La baie de Vũng Rô (Tuy Hoà)

 

Vịnh Vũng Rô

Version française

Cách xa thàng phố Tuy Hoà 33 cây số về phía nam, vịnh nầy nằm sát  dưới  chân của  các dãi núi  Đèo Cả, Đá Bia và Hòn Bà từ 3 phía Bắc, Đông và Tây. Chính ở núi Đá Bia nầy mà sau khi đại thắng Chămpa ở thành Đồ Bàn vào năm 1471 mà vua Lê Thánh Tôn chọn làm nơi  ghi khắc trên một đá bia lớn những dòng chữ   phân định ranh giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành. Sự việc nầy được ghi chép trong một số  sách  như Sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, Hoàng Việt dư địa chí của Phan Huy Chú  vân vân.. Chính nơi nầy cũng  được xem là con đường Hồ Chí Minh trên biển và cũng là  nơi vận chuyễn hàng hóa và vũ khí  từ miền Bắc vào miền Nam trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam cùng  các con tàu không số mà lần chót một con tàu  bị khám phá bởi quân địch buộc lòng chính quyền miền Bắc  phải đánh chìm ở khu vực và để tránh tàu lọt vào tay địch. Di tích Vũng Rô đã được xếp vào hạng di tích lịch sử quốc gia vào năm 1997 và trở thành ngày nay là nơi mà người du khách không thể bỏ qua khi đến thành phố Tuy Hoà. Đến đây tụi nầy nhận thấy quang cảnh của nó có phần tựa giống hao hao quang cảnh ở Châu Đốc với  các nhà bè nu ôi cá nằm san sát ở  giữa sông Cửu Long  hay dọc theo bờ  sông. Phần đông cư dân ở đây sống nghề nuôi hải sản nhất là tôm và cá khiến nơi nầy cần phải giải toả từ mười năm nay  nhằm để đáp ứng  với các qui luật bảo vệ môi trường thiên nhiên.  Để ăn cơm trưa ở nơi nầy, tụi nầy phải đi bộ 10 phút một con đường đất mòn trước khi đến một bến  đò mới có thể  lấy các xuồng máy nhỏ và để đi đến một bè nhà hàng. Nơi nầy bạn có thể chọn tôm cá tươi họ có sẵn trong các bồn nước nhân tạo và  họ có thể làm cho bạn tối đa  ba món thức ăn, không tính thêm tiền cơm hay bún t ùy b ạn chọn. Trung bình hai nguời ăn như hai ông cháu tụi nầy cũng là 750 ngàn chưa tính tiền uống nước. Vũng rô là địa danh mà tụi nầy đến tham quan cuối cùng trước khi lên đường đi Bình Định cách xa Tuy Hoà 80 cây số về phía Bắc ngày hôm sau.

Version française

Loin de la ville de Tuy Hoà à 33 kilomètres au sud, cette baie se trouve à proximité du pied des chaînes de montagnes de Đèo Cả, Đá Bia et Hòn Bà. C’est sur cette montagne de Đá Bia qu’après la grande victoire sur le Champa dans la citadelle de Đồ Bàn (Vijaya)  en 1471, le grand roi Lê Thánh Tôn choisit d’inscrire sur une grande stèle les mots délimitant la frontière entre le Đại Việt  (Le Grand Yue)  et le Champa. Cet évènement a été  signalé dans un certain nombre de livres tels que le livre  intitulé « Phủ biên tạp lục » de  l’érudit Lê Qúy Đôn, « Hoàng Việt dư địa chí» de l’historien Phan Huy Chú, etc…. Cet endroit était  également considéré dans le passé comme la route maritime de Hồ Chí Minh. C’était un lieu de transport de marchandises et d’armes du nord au sud  durant la guerre du Vietnam avec des  bateaux non immatriculés mais le fait de laisser un navire découvert pour la dernière par les forces ennemies, a forcé le gouvernement nord-vietnamien à prendre la décision de le couler et de l’éviter aux mains de l’ennemi. Le prestigieux vestige de Vũng Rô a été classé comme un site  historique national en 1997. Il est devenu aujourd’hui un lieu que les touristes ne peuvent ignorer en cas de passage dans la ville de Tuy Hòa. En venant ici, nous avons constaté que son  paysage  ressemblait à peu près  à celui qu’on avait l’occasion d’avoir à Châu Đốc avec des fermes aquacoles sur radeaux situées au milieu du fleuve  Mékong ou le long de sa côte. La majorité des habitants d’ici vivent de l’élevage de fruits de mer, en particulier des homards et des poissons, ce qui conduit à la mise en place d’une politique de décongestion depuis dix ans afin de répondre à la protection de l’environnement  naturel. Pour pouvoir y prendre le déjeuner, nous devions marcher à pied  10 minutes sur un chemin de terre avant d’atteindre un débarcadère où nous pouvions prendre des  petites embarcations à moteur pour  aller jusqu’au restaurant désiré sur radeau. Ici, vous pouvez choisir les poissons frais et les crevettes disponibles dans des réservoirs d’eau artificiels.  Le vendeur peut vous proposer au maximum trois plats différents,  le riz ou les vermicelles de riz étant inclus gratuitement dans le prix. En moyenne, pour deux personnes comme nous,  en prenant un gros poisson, nous devons payer 750 000 piastres sans tenir compte des prix de boissons. Vũng Rô était le dernier endroit que nous avons visité à Tuy Hoà avant de partir demain à Binh Dinh, située à 80 kilomètres au nord de Tuy Hoà.

Tháp Nghinh Phong (Tuy Hoà)

Tháp Nghinh Phong (Tuy Hoà)

Version française

 

Ở phiá  bắc của Tuy Hoà điểm  chót mà tụi nầy đến tham quan đó là tháp làm bê tong cốt thép « Nghinh phong » vì th áp nầy nó nằm ở gần trung tâm thành phố.  Đây là một biểu tượng của du lịch Phú Yên, lấy ý tưởng từ gành đá đĩa và truyền thuyết Âu Cơ Lạc Long Quân  và được  tọa lạc ở ngã tư đường Nguyễn Hữu Thọ và Độc Lập. Nhờ cấu trúc xây dựng, tháp nầy có được ở chính giữa hai cột cao, một cao 35 thước tượng trưng cha Lạc Long Quân và một cột 30 thước tượng trưng Mẹ Âu Cơ. Ngoài ra còn có hai phần, mỗi phần có 50 khối đá liên kề nằm dưới chân của hai cột cao và  tượng trưng các con.  Ở  giữa hai cột tháp cao thì  chỉ có  khoảng trống chứa vừa đủ hai nguời đứng  có thể  tiếp nhận các âm thanh thiên nhiên khác nhau từ gió qua các khe, những bản nhạc không bao giờ lập lại và được  trang bị  bởi một hệ thống chiếu sáng độc đáo kết hợp với công nghệ Tesla, 3D mapping và laser cường độ cao để gây ra các hiệu ứng ánh sáng một khi hoàng hôn phủ xuống ở quảng trường.

 

Galerie des photos

La tour Nghinh Phong (à recevoir le vent) 

Au nord de la ville de Tuy Hoà, le dernier site que nous avons visité est la tour en béton armé « Nghinh Phong ( la tour à recevoir le vent) » car elle est tout proche du centre la ville. C’est le symbole touristique de la ville trouvant toute son inspiration dans  la falaise naturelle Đá Đĩa et la légende de là mère Âu Cơ et du père Lạc Long Quân  et il est à l’intersection de la route Nguyễn Hữu Thọ et celle de l’Indépendance. Grâce à sa structure de construction, la tour  comporte à son milieu deux hautes colonnes: l’une mesurant 35 mètres de haut  représente le père L ạc Long Qu ân et l’autre 39 mètres la mère Âu Cơ. De  plus  elle  possède une cinquantaine de blocs empilés les uns sur les autres aux pieds de ces deux hautes colonnes, représentant les enfants. Entre les deux hautes colonnes se trouve un espace vide pouvant contenir deux personnes debout recevant tous les sons naturels différents issus du vent à travers les interstices, les chansons qui ne se répètent pas et muni d’un système d’éclairage unique  avec la technologie Tesla, une cartographie 3D et un laser de haute intensité  provoquant des effets de lumière à la tombée de la nuit à la place « Nghinh Phong ».

 

Le lagon Ô Loan (Phú Yên)

 

Đầm Ô Loan (Phú Yên)

Version française

Đầm Ô Loan được biết đến nhờ phim « Hoa vàng trên cỏ xanh ». Đầm nầy  tọa lạc tại quốc lộ 1A ở thị trấn Chí Thạnh, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, cách thành phố Túy Hòa khoảng 22 cây số về hướng Bắc, sát chân đèo Quán Cau. Tụi nầy có đến đây dùng cơm trưa. Đầm Ô Loan thường đẹp nhất khi bình minh hay hoàng hôn phủ xuống. Tuy nhiên trong ngày với nét đẹp hoang sơ và yên tĩnh cũng làm tụi nầy thích thú nhất là có thể ăn những món đặc sản vô cùng tươi ngon như sò huyết, tôm cua, mực hào vân vân …trước khi tiếp tục hành trình đến bãi Xép, một tuyệt tác  thơ mộng của thiên nhiên.

Galerie des photos

Le lagon Ô Loan (Phú Yên)

Étant connu pour le film « Les fleurs jaunes sur l’herbe verte », ce lagon est situé sur la route nationale 1A à environ 22 kilomètres de la ville de Tuy Hoa au nord, près du pied du col de Quán Cau, dans la  ville de Chi Thanh, du district Tuy An de la  province de Phú Yên.  Nous étions venus ici pour prendre le déjeuner. Le lagon d’Ô Loan  devient généralement beau et attrayant  à l’aube ou au crépuscule. Cependant, durant la journée,  avec sa beauté sauvage et tranquille, nous avons également apprécié le fait de  pouvoir manger des spécialités fraîches telles que les huîtres, les homards et  crabes, les calmars  etc….. avant de continuer l’excursion vers notre destination préférée « la plage Xép »,  un chef d’œuvre poétique de la nature.

 

Gành Đèn (La falaise du phare)

Gành Đèn (Tuy Hoà) 

Version française

Gành Đèn nầy  không xa Gành  Đá Đĩa nhưng phải đi dọc ven biển nên đường đi nó còn cồng kềnh, đi cần phải cẩn thận và vất vả hơn. Nơi nầy được gọi là Gành Đèn vì nó có ngọn hải đăng,  một loại đèn biển  nhầm để hướng dẫn các tàu bè hoạt động về đêm tại vùng biển Phú Yên. Quang cảnh ở nơi nầy cũng khá đặc biệt nhất là các tảng đá có màu sắc đen pha lẫn lộn với màu hồng sẫm khiến làm cho ai đến đây cũng nhìn thấy lạ mắt và  thích thú nhất là về đêm khi hải đăng đã lên đèn. Tụi nầy không có ở lại đây vì phải đi đến đầm Ô Loan để dùng cơm trưa.

La falaise du phare (Tuy Hoà)

Étant nommée  « Gành Đèn », cette falaise  n’est pas loin de celle des roches prismatiques Đá Đĩa  mais  pour l’atteindre, il faut longer la côte.  Le chemin pris est encore encombrant et pénible. Ce lieu  s’appelle Gành Đèn car on y trouve une tour de phare destinée à  guider les navires s’opérant la nuit dans la zone côtière  de Phú Yên. Son paysage est assez spécial, en particulier ses roches noires volcaniques  mélangées à la couleur rose foncé provoquant l’attention de tous ceux qui y ont été venus et leur joie surtout la nuit lors de l’allumage de la phare. Nous ne sommes pas restés ici longtemps car nous 

Gành Đá Đĩa (Phú Yên)

 

Gành Đá Đĩa (Phú Yên)

Version française

Gành Đá Đĩa  được  tọa lạc tại xã An Ninh Đông, thuộc huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Vào cuối năm 2020, gành nầy đã được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt về giá trị địa chất của nó ở Việt Nam. Tương tự như Giant’s Causeway ở Bắc  Ái Nhĩ Lan hoặc gành Jusangjeolli ở Hàn Quốc, gành  được đặc trưng bởi sự hình thành của 35.000 cột đá bazan với bề mặt gần như bằng phẳng và các hình dạng khác nhau: tròn, ngũ giác, lục giác, đa giác vân vân… xếp chồng lên nhau như các đĩa thức ăn  do sự nguội lạnh của dòng dung nham từ núi lửa phun trào ở cao nguyên Vân Hoà thuộc dãy núi  Trường Sơn, ở 30 cây số qua đường chim bay và do vết nứt tự nhiên đến  từ  các tác đồng co nhiệt khi tiếp xúc với nước lạnh đã có hàng triệu năm trước. Từ xa, người ta có ấn tượng như nhìn thấy một vách đá ven biển có hình dạng giống như một tổ ong kếch xù. Cao khoảng 50 mét và rộng hơn 200 thước, Gành Đá Đĩa đã trở thành điểm đến hàng đầu của tỉnh Phú Yên. Để phát triển du lịch, tỉnh Phú Yên gần đây  không ngần ngại đầu tư 11 tỷ đồng để phát triển khu địa chất này với bãi đậu xe rộng 4800 mét vuông, nhà hàng, cửa hàng lưu niệm vân vân… Thật đáng tiếc cho những ai yêu  thích vẻ đẹp hoang sơ và tự nhiên của địa danh nầy như mình. Đã đến lúc những người yêu thiên nhiên nên đến tham quan gành đá  đĩa vì nó sẽ không còn như vậy trong những năm tới đây.

 

 

Galerie des photos

La falaise des roches  prismatiques (Phú Yên).

Celle-ci est située  dans la commune d’An Ninh Đông, du district de Tuy An de la province Phú yên. Elle a été reconnue fin 2020 comme un site national unique pour ses valeurs géologiques au Viet Nam.  Analogue à la Chaussée des Géants en Irlande du Nord  ou à la falaise de Jusangjeolli de la Corée du Sud, elle se caractérise par la formation de 35.000  colonnes de  roches basaltiques avec des surfaces  à peu près plates et de différentes formes :  rondes, pentagones, hexagones, polygones etc… empilées comme des assiettes les unes sur les autres suite au refroidissement  d’une coulée de lave provenant de l’éruption volcanique du plateau de Vân Hoà de la chaîne anamitique Trường Sơn, à 30 km à vol d’oiseau  et à la fissure naturelle provoquée par des effets de contraction thermique en contact avec de  l’eau froide  il y a des millions d’années.  De loin, on a l’impression de voir un escarpement littoral en forme de nid géant d’abeille.  Haute d’environ 50 m et large de plus de 200 m, la falaise Đá Đĩa  devient depuis lors la destination phare de la province de Phú Yên. Pour développer le tourisme, celle-ci n’hésite pas à investir récemment 11 milliards de đồng pour aménager ce site géologique avec un parc de stationnement de 4800m2, des restaurants, des boutiques de souvenirs etc…C’est un grand dommage pour ceux qui aiment comme moi la beauté sauvage et naturelle de ce site. Il est temps pour les amoureux de la nature de le visiter car il ne sera plus le  même dans les années à venir.

Eglise Mằng Lăng (Tuy Hoà)

 

Nhà thờ Mằng Lăng (Tuy Hoà)
 
Đây là một công trình kiến trúc cổ theo phong cách gôtic được xây cất ở trong địa phận xã An Thạch, huyện Tuy An, cách thành phố Tuy Hòa (tỉnh Phú Yên) hơn 30 cây số về phía bắc dưới thời Pháp thuộc. Chính là một trong những nhà thờ lâu đời nhất ở Việt Nam mà cũng là một điểm tham quan mà người du khách không thể bỏ qua khi đã đến vùng đất xứ “Hoa Vàng Trên Cỏ Xanh”. Phong cách của nó đem lại không những sự sáng sủa nhờ có nhiều cửa sổ mà còn cao vút tạo ra sự tao nhã lạ thường nhất là ở truớc mặt tiền có hai lầu chuông và một hình hoa hồng trên cổng vào. Tại sao gọi gôtic ? Thuật ngữ gôtic dùng bởi người La Mã để ám chỉ dân Goth, dân mọi rợ đến từ phiá Bắc (đó là người Pháp thưở xưa). Tại sao nhà thờ nầy được gọi là Mằng Lăng ? Một cái tên nghe nói đến rất xa lạ nhưng theo các người địa phương ở nơi nầy thì vùng đất nầy một thời có một loại cây có hoa màu tím rất xinh đẹp cùng họ với cây bằng lăng nên vì thế cư dân ở đây gán cho nhà thờ nầy với cái tên bình dị và mộc mạc Mằng Lăng luôn thể. Chính cũng ở đây du khách có thể chiêm ngưỡng ở trong hang động giả tạo của nhà thờ một quyển sách đầu tiên của nước ta mà được giáo sĩ Alexandre de Rhodes soạn ra bằng quốc ngữ với tựa đề là “Phép giảng tám ngày”. Nhà thờ Mằng Lăng làm tụi nầy phải ngẩn ngơ và rạo rực trong lòng không ít khi đến tham quan trước vẽ đẹp duyên dáng được gia tăng thêm bởi ngày tháng với màu xanh xám cũ kĩ của nó.
 
Galerie des photos
mang_lang-2
L’église Mằng Lăng (Tuy hoà)
 
C’est un ancien ouvrage d’architecture gothique construit sur le territoire de la commune d’An Thach, district de Tùy An, à plus de 30 kilomètres au nord de la ville de Tuy Hoà (province de Phú Yên) à l’époque coloniale française. C’est aussi l’une des plus anciennes églises du Vietnam mais elle devient aussi aujourd’hui l’un des sites touristiques importants que les touristes ne peuvent pas ignorer lorsqu’ils ont l’occasion de venir au pays des « fleurs jaunes sur la prairie verte ». Le style gothique apporte non seulement la lumière grâce à un nombre élevé de fenêtres mais aussi l’élévation de la hauteur et la finesse extraordinaire, en particulier sur la façade d’entrée avec deux clocher-tours entourant une rosace au dessus du portail. Pourquoi gothique ? Ce mot est employé par les Romains pour faire allusion à des Goths, des peuplades barbares situées dans le Nord de l’Europe (les Français d’autrefois).
Pourquoi cette église s’appelle-t-elle Mằng Lăng ? Un nom semble très étrange, mais d’après les gens d’ici, cette région possédait autrefois un très bel arbre aux fleurs violettes de la même famille que le lilas des Indes. C’est pour cela qu’ils ont attribué à cette église le nom simple et familier Mằng Lăng. C’est aussi ici que les visiteurs peuvent admirer, dans la grotte artificielle de l’église, le premier livre de notre pays qui a été rédigé par le missionnaire jésuite Alexandre de Rhodes dans la langue nationale romanisée avec le titre « Prédication de huit jours ». L’église de Mằng Lăng nous a rendu hébétés et remplis d’admiration beaucoup devant sa beauté gracieuse renforcée au fil des années par sa vieille couleur gris-verdâtre au moment de notre visite.

Espace touristique Quảng Đức

Không gian du lịch Quảng Đức

Version française

Sáng nay sau khi ăn điểm tâm xong với chú tài xế, tụi nầy mới khởi đầu cuộc tham quan ở phía bắc Tuy Hoà. Trên đường đi có ghé tham quan không gian du lich Quảng Đức được nằm ngay đầu đường rẽ vào lối đi Gành Đá Đĩa. Ngoài nhà của quan Tổng Trấn thì có thêm nhà cổ Quảng Đức và nhà Ô Loan. Nhà ở nơi nầy là một loại nhà trệt truyền thống của cư dân bản địa. Ở đây tụi nầy được xem các di vật, cổ vật và đồ gốm được lưu giữ và minh chứng một vùng đất phồn thịnh. Giá vào cửa là 60.000 đồng nhưng ngược lại có được một tách trà và một bánh đặc sản của vùng Phú Yên trong vườn. Đây là một không gian xưa đầy hoài niệm của một thời xa xôi, một nơi quá thơ mộng và bình yên khiến cũng để lại cho tụi nầy ít nhiều một ấn tượng tuyệt vời.

 

L’espace touristique Quảng Đức.

Ce matin, après notre petit déjeuner avec le chauffeur dans le centre-ville, nous avons commencé notre tour par le nord de la ville de Tuy Hòa. Sur le chemin, nous avons visité l’espace touristique Quảng Đức situé au début de la route qui nous permet de faire la déviation vers le récif de Đá Đĩa. Outre la résidence du gouverneur, cet espace comporte les vieilles maisons Quảng Đức et Ô Loan. C’est un type de maison traditionnelle bâtie au raz du sol par les gens d’ici. C’est ici que nous trouvons des reliques, des antiquités et des poteries bien conservées témoignant de la prospérité de la région. Le billet d’entrée coûte 60.000 piastres. Par contre on a le droit d’avoir une tasse de thé et un petit gâteau, une spécialité de la la région Phú Yên dans le jardin. C’est un espace ancien plein de nostalgie d’une époque lointaine, un lieu si poétique et paisible qu’il nous a également laissé plus ou moins une impression remarquable.

 

Sĩ phu (Version vietnamienne)

Version française

Trẻ hay già, Sĩ phu luôn luôn được coi trọng trong xã hội Việt Nam. Không chỉ được sự tôn trọng mà còn là người được đứng đầu trong hệ thống phân cấp xã hội trước nông dân, thợ thủ công và thương nhân. Đây là lý do tại sao sĩ phu thường không ngừng bị chê cười thông qua các bài ca dao nổi tiếng.
mandarin
Ai ơi chớ lấy học trò
Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm.

Nhờ có sức học cao nên sĩ phu không để bản thân bị  xúc phạm bởi những lời này và cố gắng đáp lại  với vẻ chế nhạo:

Hay nằm đã có võng đào
Dài lưng đã có, áo trào nhà vua
Hay ăn đã có thóc kho
Việc gì mà chẳng ăn no lại nằm.

 

Sự xem xét này có từ thời Khổng giáo được sử dụng như  một mô hình duy nhất trong tổ chức nhà nước. Việc tuyển dụng sĩ phu để làm quan chủ yếu dựa trên các cuộc thi văn học diễn ra cứ ba năm một lần ở ngôi đền lớn của Đức  Khổng Tử hay Văn Miếu. Đền nầy được xây dựng bởi vua Lý Thánh Tôn vào năm 1070 và được chuyển đổi thành  Quốc Tự Giám vào năm 1076. Từ năm 1484 trở đi, tên của sĩ phu  trúng cử trong cuộc thi quan được khắc trên tấm bia với ngày sinh và những công trạng.  Cách thực tiễn này trên tấm bia được bãi bỏ vào năm 1778. Đây cũng là lý do việc trúng cử  trở thành là nỗi ám ảnh trọng đại đối với tất cả các  sĩ phu. Có nhiều người được trúng cử  các cuộc thi với sự dễ dàng đáng ngạc nhiên (Nguyễn Bĩnh Khiêm, Chu văn An hoặc Lê Quí Ðôn). Còn có nhửng người khác bị trượt nhiều lần. Đây là trường hợp của sĩ phu Trần Tế Xương nên trong các bài thơ của ông thường có lời lẽ châm biếm nhức nhối. Sự thất bại vô tận và nhìều  lần nó có ảnh hưởng rất lớn trong các tác phẩm của ông.

ischol

 

Sĩ phu

Ngoài kiến ​​thức văn học, ứng cử viên trúng cử hay quan lại trong tương lai phải có tất cả các khái niệm về thiên mệnh, lòng hiếu thảo, nghĩa tôi với vua và tất cả các giá trị  đem lại sự bền chặt trong tầm nhìn Nho giáo. Được có những khái niệm này, sĩ phu cố gắng tôn vinh sứ mệnh của mình không chỉ cho đến cuối đời mà đôi khi còn phải trả giá bằng mạng sống của mình. Đây là trường hợp của sĩ phu Nguyễn Du. Ông xin  về hưu thay vì phục vụ một triều đại mới sau sự sụp đổ của nhà Lê. Đó cũng là trường hợp của sĩ phu Phan Thanh  Giản quyết định tự đầu độc mình bằng cách  khuyên các con của mình nên về làm rẫy và không nên có một chức vụ nào  trong thời Pháp chiếm đóng Nam Kỳ vào năm 1867. Đối với sĩ phu  Nguyễn Ðình Chiễu, tác giả cuốn sách nổi tiếng « Lục Vân Tiên » và là một trong những nhân vật cao quý nhất của các sĩ phu, ông đã không ngừng hỗ trợ tinh thần cho cuộc kháng chiến trong thời kỳ thuộc địa.

Trong tầm nhìn Nho giáo, sĩ phu cố gắng duy trì bằng mọi giá và áp dụng nghiêm ngặt các nguyên tắc này trừ khi nhà vua không còn xứng đáng để ông tuân lệnh. Trong trường hợp này, sĩ phu yêu chuộng công lý có thể lật đổ nhà vua vì vua không còn giữ được thiên mệnh. Đây là trường hợp của sĩ phu Cao Bá Quát, người  tham gia vào « giặc châu chấu »  lấy danh nghĩa của nhà Lê chống lại vua Tự Đức. Ông  bị bắt và  bị xử tử sau đó vào năm 1854.

Mặc dù  sĩ phu là một trong những cột trụ cơ bản của xã hội mà rất nhiều triều đại Việt Nam dựa vào đó để cai trị đất nước, họ cũng là người bảo vệ chính đáng các giá trị đạo đức trong dó có  năm mối quan hệ của con người (hay Ngũ luân): giữa nhà vua và bầy tôi, giữa cha và con trai, giữa chồng và vợ, giữa người trẻ và người lớn tuổi và giữa họ và bạn bè). Chính nhờ đó có được sự gắn kết chặt chẽ của xã hội và bản sắc dân tộc. Tuy nhiên, qua nhiều thế kỷ, đó là  cũng là yếu tố bất động và chủ nghĩa cô lập văn hóa đã gây ra sự sụp đổ của đế chế nhà Nguyễn từ năm 1840.

Il n'ya pas de galerie sélectionné ou la galerie a été supprimé.

Cứ tiếp tục đánh giá thấp sức mạnh của nước ngoài và duy trì chủ nghĩa bảo thủ, đế chế nầy  đã không thể thích nghi với các cải cách hiện đại hóa cần có được biện hộ  bởi  sĩ phu hiện đại Nguyễn Trường Tộ. Do đó, tư tưởng nầy  trở thành một trở ngại lớn cho bất kỳ sự thay đổi nào mà Việt Nam cần có để đáp ứng lại  tham vọng của các cường quốc nước ngoài.  Chính vì vậy đế chế nầy bị sụp đổ trong cuộc chinh phạt của  người Pháp.

Số sĩ phu có đến 40.000 người trong đó có khoảng 20.000 người có cấp bậc vào năm 1880. Sĩ phu cuối cùng được biết đến với lòng yêu nước và chủ nghĩa cải cách, đó là cụ Phan Chu Trinh (hay thi sĩ Tây Hồ). Ông ủng hộ  các cuộc cải cách và dành sự ưu tiên cho sự tiến bộ chung của xã hội và  cho kiến ​​thức hiện đại  trên việc độc lập chính trị đơn giản. Việc lưu đày ông đến  đảo Côn Lôn (Poulo Condor) và đặc biệt là cái chết của ông vào năm 1926 làm  chấm dứt giấc mơ của tất cả người  dân Việt muốn có được  một nước Việt Nam độc lập với chính sách phi bạo lực và phi thực dân hóa mà học giả đã biện hộ và bảo vệ với niềm tin mãnh liệt  qua nhiều năm tháng. Tâm trạng của ông được thể hiện trong bài thơ của ông có tựa đề là :

Phan Chu Trinh

phanchutrinh

Đèn sáp

Cháy đầu bởi đỡ cơn tăm tối,
Nóng ruột càng thêm sự sáng soi.
Mở cửa vì đâu nên gió lọt,
Trót đêm nhỏ giọt tỏ cùng ai.

cierge

 

Đây là  những giọt nước mắt của một  nhà trí thức Việt Nam lừng lẫy. Nhưng đó cũng là tiếng khóc tuyệt vọng của một nhà yêu nước Việt Nam vĩ đại đối mặt với số phận của đất nước mình.

Thành Thái (Version vietnamienne)

 


Version française

Để tưởng nhớ một người đã cống hiến cả cuộc đời cho đất nước và người dân Việt qua bốn câu thơ Lục Bát:

Ta điên vì nước vì dân
Ta nào câm điếc một lần lên ngôi
Trăm ngàn tủi nhục thế thôi
Lưu đày thể xác than ôi cũng đành

Trước khi trở thành vua Thành Thái, ông được biết đến với cái tên Bửu Lân. Ông là con trai của vua Dục Đức, người đã bị hai vị quan nho giáo sát hại là Tôn Thất ThuyếtNguyễn Văn Tường và cháu trai của danh thần Phan Đinh Bình. Khi ông nầy vụng về chống lại sự lên ngôi của vua Ðồng Khánh bởi chính quyền thực dân, Ðồng Khánh  nhanh chóng trả thù sau đó bằng cách bức tử  một các hèn nhát vị quan này và quản thúc tại gia Bửu Lân và mẹ của ông ta trong nội cung ở điện Trần Võ để tránh mọi mầm mống của cuộc nổi dậy. Bởi vậy sau cái chết của Đồng Khánh và việc lựa chọn con trai của mình làm người kế vị  được thông báo bởi  chính quyền thực dân, mẹ của Bửu Lân rất ngạc nhiên và bật khóc vì bà vẫn còn  bị ám ảnh bởi ý tưởng rằng con trai của bà sẽ  có một  số phận tương tự như chồng bà, vua Dục Đức và cha bà  Phan Đình Bình. Nếu Bửu Lân được chọn thay thế các hoàng tử khác thì chắc chắn điều đó nhờ đến tài khéo léo của Diệp Văn Cương, người tình nhân của cô của ông, công chúa  công nữ Thiện Niệm bởi vì Diệp Văn Cương là thư ký riêng của khâm sứ Trung kỳ Rheinart. Ông nầy  được  khâm sứ giao trách nhiệm tìm kiếm  một thỏa hiệp với triều đình  trong việc chọn người để kế vị vua Ðồng Khánh.

Do đó, ông vô tình trở thành vị vua mới của chúng ta được gọi là Thành Thái. Ông sớm nhận ra quyền lực của  ông rất bị hạn chế.  Hiệp ước Patenôtre không bao giờ được tôn trọng. Ông cũng không có quyền hành chi cả  trong việc cai trị và điều khiển đất nước. Khác với vua Ðồng Khánh, người gần gũi với chính quyền thực dân, ông  thường  kháng  cự  thụ động bằng cách chống đối  triệt để chính sách của chính quyền qua  những nhận xét khiêu khích và  những cử chỉ không thân thiện.  Người ta ghi nhận được một cuộc chạm trán đầu tiên của ông với  khâm sứ Alexis Auvergne ở thời điểm khánh thành cái cầu mới bắc qua sông Hương. Tự hào về  kỳ công kỹ thuật và sự vững chắc của cái cầu, Alexis Auvergne không ngần ngại  trả lời với thái độ ngạo  nghễ: Khi nào cầu nầy sụp đổ thì nước ngài sẻ được độc lập.

Pont Tràng Tiền

© Đặng Anh Tuấn

Để cho thấy sự quan trọng mà chính quyền thực dân đã dành cho cái cầu mới này, họ đặt cho nó một cái tên mới là cầu « Thành Thái ». Điều này khiến làm Thành Thái tức giận vô cùng vì ông viện cớ rằng từ nay mọi người có thể giẫm đạp lên đầu ông ta qua  cái cầu này. Ông cấm mọi người  gọi  cầu nầy bằng tên mới và xúi giục họ sử dụng tên cũ « Tràng Tiền ». Vài năm sau, trong một cơn bão dữ dội năm thìn, cái cầu nầy bị sập. Thành Thái nhanh chóng nhắc nhở lại câu nói của  Alexis Auvergne với sự hài hước  hóm hỉnh của ông. Alexis Auvergne đỏ mặt xấu hổ và buộc phải lánh trốn trước những lời  nói khó chịu này. Sự bất đồng ý kiến với chính quyền càng ngày càng gia tăng với sự thay thế đổi khâm sứ cũ  bởi ông Sylvain Levecque. Ông nầy không lãng phí thời gian nhiều trong việc thiết lập một mạng lưới giám sát chặt chẽ kể từ khi ông biết rằng Thành Thái tiếp tục gần gũi người dân thông qua các cuộc cải cách và việc cải dạng thường xuyên làm người dân  thường. Ông là vị vua đầu tiên của Việt Nam chủ động cắt tóc ngắn và mặc y phục theo phương cách của người châu Âu. Điều này đã làm kinh ngạc rất nhiều quan lại và quần chúng khi ông xuất hiện lần đầu tiên. Nhưng đó cũng là vị vua  đầu tiên khuyến khích người dân nên theo đuổi  học tiếng Pháp. Ông là  người đề xướng ra một số thành tựu kiến ​​trúc (chợ Đông Ba,  Quốc học Huế, bắc cầu Trường Tiền vân vân..). Ông cũng là  vị vua đầu tiên của triều Nguyễn quan tâm nhiều  đến cuộc sống và thấu hiểu những khó khăn hàng ngày của người dân. Được biết, trong một chuyến du ngoạn mà ông được hộ tống, ông gặp một người nghèo trên đường đang gánh nặng các bó củi. Vệ sĩ của ông dự định dọn lối đi cho ông nhưng ông ta ngăn lại mà nói:

Chúng ta  đâu có được làm công dân hay hoàng đế ở đất nước này đâu. Tại sao chúng ta phải đuổi  người ta đi? Trong những chuyến du ngoạn  ở ngoài thành ông thường ngồi trên chiếu, được bao xung quanh bởi dân làng và  tranh luận cùng họ về bất cứ câu hỏi nào. Đó là cũng một trong những chuyến du ngoạn nầy mà ông mang về Tử Cấm Thành một người phụ nữ trẻ tuổi đồng ý kết hôn và trở thành sau đó một cung phi của ông. Thành Thái rất nổi tiếng và xuất sắc trong việc chơi trống. Đây là lý do tại sao ông không ngần ngại  triều tất cả những tay trống giỏi nhất trong cả nước đến nội cung, yêu cầu họ chơi trống giữa triều đình và ban thưởng tiền cho họ rất nhiều. Được biết, một ngày trời đẹp ông bắt gặp một tay trống  hay  thường lắc đầu khi lúc chơi trống. Muốn giúp anh chàng sửa chữa cái thói quen này, ông mới nói đùa với anh chàng nầy: Nếu ngươi tiếp tục chơi theo cách này một lần nữa, trẩm phải mượn đầu của ngươi đấy.Từ đó trở đi, tay trống nầy  không ngừng lo sợ được triệu tập lần sau khiến  lo lắng và chết đi sau đó vì một cơn đau tim. Khi  biết cái chết của tay trống này, Thành Thái rất hối hận, triệu tập gia đình của tay trống và cho họ một khoản tiền lớn để đáp ứng lại nhu cầu hàng ngày. Cách nói đùa, việc ngụy trang thường xuyên, các cử chỉ đôi khi kỳ lạ và khó hiểu của ông khiến chính quyền thực dân  và các quan ở trong triều có cơ hội  để nói là ông bị mất trí.

Tương tự như Tôn Tẩn sống ở thế kỷ thứ nhất của thời Chiến Quốc (Trung Quốc) và nhờ sự giả điên mà đã trốn thoát khỏi người bạn vô ơn Bàng Quyên và đánh bại  Ngụy quốc trong vài năm sau, Thành Thái, thay vì tự bảo vệ mình trước sự vu khống có chủ ý này, cũng nghĩ rằng điên rồ là  một phương tiện che chở và ngăn chặn có hiệu quả nhất chính sách của chính quyền thực dân qua các hành động điên rồ của mình. Nhờ vậy ông mới có thể hành động đằng sau hậu trường bằng cách tuyển mộ một đội quân gồm các cô gái trẻ, vai trò của họ không bao giờ được làm sáng tỏ và  chờ đợi thời điểm thuận lợi cho cuộc nổi dậy nhân dân. Nhưng ông không bao giờ có thời gian để thực hiện tham vọng của mình bởi vì được sự đồng ý của  thượng thư  bộ lai thời đó, Trương Như Cương, chính quyền thực dân đã lợi dụng sự điên rồ trá hình của ông mà buộc ông phải thoái vị và nhờ thượng thư Trương Như Cương lo việc thành lập  một phụ nhiếp chính dưới sự điều khiển của khâm sứ Pháp. Trước sự từ chối quyết liệt của Trương Như Cương,  lòng trung thành  vững chắc của ông đối với triều Nguyễn và yêu sách của ông tôn trọng tuyệt đối hiệp ước Patenôtre, chính quyền thực dân buộc lòng phải chọn một trong những đứa con của Thành Thái lên làm vua được  biết về sau dưới cái tên “Duy Tân”.

Về phần Thành Thái, ông bị  đày đầu tiên đến Vũng Tàu (Cap St Jacques cũ) vào mùa thu năm 1907 và sau đó đến đảo La Réunion cùng con trai của ông, vua Duy Tân vào năm 1916.  Ông chỉ được phép trở về Việt Nam vào năm 1945 sau cái chết của vua Duy Tân và bị cầm giữ lại ở Vũng Tàu miền Nam Việt Nam trong những năm cuối đời.
Có thể nào xem ông  như là kẻ mất trí  khi chúng ta biết rằng qua bài thơ của ông có tựa đề « Hoài Cổ« , Thành Thái rất minh mẫn và không ngừng  bày tỏ nổi đau trước tình trạng nghiêm trọng của  đất nước? Những bài thơ  thất ngôn bát cú như Vịnh trận bão năm thìn hay Cảm hoài không những  thể hiện sự  thông thạo hoàn hảo của ông trong việc sử dụng các quy tắc chặt chẽ và khó làm của thơ ca Việt Nam  mà còn là niềm tự hào của một vị vua yêu nước.  Dù bị lưu đày gần nửa thế kỷ (1907-1954) bởi chính quyền thực dân, ông vẫn tiếp tục thể hiện niềm tin vững chắc trong cuộc giải phóng đất nước và dân tộc. Chúng ta đã cảm nhận được thông qua ông, ở trên mảnh đất huyền thoại  nầy,  sự thành hình các công cụ của cuộc nổi dậy trong tương lai.

Đối với ông, căn bệnh nan y của ông chỉ nhằm mục đích muốn đạt được ý đồ vĩ đại, muốn khôi phục lại  phẩm cách cho người dân Việt chờ đợi từ lâu nay và muốn thể hiện cho hậu thế sự hy sinh và cái giá mà ngay cả người được xem là mất trí  bởi chính quyền thực dân phải trả cho đất nước này với 47 năm lưu đày. Ông không thể nào khôi phục lại được từ « căn bệnh điên » này trong bối cảnh chính trị thời bấy giờ.

Cho đến ngày hôm nay, không có tài liệu lịch sử nào chứng minh sự  điên rồ của vua Thành Thái mà nó chỉ cho chúng ta thấy được sự mất trí của một vị vua vĩ đại vì quá yêu thương đất nước và dân tộc và nổi thống khổ muôn thưở của một nhà yêu nước trước  vận mệnh quốc gia.

 

 

 

 

 

Vọng Các (Venise de l’Orient)

Version française

Nằm ở đồng bằng Menam, thủ đô Bangkok được gọi là « Venise của phương Đông » và được biết đến trong kỷ lục Guinness là thành phố có tên dài nhất thế giới. Nó  nằm cách biển khoảng 30 cây số  và được đặc trưng bởi vô số kênh rạch (khlongs). Chính quyền  đang cố gắng lấp các kênh nầy để  biến thành đường phố nhầm đem lại một giải pháp cho vấn đề giao thông xe hơi ở Vọng Các. Nơi này thông thường hay bị ngột ngạt và chịu rất nặng nề về ô nhiễm hàng ngày. Dân số chính thức của thành phố nầy đã tăng trong năm 2010 lên tới 8.2 triệu dân. ĐếnVọng Các, không có du khách nào quên ghé thăm cung điện hoàng gia nơi mà có nhà cầu nguyện có chứa Đức  Phật Ngọc,  thần phụ hộ của Thái Lan và chùa Wat Traimit với tượng phật vàng nặng đến 5,5 tấn (trong khu Tàu).

Vong_cac

[Trở về trang Thái Lan]