Art
Art des pays d’Asie du Sud ou de la France
Le pavillon Nhật Thành ( Nhật Thành Lâu)
Nhật Thành Lâu
Công trình kiến trúc này được xây dựng vào năm 1841 dưới thời vua Thiệu Trị, lầu gồm có 2 tầng. Nơi nầy là Phật điện của nhà vua trong Tử Cấm Thành hay là kho bạc theo lời của một tác giả. Không ai biết rõ sự bổ dụng nó trong Tử Cấm Thành. Vào thời kỳ cuối nhà Nguyễn thì nơi nầy mẹ vua Bảo Đại, bà Từ Cung và các bà trong nội cung hay thường lui tới đây để đọc kinh, cầu an và niệm Phật. Lầu Nhật Thành bị tàn phá rất nặng nề trong các năm 1947 và năm 1968 nên chỉ còn lại phần nền của công trình. Bởi vậy năm 2018, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã cho phục dựng lại công trình này. Lầu Nhật Thành nằm ở vị trí của Minh Thận Điện thưở xưa, ở phiá đông thì có Càn Thành Điện và phía nam Thái Bình Lâu.
Étant construite en 1841 sous le roi Thiệu Trị, cette œuvre architecturale se composait de 2 étages. Elle n’avait aucune affectation précise dans la cité pourpre interdite. Selon certains, elle était le lieu de vénération du Bouddha par le roi ou la chambre forte royale selon la remarque d’un auteur dans son article. Vers la fin de la dynastie des Nguyễn, la mère du roi Bảo Đại, la reine Từ Cung et d’autres femmes du palais y étaient venues souvent pour lire des sutras, faire des prières ou vénérer Bouddha. Ce pavillon Nhật Thành qui fut gravement endommagé durant les années 1947 et 1968 ne gardait que sa fondation. En 2018, le Centre de conservation des monuments de Huế décida de le restaurer. Étant situé à l’emplacement de l’ancien palais Minh Thận, Nhật Thành Lâu se retrouve à l’est avec le palais privé du roi, Càn Thanh et au sud avec la bibliothèque royale Thái Bình Lâu.
Stèle commémorative (Bia Tưởng Niệm)
Đựợc gọi là Bia Quốc học, công trình nầy xây cất vào đầu thế kỷ 20 để tưởng niệm những binh sỹ người Pháp và Việt đã hy sinh trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất chống Đức. Công trình nầy được chọn theo mẫu thiết kế của họa sỹ xuất sắc trong ngành mỹ thuật đồ họa, Tôn Thất Sa, hậu duệ của chúa Nguyễn Phúc Chu. Đài được khởi công xây dựng ngày 12 tháng 5 năm 1920 và đã có hơn một trăm năm. Theo ông Nguyễn Đình Hoè, đài nầy được dựng theo dáng một bình phong lớn, có mái che, hai tầng và trên nền có bậc thềm. Các hoạ tiết trang trí, kiến trúc, điêu khắc đều mang phong cách kiến trúc của thời Nguyễn. Vì thế nên không bị hũy phá mà còn được sùng tu lại trông rất xinh xắn và hài hoà với quan cảnh hài hoà của sông Hương và trước mặt trường Quốc Học.
Étant appelée maintenant « Bia Quốc Học (Stèle de l’École Nationale)», cette stèle commémorative a été édifiée au début du XXème siècle pour se souvenir des soldats français et vietnamiens morts lors de la Première Guerre mondiale contre l’Allemagne. Ce monument a été sélectionné selon le modèle proposé par l’artiste de son temps dans l’industrie des arts graphiques, Tôn Thất Sa, un descendant du seigneur Nguyễn Phúc Chu. Sa construction commença le 12 mai 1920 et data aujourd’hui plus de cent ans. Selon Mr. Nguyễn Đình Hoè, ce monument a été édifié sous la forme d’un grand paravent doté d’un toit, comportant deux étages et établi sur une plate-forme avec des marches. Les motifs décoratifs, l’architecture et la sculpture sont tous dans le style architectural de la dynastie des Nguyễn. C’est pour cela qu’il n’a pas été détruit. Par contre, sa rénovation récente est superbe et en harmonie avec le cadre enchanteur de la rivière des Parfums et en face de l’École Nationale de Huế.
Phu Văn Lâu (Pavillon des Édits)
Được tọa lạc trước Kỳ Đài trên trục chính của hoàng thành Huế, quay mặt về phía phía nam (sông Hương), Phu Văn Lâu là một ngôi lầu nhỏ hai tầng được xây dựng vào năm 1819 dưới thời ngự trị của vua Gia Long. Lầu nầy có chức năng để niêm yết các chiếu chỉ của vua lúc mới ban hành và để công bố tên của các thí sinh được trúng tuyển trong các khoa thi lớn như thi hội và đình. Chính vì lầu có mang tính các long trọng nên mọi người đến đây phải xuống người và phải quỳ lại trước khi đọc chiếu thư của triều đình. Có bia đá trước lầu « Khuynh Cái Hạ Mã » để nhắc nhở mọi người phải xuống ngựa bày tõ lòng kính cẩn. Năm 1829, nơi nầy được vua Minh Mạng dùng để tổ chức cuộc đấu hổ và voi. Dưới thời vua Thành Thái, sau cơn bão năm Giáp Thìn (1904), Phu Văn Lâu bị phá hủy trầm trọng và được vua Thành Thái hạ lệnh xây dựng lại như xưa. Phu Văn Lâu là một di tích lịch sử vì đây là nơi mà Trần Cao Vân và Thái Phiên giả vờ câu cá để gặp vua Duy Tân bàn việc khởi nghĩa chống Pháp. Khi sự việc bị đổ vỡ không thành, hai ông bị tử hình và vua Duy Tân bị đày qua đảo La Reunion. Bởi vậy ai cũng ngầm ngùi thương xót những nhà yêu nước Việt Nam qua ca dao Huế sau đây nhắc nhở đến sự việc nầy:
Chiều chiều trước bến Văn Lâu,
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm?
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông?
Thuyền ai thấp thoáng bên sông,
Nghe câu mái đẩy, chạnh lòng nước non !
Situé à l’arrière de la tour du mât (Kỳ Đài) sur l’axe principal de la Citadelle Impériale de Huế et en face de la Rivière des Parfums, Phu Van Lau est un pavillon à deux étages construit en 1819 sous le règne de l’empereur Gia Long. Cet édifice a pour fonction d’afficher les arrêtés pris par le roi au moment de leur promulgation et d’annoncer les noms des candidats qui ont été sélectionnés aux concours nationaux et provinciaux. Du fait qu’il avait un caractère solennel, tous ceux qui venaient ici, devaient descendre de cheval et se mettre à genoux avant de lire l’édit impérial. Il y avait une stèle de pierre devant le pavillon « Khuynh Cái Hạ Mã » pour rappeler à chacun de respecter cette modalité. En 1829, ce lieu fut utilisé par le roi Minh Mang pour organiser un combat de tigres et d’éléphants. Sous le règne du roi Thành Thái, lors de la tempête de l’année Giáp Thin (1904), Phu Van Lau a été sévèrement détruit et reconstruit comme avant par le roi. Phu Van Lau est un vestige historique car c’est l’endroit où Trần Cao Vân et Thái Phiên ont fait semblant de pêcher pour rencontrer le roi Duy Tân et engager les discussions du soulèvement contre les autorités coloniales françaises. Lorsque le complot avait échoué, ces deux hommes ont été exécutés et le roi Duy Tân a été exilé à La Réunion. C’est pourquoi cela nous remplit de compassion pour les patriotes vietnamiens avec les vers cités ci-dessous dans une chanson populaire de Huế:
Chiều chiều trước bến Văn Lâu,
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm?
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông?
Thuyền ai thấp thoáng bên sông,
Nghe câu mái đẩy, chạnh lòng nước non !
Le soir devant l’embarcadère Văn Lâu,
Qui est assis, qui pêche, qui est triste, qui est malheureux?
Qui aime, qui ressent, qui se souvient, qui regarde ?
La barque glisse rapidement sur le fleuve,
En entendant le chant éthéré de la batelière, on éprouve un sentiment de tristesse !
Rivière des parfums (Hương Giang)
Sông Hương
Được phát nguyên từ hai nguồn tả và hữu trạch nguyên ở miền thượng lưu của dãy núi Trường Sơn, sông Hương chảy qua kinh thành Huế rồi đến cửa Thuận An trước khi ra biển Đông. Nước sông thường trong với màu xanh ngọc và im phăng phất như mặt hồ ở trong một môi trường thiên nhiên cây cỏ hoa lá khiến tạo ra một vẻ đẹp yên tỉnh và mơ mộng nhất là dọc theo ven sông có một số công trình kiến trúc hài hoà độc đáo như chùa Thiên Mụ, Văn Thánh, điện Hòn Chén và các lăng của các vua triều Nguyễn. Khi còn thuộc vương quốc Chămpa, sông nầy mang tên chi không ai biết cả cho đén ngày nay. Chỉ biết trong « Ô Châu Cận Lục » của Dương văn An ấn hành vào 1555 dưới triều nhà Mạc và « Phủ biên tạp lục » của Lê Quí Đôn vào khoảng năm 1776 thì sông nầy được gọi là Linh Giang. Không biết bao giờ nó lại mang tên sông Huơng. Sở dĩ nó được cư dân gọi với tên sông Hương vì nó có mùi thơm đặc biệt tỏa ra từ thân rễ Thạch xương bổ, một loại thực vật mọc ven hai bờ sông. Sông nầy được vua Thiệu Trị ca tụng về sau trong bài thơ « Hương Giang hiểu phiếm » trong một cuộc dạo thuyền lúc ban mai. Còn người đời gọi sông Hương là « cô gái duyên dáng của miền Trung » hay là nàng thơ của xứ Huế trong một bài viết « Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp … » của nhà nghiên cứu Trần Đức Anh Sơn trong tạp chí 3/5/2021 Heritage (*). Du thuyền trên sông Hương vào một đêm trăng thanh là một cuộc du ngoạn vô cùng thích thú nhất là nếu có dịp được nghe tiếng hò thanh tao của các cô lái đò Huế. Không biết bao giờ sông Hương đã trở thành một nguồn cảm hứng vô tận cho những ai có nổi niềm tâm sự đến đây như Nguyễn Du, tác giả của kiệt tác « Kim vân Kiều » chỉ cần thấy mảnh trăng ở trên sông Hương để gợi lại một mối sầu muôn thưở mà cũng muốn nói lên cái thân phận ở chốn quan trường chỉ biết khom lưng vâng dạ ở chế độ phong kiến.
Hương giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu.
Đào Tấn, một nhà soạn tuồng nổi tiếng Việt Nam dưới thời vua Tự Đức cũng có lần nhắc đến sông Hương qua áng thơ văn bằng chữ Hán:
Cộng ẩm Hương Giang thủy
Vô nhân thức thủy hương
Cùng uống nước sông Hương,
Không có người cảm được mùi thơm của nước.
Còn sĩ phu Cao Bá Quát phấn khởi với hào khí của mình thì nhìn sông Hương như một thanh kiếm dựng đứng giữa trời xanh bao la:
Trường giang như kiếm lập thanh thiên.
Nhà thơ Thu Bồn cũng đã để lại gần đây những câu thơ bất hủ về sông Hương:
Con sông dùng dằng, con sông không chảy,
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu.
Phải người Huế đi đâu cũng vẫn lưu luyến chốn quê nhà cũng nhớ đến sông Hương như người Nam với dòng sông Cửu Long muôn thưở:
Anh đã từng vô Nam ra Bắc
Thấy nhiều nơi cảnh sắc cũng xinh
Đi mô cũng nhớ quê mình
Nhớ Hương Giang gió mát, nhớ Ngự Bình trăng thanh.
(*) Tạp chí của VietnamAirLines 3/5/2021
En provenance de deux sources situées à gauche et à droite dans les hautes régions de la chaîne de montagnes Trường Sơn, la rivière des parfums traverse la cité impériale de Huế puis l’estuaire de Thuận An avant d’entrer dans la mer de l’Est. Son eau est en général limpide, de couleur turquoise et elle est aussi calme comme celle du lac dans un environnement naturel de plantes et de fleurs, ce qui lui confère ainsi une beauté tranquille et rêveuse, en particulier tout le long de la rivière avec un grand nombre d’œuvres architecturales harmonieuses et originales telles que la pagode de la Dame Céleste, le temple du Confucius, le temple du bol de jade (Hòn Chén) en l’honneur de la déesse Thien Y A Na (Mère divine) et les mausolées des rois de la dynastie des Nguyễn. Au temps où elle appartint encore au royaume du Champa, cette rivière dut avoir un nom que personne ne connait pas jusqu’à aujourd’hui.
Selon la monographie intitulée «Ô Châu cận lục» de Dương Văn An publiée en 1555 sous la dynastie des Mạc et l’ouvrage « Phủ biên tạp lục » de l’érudit Lê Quí Đôn vers 1776, cette rivière prit le nom Linh Giang. On ne connait pas exactement l’époque à laquelle elle a été nommée « la Rivière des Parfums ». La raison pour laquelle les gens du lieu l’appellent ainsi est due au fait qu’elle a un arôme particulier émanant du rhizome Thạch xương bồ (Acorus gramineus), une plante qui pousse le long des rives de la rivière. Celle-ci a été évoquée ensuite par le roi Thiệu Trị dans son poème intitulé « Hương Giang hiểu phiếm » lors d’une promenade en bateau le matin.
Pour les gens du coin, elle est appelée « la charmante fille de la région du Centre » ou la muse de Huế dans un l’article intitulé « Le pont Trường Tiền a six butées et douze travées … » du chercheur Trần Đức Anh Sơn dans la magazine Heritage (*)
Une promenade en bateau sur la rivière des Parfums par une nuit au clair de lune est une excursion extrêmement agréable, surtout si on a l’occasion d’entendre le chant éthéré des batelières de Huế. On ne sait pas quand la Rivière des Parfums est devenue une source d’inspiration inépuisable pour ceux qui ont les confidences à révéler en venant ici comme Nguyễn Du, l’auteur du chef-d’œuvre « Kim Vân Kiều »: il suffit de voir un morceau de la lune sur la Rivière des Parfums pour lui rappeler la tristesse sempiternelle et évoquer l’époque féodale où le mandarin n’avait qu’à obéir aux ordres en courbant sa tête.
Hương giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu.
Đào Tấn, un compositeur d’opéra vietnamien très connu sous le règne du roi Tự Đức, a eu l’occasion de mentionner un jour la Rivière des Parfums à travers son poème écrit en caractères chinois:
Cộng ẩm Hương Giang thủy
Vô nhân thức thủy hương.
On boit ensemble l’eau de la rivière des parfums
Aucun ne réussit à déceler le parfum de l’eau.
Quant au lettré Cao Bá Quát, enthousiasmé par sa grandeur d’âme, il considère la Rivière des Parfums comme une épée dressée sous un immense ciel bleu.
Le poète Thu Bồn a laissé récemment des vers immortels sur la Rivière des Parfums:
Con sông dùng dằng, con sông không chảy,
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu.
La rivière hésite, la rivière ne coule pas,
La rivière coule dans le cœur des gens de Huế qui l’affectionnent tellement.
Même les gens de Huế, où qu’ils aillent, sont toujours attachés à leur terre natale et se souviennent aussi de la rivière des Parfums comme les gens du Sud avec l’éternel Mékong:
Anh đã từng vô Nam ra Bắc
Thấy nhiều nơi cảnh sắc cũng xinh
Đi mô cũng nhớ quê mình
Nhớ Hương Giang gió mát, nhớ Ngự Bình trăng thanh.
Vous avez eu l’occasion d’aller au Sud et de venir au Nord
Partout vous avez découvert un magnifique paysage
Peu importe le lieu, il vous manque aussi la terre natale,
la rivière des parfums au vent frais et la montagne Ngự Bình au clair de lune.
Trường Lang ( Long couloir de la cité impériale de Huế)
Trường lang ở Đại Nội
Trong mười năm qua, trung tâm bảo tồn di tích ở Huế đã hồi phục lại trường lang chính với tổng chiều dài chừng 900 mét sau một thời gian bị phá hủy một cách trầm trọng chỉ còn nền móng vì chiến tranh thiên tai và nắng mưa. Không những Trường Lang có vai trò chính là bảo vệ các lối đi qua lại và liên kết với các công trình kiến trúc khác ở Tử Cấm Thành mà nó còn là một hệ thống kiến trúc có mái che rất phong phú đa dạng. Tùy theo vị trí và hình dạng mà nó có tên gọi khác nhau như Trực Lang, Dực Lang và Hồi Lang nhưng Trường lang là tên gọi chung cho các hành lang nầy. Trường Lang được xây dựng hoàn toàn bằng gổ quý và được bài trí rất cầu kỳ. Hệ thống nầy được phục hồi lại gần đây nhất là Dực lang nằm ở phía bên phải điện Cần Chánh và khánh thành vào cuối tháng 4/2016. Một số bức ảnh của các vị vua nhà Nguyễn, 18 bài thơ của vua Minh Mạng và hình ảnh tư liệu về kiến trúc của các cung điện được treo dọc theo ở các hành lang nầy.
Au cours des dix dernières années, le centre de préservation des monuments de Huế a restauré le couloir principal Trường Lang d’une longueur totale d’environ 900 mètres après une période de destruction extrêmement sévère, ne laissant que les fondations dues aux guerres, aux catastrophes naturelles et au changement climatique. Trường Lang a pour rôle principal de protéger non seulement les passages permettant d’être en liaison avec d’autres œuvres architecturales de la Cité Interdite, mais c’est aussi un système architectural riche et diversifié doté de toits de protection. En fonction de l’emplacement géographique du lieu et la forme, il porte différents noms tels que Trực Lang, Dực Lang et Hồi Lang, mais Trường Lang est le nom commun de ces couloirs. Trường Lang est entièrement construit en bois précieux et décoré avec beaucoup de raffinement trouvé dans l’art de Huế. La restauration la plus récente de ce système est Dực Lang située à droite du palais de Cần Chánh et elle a été inaugurée fin avril 2016. Quelques photos des rois de la dynastie des Nguyễn, 18 poèmes du roi Minh Mang et des documents photographiques concernant l’architecture des palais sont accrochés tout le long de ces couloirs.
Le belvédère des cinq phénix (Lầu Ngũ Phụng)
Lầu ngũ phụng là một trong những công trình kiến trúc bậc nhất của triều đại nhà Nguyễn ở Tử Cấm Thành. Nhìn tổng thể thì lầu Ngũ Phụng chỉ có 5 dãy lầu mang hình tượng 5 con chim phượng hoàng đậu xoè cánh thân thiết bên nhau. Đây là hình tượng mang tính cách liên tưởng đến sự hòa hợp âm dương nói lên thời hoàng kim của nước Đại Nam hùng mạnh của vua Minh Mạng. Phụng là loại chim chỉ xuất hiện ở thời bình chớ thời loạn nó ẩn dật trong truyền thuyết. Lầu ngũ phụng thật sự là một tổ hợp kiến trúc được dựng lên bằng gỗ lim và được xem như một lễ đài dùng để tỗ chức các cuộc lễ hàng năm của triều đình như lễ Truyền Lô (nêu danh các sĩ phu trúng tuyển trong các khoa thi Hội, thi Đình), lễ Ban Sóc (lễ ban lịch năm mới), lễ Duyệt Binh v.v…Nó là phần trên của tổng thể kiến trúc Ngọ Môn mà phần dưới là nền đài cao gần 6 thước, rộng 27 m và dài 58 m, được xây trên mặt bằng chữ U với phần lõm quay ra ngoài, vật liệu dùng là gạch vồ, đá thanh và đồng thau khiến hai phần trên dưới được ăn khớp nên có sự hài hoà từ tổng thể đến chi tiết theo sự nhận xét của nhà nghiên cứu Phan Thuận An. Chính ở hệ thống nền đài (thân cổng) nầy được thấy có 3 lối đi vào song song nhau: lối chính giữa dành cho vua, Tả Giáp Môn và Hữu Giáp Môn dành cho các quan văn võ đi theo trong đoàn ngự đạo. Còn có thêm hai lối bên hông nằm ở trong lòng của hai cánh chữ U gọi là Tả Dịch Môn và Hữu Dịch Môn dành cho lính tráng và voi ngựa. Tất cả các lối đều có cánh gỗ kiên cố và sơn màu đỏ thẫm chỉ trừ cửa chính giữa thì sơn màu vàng, màu dành cho Thiên Tử (con của Trời). Ở mặt tường trên vòm cửa giữa có gắn hai chữ Hán lớn: “Ngọ Môn”. Ngọ Môn tức là là cổng chính nằm ở phiá nam. Theo Phan Thuận An , chữ ngọ dùng ở đây có ý nghĩa mang tính không gian chớ không phải thời gian. Bởi vậy là lúc mặt trời đứng bóng nên không thể dịch Ngọ Môn bằng « Porte du midi » hay « Noon time gate » . Lầu Ngũ Phụng có hai tầng, tầng dưới thì để trống đón gió phô ra một hệ thống 100 cột thanh thoát tựa như các chân phụng và sơn màu đỏ. Chính ở tầng nầy có một một toà nhà giữa có hệ thống cửa gương ở mặt trước và măt sau là nơi được vua ngự tọa để xem duyệt binh khi có các cơ hội quan trọng. Còn tầng trên thì các gian nhà làm theo lối nhà giường phố biển ở miền trung thường gọi là nhà cổ diêm (*). Mặt trước của dảy gian nhà ở ô giữa thì dùng cửa lá sách còn xung quanh thì nong ván nhưng có thấy nhiều nơi có cửa sổ với các hình dạng khác nhau: hình cái quạt, hình tròn, hình cái khánh v. v. Tầng trên gồm có 9 nóc nhà, giáp các mái lại với nhau thành một dãy 5 lầu gác chạy dài theo chiều ngang và hai dãy khác bên hông, mỗi dãy hai lầu nhô ra phía trước. Toàn bộ mái nhà của lầu Ngũ Phụng đều lợp bằng các gói ống tráng men màu xanh lục chỉ trừ bộ mái ở dãy ô giữa thì màu vàng óng ả.
Các bờ nóc, bờ dải và góc mái đều được trang trí rất tỉ mỉ và lộng lẫy với các hình rồng, dơi, hưu, vịt , mây cụm hay hoa lá bốn mùa (lan, mai, cúc, trúc). Bởi vậy để nhắc đến cổng thành Ngọ Môn, mới có hai câu thơ dân gian như sau trong ca dao:
Ngọ Môn năm cửa chín lầu
Một lầu vàng, tám lầu xanh, ba cửa thẳng, hai cửa quanh.
Triết lý Âm Dương Ngũ Hành nó được gắn bó mật thiết hằng ngày với đời sống của người dân Việt nên những con số âm dương cũng đươc áp dụng một cách chính xác ở trong kiến trúc Ngọ Môn chẳng hạn số 5, số 9 và số 100. Ngọ Môn có 5 con phụng xoè cánh, 5 lối vào, 9 mái nhà và 100 cây cột nhà ở lầu Ngũ Phụng. Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An thì con số một trăm cây cột (100= 55+45) có được là từ các số cộng lại tìm thấy ở trong Hà Đồ (55) và Lạc Thư (45) của Kinh Dịch. Đây không phải là ý kiến của chuyên gia Liễu Thượng Văn. Con số một trăm (100) thể hiện sức mạnh trăm họ hay bách tính và phản ảnh quan điểm dân vi bản (lấy dân làm gốc) trong việc cai trị của triều đại nhà Nguyễn. Nhưng dù thế nào đi nửa người xưa đã có ý gửi gắm nhiều ẩn số và ẩn ý sâu xa trong công trình kiến trúc nầy qua lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Ngọ môn được khởi công xây dựng lại vào năm Minh Mạng thứ 14 (1833). Đây không những là một kiệt tác trong nghệ thuật kiến trúc ở cố đô Huế mà Ngọ Môn còn mang đậm tính bản địa và bản sắc của dân tộc Việt.
(*) khoảng cách giữa hai mái gọi cổ diêm.
Le belvédère des Cinq phénix est l’une des œuvres architecturales les plus remarquables de la dynastie des Nguyễn dans la Cité interdite. Dans l’ensemble, on le voit comme un groupement de cinq rangées de dépendances à l’image de 5 phénix juchés intimement avec leurs ailes déployées. C’est une image que l’on aime associer à l’harmonie trouvée dans le Ying et le Yang et à l’âge d’or du puissant royaume Đại Nam dirigé par le roi Minh Mạng. Le phénix est un oiseau qui n’apparaît qu’en temps de paix et se cache en cas de troubles dans les légendes. Le belvédère des Cinq Phénix est en fait un complexe architectural construit en bois de fer et il est utilisé comme la tribune de la cour royale destinée à organiser des cérémonies annuelles telles que la cérémonie Truyền Lô (nomination des lettrés dans les concours royaux et provinciaux), la cérémonie Ban Sóc (publication du nouveau calendrier lunaire), cérémonie Duyệt Binh (défilé militaire) etc. Il est situé dans la partie supérieure du complexe architectural Ngọ Môn tandis que la partie inférieure de ce dernier est un puissant massif en maçonnerie environ de 6 mètres de haut, 27 m de large et 58 m de long et construite sur une surface en forme de U avec la partie concave tournée vers l’extérieur. Le matériau utilisé est en brique, en pierre « thanh » et en laiton. Selon l’observation du chercheur Phan Thuận An, ces deux parties sont bien engrenées dans une cohésion parfaite, de la totalité de l’ensemble jusqu’aux détails.
C’est dans la partie inférieure du complexe architectural Ngọ Môn qu’on trouve trois portes parallèles dont celle située au milieu est réservée uniquement au roi tandis que les deux autres Tả Giáp Môn et Hữu Giáp Môn sont pour les mandarins faisant partie du cortège royal. Il y a aussi deux autres portes latérales situées au cœur des deux ailes en forme de U appelées Tả Dich Môn et Hữu Dich Môn. Celles-ci sont destinées aux soldats et aux éléphants. Toutes les portes ont des battants en bois massif et peints en vermillon, à l’exception de la porte réservée au roi peinte en jaune. C’est la couleur préférée par le Fils du Ciel. Il y a deux grands caractères écrits en caractères chinois: « Ngọ Môn » sur la façade de la porte principale pour signifier que celle-ci est orientée dans la direction sud. Selon Phan Thuận An, le mot Ngọ utilisé porte une signification liée à la notion d’espace mais il n’a aucun rapport avec la notion de temps comme tant de gens ont mal traduit Ngọ Môn par la « Porte du midi » ou « Noon time gate ». Le belvédère des Cinq Phénix a deux étages. Son étage inférieur est laissé presque vacant à part le système de 100 colonnes visiblement dégagées et ressemblant aux pattes des phénix et peintes en rouge. C’est dans cet étage qu’on trouve un bâtiment ayant un système de portes miroirs établi sur sa façade extérieure pour permettre au roi de voir le défilé militaire à des occasions importantes. Quant à son étage supérieur, on trouve les dépendances construites dans le style d’architecture « cổ diêm (*) trouvé fréquemment dans le centre du Viet Nam. Les fenêtres de devant de la rangée des dépendances située dans la partie centrale ont des persiennes facilitant la vue sur l’extérieur. D’autres fenêtres sont présentes aux alentours sous des formes très variées: éventail, cercle, gong etc. L’étage supérieur se compose de 9 toits liés ensemble en une rangée horizontale de 5 dépendances et deux rangées latérales dont chacune comporte deux appentis faisant saillie vers l’avant.
L’ensemble de la toiture du belvédère Ngũ Phụng est recouvert de tuiles Yin et Yang vertes à l’exception de la rangée de la toiture de la partie centrale avec des tuiles Yin et Yang jaunes. Les arêtes, les rives et les coins de la toiture sont tous magnifiquement et minutieusement décorés avec des figurines de dragons, chauves-souris, cerfs, canards, bancs de nuages ou de fleurs des quatre saisons (orchidée, abricot, chrysanthème, bambou). Pour évoquer la porte méridienne Ngọ Môn, il y a deux vers la décrivant dans la chanson populaire:
Ngọ Môn năm cửa chín lầu
Một lầu vàng, tám lầu xanh, ba cửa thẳng, hai cửa quanh.
Le complexe architectural Ngọ Môn comporte cinq portes dont trois sont droites et deux latérales et neuf dépendances dont l’une est en jaune et les huit autres en vert.
La théorie du Yin et du Yang continue à être liée intimement à la vie journalière des Vietnamiens de sorte que les chiffres du yin et du yang sont également appliqués dans l’architecture de Ngọ Môn, tels que les nombres 5, 9 et 100. Le complexe Ngọ Môn a 5 phénix aux ailes déployées, 5 entrées, 9 toits et 100 colonnes du pavillon Ngũ Phụng. Selon le chercheur Phan Thuan An, ce nombre de cent colonnes correspond bien à la somme (100= 55+45) des nombres trouvés dans le plan du fleuve Hà Đồ (55) et l’Ecrit de la rivière Luo (Lạc thư cửu tinh đồ) (45) du Yi King. Ce n’est pas l’avis d’un autre spécialiste Liễu Thượng Văn. Selon ce dernier, cela représente la force de 100 familles ou du peuple (bách tính) et reflète bien la notion dân vi bản (prendre le peuple comme base) dans la gouvernance de la dynastie des Nguyễn. Mais de toute façon, les Anciens avaient l’intention de vouloir transmettre ainsi de nombreuses inconnues et des arrière-pensées dans cette œuvre architecturale à travers la théorie du Yin et Yang et des cinq éléments. Le complexe architectural Ngọ Mộn commença à être reconstruit sous sa forme actuelle par le roi Minh Mang (1833). Ce n’est pas seulement un chef-d’œuvre de l’art architectural de l’ancienne capitale de Huế mais le complexe Ngọ Môn est porteur de caractéristiques locales et et de l’identité du peuple vietnamien.
(*) écart entre les deux toitures appelé (cố diêm)
Tài liệu tham khảo ( Références bibliographiques)
Kiên trúc cố đô Huế. Monuments of Huế. Phan Thuận An. Nhà xuất bản Thuận Hóa 2001
Huế. Un centre culturel et touristique du Viet Nam. Lê Văn Hảo . Les Presses de l’UNESCO. 1982.
Di Tích Cung Đình Huế. Chu Văn Trứ .Viện văn hóa nghệ thuật Việt Nam.
Palais An Định (Cung An Định, Huế)
Palais An Định
Đây là biệt cung của vua Khải Định khi ngài còn là Phụng Hóa Công Nguyễn Phúc Bửu Đảo dưới thời ngự trị của vua Thành Thái, cha của vua Duy Tân. Được toa lạc bên bờ sông An Cựu, nay là số 97 đường Phan Đình Phùng ở thành phố Huế. Cung nầy được ngài dùng tiền riêng tư để xây cất làm nơi thư giản, tiếp khách và tổ chức các bữa tiệc hoàng gia. Cung nầy trở thành từ 1922 tiềm đế của Đông Cung Thái tử Vĩnh Thùy tức là vua Bảo Đại về sau. Công trình nầy được thực hiện bởi các tay nghề kỹ xảo trong số đó có một người thợ mộc tên là Nguyễn Văn Khá và một họa sĩ nổi tiếng Lương Quang Duyệt. Cổng chính được trang trí bằng đồ sành theo phong cách baroque. Được thấy ở giữa gờ của mái cổng chính có sự kết hợp lưỡng long chậu nhật đi cùng với mô típ mây và có luôn cả các cột trụ kiểu Cô ranh tơ trong kiến trúc Hy Lạp. Ngoài cổng chính, quần thể kiến trúc còn có đình Trung Lập hình bát giác, lầu Khải Tường, nhà hát Cửu Tư Đài, chuồng thú, hồ nước vân vân…
Lầu Khải Tường gồm có ba tầng được xây dựng trên nền đất có diện tích 745 mét vuông và được trang trí rất công phu ở mặt tiền với các mô tip như bắc đẩu bội tinh, thiên thần, bát bửu hoa văn vân vân… theo phong cách kiến trúc tân– cổ điển hỗn hợp cùng các họa tiết thường được thấy ở trong văn hóa phương Đông như mô típ tứ linh (rồng, lân, qui, phụng). Còn bên trong của lầu đài thì ngoài sáu bích họa lộng lẫy kiêu sa sơn dầu treo trên tường, còn thấy ở giữa đại sảnh có một tượng đồng của hoàng tử Vĩnh Thùy (tức là vua Bảo Đại) dưới ngọn đèn chùm đẹp lung linh. Các họa tiết hoa văn ở nơi nầy đều rất hiện đại trên vách tường và thể hiện phong cách phương Tây khiến làm du khách phải ngẫn ngơ không ít trước cái đẹp lạ thường hiếm thấy ở các cung điện nhà Nguyễn. Nhưng rất tiếc ngày nay toà nhà nầy bị hư hỏng trầm trọng bởi chiến tranh kéo dài từ bao nhiêu năm. Vả lại sau năm 1975 nó còn là nơi khu nhà ở tập thể dành cho các gia đình của các giáo sư ở đại học Huế. Từ năm 2002, chính quyền Việt Nam phải nhờ đến sự hổ trợ tài chánh và kỹ thuật của nuớc Cộng hoà liên bang Đức cùng các chuyên gia của hội đoàn trao đổi văn hóa Leibniz để phục hồi lại cho cung An Định. Chính tại nơi nầy năm 1945, sau khi vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị và trao lại ấn kiếm cho cách mạng tháng 8, mẫu hậu Từ Cung tức là mẹ của vua Bảo Đại cùng Nam Phương hoàng hậu và các con cháu hoàng thất phải dọn ra đây ở. Cung An Đình được xem ngày nay là một di tích lịch sử của một quá khứ đầy biến động mà du khách không thể bỏ qua cũng như Tử Cấm Thành khi đến tham quan Huế.
C’est la résidence privée du roi Khải Định à l’époque où ce dernier était encore Phụng Hóa Công Nguyễn Phúc Bửu Đảo sous le règne du roi Thành Thái, père du roi Duy Tân. Situé sur la rive du fleuve An Cựu, ce palais se trouve aujourd’hui au numéro 97 de la rue Phan Đình Phùng dans la ville de Huế. Il a été construit par lui-même avec son propre argent pour être à la fois un lieu destiné à se détendre, recevoir des invités et organiser des banquets royaux. Il devint à partir de 1922 la résidence du prince héritier Vĩnh Thùy, le futur roi Bảo Đại plus tard. Cet ouvrage architectural a été réalisé par des artisans qualifiés, parmi lesquels figuraient un menuisier nommé Nguyễn Văn Khá et un peintre connu sous le nom Lương Quang Duyệt. Le portail principal est orné d’éléments en céramique dans un style baroque. Au centre du faîte arêtière de ce dernier, on voit apparaître la combinaison d’un couple de dragons rendant leurs hommages au soleil reposant sur un lit de nuages et des piliers corinthiens dans l’architecture grecque. À part ce portail principal, ce complexe architectural comporte un pavillon octogonal Trung Lập dans la cour d’entrée, un palais Khải Tường à trois étages, un théâtre Cửu Tư Đài, un parc d’animaux, un lac etc.
Etant édifié sur le terrain d’une superficie de 745 m2, ce palais a été bien décoré laborieusement sur sa façade extérieure, des motifs tels que les insignes de la légion d’honneur, les anges, les 8 joyaux agrémentés de fleurs etc. dans un style architectural néo-classique, mélangés avec ceux que l’on retrouve couramment dans la culture orientale comme les quatre animaux sacrés (dragon, licorne, tortue, phénix) etc. À l’intérieur du palais, outre les six superbes fresques murales peintes à l’huile, on trouve dans le hall principal une statue en bronze du jeune prince Vĩnh Thùy (Bảo Đại) sous un magnifique lustre scintillant. Les motifs de décoration y sont très modernes dans un style européen, ce qui ne manque pas surprendre les visiteurs en les amenant à découvrir l’exceptionnelle beauté rarement trouvée dans les palais de la dynastie des Nguyễn. Mais c’est regrettable de voir aujourd’hui ce bâtiment dans un état de délabrement avancé en raison de la guerre qui a duré pendant de nombreuses années. De plus, après 1975, il devint l’endroit où étaient logées plusieurs familles des enseignants de l’université de Hue. Depuis 2002, le gouvernement vietnamien dût compter sur le soutien financier et technique de la République fédérale d’Allemagne et des experts de l’association d’échanges culturels de Leibniz pour restaurer le palais An Định. C’était en 1945 qu’après l’abdication du roi Bảo Đại et sa remise du sceau et de l’épée à la révolution d’août, la reine mère Từ Cung (mère du roi Bảo Đại) et la reine Nam Phuong accompagnées par leurs descendants déménagèrent ici. Le palais An Dinh est considéré aujourd’hui comme un vestige historique d’un passé tumultueux que les touristes ne peuvent pas ignorer comme la Cité Interdite lors leur visite à Hué.
Pont doré de Ba Na Hills (Cầu vàng)
Được thiết kế bởi công ty TA Landscape Architecture có trụ sở ở TP Hồ Chí Minh và khánh thành vào tháng 6 năm 2018 ở địa danh Bà Nà Hills, cái cầu vàng nầy nó được dựng lên như một dải lụa đào màu vàng xinh đẹp nhờ hai bàn tay nâng đở giữa một môi trường thiên nhiên. Không những nó trở thành tuyệt tác ở nơi nầy và thu hút rất đông du khách ở trong và ngoài nước mà nó còn được nhắc đến trong tờ báo Guardian của Anh quốc và các báo thiết kế như Design Boom, Street Art Globe vân vân.. Nó có chiều dài là 150 thước cùng với 8 nhịp cầu mà nhịp lớn nhất là 21,2 thước và có 7 trụ.
Étant conçu par TA Landscape Architecture, basé actuellement à Hô-Chi-Minh-Ville et inauguré en juin 2018 à Ba Na Hills, ce pont doré est construit comme un long ruban de soie doré soulevé par les deux mains dans un environnement naturel. Il est devenu non seulement un chef-d’œuvre réussissant à séduire de nombreux touristes nationaux et étrangers mais il est également mentionné dans le journal britannique Guardian et dans les journaux de design tels que Design Boom, Street Art Globe etc.. Il est long de 150 mètres avec 8 travées dont la plus grande est de 21,2 mètres et a 7 piliers.
Being designed by TA Landscape Architecture, currently based in Ho Chi Minh City and inaugurated in June 2018 in Ba Na Hills, this golden bridge is built as a long golden silk ribbon lifted by the two hands in a natural environment. It has not only become a masterpiece succeeding in seducing many domestic and foreign tourists, but it is also mentioned in the British Guardian newspaper and design journals such as Design Boom, Street Art Globe etc.. It is 150 meters long with 8 spans, the largest of which is 21.2 meters and has 7 pillars.
Hôi An et son secret jardin (Vườn hoa bí mật)
Vườn hoa bí mật
Dưới trời nóng gay gắt ở phổ cổ lúc 12 giờ, tụi nầy tìm được trong một ngõ hẻm một quán ăn được gọi là « khu vườn bí mật (Secret garden) ». Thật là tuyệt vời với một bầu không khí yên tĩnh. Các thức ăn cũng ngon miệng. Cách trang trí vườn hoa rất thơ mộng khiến tụi nầy cũng không ngờ ở phố cổ Hôi An có một không gian ẩm thực xinh xắn như thế.
A 12 heures, sous le soleil accablant dans le vieux quartier de Hội An, nous avons trouvé par hasard dans une ruelle un restaurant appelé « Secret Garden ». C’est merveilleux pour nous de trouver une ambiance parfaitement calme. Les plats sont également délicieux. La décoration du jardin fleuri est si poétique que nous ne nous attendons pas à ce qu’il y ait un si bel espace culinaire dans le vieux quartier de Hội An.