale de 5 dépendances et deux rangées latérales dont chacune comporte deux appentis faisant saillie vers l’avant.
L’ensemble de la toiture du belvédère Ngũ Phụng est recouvert de tuiles Yin et Yang vertes à l’exception de la rangée de la toiture de la partie centrale avec des tuiles Yin et Yang jaunes. Les arêtes, les rives et les coins de la toiture sont tous magnifiquement et minutieusement décorés avec des figurines de dragons, chauves-souris, cerfs, canards, bancs de nuages ou de fleurs des quatre saisons (orchidée, abricot, chrysanthème, bambou). Pour évoquer la porte méridienne Ngọ Môn, il y a deux vers la décrivant dans la chanson populaire:
Ngọ Môn năm cửa chín lầu
Một lầu vàng, tám lầu xanh, ba cửa thẳng, hai cửa quanh.
Le complexe architectural Ngọ Môn comporte cinq portes dont trois sont droites et deux latérales et neuf dépendances dont l’une est en jaune et les huit autres en vert.
La théorie du Yin et du Yang continue à être liée intimement à la vie journalière des Vietnamiens de sorte que les chiffres du yin et du yang sont également appliqués dans l’architecture de Ngọ Môn, tels que les nombres 5, 9 et 100. Le complexe Ngọ Môn a 5 phénix aux ailes déployées, 5 entrées, 9 toits et 100 colonnes du pavillon Ngũ Phụng. Selon le chercheur Phan Thuan An, ce nombre de cent colonnes correspond bien à la somme (100= 55+45) des nombres trouvés dans le plan du fleuve Hà Đồ (55) et l’Ecrit de la rivière Luo (Lạc thư cửu tinh đồ) (45) du Yi King. Ce n’est pas l’avis d’un autre spécialiste Liễu Thượng Văn. Selon ce dernier, cela représente la force de 100 familles ou du peuple (bách tính) et reflète bien la notion dân vi bản (prendre le peuple comme base) dans la gouvernance de la dynastie des Nguyễn. Mais de toute façon, les Anciens avaient l’intention de vouloir transmettre ainsi de nombreuses inconnues et des arrière-pensées dans cette œuvre architecturale à travers la théorie du Yin et Yang et des cinq éléments. Le complexe architectural Ngọ Mộn commença à être reconstruit sous sa forme actuelle par le roi Minh Mang (1833). Ce n’est pas seulement un chef-d’œuvre de l’art architectural de l’ancienne capitale de Huế mais le complexe Ngọ Môn est porteur de caractéristiques locales et et de l’identité du peuple vietnamien.
(*) écart entre les deux toitures appelé (cố diêm)
Tài liệu tham khảo ( Références bibliographiques)
Kiên trúc cố đô Huế. Monuments of Huế. Phan Thuận An. Nhà xuất bản Thuận Hóa 2001
Huế. Un centre culturel et touristique du Viet Nam. Lê Văn Hảo . Les Presses de l’UNESCO. 1982.
Di Tích Cung Đình Huế. Chu Văn Trứ .Viện văn hóa nghệ thuật Việt Nam.