Villes
Villes du Vietnam ou du monde
Mộc Châu (Plantation de thé)
Plantation de thé
- Cascade des Fées (Thác Nàng Tiên)
- Forêt des pins Bản Áng (Rừng thông Bản Áng)
Thác Dãi Yếm (Casacade Dãi Yếm, Mộc Châu)
Thác Dải Yếm
Thác Dải Yếm được hình thành từ hai khe nước bo Tá Cáu và bo Co Lắm ở bản Vặt cách thác 600m về phía tay trái và cùng nằm trên QL43. Ngày xưa, nhiều người còn gọi thác này là Thác Nàng, Thác Bản Vặt, tuy nhiên cái tên được nhiều người biết đến nhất vẫn là Thác Dải Yếm. Cái tên thác đã gắn liền với sự tích về hai cô thôn nữ dũng cảm cứu chàng trai khỏi nước lũ. Nằm cách trung tâm thị trấn Mộc Châu khoảng 8km, làng nầy của người Thái được toạ lạc cách suối 600 thước bên tay trái và trên quốc lộ 43. Thác Dải Yếm còn là ngọn thác lớn thuộc địa phận xã Mường Sang, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
La cascade Dãi Yếm se forme lors de la rencontre de deux cours d’eau, Bó Co Lắm et Bo Tá Cháu dans le village de Vặt. Loin du centre-ville de Mộc Châu à peu près de 8km, ce village des Thaïs est situé à 600 m de la cascade sur le côté gauche et sur la route nationale 43. Autrefois, beaucoup de gens appelaient également cette cascade Thác Nàng, Thác Bản Vặt, mais le nom le plus célèbre est toujours la cascade Dãi Yếm dont le nom est lié étroitement à l’histoire de deux courageuses villageoises ayant sauvé un garçon lors d’une inondation. La cascade Dãi Yếm est une chute d’eau importante appartenant à la commune de Mường Sang du district de Mộc Châu, dans la province de Sơn La.
Quartier piétonnier (Huế)
Khu phố Tây ba lô
Cũng như mọi thành phố, Huế cũng có phố đi bộ hay thường gọi là khu phố Tây ba lô vì người Âu Châu hay thường cư trú ở nơi nầy trong thời gian viếng thăm cố đô Huế. Cũng có đường mang tên Phạm Ngũ Lão như ở thành phố Saïgon nhưng không có náo nhiệt và đông đảo người chi cho lắm. Tuy nhiên nó là nơi mà người du khách có thể tìm kiếm các trò vui chơi và giải trí về đêm giữa lòng cố đô trầm tư và sâu lắng.
Comme toutes les villes du Vietnam, Huế possède également le quartier des routards européens car ils y résident fréquemment lors de leur visite dans l’ancienne cité de Huế. C’est étonnant de trouver une rue nommée Phạm Ngũ Lão comme celle de la ville de Saïgon, mais elle n’est pas assez animée et bondée de gens. Cependant, c’est un endroit où les touristes peuvent trouver des divertissements et peuvent trainer une vie nocturne au cœur de l’ancienne capitale calme et contemplative.
Le pavillon Nhật Thành ( Nhật Thành Lâu)
Nhật Thành Lâu
Công trình kiến trúc này được xây dựng vào năm 1841 dưới thời vua Thiệu Trị, lầu gồm có 2 tầng. Nơi nầy là Phật điện của nhà vua trong Tử Cấm Thành hay là kho bạc theo lời của một tác giả. Không ai biết rõ sự bổ dụng nó trong Tử Cấm Thành. Vào thời kỳ cuối nhà Nguyễn thì nơi nầy mẹ vua Bảo Đại, bà Từ Cung và các bà trong nội cung hay thường lui tới đây để đọc kinh, cầu an và niệm Phật. Lầu Nhật Thành bị tàn phá rất nặng nề trong các năm 1947 và năm 1968 nên chỉ còn lại phần nền của công trình. Bởi vậy năm 2018, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã cho phục dựng lại công trình này. Lầu Nhật Thành nằm ở vị trí của Minh Thận Điện thưở xưa, ở phiá đông thì có Càn Thành Điện và phía nam Thái Bình Lâu.
Étant construite en 1841 sous le roi Thiệu Trị, cette œuvre architecturale se composait de 2 étages. Elle n’avait aucune affectation précise dans la cité pourpre interdite. Selon certains, elle était le lieu de vénération du Bouddha par le roi ou la chambre forte royale selon la remarque d’un auteur dans son article. Vers la fin de la dynastie des Nguyễn, la mère du roi Bảo Đại, la reine Từ Cung et d’autres femmes du palais y étaient venues souvent pour lire des sutras, faire des prières ou vénérer Bouddha. Ce pavillon Nhật Thành qui fut gravement endommagé durant les années 1947 et 1968 ne gardait que sa fondation. En 2018, le Centre de conservation des monuments de Huế décida de le restaurer. Étant situé à l’emplacement de l’ancien palais Minh Thận, Nhật Thành Lâu se retrouve à l’est avec le palais privé du roi, Càn Thanh et au sud avec la bibliothèque royale Thái Bình Lâu.
Stèle commémorative (Bia Tưởng Niệm)
Đựợc gọi là Bia Quốc học, công trình nầy xây cất vào đầu thế kỷ 20 để tưởng niệm những binh sỹ người Pháp và Việt đã hy sinh trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất chống Đức. Công trình nầy được chọn theo mẫu thiết kế của họa sỹ xuất sắc trong ngành mỹ thuật đồ họa, Tôn Thất Sa, hậu duệ của chúa Nguyễn Phúc Chu. Đài được khởi công xây dựng ngày 12 tháng 5 năm 1920 và đã có hơn một trăm năm. Theo ông Nguyễn Đình Hoè, đài nầy được dựng theo dáng một bình phong lớn, có mái che, hai tầng và trên nền có bậc thềm. Các hoạ tiết trang trí, kiến trúc, điêu khắc đều mang phong cách kiến trúc của thời Nguyễn. Vì thế nên không bị hũy phá mà còn được sùng tu lại trông rất xinh xắn và hài hoà với quan cảnh hài hoà của sông Hương và trước mặt trường Quốc Học.
Étant appelée maintenant « Bia Quốc Học (Stèle de l’École Nationale)», cette stèle commémorative a été édifiée au début du XXème siècle pour se souvenir des soldats français et vietnamiens morts lors de la Première Guerre mondiale contre l’Allemagne. Ce monument a été sélectionné selon le modèle proposé par l’artiste de son temps dans l’industrie des arts graphiques, Tôn Thất Sa, un descendant du seigneur Nguyễn Phúc Chu. Sa construction commença le 12 mai 1920 et data aujourd’hui plus de cent ans. Selon Mr. Nguyễn Đình Hoè, ce monument a été édifié sous la forme d’un grand paravent doté d’un toit, comportant deux étages et établi sur une plate-forme avec des marches. Les motifs décoratifs, l’architecture et la sculpture sont tous dans le style architectural de la dynastie des Nguyễn. C’est pour cela qu’il n’a pas été détruit. Par contre, sa rénovation récente est superbe et en harmonie avec le cadre enchanteur de la rivière des Parfums et en face de l’École Nationale de Huế.
Chùa Thiên Mụ (Pagode de la Dame céleste)
Trước khi chúa Tiên Nguyễn Hoàng xây dựng chùa Thiên Mụ hay Linh Mụ vào năm 1601 ở trên đồi Hà Khê nằm phiá tã ngạn sông Hương thì chính ở nơi nầy đã có trước đó một nền thảo am của những người đến khai khẩn vùng đất nầy lập lên tên là Thiên Mỗ. Chuyện nầy được ghi nhận lại bởi một danh sỹ Dương Văn An đời nhà Mạc có công trạng viết về núi sông, thành trì, phong tục ở miền Thuận Hoá (Bình Trị Thiên và Bắc Quảng Nam) trong Ô Châu Cận Lục vào 1553. Như vậy vùng đất nầy thuộc về dân tộc Chàm vì các di tích thành Lồi của họ được tìm thấy gần đây chỉ cách thành phố Huế có 4 cây số. Khi Nguyễn Hoàng được vua Lê Anh Tông làm Tổng Trấn Tướng Quân kiêm quản cả Quảng Nam và Thuận Hóa ở Đàng Trong thì ông đã có ý định muốn làm nên nghiệp lớn. Lúc đầu ông đóng quân ở (phiá bắc của Quảng Trị ngày nay). Có một lần ông đi dò dẫm các vùng lân cận thì ông mới khám phá ra đồi Hà Khê. Ông được nghe dân gian kể là nơi này có một bà lão mặc áo đỏ quần lục hay thường xuất hiện và cũng là nơi mà Cao Biền (Kao Pien) viên tướng tài nhà Đường (Trung Quốc), làm quan cai trị Việt Nam vào thế kỷ IX. Giỏi thuật số và thông địa lý, ông cho người đào hố ở phiá sau đồi để cắt đứt các long mạch và phá linh khí tránh sự xuất hiện của một chân tu đến đây lập chùa và làm cho nước Nam hùng mạnh. Đã có ý đồ làm chúa ở xứ Đàng Trong từ lâu, ông không ngần ngại ra lệnh lấp hố, tụ lại linh khí làm bền vững long mạch và truyền lệnh xây dựng một ngôi chùa trên nền thảo am của đồi tên là Thiên Mụ ngoảnh mặt ra sông Hương để thoả mản ý nguyện trông đợi của dân chúng. Vì sợ quấy rầy bởi những thần linh địa phương có khả năng mang lại cho ngườì dân Việt một cuộc sống tồi tệ trong cuộc Nam Tiến nên họ hay thường sử dụng những nơi có dấu tích văn hóa Chàm để chuyển vị các chốn nầy vào thế giới tâm linh và làm nơi thờ tự của họ. Họ đang cố gắng thiết lập sự hài hòa giữa sức mạnh siêu nhiên và thời gian ở các lãnh thổ mà họ đã chinh phục được. Đó là trường hợp thánh địa Pô Nagar nơi mà nữ thần Chăm Uma được người dân Việt giành lại sở hữu và không ngần ngại biến chuyển truyền thuyết Po Nagar thành truyền thuyết của mình và được dàn xếp lại theo cách riêng tư nhưng dù sao họ cũng không xóa bỏ được hết nền tảng của truyền thuyết Chàm. Nữ thần của Chiêm Thành do đó trở thành Thiên Y A Na (hay Thiên Y Thánh Mẫu) của người dân Việt. Sự chiếm đoạt sở hữu này còn được thấy ở những địa danh khác của Việt Nam trong cuộc Nam Tiến: Bà Đen ở Tây Ninh hay nữ thần Chúa Xứ ở núi Sam (Châu Đốc).
Vì vậy cái thảo am nầy của người Chàm tên là Thiên Mỗ cũng không ngoài lệ. Nó được dựng cất lại thành một ngôi chùa mang tên là Thiên Mụ đấy thôi. Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An thì chúa Nguyễn Kiêm nhận thấy phong cảnh thoát tục hữu tình của ngôi chùa cổ kính nầy nên cho xây lại ngôi chùa để được khang trang hơn. Chùa nầy lúc đầu cũng sơ sài mà thôi nhưng được nổi tiếng từ khi hoà thượng Thích Đại Sán (hay Thạch Liêm) ở Quảng Đông được chúa Nguyễn Phước Chu, một người rất sùng đạo Phất, mời qua để truyền bá những lời dạy hay giáo lý của Đức Phật tại chùa. Chúa còn cho đúc chuông lớn và có làm bài minh khắc trên chuông vào năm 1710. Chùa nầy còn được trùng tu nhiều lần, lần đầu vào năm 1665 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần, sau đó bị binh hỏa tàn phá nặng nề dưới thời nhà Tây Sơn (1786-1801) và được tu sửa lại dưới thời ngự trị của vua Gia Long (1815) và Minh Mạng (1831). Phải đợi đến năm 1844, năm mà bà Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu, vợ của vua Gia Long thọ được 80 tuổi thi vua Thiệu Trị cử thống chế Hoàng Văn Hậu xây dựng chùa lại một cách quy mô, có thêm tháp Phương Duyên cao 7 tầng (21 thước) và đình Hương Nguyện. Còn dưới thời vua Tự Đức, để tránh động đến Trời vua đổi danh từ Thiên Mụ thành ra Linh Mụ trong thời gian (1862-1869). Năm 1904, với trần bão dữ dội ở Huế, đình Hương Nguyện bị sụp đổ và chỉ được trùng tu lại 3 năm sau dưới thời ngự trị của vua Thành Thái. Chính ngài nhân dịp lễ mừng thọ 90 tuổi của bà Từ Dũ, vợ của vua Thiệu Trị, cho bộ Công tu bổ tháp Phước Duyên và dựng bia kỷ niệm. Ngày nay, nhờ sự hài hoà giữa kiến trúc cổ kính của chùa và cảnh sắc nên thơ bên dòng sông Hương, chùa Thiên Mụ trở thành một danh lam thắng cảnh của đất nước.
Avant d’entamer la construction de la pagode de la Dame céleste (Thiên Mụ) par le premier seigneur Tiên Nguyễn Hoàng de la famille des Nguyễn en 1601 sur la colline Hà Khê située sur la rive gauche de la Rivière des Parfums, il y avait déjà à cet endroit la fondation d’un pagodon connu sous le nom Thiên Mỗ. Ce dernier appartenait aux gens venus exploiter cette région. Ce fait était signalé par le célèbre écrivain Dương Văn An de l’époque de la dynastie des Mạc, à qui l’on attribue le mérite de décrire les montagnes, les rivières, les citadelles et les coutumes de la région de Thuận Hóa (Bình Trị Thiên et dans le nord de Quảng Nam) dans son œuvre intitulée Ô Châu Cận Lục (Composition moderne sur le district Ô Châu) en 1553. Cette région appartenait ainsi aux gens du Champa car les reliques de leur citadelle Lồi étaient retrouvées récemment à 4 kilomètres de la ville de Huế.
Lors de la nomination de Nguyễn Hoàng en tant que général-administrateur des régions Quảng Nam et Thuận Hóa dans le pays Đàng Trong (le centre du Vietnam actuel) par le roi Lê Anh Tông, il a déjà eu l’intention de faire une belle carrière politique. Il s’installa au début avec son armée à Ái Tử (dans le nord de l’actuel Quảng Tri). Une fois, en explorant les environs, il découvrit la colline de Hà Khê. On le fit connaître dans cet endroit l’histoire d’une vieille dame venant du Ciel et portant une chemise rouge et un pantalon vert. Mais ce lieu était aussi l’endroit où le talentueux général de la dynastie Tang Cao Biền (Kao Pien) chargé d’administrer le Vietnam au 9ème siècle et connu pour l’art de la divination et le Feng Shui, tenta de creuser le fossé derrière de la colline. Cela permit de couper les veines du dragon et détruire toutes les énergies positives pour éviter l’apparition d’un vrai moine venu ici pour construire à l’avenir un temple et rendre le Sud plus puissant.
Ayant eu longtemps l’intention d’être le seigneur à Đàng Trong, il ordonna à obturer sans hésitation le fossé dans le but de faciliter la concentration des énergies positives et renforcer les veines du dragon et construire sur l’ancien emplacement du pagodon de la colline une pagode orientée vers la Rivière des Parfums. Il lui donna ainsi le nom Thiên Mụ (Dame céleste) pour répondre à l’attente et la volonté de la population. Afin d’éviter d’être dérangés par les esprits locaux qui pourraient leur apporter une vie exécrable durant leur marche vers le Sud (Nam Tiến), les Vietnamiens n’hésitèrent pas à faire usage des vestiges de la culture du Champa pour les transposer dans leur propre univers religieux et les faire devenir leurs propres lieux de culte. Ils tentèrent d’établir une harmonie entre les puissances surnaturelles et temporelles dans les territoires qu’ils avaient réussi à conquérir. C’est le cas du sanctuaire de Pô Nagar où la déesse du Champa Uma a été appropriée par les Vietnamiens. Ceux-ci n’hésitèrent pas à assimiler la légende de Po Nagar dans une mythologie arrangée à leur manière sans réussir à effacer le substrat cham du mythe. La déesse du Champa devenait ainsi Thiên Y A Na (Thiên Y Thánh Mẫu) des Vietnamiens. Cette appropriation se renouvelait à d’autres endroits du Vietnam lors de la marche vers le Sud: la Dame Noire à Tây Ninh ou la déesse Chúa Xứ au mont Sam (Châu Đốc).
C’est pourquoi le temple cham nommé Thiên Mỗ ne fait pas exception. Il a été reconstruit pour devenir la pagode nommée Thiên Mụ. Selon le chercheur Phan Thuan An, le seigneur Nguyễn Kiêm, séduit par le charmant paysage de cette ancienne pagode, ordonna sa reconstruction pour la rendre plus spacieuse. Cette pagode était très rudimentaire à son début. Elle devint célèbre à partir du moment où le moine Thích Đại Sán (ou Thạch Liêm) venant de Guangdong, avait été invité par le seigneur Nguyễn Phước Chu, un grand dévot du bouddhisme, à diffuser les bons enseignements de Bouddha dans cette pagode. Ce seigneur fit couler une grande cloche et fit graver une inscription sur cette dernière en 1710. Cette pagode fut restaurée à plusieurs reprises, d’abord en 1665 sous le règne du seigneur Nguyễn Phúc Tần. Elle subit ensuite de gros dégâts provoqués par l’incendie à la période des Tây Sơn (Paysans de l’Ouest)(1786-1801) et des remaniements importants sous les règnes des empereurs Gia Long (1815) et Minh Mang (1831). Puis il faut attendre l’évènement qui eut lieu en 1844. C’est l’année où l’impératrice mère Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu, épouse du roi Gia Long, fêta son anniversaire à 80 ans pour que roi Thieu Tri chargeât le maréchal Hoàng Văn Hậu de reconstruire la pagode à grande échelle en y ajoutant la tour Pháp Duyên (7 étages) et le pavillon Hương Nguyện.
Sous le règne du roi Tự Đức, afin d’éviter de déranger le « Ciel », le roi a changé son nom de Thiên Mụ en Linh Mụ durant la période (1862-1869). En 1904, à cause de la violente tempête à Huế, le pavillon Hương Nguyện s’effondra et ne fut restauré que trois ans plus tard sous le règne du roi Thành Thái. C’est lui qui, à l’occasion du 90ème anniversaire de la reine Từ Dũ, épouse du roi Thiệu Trị, demanda au ministère public de restaurer la tour Phước Duyên et d’ériger une stèle commémorative.
Aujourd’hui, grâce à l’harmonie entre l’architecture ancienne de la pagode et le paysage poétique au bord de la Rivière des Parfums, la pagode Thiên Mụ est devenue un lieu pittoresque du pays.
Huế au fil de la nuit (Huế về đêm)
Huế au fil de la nuit
Phu Văn Lâu (Pavillon des Édits)
Được tọa lạc trước Kỳ Đài trên trục chính của hoàng thành Huế, quay mặt về phía phía nam (sông Hương), Phu Văn Lâu là một ngôi lầu nhỏ hai tầng được xây dựng vào năm 1819 dưới thời ngự trị của vua Gia Long. Lầu nầy có chức năng để niêm yết các chiếu chỉ của vua lúc mới ban hành và để công bố tên của các thí sinh được trúng tuyển trong các khoa thi lớn như thi hội và đình. Chính vì lầu có mang tính các long trọng nên mọi người đến đây phải xuống người và phải quỳ lại trước khi đọc chiếu thư của triều đình. Có bia đá trước lầu « Khuynh Cái Hạ Mã » để nhắc nhở mọi người phải xuống ngựa bày tõ lòng kính cẩn. Năm 1829, nơi nầy được vua Minh Mạng dùng để tổ chức cuộc đấu hổ và voi. Dưới thời vua Thành Thái, sau cơn bão năm Giáp Thìn (1904), Phu Văn Lâu bị phá hủy trầm trọng và được vua Thành Thái hạ lệnh xây dựng lại như xưa. Phu Văn Lâu là một di tích lịch sử vì đây là nơi mà Trần Cao Vân và Thái Phiên giả vờ câu cá để gặp vua Duy Tân bàn việc khởi nghĩa chống Pháp. Khi sự việc bị đổ vỡ không thành, hai ông bị tử hình và vua Duy Tân bị đày qua đảo La Reunion. Bởi vậy ai cũng ngầm ngùi thương xót những nhà yêu nước Việt Nam qua ca dao Huế sau đây nhắc nhở đến sự việc nầy:
Chiều chiều trước bến Văn Lâu,
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm?
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông?
Thuyền ai thấp thoáng bên sông,
Nghe câu mái đẩy, chạnh lòng nước non !
Situé à l’arrière de la tour du mât (Kỳ Đài) sur l’axe principal de la Citadelle Impériale de Huế et en face de la Rivière des Parfums, Phu Van Lau est un pavillon à deux étages construit en 1819 sous le règne de l’empereur Gia Long. Cet édifice a pour fonction d’afficher les arrêtés pris par le roi au moment de leur promulgation et d’annoncer les noms des candidats qui ont été sélectionnés aux concours nationaux et provinciaux. Du fait qu’il avait un caractère solennel, tous ceux qui venaient ici, devaient descendre de cheval et se mettre à genoux avant de lire l’édit impérial. Il y avait une stèle de pierre devant le pavillon « Khuynh Cái Hạ Mã » pour rappeler à chacun de respecter cette modalité. En 1829, ce lieu fut utilisé par le roi Minh Mang pour organiser un combat de tigres et d’éléphants. Sous le règne du roi Thành Thái, lors de la tempête de l’année Giáp Thin (1904), Phu Van Lau a été sévèrement détruit et reconstruit comme avant par le roi. Phu Van Lau est un vestige historique car c’est l’endroit où Trần Cao Vân et Thái Phiên ont fait semblant de pêcher pour rencontrer le roi Duy Tân et engager les discussions du soulèvement contre les autorités coloniales françaises. Lorsque le complot avait échoué, ces deux hommes ont été exécutés et le roi Duy Tân a été exilé à La Réunion. C’est pourquoi cela nous remplit de compassion pour les patriotes vietnamiens avec les vers cités ci-dessous dans une chanson populaire de Huế:
Chiều chiều trước bến Văn Lâu,
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm?
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông?
Thuyền ai thấp thoáng bên sông,
Nghe câu mái đẩy, chạnh lòng nước non !
Le soir devant l’embarcadère Văn Lâu,
Qui est assis, qui pêche, qui est triste, qui est malheureux?
Qui aime, qui ressent, qui se souvient, qui regarde ?
La barque glisse rapidement sur le fleuve,
En entendant le chant éthéré de la batelière, on éprouve un sentiment de tristesse !
Rivière des parfums (Hương Giang)
Sông Hương
Được phát nguyên từ hai nguồn tả và hữu trạch nguyên ở miền thượng lưu của dãy núi Trường Sơn, sông Hương chảy qua kinh thành Huế rồi đến cửa Thuận An trước khi ra biển Đông. Nước sông thường trong với màu xanh ngọc và im phăng phất như mặt hồ ở trong một môi trường thiên nhiên cây cỏ hoa lá khiến tạo ra một vẻ đẹp yên tỉnh và mơ mộng nhất là dọc theo ven sông có một số công trình kiến trúc hài hoà độc đáo như chùa Thiên Mụ, Văn Thánh, điện Hòn Chén và các lăng của các vua triều Nguyễn. Khi còn thuộc vương quốc Chămpa, sông nầy mang tên chi không ai biết cả cho đén ngày nay. Chỉ biết trong « Ô Châu Cận Lục » của Dương văn An ấn hành vào 1555 dưới triều nhà Mạc và « Phủ biên tạp lục » của Lê Quí Đôn vào khoảng năm 1776 thì sông nầy được gọi là Linh Giang. Không biết bao giờ nó lại mang tên sông Huơng. Sở dĩ nó được cư dân gọi với tên sông Hương vì nó có mùi thơm đặc biệt tỏa ra từ thân rễ Thạch xương bổ, một loại thực vật mọc ven hai bờ sông. Sông nầy được vua Thiệu Trị ca tụng về sau trong bài thơ « Hương Giang hiểu phiếm » trong một cuộc dạo thuyền lúc ban mai. Còn người đời gọi sông Hương là « cô gái duyên dáng của miền Trung » hay là nàng thơ của xứ Huế trong một bài viết « Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp … » của nhà nghiên cứu Trần Đức Anh Sơn trong tạp chí 3/5/2021 Heritage (*). Du thuyền trên sông Hương vào một đêm trăng thanh là một cuộc du ngoạn vô cùng thích thú nhất là nếu có dịp được nghe tiếng hò thanh tao của các cô lái đò Huế. Không biết bao giờ sông Hương đã trở thành một nguồn cảm hứng vô tận cho những ai có nổi niềm tâm sự đến đây như Nguyễn Du, tác giả của kiệt tác « Kim vân Kiều » chỉ cần thấy mảnh trăng ở trên sông Hương để gợi lại một mối sầu muôn thưở mà cũng muốn nói lên cái thân phận ở chốn quan trường chỉ biết khom lưng vâng dạ ở chế độ phong kiến.
Hương giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu.
Đào Tấn, một nhà soạn tuồng nổi tiếng Việt Nam dưới thời vua Tự Đức cũng có lần nhắc đến sông Hương qua áng thơ văn bằng chữ Hán:
Cộng ẩm Hương Giang thủy
Vô nhân thức thủy hương
Cùng uống nước sông Hương,
Không có người cảm được mùi thơm của nước.
Còn sĩ phu Cao Bá Quát phấn khởi với hào khí của mình thì nhìn sông Hương như một thanh kiếm dựng đứng giữa trời xanh bao la:
Trường giang như kiếm lập thanh thiên.
Nhà thơ Thu Bồn cũng đã để lại gần đây những câu thơ bất hủ về sông Hương:
Con sông dùng dằng, con sông không chảy,
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu.
Phải người Huế đi đâu cũng vẫn lưu luyến chốn quê nhà cũng nhớ đến sông Hương như người Nam với dòng sông Cửu Long muôn thưở:
Anh đã từng vô Nam ra Bắc
Thấy nhiều nơi cảnh sắc cũng xinh
Đi mô cũng nhớ quê mình
Nhớ Hương Giang gió mát, nhớ Ngự Bình trăng thanh.
(*) Tạp chí của VietnamAirLines 3/5/2021
En provenance de deux sources situées à gauche et à droite dans les hautes régions de la chaîne de montagnes Trường Sơn, la rivière des parfums traverse la cité impériale de Huế puis l’estuaire de Thuận An avant d’entrer dans la mer de l’Est. Son eau est en général limpide, de couleur turquoise et elle est aussi calme comme celle du lac dans un environnement naturel de plantes et de fleurs, ce qui lui confère ainsi une beauté tranquille et rêveuse, en particulier tout le long de la rivière avec un grand nombre d’œuvres architecturales harmonieuses et originales telles que la pagode de la Dame Céleste, le temple du Confucius, le temple du bol de jade (Hòn Chén) en l’honneur de la déesse Thien Y A Na (Mère divine) et les mausolées des rois de la dynastie des Nguyễn. Au temps où elle appartint encore au royaume du Champa, cette rivière dut avoir un nom que personne ne connait pas jusqu’à aujourd’hui.
Selon la monographie intitulée «Ô Châu cận lục» de Dương Văn An publiée en 1555 sous la dynastie des Mạc et l’ouvrage « Phủ biên tạp lục » de l’érudit Lê Quí Đôn vers 1776, cette rivière prit le nom Linh Giang. On ne connait pas exactement l’époque à laquelle elle a été nommée « la Rivière des Parfums ». La raison pour laquelle les gens du lieu l’appellent ainsi est due au fait qu’elle a un arôme particulier émanant du rhizome Thạch xương bồ (Acorus gramineus), une plante qui pousse le long des rives de la rivière. Celle-ci a été évoquée ensuite par le roi Thiệu Trị dans son poème intitulé « Hương Giang hiểu phiếm » lors d’une promenade en bateau le matin.
Pour les gens du coin, elle est appelée « la charmante fille de la région du Centre » ou la muse de Huế dans un l’article intitulé « Le pont Trường Tiền a six butées et douze travées … » du chercheur Trần Đức Anh Sơn dans la magazine Heritage (*)
Une promenade en bateau sur la rivière des Parfums par une nuit au clair de lune est une excursion extrêmement agréable, surtout si on a l’occasion d’entendre le chant éthéré des batelières de Huế. On ne sait pas quand la Rivière des Parfums est devenue une source d’inspiration inépuisable pour ceux qui ont les confidences à révéler en venant ici comme Nguyễn Du, l’auteur du chef-d’œuvre « Kim Vân Kiều »: il suffit de voir un morceau de la lune sur la Rivière des Parfums pour lui rappeler la tristesse sempiternelle et évoquer l’époque féodale où le mandarin n’avait qu’à obéir aux ordres en courbant sa tête.
Hương giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu.
Đào Tấn, un compositeur d’opéra vietnamien très connu sous le règne du roi Tự Đức, a eu l’occasion de mentionner un jour la Rivière des Parfums à travers son poème écrit en caractères chinois:
Cộng ẩm Hương Giang thủy
Vô nhân thức thủy hương.
On boit ensemble l’eau de la rivière des parfums
Aucun ne réussit à déceler le parfum de l’eau.
Quant au lettré Cao Bá Quát, enthousiasmé par sa grandeur d’âme, il considère la Rivière des Parfums comme une épée dressée sous un immense ciel bleu.
Le poète Thu Bồn a laissé récemment des vers immortels sur la Rivière des Parfums:
Con sông dùng dằng, con sông không chảy,
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu.
La rivière hésite, la rivière ne coule pas,
La rivière coule dans le cœur des gens de Huế qui l’affectionnent tellement.
Même les gens de Huế, où qu’ils aillent, sont toujours attachés à leur terre natale et se souviennent aussi de la rivière des Parfums comme les gens du Sud avec l’éternel Mékong:
Anh đã từng vô Nam ra Bắc
Thấy nhiều nơi cảnh sắc cũng xinh
Đi mô cũng nhớ quê mình
Nhớ Hương Giang gió mát, nhớ Ngự Bình trăng thanh.
Vous avez eu l’occasion d’aller au Sud et de venir au Nord
Partout vous avez découvert un magnifique paysage
Peu importe le lieu, il vous manque aussi la terre natale,
la rivière des parfums au vent frais et la montagne Ngự Bình au clair de lune.