Trước khi chúa Tiên Nguyễn Hoàng xây dựng chùa Thiên Mụ hay Linh Mụ vào năm 1601 ở trên đồi Hà Khê nằm phiá tã ngạn sông Hương thì chính ở nơi nầy đã có trước đó một nền thảo am của những người đến khai khẩn vùng đất nầy lập lên tên là Thiên Mỗ. Chuyện nầy được ghi nhận lại bởi một danh sỹ Dương Văn An đời nhà Mạc có công trạng viết về núi sông, thành trì, phong tục ở miền Thuận Hoá (Bình Trị Thiên và Bắc Quảng Nam) trong Ô Châu Cận Lục vào 1553. Như vậy vùng đất nầy thuộc về dân tộc Chàm vì các di tích thành Lồi của họ được tìm thấy gần đây chỉ cách thành phố Huế có 4 cây số. Khi Nguyễn Hoàng được vua Lê Anh Tông làm Tổng Trấn Tướng Quân kiêm quản cả Quảng Nam và Thuận Hóa ở Đàng Trong thì ông đã có ý định muốn làm nên nghiệp lớn. Lúc đầu ông đóng quân ở (phiá bắc của Quảng Trị ngày nay). Có một lần ông đi dò dẫm các vùng lân cận thì ông mới khám phá ra đồi Hà Khê. Ông được nghe dân gian kể là nơi này có một bà lão mặc áo đỏ quần lục hay thường xuất hiện và cũng là nơi mà Cao Biền (Kao Pien) viên tướng tài nhà Đường (Trung Quốc), làm quan cai trị Việt Nam vào thế kỷ IX. Giỏi thuật số và thông địa lý, ông cho người đào hố ở phiá sau đồi để cắt đứt các long mạch và phá linh khí tránh sự xuất hiện của một chân tu đến đây lập chùa và làm cho nước Nam hùng mạnh. Đã có ý đồ làm chúa ở xứ Đàng Trong từ lâu, ông không ngần ngại ra lệnh lấp hố, tụ lại linh khí làm bền vững long mạch và truyền lệnh xây dựng một ngôi chùa trên nền thảo am của đồi tên là Thiên Mụ ngoảnh mặt ra sông Hương để thoả mản ý nguyện trông đợi của dân chúng. Vì sợ quấy rầy bởi những thần linh địa phương có khả năng mang lại cho ngườì dân Việt một cuộc sống tồi tệ trong cuộc Nam Tiến nên họ hay thường sử dụng những nơi có dấu tích văn hóa Chàm để chuyển vị các chốn nầy vào thế giới tâm linh và làm nơi thờ tự của họ. Họ đang cố gắng thiết lập sự hài hòa giữa sức mạnh siêu nhiên và thời gian ở các lãnh thổ mà họ đã chinh phục được. Đó là trường hợp thánh địa Pô Nagar nơi mà nữ thần Chăm Uma được người dân Việt giành lại sở hữu và không ngần ngại biến chuyển truyền thuyết Po Nagar thành truyền thuyết của mình và được dàn xếp lại theo cách riêng tư nhưng dù sao họ cũng không xóa bỏ được hết nền tảng của truyền thuyết Chàm. Nữ thần của Chiêm Thành do đó trở thành Thiên Y A Na (hay Thiên Y Thánh Mẫu) của người dân Việt. Sự chiếm đoạt sở hữu này còn được thấy ở những địa danh khác của Việt Nam trong cuộc Nam Tiến: Bà Đen ở Tây Ninh hay nữ thần Chúa Xứ ở núi Sam (Châu Đốc).
Vì vậy cái thảo am nầy của người Chàm tên là Thiên Mỗ cũng không ngoài lệ. Nó được dựng cất lại thành một ngôi chùa mang tên là Thiên Mụ đấy thôi. Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An thì chúa Nguyễn Kiêm nhận thấy phong cảnh thoát tục hữu tình của ngôi chùa cổ kính nầy nên cho xây lại ngôi chùa để được khang trang hơn. Chùa nầy lúc đầu cũng sơ sài mà thôi nhưng được nổi tiếng từ khi hoà thượng Thích Đại Sán (hay Thạch Liêm) ở Quảng Đông được chúa Nguyễn Phước Chu, một người rất sùng đạo Phất, mời qua để truyền bá những lời dạy hay giáo lý của Đức Phật tại chùa. Chúa còn cho đúc chuông lớn và có làm bài minh khắc trên chuông vào năm 1710. Chùa nầy còn được trùng tu nhiều lần, lần đầu vào năm 1665 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần, sau đó bị binh hỏa tàn phá nặng nề dưới thời nhà Tây Sơn (1786-1801) và được tu sửa lại dưới thời ngự trị của vua Gia Long (1815) và Minh Mạng (1831). Phải đợi đến năm 1844, năm mà bà Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu, vợ của vua Gia Long thọ được 80 tuổi thi vua Thiệu Trị cử thống chế Hoàng Văn Hậu xây dựng chùa lại một cách quy mô, có thêm tháp Phương Duyên cao 7 tầng (21 thước) và đình Hương Nguyện. Còn dưới thời vua Tự Đức, để tránh động đến Trời vua đổi danh từ Thiên Mụ thành ra Linh Mụ trong thời gian (1862-1869). Năm 1904, với trần bão dữ dội ở Huế, đình Hương Nguyện bị sụp đổ và chỉ được trùng tu lại 3 năm sau dưới thời ngự trị của vua Thành Thái. Chính ngài nhân dịp lễ mừng thọ 90 tuổi của bà Từ Dũ, vợ của vua Thiệu Trị, cho bộ Công tu bổ tháp Phước Duyên và dựng bia kỷ niệm. Ngày nay, nhờ sự hài hoà giữa kiến trúc cổ kính của chùa và cảnh sắc nên thơ bên dòng sông Hương, chùa Thiên Mụ trở thành một danh lam thắng cảnh của đất nước.
Avant d’entamer la construction de la pagode de la Dame céleste (Thiên Mụ) par le premier seigneur Tiên Nguyễn Hoàng de la famille des Nguyễn en 1601 sur la colline Hà Khê située sur la rive gauche de la Rivière des Parfums, il y avait déjà à cet endroit la fondation d’un pagodon connu sous le nom Thiên Mỗ. Ce dernier appartenait aux gens venus exploiter cette région. Ce fait était signalé par le célèbre écrivain Dương Văn An de l’époque de la dynastie des Mạc, à qui l’on attribue le mérite de décrire les montagnes, les rivières, les citadelles et les coutumes de la région de Thuận Hóa (Bình Trị Thiên et dans le nord de Quảng Nam) dans son œuvre intitulée Ô Châu Cận Lục (Composition moderne sur le district Ô Châu) en 1553. Cette région appartenait ainsi aux gens du Champa car les reliques de leur citadelle Lồi étaient retrouvées récemment à 4 kilomètres de la ville de Huế.
Lors de la nomination de Nguyễn Hoàng en tant que général-administrateur des régions Quảng Nam et Thuận Hóa dans le pays Đàng Trong (le centre du Vietnam actuel) par le roi Lê Anh Tông, il a déjà eu l’intention de faire une belle carrière politique. Il s’installa au début avec son armée à Ái Tử (dans le nord de l’actuel Quảng Tri). Une fois, en explorant les environs, il découvrit la colline de Hà Khê. On le fit connaître dans cet endroit l’histoire d’une vieille dame venant du Ciel et portant une chemise rouge et un pantalon vert. Mais ce lieu était aussi l’endroit où le talentueux général de la dynastie Tang Cao Biền (Kao Pien) chargé d’administrer le Vietnam au 9ème siècle et connu pour l’art de la divination et le Feng Shui, tenta de creuser le fossé derrière de la colline. Cela permit de couper les veines du dragon et détruire toutes les énergies positives pour éviter l’apparition d’un vrai moine venu ici pour construire à l’avenir un temple et rendre le Sud plus puissant.
Ayant eu longtemps l’intention d’être le seigneur à Đàng Trong, il ordonna à obturer sans hésitation le fossé dans le but de faciliter la concentration des énergies positives et renforcer les veines du dragon et construire sur l’ancien emplacement du pagodon de la colline une pagode orientée vers la Rivière des Parfums. Il lui donna ainsi le nom Thiên Mụ (Dame céleste) pour répondre à l’attente et la volonté de la population. Afin d’éviter d’être dérangés par les esprits locaux qui pourraient leur apporter une vie exécrable durant leur marche vers le Sud (Nam Tiến), les Vietnamiens n’hésitèrent pas à faire usage des vestiges de la culture du Champa pour les transposer dans leur propre univers religieux et les faire devenir leurs propres lieux de culte. Ils tentèrent d’établir une harmonie entre les puissances surnaturelles et temporelles dans les territoires qu’ils avaient réussi à conquérir. C’est le cas du sanctuaire de Pô Nagar où la déesse du Champa Uma a été appropriée par les Vietnamiens. Ceux-ci n’hésitèrent pas à assimiler la légende de Po Nagar dans une mythologie arrangée à leur manière sans réussir à effacer le substrat cham du mythe. La déesse du Champa devenait ainsi Thiên Y A Na (Thiên Y Thánh Mẫu) des Vietnamiens. Cette appropriation se renouvelait à d’autres endroits du Vietnam lors de la marche vers le Sud: la Dame Noire à Tây Ninh ou la déesse Chúa Xứ au mont Sam (Châu Đốc).
C’est pourquoi le temple cham nommé Thiên Mỗ ne fait pas exception. Il a été reconstruit pour devenir la pagode nommée Thiên Mụ. Selon le chercheur Phan Thuan An, le seigneur Nguyễn Kiêm, séduit par le charmant paysage de cette ancienne pagode, ordonna sa reconstruction pour la rendre plus spacieuse. Cette pagode était très rudimentaire à son début. Elle devint célèbre à partir du moment où le moine Thích Đại Sán (ou Thạch Liêm) venant de Guangdong, avait été invité par le seigneur Nguyễn Phước Chu, un grand dévot du bouddhisme, à diffuser les bons enseignements de Bouddha dans cette pagode. Ce seigneur fit couler une grande cloche et fit graver une inscription sur cette dernière en 1710. Cette pagode fut restaurée à plusieurs reprises, d’abord en 1665 sous le règne du seigneur Nguyễn Phúc Tần. Elle subit ensuite de gros dégâts provoqués par l’incendie à la période des Tây Sơn (Paysans de l’Ouest)(1786-1801) et des remaniements importants sous les règnes des empereurs Gia Long (1815) et Minh Mang (1831). Puis il faut attendre l’évènement qui eut lieu en 1844. C’est l’année où l’impératrice mère Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu, épouse du roi Gia Long, fêta son anniversaire à 80 ans pour que roi Thieu Tri chargeât le maréchal Hoàng Văn Hậu de reconstruire la pagode à grande échelle en y ajoutant la tour Pháp Duyên (7 étages) et le pavillon Hương Nguyện.
Sous le règne du roi Tự Đức, afin d’éviter de déranger le « Ciel », le roi a changé son nom de Thiên Mụ en Linh Mụ durant la période (1862-1869). En 1904, à cause de la violente tempête à Huế, le pavillon Hương Nguyện s’effondra et ne fut restauré que trois ans plus tard sous le règne du roi Thành Thái. C’est lui qui, à l’occasion du 90ème anniversaire de la reine Từ Dũ, épouse du roi Thiệu Trị, demanda au ministère public de restaurer la tour Phước Duyên et d’ériger une stèle commémorative.
Aujourd’hui, grâce à l’harmonie entre l’architecture ancienne de la pagode et le paysage poétique au bord de la Rivière des Parfums, la pagode Thiên Mụ est devenue un lieu pittoresque du pays.