Thập Tam Lăng ( 13 Mausolées des Ming)

Thập Tam  Lăng nhà Minh

Ming Shisan Ling

Version française

Mười ba lăng mộ nhà Minh nằm trong một thung lũng rộng phía nam núi Thiên Thọ, cách Bắc Kinh khoảng 42 cây số. Thung lũng này được chọn vì đáp ứng được tiêu chí về Phong Thủy. Nó được bao bọc ba mặt ở  phía bắc nhờ có một dãy núi còn về phía nam nhờ sự  hiện diên một khe hở  để  tránh được các thần linh  ma quỷ từ gió bắc mang đến. Tổng cộng có 13 trong số 16 hoàng đế   của nhà Minh, 23 hoàng hậu, một phi tần nhất phẩm cùng một số phi tần được an nghỉ tại nơi thung lũng bình  yên này. Có ba  vị hoàng đế nhà Minh không được chôn cất ở nơi nầy. Nằm ở trung tâm nghĩa trang, thì có ngôi mộ của Chu Đệ (Trường Lăng) được  xem  là nổi bật với kích thước to lớn so với mười hai lăng mộ khác. Nó cũng là ngôi mộ đầu tiên được xây dựng ở đây với 60 cột gỗ lim cao có 12 mét và có đường kính 1 mét được đưa từ vùng rừng sâu của Vân Nam và Tứ Xuyên mang về Bắc Kinh và cũng là nơi tổ chức mọi hoạt động cúng tế. Còn các ngôi mộ khác của các hoàng đế nhà Minh thì được sắp xếp theo  mô hình cây quạt xung quanh  con đường  chính thiêng liêng được gọi là « Thần Đạo »  (Shendao)

Dọc hai bên của con đường dài này thì  có 36 bức tượng bằng đá, 12 vị quan chức dân sự và quân sự, và 12 cặp động vật (sư tử, lạc đà, kỳ lân, voi, ngựa và con vật tưởng tượng). Ngôi mộ của Vhu Đệ (Yong Le)  vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng chúng ta  cũng biết rằng khi ông được an táng,  có 16 phi tần cũng bị chôn sống. Phong tục dã man này đã bị bãi bỏ sau đó vào thế kỷ 15 dưới thời vua Minh Thần Tông (Vạn Lịch).

Khi còn sống, Hoàng đế Vạn Lịch  bắt đầu xây dựng Định Lăng vào năm 1584. Điều này khiến nhà nước tốn một khoản tiền đáng kể. Không biết cấu trúc bên trong của ngôi mộ này, giáo sư Xia Nai, giám đốc Viện Khảo cổ học Bắc Kinh phải  thực hiện cuộc khảo sát đầu tiên về Định Lăng vào năm 1956 và phát hiện ra ngôi mộ  nầy chưa bao giờ  bị xâm phạm. Chính nhờ một thẻ  bài mới  biết ra vị trí của cánh cửa ở  trong bức tường với cơ chế bí mật được chôn sâu khoảng chừng  11 thước  dưới lòng đất, ông mới thành công trong việc mở được ngôi mộ này cũng như các căn phòng phụ của nó.

Điều này dẫn đến  sự tìm thấy phòng chôn cất của Vạn Lịch và hai  bà hoàng hậu Tiêu Duẩn và Tiêu Cảnh. Ngoài ra còn có một số lượng lớn các đồ vật quý giá (trang sức bằng ngọc bích, gốm sứ ba màu, meiping (một lọại bình sứ ) vân vân ) trong 26 chiếc rương sơn mài màu đỏ tía được cất giử  ở phòng phía sau cùng.

Điều này dẫn đến  sự tìm thấy phòng chôn cất của Vạn Lịch và hai  bà hoàng hậu. Ngoài ra còn có một số lượng lớn các đồ vật quý giá (trang sức bằng ngọc bích, gốm sứ ba màu, meiping (một lọại bình sứ ) vân vân ) trong 26 chiếc rương sơn mài màu đỏ tía được cất giử  ở phòng phía sau cùng. Hiện tại, ngôi mộ duy nhất mà có thể du khách được truy cập  đó  lăng của  Wanli (1573-1620) (Vạn Lịch). Bà hoàng hậu (Hiếu Đoan Văn Hoàng hậu) và bà hoàng quí phi (Hiếu Tĩnh Hoàng hậu) được  chôn cất bên cạnh hoàng đế.

Cung điện dưới lòng đất nầy có diện tích 1195 thước vuông, sâu 27 mét. Nó được có 5 phòng: phòng phía trước, phòng trung tâm, phòng phía sau cũng như hai phòng bên. Nó được xây dựng bởi 30.000 công nhân sau sáu năm. Phòng trung tâm và phòng phía trước tạo thành một hành lang dài vuông góc với phòng phía sau. Tất cả các phòng đều được ngăn cách với nhau bằng một cánh cửa lớn bằng đá cẩm thạch màu trắng được trang trí bằng những tác phẩm điêu khắc tinh xảo. Ngoài ra còn có 3 chiếc ngai bằng đá cẩm thạch dành riêng cho người đã khuất ở gian giữa.

Ngoại trừ tấm bia mộ của  Chu Đệ mà người kế vị ông để lại hơn 3000 chữ ca ngợi công đức của cha mình, chúng ta không tìm thấy chữ viết nào trên tấm bia của các ngôi mộ khác. Đây là một bí ẩn  mà các nhà sử học cần phải  giải quyết. Một số người cho rằng các hoàng đế nhà Minh đã bãi bỏ tục lệ này vì sợ bị hậu thế chỉ trích, chế giễu vì hành vi sai trái, trụy lạc. Một số  người khác lại ủng hộ sự chấp nhận thái độ  của Vũ Tắc Thiên  thời nhà Đường bởi  các hoàng đế nhà Minh. Bà nầy  không để lại dấu vết gì  cả để khỏi bị chỉ trích vì bà biết cách cư xử của mình không thể  hoàn hảo.

13 TOMBEAUX DES MING

Version française

Les tombeaux des Ming sont situés dans une large vallée au sud de la montagne Tianshou (Thiên Thọ) loin de Pékin à peu près de 42 kilomètres. Cette vallée a été choisie car elle répond aux critères de Fengshui (Phong Thủy). Elle est encadrée au nord sur ses trois côtés par une chaîne de montagnes et au sud par une ouverture, ce qui lui permet d’être protégée contre les mauvais esprits emmenés par les vents du Nord. Il y a en tout 13 des 16 empereurs des Ming, 23 impératrices, une concubine de premier rang et une douzaine de concubines impériales qui ont reposé dans cette vallée paisible. Trois empereurs des Ming ne sont pas enterrés ici.

Située au centre du cimetière, la sépulture de Yong Le (Trường Lăng) se fait remarquer par sa taille imposante par rapport aux douze autres mausolées  avec 60 colonnes en bois de fer (gỗ lim) ayant 12 mètres de haut et un diamètre d’un  mètre, ramenés de la région forestière de Yunnan et Sichuan  jusqu’à Pékin. Elle est aussi la première à y être construite. Les autres tombeaux des empereurs des Ming sont disposés en éventail autour de la voie  principale sacrée (Shendao). Cette longue allée est bordée de 36 statues de pierre, 12 dignitaires civils et militaires et 12 paires d’animaux (lions, chameaux, licornes, éléphants, chevaux et chimères). Le tombeau de Yong Le est resté inviolé. Mais on sait qu’au moment de son enterrement, 16 concubines furent emmurées vivantes à son côté. Cette coutume fut abolie  après au XVème siècle.

De son vivant, l’empereur Wan Li commença à construire en 1584 son tombeau Dingling (tombeau de la tranquillité)(Định Lăng). Celui-ci coûte une somme considérable à l’état. Ignorant la structure interne de ce tombeau, le professeur Xia Nai, directeur de l’institut d’archéologie de Pékin, effectua le premier sondage sur le Dingling en 1956 et découvrit ce tombeau inviolé. Grâce à une tablette indiquant l’emplacement de la porte du mur au mécanisme secret enfoui à trente cinq pieds sous terre, il réussit à ouvrir ce tombeau ainsi que ses chambres annexes. Cela permet de retrouver la chambre funéraire de Wanli et de ses 2 impératrices Xiao Duan et Xiaojing. On trouve également un grand nombre d’objets précieux (parures de jade, des céramiques à trois couleurs, des meiping etc. ) dans les 26 coffres en laque pourpre rangés dans la salle du fond. Pour le moment, le seul tombeau accessible aux visiteurs est celui de Wanli ( 1573-1620) (Vạn Lịch en vietnamien). L’impératrice et la première concubine impériale (Hoàng Qúi Phi)  furent enterrées à leur mort au côté de l’empereur.

Le palais souterrain d’une superficie de 1195 m2 se trouve à 27 mètres de profondeur. Il est constitué de 5 salles: la salle antérieure, la salle centrale, la salle postérieure ainsi que deux salles latérales. Il a été construit par 30.000 ouvriers au bout de six ans. La salle centrale et la salle antérieure forment un long couloir directement perpendiculaire à la salle de fond. Toutes les salles sont isolées les unes des autres par une grande porte en marbre blanc décorée de fines sculptures. On trouve aussi 3 trônes en marbre réservés pour les défunts dans la chambre centrale.

Excepté le stèle du tombeau de Yong Le sur lequel son successeur a laissé plus de 3000 mots vantant les mérites et les vertus de son père, on ne trouve aucune écriture sur les stèles des autres tombeaux. C’est une énigme à élucider pour les historiens. Certains pensent que les empereurs des Ming abolirent cette tradition par peur d’être critiqués et ridiculisés par la postérité à cause de leur mauvaise conduite et de leur débauche. D’autres penchent en faveur de l’adoption de l’attitude de Wu Ze Tian (Vũ Tắc Thiên) de la dynastie des Tang par les empereurs des Ming. Celle-ci ne laisse aucune trace écrite afin de ne pas être critiquée car elle savait que son comportement n’était pas irréprochable.

La Tour Eiffel, l’un des symboles de Paris

 

 
 
 
Tour Eiffel
 
Tháp Eiffel, một trong những biểu tượng của kinh đô ánh sáng Paris được trông thấy từ xa về đêm dưới nhiều gốc độ khác nhau.
 
La tour Eiffel, l’un des symboles de la ville de lumière Paris est visible de loin au fil de la nuit sous de nombreux angles différents.
 
Galerie des photos

 

 

 

 
 

Musée de l’Acropole (Athènes, Grèce)

Version française

Đây là bảo tàng gồm chứa tất cả các hiện vật cổ khám phá  được từ đồi Acropole. Có ít nhất 300 kiệt tác thực sự ở nơi nầy. Ở ngay lối vào ở bảo tàng này, sàn kính trong suốt cho phép du khách có thể nhìn thấy được các cuộc khai quật khảo cổ mà được thực hiện trong nhiều năm qua. Chúng ta còn có thể thấy các bản sao của năm tượng phụ nữ (cariatides) dùng cho sự hỗ trợ điện thờ Erechtheion, được xây dựng trên phần đất linh thiêng nhất của đồi Acropole. Tại đây, bạn có thể chiêm ngưỡng khung cảnh ngoạn mục của đền Parthenon nhưng rất khó để bạn  chụp ảnh do số lượng du khách quá nhiều trong mùa hè này và lệnh cấm được áp dụng ở một số phòng liên quan đến việc triển lãm các bức tượng tuyệt đẹp. Mặc dù vậy,rất hữu ích  cho du khách khi biết cuộc sống hàng ngày của người Athen  ở  thời đó, sau khi đến tham quan Acropolis và Parthénon.

C’est le musée abritant toutes les artefacts  provenant  uniquement  de la colline d’Acropole. On y recense au moins 300 chefs-d’œuvre véritables. À l’entrée de ce musée, le sol en verre transparent permet au visiteur d’avoir une vue sur les fouilles archéologiques entamées au fil des années. On peut voir  les reproductions de cinq cariatides (les statues de femmes) soutenant l’Érechthéion, le sanctuaire édifié sur la partie la plus sacrée de l’Acropole. C’est ici qu’on peut avoir une vue imprenable sur le Parthénon mais il est difficile de faire des photos vu le nombre impressionnant de visiteurs durant cet été et l’interdiction imposée dans certaines salles concernant l’exposition  des superbes statues. Malgré cela, il s’avère utile de connaître la vie quotidienne des Athéniens de cette époque après avoir visité l’Acropole et le Parthénon.

Symbole d’Athènes

Musée national archéologique d’Athènes (Bảo tàng Khảo cổ Quốc gia Athens)

 

Version vietnamienne

Fondé à la fin du 19ème siècle, le musée archéologique national d’Athènes est l’un des plus grands musées du monde sur la Grèce antique. On y trouve des objets archéologiques datant de la préhistoire mais aussi ceux de l’antiquité. Ceux-ci  sont exposés sur deux étages. À l’entrée de ce musée, on voit apparaître l’exposition des trouvailles  archéologiques de la civilisation mycénienne ou du monde mycénien. Étant  une cité antique préhellénique de l’âge de bronze,  située dans l’est du Péloponnèse et dominant la fertile plaine d’Argos, Mycènes  joue un rôle majeur dans l’échange  commercial  non seulement  avec le reste de la Grèce antique mais aussi avec l’Egypte, les ports phéniciens, Syrie et Chypre. Les Égyptiens se sont intéressés aux Mycéniens et à leur montée en puissance à partir du XIVème  siècle av. J.-C. Le début de l’ère mycénienne est marqué par la découverte  des tombes funéraires des cercles funéraires A et B (1650-1500 av. J.-C.) contenant de luxueuses reliques de nobles mycéniens, découvertes par le découvreur allemand de la ville de Troie (Turquie)  Heinrich Schliemann en 1876. Mais l’art mycénien  reçoit une influence notable de l’art ancien  des Minoens de l’île méditerranéenne de la Crète au cours de la  période approximative de 1700-1500 avant notre ère. On va découvrir des masques funéraires réalisés avec de l’or, des objets en bronze, des bijoux, des momies, des statuettes en marbre, des sculptures et même une belle collection d’art égyptien. À part l’Acropole et le Parthénon, le touriste n’a aucun intérêt de ne pas visiter ce musée car il est témoin de la civilisation de la Grèce antique.

Version vietnamienne

Được thành lập vào cuối thế kỷ 19, Bảo tàng Khảo cổ Quốc gia Athens là một trong những bảo tàng lớn nhất thế giới về Hy Lạp cổ đại. Có những đồ vật khảo cổ có niên đại từ thời tiền sử nhưng cũng có những đồ vật từ thời cổ đại. Các hiện vật  được trưng bày ở hai tầng. Ngay lối vào của bảo tàng này, chúng ta được thấy ngay sự trưng bày các hiện vật  khảo cổ từ nền văn minh Mycenaea hoặc thuộc về  thế giới Mycenaea. Là một thành phố cổ đại thời kỳ đồ đồng tiền Hy Lạp, được tọa lạc ở phía đông Peloponnese trên vùng đồng bằng màu mỡ Argos, Mycenae giữ  một vai trò cực kỳ quan trọng  trong việc  trao đổi thương mại không chỉ với phần còn lại của nước Hy Lạp cổ đại mà còn với Ai Cập, các hải cảng của người Phê-ni-xi, Syria và đảo Síp. Người Ai Cập bắt đầu quan tâm đến người Mycenae và sự trỗi dậy quyền lực của họ từ thế kỷ 14 trước Công nguyên. Sự khởi đầu của kỷ nguyên Mycenaea được đánh dấu bằng việc phát hiện ra những ngôi mộ chôn cất từ ​​các vòng chôn cất A và B (1650-1500 trước Công nguyên) chứa các di vật sang trọng của các quý tộc Mycenae, được phát hiện bởi người  Đức  phát hiện ra thành Troie,  Heinrich Schliemann vào năm 1876.Nhưng nghệ thuật Mycenaea chịu ảnh hưởng đáng kể từ nghệ thuật cổ đại của người Minoa trên đảo Crète ở Địa Trung Hải trong khoảng thời gian ước chừng 1700-1500 TCN. Chúng ta sẽ khám phá những mặt nạ tang lễ được làm bằng vàng, các đồ vật bằng đồng, các đồ trang sức, các xác ướp, các tượng nhỏ bằng đá cẩm thạch, các tác phẩm điêu khắc và thậm chí còn có  một bộ sưu tập nghệ thuật Ai Cập tuyệt vời. Ngoài quần thể Acropolis và Parthenon, du khách không có hứng thú nào mà không ghé tham quan bảo tàng này bởi vì nó là nhân chứng ​​ của nền văn minh Hy Lạp cổ đại.

 

Anciennes techniques de pêche (Cách thức cổ điển bắt cá)

 

Cách thức cổ điển bắt cá.

Nhũi là một dụng cụ dùng để bắt cá. Nó có hai cái cán bằng tre tréo vơi nhau dươí dạng hình chữ X mà ở giữa lại có một tấm « sáo » bện bằng những cọng tre vót nhỏ mà ở cuối đầu dưới thì có một miếng gỗ lưỡi mỏng. Khi cầm hai cán  nhũi đẩy thì một số lượng nước đi vào nhũi và thoát ra ở phiá sau qua các cọng tre chỉ còn ở lại cá,cua hay tôm. Người đi nhũi hay thường mang theo rọ tre để đựng cá.

Nhũi est un outil de pêche très efficace pour attraper les poissons. Il est constitué de deux longues manches en bambou attachées  en forme de croix au milieu desquelles se trouve une armature  creuse faite avec des  petites tiges de bambou et terminée à sa partie inférieure par un  mince morceau de bois. Au moment de son utilisation, il y a une quantité d’eau qui s’y introduit et s’échappe par derrière à travers ses tiges de bambou, ce qui permet de retenir les poissons, crabes et crevettes. Le pêcheur est habitué à emmener avec lui le panier à goulots pour contenir ces crustacés. 

 

Photos de Jean-Marie Duchange sur les Hauts Plateaux.

 

Version française

Un grand hommage au photographe

Jean-Marie  Duchange 

Jean-Marie Duchange sinh ra ở Saint Nazaire (Loire Atlantique) vào năm 1919. Dù ông không phải là một nhà dân tộc học như Georges Condominas mà cũng không phải nhà nhiếp ảnh viên chuyên nghiệp ở thời đó nhưng các tác phẩm ảnh mà gia đình ông tặng cho bảo tàng Quai Branly (Paris) và bảo tàng dân tộc học ở Hànội rất hiếm hoi và vô giá. Sau 4 năm trong quân đội, ông từ bỏ quân ngũ và làm việc 3 năm sau, từ năm 1952-1955 ở vụ y tế công cộng ở miền núi Nam Đông Dương (Tây Nguyên), ông có dịp đi nhiều nơi di chuyển  bằng xe jeep, cưỡi voi, đi bộ, đi thuyền vân vân.. Nhờ đó ông chụp được nhiều ảnh rất độc đáo với máy ảnh  Rolleyflex et Samflex để thỏa mãn sở thích chụp hình của ông. Đấy là những lời mở đầu được ghi lại trong cuốn sách mà ông dự định xuất bản khi ông ở tuổi 88. Nhưng không may ông qua đời khiến cô con gái của ông, bà Evelyne Duchaine và cô cháu ngọai bà Nadège Bourdoin không ngần ngại cứu vớt các tác phẩm ảnh nầy bằng cách cống hiến tất cả các phim âm bản cho bảo tàng Quai Branly (Paris) và  bảo tàng dân  tộc học ở Hànội. Nhờ vậy mới có cuộc trưng bày  để tưởng nhớ đến ông và để đáp lại sự hảo tâm của gia đình ông. Phải công nhận các tác phẩm của ông vẫn còn sống động và để lại cho những người đi xem như mình một niềm vui vô hạn.

Version française

Jean-Marie Duchange est né à Saint Nazaire (Loire Atlantique) en 1919. Bien qu’il ne soit ni ethnologue comme Georges Condominas ni photographe professionnel à cette époque, les œuvres photographiques que sa famille a offertes au musée du Quai Branly (Paris) et au musée d’ethnographie de Hanoï sont  rares et inestimables. Après 4 ans dans l’armée, il quitta l’armée et travailla 3 ans plus tard, de 1952 à 1955 au service de santé publique dans le sud de l’Indochine (Les Hauts Plateaux) du Vietnam, il avait l’occasion de voyager dans de nombreux endroits en jeep, à dos d’éléphant, à pieds, en pirogue  etc. Grâce à cela, il prit de nombreuses photos très originales avec son appareil photo Rolleyflex et Samflex pour assouvir sa passion  pour les photos. Ce sont les premiers mots d’introduction trouvés dans le livre qu’il envisagea de publier à l’âge de 88 ans. Mais à cause de sa mort précipitée,  sa fille Evelyne Duchaine et sa nièce Nadège Bourdoin n’hésitèrent pas à sauver son travail en offrant tous les négatifs au musée  Quai Branly (Paris)  et  au  musée d’ethnographie de Hanoï. Grâce à ce don, il y a eu une exposition au musée d’ethnographie de Hanoï  en l’honneur de sa mémoire et en reconnaissance  de la générosité de sa famille. Il faut reconnaître que ses œuvres sont toujours vivantes et laissent à des visiteurs passionnés comme moi une joie incommensurable.

 

Stèle commémorative (Bia Tưởng Niệm)

 

Version française

Đựợc gọi là Bia Quốc học, công trình nầy xây cất vào đầu thế kỷ 20 để tưởng niệm những binh sỹ người Pháp và Việt đã hy sinh trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất chống Đức. Công trình nầy được chọn theo mẫu thiết kế của họa sỹ xuất sắc trong ngành mỹ thuật đồ họa, Tôn Thất Sa, hậu duệ  của chúa Nguyễn Phúc Chu. Đài được khởi công xây dựng ngày 12 tháng 5 năm 1920 và đã có hơn một trăm năm.  Theo  ông Nguyễn Đình Hoè, đài nầy được dựng theo dáng một bình phong lớn, có mái che, hai tầng và trên nền có bậc thềm. Các hoạ tiết trang trí, kiến trúc, điêu khắc đều mang phong cách kiến trúc của thời Nguyễn. Vì thế nên không bị hũy phá mà còn được sùng tu lại trông rất xinh xắn và hài hoà với quan cảnh hài hoà của sông Hương và trước mặt trường Quốc Học.

Étant appelée maintenant « Bia Quốc Học (Stèle de l’École Nationale)», cette stèle commémorative a été édifiée au début du XXème siècle pour se souvenir des soldats français et vietnamiens morts lors de la Première Guerre mondiale contre l’Allemagne. Ce monument  a été sélectionné selon le modèle proposé par  l’artiste de son temps dans l’industrie des arts graphiques, Tôn Thất Sa, un descendant du seigneur Nguyễn Phúc Chu. Sa construction commença  le 12 mai 1920 et data aujourd’hui plus de cent ans. Selon Mr. Nguyễn Đình Hoè, ce monument a été édifié sous la forme d’un grand paravent doté d’un toit, comportant deux étages  et établi sur une plate-forme avec des marches. Les motifs décoratifs, l’architecture et la sculpture sont tous dans le style architectural de la dynastie des Nguyễn. C’est pour cela qu’il n’a pas été détruit. Par contre, sa rénovation récente est superbe et en harmonie  avec le cadre enchanteur de la rivière des Parfums et en face de l’École Nationale de Huế.

Chùa Thiên Mụ (Pagode de la Dame céleste)

 

 

Version française

Trước khi chúa Tiên Nguyễn Hoàng  xây dựng chùa Thiên Mụ hay Linh Mụ vào năm 1601  ở trên đồi Hà Khê  nằm phiá tã ngạn sông Hương  thì chính  ở nơi nầy đã có trước đó  một nền thảo am của những người đến khai khẩn vùng đất nầy lập lên tên là Thiên Mỗ. Chuyện nầy được ghi nhận lại bởi một danh sỹ Dương Văn An đời nhà Mạc có công trạng  viết về núi sông, thành trì, phong tục ở miền Thuận Hoá  (Bình Trị Thiên và Bắc Quảng Nam) trong Ô Châu Cận Lục  vào 1553.  Như vậy  vùng đất nầy thuộc về dân tộc Chàm  vì các di tích thành Lồi của họ được tìm thấy gần đây chỉ cách thành phố  Huế có 4 cây số. Khi Nguyễn Hoàng được  vua Lê  Anh Tông làm Tổng Trấn Tướng Quân kiêm quản cả  Quảng Nam và Thuận Hóa ở Đàng Trong thì ông đã có ý định muốn làm nên nghiệp lớn.  Lúc đầu ông đóng quân ở   (phiá  bắc của Quảng Trị  ngày nay). Có một lần ông đi dò dẫm các vùng lân cận thì ông mới khám phá ra đồi Hà Khê. Ông được nghe dân gian kể là nơi này  có một  bà lão mặc áo đỏ quần lục hay thường xuất hiện  và cũng là nơi mà Cao Biền (Kao Pien)  viên tướng tài nhà Đường (Trung Quốc), làm quan cai trị Việt Nam vào thế kỷ IX. Giỏi thuật số và thông địa lý, ông cho người đào hố ở  phiá sau đồi để  cắt đứt các long mạch và phá linh khí tránh sự xuất hiện của một chân tu đến đây  lập chùa và  làm cho nước Nam hùng mạnh. Đã có ý đồ làm chúa ở xứ Đàng Trong từ lâu, ông không ngần ngại ra lệnh lấp hố, tụ lại linh khí làm bền vững long mạch và  truyền lệnh xây dựng một ngôi chùa trên nền thảo am của đồi  tên là Thiên Mụ ngoảnh mặt ra sông Hương  để thoả mản ý nguyện trông đợi của dân chúng. Vì sợ quấy rầy bởi  những thần linh  địa phương có khả năng mang lại cho ngườì dân Việt  một cuộc sống tồi tệ trong cuộc Nam Tiến nên họ hay thường sử dụng những nơi có dấu tích  văn hóa Chàm để  chuyển vị các chốn  nầy  vào thế giới tâm linh và làm nơi thờ tự của họ. Họ đang cố gắng thiết lập sự hài hòa giữa sức mạnh siêu nhiên và thời gian ở  các lãnh thổ mà họ đã chinh phục được. Đó là trường hợp thánh địa Pô Nagar nơi mà nữ thần Chăm Uma được người dân Việt giành lại sở hữu và không ngần ngại biến chuyển  truyền thuyết Po Nagar thành truyền thuyết của mình và  được dàn xếp  lại theo cách riêng tư nhưng dù sao họ cũng không xóa bỏ được hết nền tảng của truyền thuyết Chàm. Nữ thần của Chiêm Thành do đó trở thành Thiên Y A Na (hay Thiên Y Thánh Mẫu) của người dân Việt. Sự chiếm đoạt sở hữu  này còn được thấy ở những địa danh khác của Việt Nam trong cuộc Nam Tiến: Bà Đen ở Tây Ninh hay nữ thần Chúa Xứ ở núi Sam (Châu Đốc).

Vì vậy cái thảo am nầy  của người Chàm tên là Thiên Mỗ cũng không ngoài lệ. Nó được dựng cất lại thành một ngôi chùa mang  tên là Thiên Mụ đấy thôi.  Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An thì chúa Nguyễn Kiêm nhận thấy phong cảnh thoát tục hữu tình của ngôi chùa cổ  kính nầy nên cho xây lại ngôi chùa để được  khang trang hơn.  Chùa nầy lúc đầu cũng  sơ sài mà thôi nhưng được nổi  tiếng  từ khi  hoà thượng Thích Đại Sán  (hay Thạch Liêm)  ở Quảng Đông  được chúa  Nguyễn Phước Chu, một người rất sùng đạo Phất,  mời qua để  truyền bá những lời dạy hay giáo lý của Đức Phật tại chùa.  Chúa  còn cho đúc chuông lớn và có làm bài minh khắc trên chuông vào năm 1710.  Chùa nầy còn được trùng tu nhiều lần, lần đầu vào năm 1665 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần, sau đó bị binh hỏa tàn phá nặng nề dưới thời nhà Tây Sơn (1786-1801) và được tu sửa lại dưới thời ngự trị của vua Gia Long (1815)  và Minh Mạng (1831).  Phải đợi đến năm 1844, năm mà  bà Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu, vợ của vua Gia Long thọ  được 80 tuổi thi vua Thiệu Trị cử thống chế Hoàng Văn Hậu xây dựng chùa lại một cách quy mô, có thêm tháp Phương Duyên cao 7 tầng (21 thước)  và đình Hương Nguyện. Còn dưới thời vua Tự Đức, để tránh động đến Trời vua đổi danh từ Thiên Mụ thành ra Linh Mụ trong thời gian (1862-1869). Năm 1904, với trần bão dữ dội ở Huế, đình Hương Nguyện bị sụp đổ và chỉ được trùng tu lại 3 năm sau dưới thời ngự trị của vua Thành Thái. Chính ngài  nhân dịp  lễ mừng thọ 90 tuổi của bà Từ Dũ, vợ của vua Thiệu Trị, cho bộ Công tu bổ tháp Phước Duyên và dựng bia kỷ niệm. Ngày nay, nhờ sự hài hoà giữa kiến trúc cổ kính của chùa và cảnh sắc nên thơ bên dòng sông Hương, chùa  Thiên Mụ trở thành một danh lam thắng cảnh của đất nước.

Version française

Avant d’entamer la construction de la pagode de la Dame céleste (Thiên Mụ)  par  le premier seigneur Tiên Nguyễn Hoàng de la famille des Nguyễn en 1601 sur la colline Hà Khê  située  sur la rive gauche de la Rivière des Parfums, il y avait déjà à cet endroit  la fondation  d’un pagodon connu sous le nom Thiên Mỗ. Ce dernier  appartenait  aux gens  venus  exploiter cette région. Ce fait  était signalé  par le  célèbre écrivain  Dương Văn An de l’époque de la dynastie des  Mạc, à qui l’on attribue le mérite de décrire les montagnes, les rivières, les citadelles et les coutumes de la région de Thuận Hóa (Bình Trị Thiên  et dans le nord de Quảng Nam) dans son œuvre intitulée Ô Châu Cận Lục (Composition moderne sur le district Ô Châu) en 1553.  Cette région appartenait  ainsi aux gens du Champa  car les reliques de leur citadelle Lồi étaient retrouvées récemment à 4 kilomètres  de la ville de Huế.

Lors de la nomination de  Nguyễn Hoàng en tant que général-administrateur des régions Quảng Nam et Thuận Hóa  dans le pays Đàng Trong (le centre du Vietnam actuel) par le roi Lê Anh Tông, il  a déjà eu l’intention de faire une belle carrière politique. Il s’installa au début avec son armée à  Ái Tử (dans le nord de l’actuel Quảng Tri). Une fois, en explorant les environs, il découvrit la colline de Hà Khê. On le fit connaître dans cet endroit l’histoire d’une vieille dame  venant du Ciel et  portant une chemise rouge et un pantalon vert. Mais ce lieu était aussi l’endroit où le talentueux général de la dynastie Tang Cao Biền  (Kao Pien)  chargé d’administrer le  Vietnam au 9ème siècle et connu pour l’art de la divination et le Feng Shui,  tenta de creuser le fossé derrière de la colline. Cela permit de couper les veines du dragon et détruire toutes les énergies positives pour éviter l’apparition d’un vrai moine venu ici pour construire à l’avenir un temple et rendre le Sud plus puissant.

Ayant eu longtemps l’intention d’être le  seigneur à Đàng Trong, il ordonna  à obturer sans hésitation  le fossé   dans le but de faciliter la concentration des énergies positives et renforcer les veines du dragon et construire sur l’ancien emplacement du pagodon de la colline une pagode orientée vers la Rivière des Parfums. Il  lui donna ainsi  le nom Thiên Mụ (Dame céleste) pour répondre à l’attente et la volonté de la population. Afin d’éviter d’être dérangés par les esprits locaux qui pourraient leur apporter une vie exécrable durant leur marche vers  le Sud (Nam Tiến), les Vietnamiens n’hésitèrent pas à faire usage des vestiges de la culture du Champa pour les transposer dans leur propre univers religieux et les faire devenir leurs propres lieux de culte. Ils tentèrent d’établir une harmonie entre les puissances surnaturelles et temporelles dans les  territoires qu’ils avaient réussi à conquérir. C’est le cas du sanctuaire de Pô Nagar où la déesse du Champa Uma a été appropriée  par les Vietnamiens. Ceux-ci n’hésitèrent pas à assimiler la légende de Po Nagar dans une mythologie arrangée à leur manière sans réussir à effacer le substrat cham du mythe. La déesse du Champa devenait ainsi Thiên Y A Na (Thiên Y Thánh Mẫu) des Vietnamiens. Cette appropriation se renouvelait  à d’autres endroits du Vietnam lors de la marche vers le Sud: la Dame Noire à Tây Ninh ou la déesse Chúa Xứ au mont Sam (Châu Đốc).

C’est pourquoi  le temple cham nommé Thiên Mỗ ne fait pas exception.  Il a été reconstruit pour devenir la pagode nommée Thiên Mụ. Selon le chercheur Phan Thuan An, le seigneur  Nguyễn Kiêm, séduit par le charmant paysage de cette ancienne pagode, ordonna sa reconstruction pour la rendre  plus spacieuse. Cette pagode était très rudimentaire à son début.  Elle  devint  célèbre à partir du moment où le moine Thích Đại Sán (ou Thạch Liêm) venant  de Guangdong, avait  été invité par le seigneur Nguyễn Phước Chu, un grand dévot du bouddhisme, à diffuser les bons enseignements de Bouddha dans cette pagode. Ce seigneur fit couler une grande cloche et fit  graver une inscription sur cette dernière en 1710. Cette pagode fut restaurée à plusieurs reprises, d’abord en 1665 sous le règne du seigneur Nguyễn Phúc Tần. Elle  subit ensuite  de gros dégâts provoqués par l’incendie à la période des Tây Sơn (Paysans de l’Ouest)(1786-1801) et  des remaniements importants sous les règnes des empereurs  Gia Long (1815) et Minh Mang (1831). Puis il faut attendre l’évènement qui eut lieu en 1844. C’est l’année où  l’impératrice mère Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu, épouse du roi Gia Long, fêta son anniversaire à 80 ans pour que  roi Thieu Tri chargeât  le maréchal Hoàng Văn Hậu de reconstruire la pagode à grande échelle en y ajoutant la tour Pháp Duyên (7 étages) et le pavillon Hương Nguyện.

Sous le règne du roi Tự Đức, afin d’éviter de déranger le « Ciel »,  le roi a changé son nom de Thiên Mụ en Linh Mụ durant la période (1862-1869). En 1904, à cause de la violente tempête à Huế, le pavillon Hương Nguyện s’effondra  et ne fut restauré que trois ans plus tard sous le règne du roi Thành Thái. C’est lui qui, à l’occasion du 90ème anniversaire de la reine Từ Dũ, épouse du roi Thiệu Trị, demanda au ministère public  de restaurer la tour Phước Duyên et d’ériger une stèle commémorative.

Aujourd’hui, grâce à l’harmonie entre l’architecture ancienne de la pagode et le paysage poétique au bord de la Rivière des Parfums, la pagode Thiên Mụ est devenue un lieu pittoresque du pays.

 

Rivière des parfums (Hương Giang)

 

Sông Hương

Version française

Được  phát nguyên từ hai  nguồn tả và hữu trạch nguyên ở miền thượng lưu của dãy núi Trường Sơn, sông Hương chảy qua kinh thành  Huế rồi đến cửa Thuận An trước khi ra biển Đông. Nước sông thường trong với màu xanh ngọc và im phăng phất như mặt hồ ở  trong một môi trường thiên nhiên cây cỏ hoa lá khiến tạo ra một vẻ đẹp yên tỉnh và mơ mộng nhất là dọc theo ven sông có  một số  công trình kiến trúc hài hoà  độc đáo như chùa Thiên Mụ, Văn Thánh, điện Hòn Chén và các lăng của các vua triều Nguyễn. Khi còn thuộc vương quốc Chămpa,  sông nầy mang tên chi không ai biết cả cho đén ngày nay.  Chỉ biết trong « Ô Châu Cận Lục » của Dương văn An ấn hành vào 1555  dưới  triều nhà Mạc và « Phủ biên tạp lục »  của Lê Quí Đôn vào khoảng năm 1776 thì sông nầy được gọi là Linh Giang. Không biết bao giờ nó lại mang tên sông Huơng.  Sở dĩ nó được cư dân gọi với tên sông Hương vì nó có mùi thơm đặc biệt tỏa ra từ thân rễ Thạch xương bổ, một loại thực vật mọc ven hai  bờ sôngSông nầy được  vua Thiệu Trị ca tụng về sau trong bài thơ « Hương Giang hiểu phiếm »  trong một cuộc dạo thuyền lúc ban mai. Còn người đời  gọi sông Hương là « cô gái duyên dáng của miền Trung » hay là nàng thơ của xứ Huế trong một bài viết « Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp … » của nhà nghiên cứu Trần Đức Anh Sơn trong tạp chí 3/5/2021 Heritage (*).  Du thuyền trên sông Hương  vào một đêm trăng thanh là một cuộc du ngoạn vô  cùng thích  thú nhất là nếu có dịp được nghe tiếng hò thanh tao của các cô lái đò Huế.  Không biết bao giờ sông Hương đã trở thành một nguồn cảm hứng vô tận cho những ai có  nổi niềm tâm sự  đến đây như Nguyễn Du, tác giả của kiệt tác « Kim vân Kiều » chỉ cần thấy mảnh trăng ở trên sông Hương để gợi  lại một mối sầu muôn thưở mà cũng muốn nói lên cái thân phận ở chốn quan trường chỉ  biết khom lưng vâng dạ ở chế độ  phong kiến.

Hương giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu.

Đào Tấn, một nhà soạn tuồng nổi tiếng Việt Nam dưới thời vua Tự Đức cũng có lần  nhắc đến sông Hương qua áng thơ  văn bằng chữ Hán:

Cộng ẩm Hương Giang thủy
Vô nhân thức thủy hương

Cùng uống nước sông Hương,
Không có người cảm được mùi thơm của nước.

Còn sĩ phu  Cao Bá Quát  phấn khởi với hào khí của mình thì nhìn sông Hương như một thanh kiếm dựng đứng giữa trời xanh bao la:
Trường giang như kiếm lập thanh thiên.
Nhà thơ Thu Bồn cũng đã để lại gần đây những câu thơ bất hủ về sông Hương:

Con sông dùng dằng, con sông không chảy,
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu.

Phải người Huế đi đâu cũng vẫn lưu luyến chốn quê nhà  cũng nhớ  đến sông Hương như người Nam với dòng sông Cửu Long muôn thưở:   

Anh đã từng vô Nam ra Bắc
Thấy nhiều nơi cảnh sắc cũng xinh
Đi mô cũng nhớ quê mình
Nhớ Hương Giang gió mát, nhớ Ngự Bình trăng thanh.

(*) Tạp chí của VietnamAirLines 3/5/2021

Version française

En provenance de deux sources situées à  gauche et à droite  dans les  hautes régions de la chaîne de montagnes Trường Sơn, la rivière des parfums traverse la cité impériale de Huế puis l’estuaire de Thuận An avant d’entrer dans la mer de l’Est. Son eau est en général  limpide, de couleur turquoise et  elle est aussi calme comme celle  du lac dans un environnement naturel de plantes et de fleurs, ce qui lui confère ainsi une beauté tranquille et rêveuse, en particulier tout  le long de la rivière avec un grand nombre  d’œuvres architecturales harmonieuses et originales telles que la pagode de la Dame Céleste, le temple du Confucius, le temple du bol de jade (Hòn Chén) en l’honneur de la déesse  Thien Y A Na (Mère divine) et les mausolées des rois de la dynastie des Nguyễn. Au temps où elle appartint encore au royaume du Champa, cette rivière dut avoir  un nom que personne ne connait pas jusqu’à aujourd’hui.

Selon la monographie intitulée «Ô Châu cận lục» de Dương Văn An publiée en 1555 sous la dynastie des Mạc et l’ouvrage « Phủ biên tạp lục » de l’érudit Lê Quí Đôn vers 1776, cette rivière prit le nom  Linh Giang.  On ne connait pas exactement l’époque à laquelle elle a été nommée  « la Rivière des Parfums ». La raison pour laquelle les gens du lieu l’appellent ainsi est due au fait qu’elle  a un arôme particulier émanant du rhizome Thạch xương bồ (Acorus gramineus), une plante qui pousse le long des rives de la rivière. Celle-ci a été évoquée ensuite par le roi Thiệu Trị dans son poème intitulé « Hương Giang hiểu phiếm » lors d’une promenade en bateau le matin.

Pour les gens du coin, elle est appelée «  la charmante fille de la région du Centre  » ou la muse de Huế dans un l’article intitulé « Le pont Trường Tiền a six butées et douze travées … » du chercheur Trần Đức Anh Sơn dans la magazine Heritage (*)

Une promenade en bateau sur la rivière des Parfums par une nuit au clair de lune est une excursion extrêmement agréable, surtout si on a l’occasion d’entendre le chant éthéré des batelières de Huế. On ne sait pas quand  la Rivière des Parfums est devenue une source d’inspiration inépuisable pour ceux qui ont les confidences à révéler en venant  ici comme Nguyễn Du, l’auteur du chef-d’œuvre « Kim Vân Kiều »: il suffit de voir un morceau de la lune sur la Rivière des Parfums pour  lui rappeler la tristesse sempiternelle et évoquer l’époque féodale où  le mandarin n’avait qu’à obéir aux ordres en courbant sa tête.

Hương giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu.

Đào Tấn, un  compositeur d’opéra vietnamien très  connu sous le règne du roi Tự Đức, a eu l’occasion de mentionner un jour la Rivière des Parfums à travers son poème écrit en caractères chinois:

Cộng ẩm Hương Giang thủy
Vô nhân thức thủy hương.

On boit ensemble l’eau de la rivière des parfums
Aucun ne réussit à déceler le parfum de l’eau.

Quant au  lettré  Cao Bá Quát, enthousiasmé par sa grandeur d’âme, il considère  la Rivière des Parfums comme une épée dressée  sous un immense ciel bleu.

Le poète Thu Bồn a laissé récemment des vers immortels sur la Rivière des Parfums:

Con sông dùng dằng, con sông không chảy,
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu.

La rivière hésite, la rivière ne coule pas,
La rivière coule dans le cœur des gens de Huế qui l’affectionnent tellement.

Même les gens de Huế, où qu’ils aillent, sont toujours attachés à leur terre natale  et se souviennent aussi de la rivière des Parfums comme les gens du Sud avec l’éternel Mékong:

Anh đã từng vô Nam ra Bắc
Thấy nhiều nơi cảnh sắc cũng xinh
Đi mô cũng nhớ quê mình
Nhớ Hương Giang gió mát, nhớ Ngự Bình trăng thanh.

Vous avez eu l’occasion d’aller au Sud et de venir au Nord
Partout vous avez découvert un magnifique   paysage
Peu importe le lieu, il vous  manque aussi la  terre natale,
la rivière des parfums  au vent frais et la montagne Ngự Bình au clair de lune.

 

Pont Trường Tiền (Huế)

 

Version française

Có tuổi đời nhiều hơn cầu Long Biên ở Hànội, cầu Trường Tiền ở Huế  được Hãng Schneider et Cie et Letellier thiết kế và  khởi công vào tháng 5 năm 1899 và khánh thành vào ngày 18 tháng 12 năm 1900 với sự hiện diện của vua Thành Thái. Người ta ghi nhận được một cuộc chạm trán đầu tiên của ngài với  khâm sứ Alexis Auvergne ở thời điểm khánh thành cái cầu mới bắc qua sông Hương. Tự hào về  kỳ công kỹ thuật và sự vững chắc của cái cầu, Alexis Auvergne không ngần ngại  trả lời với thái độ ngạo  nghễ: Khi nào cầu nầy sụp đổ thì nước ngài sẻ được độc lập. Để cho thấy sự quan trọng mà chính quyền thực dân đã dành cho cái cầu mới này, họ đặt cho nó một cái tên mới là cầu « Thành Thái ». Điều này khiến làm vua Thành Thái  tức giận vô cùng vì ông viện cớ rằng từ nay mọi người có thể giẫm đạp lên đầu ngài qua  cái cầu này. Ngài cấm mọi người  gọi  cầu nầy bằng tên mới và xúi giục họ sử dụng tên cũ « Trường Tiền ». Vài năm sau, trong một cơn bão dữ dội năm thìn (1904), cái cầu nầy bị sập bốn nhịp phía bắc rơi xuống sông. Thành Thái nhanh chóng nhắc nhở lại câu nói của  Alexis Auvergne với sự hài hước  hóm hỉnh của ông. Alexis Auvergne đỏ mặt xấu hổ và buộc phải lánh trốn trước những lời  nói khó chịu này. Đến năm 1906, sàn cầu mới được đúc lại bằng xi măng. Năm 1938 cầu được nới rộng ra ở hai bên để làm chỗ cho người đi bộ.  Sau khi vua Thành Thái bị truất phế, cầu nầy mới lấy tên Georges Clemenceau, một thủ tướng Pháp có công với trận thế chiến thứ nhất.  Sau khi Pháp mất chủ quyền ở Đông Dương thì cầu lấy tên là Nguyễn Hoàng, một vị chúa Nguyễn đầu tiên được trấn thủ ở đất Thuận Hóa. Bao lần thay đổi, người dân Huế vẫn quen gọi là Trường Tiền hay Tràng Tiền  vì ở gần đó có công trường đúc tiền của nhà nước. Cầu nầy thật sự có 6 nhịp 12 vài cầu chớ không phải 6 vài cầu 12 nhịp như ca dao đã ghi nhận theo sự nhận xét của nhà nghiên cứu Trần Đức Anh Sơn. Bởi lẽ, cầu này có năm trụ ớ giữa, cùng với hai mổ cầu ở hai đầu, chia chiếc cầu ra sáu khoảng không gian bằng nhau (6 nhịp).  Mỗi nhịp có 2 chiếc vài ở hai bên nhầm thay đổi mômen  lực, chuyển từ lực tác động xuống một điểm trên cầu (do người và vật đi qua) thành lực dàn đều trên mặt cầu, tránh sự cộng hưởng lực và nguy hại cho tuổi thọ chiếc cầu.

Dù có rất nhiều cầu bắc ngang sông Hương nhưng cầu Trường Tiền vẫn được người dân Huế ưa thích vì nó  có  nét đẹp riêng tư.  Cái duyên dáng của nó  như chiếc trâm cài trên mái tóc của nàng thơ tên là sông Hương được nhắc đến trong bài viết của Trần Đức Anh Sơn.  Nhìn thoáng  qua từ đằng xa, cầu gồm 6 nhịp dầm thép hình vành lược được thiết kế theo phong cách gô tíc, ở đầu cầu phía bắc thỉ  có chợ Đông Ba còn ở đầu phiá nam thì   có khách sạn  lâu đời Morin (1906). Cầu  Trường Tiền nay là một biểu tượng lịch sử quan trong ở cố đô Huế.

Version française

Plus ancien que le pont Long Biên  à Hanoï, le pont Trường Tiền  de Huế fut  conçu par la compagnie Schneider et Letellier en mai 1899.  Celle-ci commença à le construire  en mai 1899 et fêta son inauguration   le 18 décembre 1900 en présence du roi Thành Thái. On nota la première altercation virulente  de ce dernier avec le résident général Alexis Auvergne au moment de l’inauguration du nouveau pont enjambant la Rivière des Parfums. Fier de la prouesse technique et sûr de la solidité du pont, Alexis Auvergne n’hésita pas à dire à Thành Thái avec son  ton arrogant:

Quand vous aurez vu ce pont s’écrouler, votre pays sera indépendant.

Pour montrer l’importance que les autorités coloniales ont donnée à ce nouveau pont, elles lui octroyèrent un nouveau nom « Thành Thái ». Cela rendit l’empereur furieux car en prenant le prétexte que tout le monde put piétiner sur sa tête par le passage de ce pont, il interdît à ses sujets de l’appeler avec le nouveau nom et les incita se servir de l’ancien nom  « »Trường Tiền » .Quelques années plus tard, lors du passage d’une tempête violente (1904), le pont s’écroula  avec ses 4 travées dans l’eau. Thành Thái ne tarda pas à rappeler à Alexis Auvergne ce qu’il lui avait dit avec son humour noir. Alexis Auvergne rougit de honte et fut obligé de déguerpir devant ces propos gênants. En 1906, le nouveau tablier du pont fut refondu avec du ciment. En 1938, le pont fut élargi des deux côtés pour accueillir les piétons. Après la destitution du roi Thành Thái, ce nouveau pont prit  le nom de Georges Clemenceau, l’ancien premier ministre français ayant rendu des services méritoires à la Première Guerre mondiale.

Après que La France avait perdu la souveraineté  en Indochine, le pont prit le nom de Nguyễn Hoàng,  le premier seigneur des  Nguyễn  chargé  d’être le gouverneur du territoire Thuận Hóa. Malgré la changement de nom en plusieurs fois, les gens de Huế aimaient à l’appeler  encore sous le nom de Trường Tiền ou Tràng Tiền car à  sa proximité se trouvait un atelier de l’état destiné à faire des pièces de monnaie. Ce pont a en fait 6 travées et 12 butées mais non  pas 6 butées et  12 travées comme cela a été dit dans  la chanson populaire  selon la remarque  du  Dr.Trần Đức Anh Sơn.

Du fait que ce pont a cinq piles  au milieu, ainsi que deux culées à ses deux extrémités, il est divisé  en six espaces égaux (6 travées). Chaque travée comporte une butée de chaque côté  ayant le rôle de modifier la poussée  en  rendant  la force d’impact d’un point du pont (causée par le passage de personnes et d’objets) en une force uniformément répartie sur le tablier du pont, ce qui permet d’éviter  la résonance des forces et des dommages pour renforcer la pérennité du pont.

Bien qu’il y ait  de nombreux ponts sur la Rivière des Parfums, le pont Trường Tiền est préféré par les gens de Huế car il se distingue par sa  beauté particulière.  Son charme a été évoqué par le chercheur Trần Đức Anh Sơn comme  celui d’une broche accrochée dans la chevelure d’une jeune fille aimée  nommée  « Sông Hương » (Rivière des Parfums)  En l’observant de loin, on constate que ce pont se compose de 6 travées de poutres en acier en forme de peigne conçues dans un style gothique. À l’extrémité nord du pont se trouve le marché Đông Ba et à son extrémité sud, il y a l’hôtel Morin datant de l’époque coloniale  (1906) . Le pont Trường Tiền devient aujourd’hui  un symbole historique important dans l’ancienne capitale de Huế.