Chùa Thiên Mụ (Pagode de la Dame céleste)

 

 

Version française

Trước khi chúa Tiên Nguyễn Hoàng  xây dựng chùa Thiên Mụ hay Linh Mụ vào năm 1601  ở trên đồi Hà Khê  nằm phiá tã ngạn sông Hương  thì chính  ở nơi nầy đã có trước đó  một nền thảo am của những người đến khai khẩn vùng đất nầy lập lên tên là Thiên Mỗ. Chuyện nầy được ghi nhận lại bởi một danh sỹ Dương Văn An đời nhà Mạc có công trạng  viết về núi sông, thành trì, phong tục ở miền Thuận Hoá  (Bình Trị Thiên và Bắc Quảng Nam) trong Ô Châu Cận Lục  vào 1553.  Như vậy  vùng đất nầy thuộc về dân tộc Chàm  vì các di tích thành Lồi của họ được tìm thấy gần đây chỉ cách thành phố  Huế có 4 cây số. Khi Nguyễn Hoàng được  vua Lê  Anh Tông làm Tổng Trấn Tướng Quân kiêm quản cả  Quảng Nam và Thuận Hóa ở Đàng Trong thì ông đã có ý định muốn làm nên nghiệp lớn.  Lúc đầu ông đóng quân ở   (phiá  bắc của Quảng Trị  ngày nay). Có một lần ông đi dò dẫm các vùng lân cận thì ông mới khám phá ra đồi Hà Khê. Ông được nghe dân gian kể là nơi này  có một  bà lão mặc áo đỏ quần lục hay thường xuất hiện  và cũng là nơi mà Cao Biền (Kao Pien)  viên tướng tài nhà Đường (Trung Quốc), làm quan cai trị Việt Nam vào thế kỷ IX. Giỏi thuật số và thông địa lý, ông cho người đào hố ở  phiá sau đồi để  cắt đứt các long mạch và phá linh khí tránh sự xuất hiện của một chân tu đến đây  lập chùa và  làm cho nước Nam hùng mạnh. Đã có ý đồ làm chúa ở xứ Đàng Trong từ lâu, ông không ngần ngại ra lệnh lấp hố, tụ lại linh khí làm bền vững long mạch và  truyền lệnh xây dựng một ngôi chùa trên nền thảo am của đồi  tên là Thiên Mụ ngoảnh mặt ra sông Hương  để thoả mản ý nguyện trông đợi của dân chúng. Vì sợ quấy rầy bởi  những thần linh  địa phương có khả năng mang lại cho ngườì dân Việt  một cuộc sống tồi tệ trong cuộc Nam Tiến nên họ hay thường sử dụng những nơi có dấu tích  văn hóa Chàm để  chuyển vị các chốn  nầy  vào thế giới tâm linh và làm nơi thờ tự của họ. Họ đang cố gắng thiết lập sự hài hòa giữa sức mạnh siêu nhiên và thời gian ở  các lãnh thổ mà họ đã chinh phục được. Đó là trường hợp thánh địa Pô Nagar nơi mà nữ thần Chăm Uma được người dân Việt giành lại sở hữu và không ngần ngại biến chuyển  truyền thuyết Po Nagar thành truyền thuyết của mình và  được dàn xếp  lại theo cách riêng tư nhưng dù sao họ cũng không xóa bỏ được hết nền tảng của truyền thuyết Chàm. Nữ thần của Chiêm Thành do đó trở thành Thiên Y A Na (hay Thiên Y Thánh Mẫu) của người dân Việt. Sự chiếm đoạt sở hữu  này còn được thấy ở những địa danh khác của Việt Nam trong cuộc Nam Tiến: Bà Đen ở Tây Ninh hay nữ thần Chúa Xứ ở núi Sam (Châu Đốc).

Vì vậy cái thảo am nầy  của người Chàm tên là Thiên Mỗ cũng không ngoài lệ. Nó được dựng cất lại thành một ngôi chùa mang  tên là Thiên Mụ đấy thôi.  Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An thì chúa Nguyễn Kiêm nhận thấy phong cảnh thoát tục hữu tình của ngôi chùa cổ  kính nầy nên cho xây lại ngôi chùa để được  khang trang hơn.  Chùa nầy lúc đầu cũng  sơ sài mà thôi nhưng được nổi  tiếng  từ khi  hoà thượng Thích Đại Sán  (hay Thạch Liêm)  ở Quảng Đông  được chúa  Nguyễn Phước Chu, một người rất sùng đạo Phất,  mời qua để  truyền bá những lời dạy hay giáo lý của Đức Phật tại chùa.  Chúa  còn cho đúc chuông lớn và có làm bài minh khắc trên chuông vào năm 1710.  Chùa nầy còn được trùng tu nhiều lần, lần đầu vào năm 1665 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần, sau đó bị binh hỏa tàn phá nặng nề dưới thời nhà Tây Sơn (1786-1801) và được tu sửa lại dưới thời ngự trị của vua Gia Long (1815)  và Minh Mạng (1831).  Phải đợi đến năm 1844, năm mà  bà Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu, vợ của vua Gia Long thọ  được 80 tuổi thi vua Thiệu Trị cử thống chế Hoàng Văn Hậu xây dựng chùa lại một cách quy mô, có thêm tháp Phương Duyên cao 7 tầng (21 thước)  và đình Hương Nguyện. Còn dưới thời vua Tự Đức, để tránh động đến Trời vua đổi danh từ Thiên Mụ thành ra Linh Mụ trong thời gian (1862-1869). Năm 1904, với trần bão dữ dội ở Huế, đình Hương Nguyện bị sụp đổ và chỉ được trùng tu lại 3 năm sau dưới thời ngự trị của vua Thành Thái. Chính ngài  nhân dịp  lễ mừng thọ 90 tuổi của bà Từ Dũ, vợ của vua Thiệu Trị, cho bộ Công tu bổ tháp Phước Duyên và dựng bia kỷ niệm. Ngày nay, nhờ sự hài hoà giữa kiến trúc cổ kính của chùa và cảnh sắc nên thơ bên dòng sông Hương, chùa  Thiên Mụ trở thành một danh lam thắng cảnh của đất nước.

Version française

Avant d’entamer la construction de la pagode de la Dame céleste (Thiên Mụ)  par  le premier seigneur Tiên Nguyễn Hoàng de la famille des Nguyễn en 1601 sur la colline Hà Khê  située  sur la rive gauche de la Rivière des Parfums, il y avait déjà à cet endroit  la fondation  d’un pagodon connu sous le nom Thiên Mỗ. Ce dernier  appartenait  aux gens  venus  exploiter cette région. Ce fait  était signalé  par le  célèbre écrivain  Dương Văn An de l’époque de la dynastie des  Mạc, à qui l’on attribue le mérite de décrire les montagnes, les rivières, les citadelles et les coutumes de la région de Thuận Hóa (Bình Trị Thiên  et dans le nord de Quảng Nam) dans son œuvre intitulée Ô Châu Cận Lục (Composition moderne sur le district Ô Châu) en 1553.  Cette région appartenait  ainsi aux gens du Champa  car les reliques de leur citadelle Lồi étaient retrouvées récemment à 4 kilomètres  de la ville de Huế.

Lors de la nomination de  Nguyễn Hoàng en tant que général-administrateur des régions Quảng Nam et Thuận Hóa  dans le pays Đàng Trong (le centre du Vietnam actuel) par le roi Lê Anh Tông, il  a déjà eu l’intention de faire une belle carrière politique. Il s’installa au début avec son armée à  Ái Tử (dans le nord de l’actuel Quảng Tri). Une fois, en explorant les environs, il découvrit la colline de Hà Khê. On le fit connaître dans cet endroit l’histoire d’une vieille dame  venant du Ciel et  portant une chemise rouge et un pantalon vert. Mais ce lieu était aussi l’endroit où le talentueux général de la dynastie Tang Cao Biền  (Kao Pien)  chargé d’administrer le  Vietnam au 9ème siècle et connu pour l’art de la divination et le Feng Shui,  tenta de creuser le fossé derrière de la colline. Cela permit de couper les veines du dragon et détruire toutes les énergies positives pour éviter l’apparition d’un vrai moine venu ici pour construire à l’avenir un temple et rendre le Sud plus puissant.

Ayant eu longtemps l’intention d’être le  seigneur à Đàng Trong, il ordonna  à obturer sans hésitation  le fossé   dans le but de faciliter la concentration des énergies positives et renforcer les veines du dragon et construire sur l’ancien emplacement du pagodon de la colline une pagode orientée vers la Rivière des Parfums. Il  lui donna ainsi  le nom Thiên Mụ (Dame céleste) pour répondre à l’attente et la volonté de la population. Afin d’éviter d’être dérangés par les esprits locaux qui pourraient leur apporter une vie exécrable durant leur marche vers  le Sud (Nam Tiến), les Vietnamiens n’hésitèrent pas à faire usage des vestiges de la culture du Champa pour les transposer dans leur propre univers religieux et les faire devenir leurs propres lieux de culte. Ils tentèrent d’établir une harmonie entre les puissances surnaturelles et temporelles dans les  territoires qu’ils avaient réussi à conquérir. C’est le cas du sanctuaire de Pô Nagar où la déesse du Champa Uma a été appropriée  par les Vietnamiens. Ceux-ci n’hésitèrent pas à assimiler la légende de Po Nagar dans une mythologie arrangée à leur manière sans réussir à effacer le substrat cham du mythe. La déesse du Champa devenait ainsi Thiên Y A Na (Thiên Y Thánh Mẫu) des Vietnamiens. Cette appropriation se renouvelait  à d’autres endroits du Vietnam lors de la marche vers le Sud: la Dame Noire à Tây Ninh ou la déesse Chúa Xứ au mont Sam (Châu Đốc).

C’est pourquoi  le temple cham nommé Thiên Mỗ ne fait pas exception.  Il a été reconstruit pour devenir la pagode nommée Thiên Mụ. Selon le chercheur Phan Thuan An, le seigneur  Nguyễn Kiêm, séduit par le charmant paysage de cette ancienne pagode, ordonna sa reconstruction pour la rendre  plus spacieuse. Cette pagode était très rudimentaire à son début.  Elle  devint  célèbre à partir du moment où le moine Thích Đại Sán (ou Thạch Liêm) venant  de Guangdong, avait  été invité par le seigneur Nguyễn Phước Chu, un grand dévot du bouddhisme, à diffuser les bons enseignements de Bouddha dans cette pagode. Ce seigneur fit couler une grande cloche et fit  graver une inscription sur cette dernière en 1710. Cette pagode fut restaurée à plusieurs reprises, d’abord en 1665 sous le règne du seigneur Nguyễn Phúc Tần. Elle  subit ensuite  de gros dégâts provoqués par l’incendie à la période des Tây Sơn (Paysans de l’Ouest)(1786-1801) et  des remaniements importants sous les règnes des empereurs  Gia Long (1815) et Minh Mang (1831). Puis il faut attendre l’évènement qui eut lieu en 1844. C’est l’année où  l’impératrice mère Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu, épouse du roi Gia Long, fêta son anniversaire à 80 ans pour que  roi Thieu Tri chargeât  le maréchal Hoàng Văn Hậu de reconstruire la pagode à grande échelle en y ajoutant la tour Pháp Duyên (7 étages) et le pavillon Hương Nguyện.

Sous le règne du roi Tự Đức, afin d’éviter de déranger le « Ciel »,  le roi a changé son nom de Thiên Mụ en Linh Mụ durant la période (1862-1869). En 1904, à cause de la violente tempête à Huế, le pavillon Hương Nguyện s’effondra  et ne fut restauré que trois ans plus tard sous le règne du roi Thành Thái. C’est lui qui, à l’occasion du 90ème anniversaire de la reine Từ Dũ, épouse du roi Thiệu Trị, demanda au ministère public  de restaurer la tour Phước Duyên et d’ériger une stèle commémorative.

Aujourd’hui, grâce à l’harmonie entre l’architecture ancienne de la pagode et le paysage poétique au bord de la Rivière des Parfums, la pagode Thiên Mụ est devenue un lieu pittoresque du pays.

 

Rivière des parfums (Hương Giang)

 

Sông Hương

Version française

Được  phát nguyên từ hai  nguồn tả và hữu trạch nguyên ở miền thượng lưu của dãy núi Trường Sơn, sông Hương chảy qua kinh thành  Huế rồi đến cửa Thuận An trước khi ra biển Đông. Nước sông thường trong với màu xanh ngọc và im phăng phất như mặt hồ ở  trong một môi trường thiên nhiên cây cỏ hoa lá khiến tạo ra một vẻ đẹp yên tỉnh và mơ mộng nhất là dọc theo ven sông có  một số  công trình kiến trúc hài hoà  độc đáo như chùa Thiên Mụ, Văn Thánh, điện Hòn Chén và các lăng của các vua triều Nguyễn. Khi còn thuộc vương quốc Chămpa,  sông nầy mang tên chi không ai biết cả cho đén ngày nay.  Chỉ biết trong « Ô Châu Cận Lục » của Dương văn An ấn hành vào 1555  dưới  triều nhà Mạc và « Phủ biên tạp lục »  của Lê Quí Đôn vào khoảng năm 1776 thì sông nầy được gọi là Linh Giang. Không biết bao giờ nó lại mang tên sông Huơng.  Sở dĩ nó được cư dân gọi với tên sông Hương vì nó có mùi thơm đặc biệt tỏa ra từ thân rễ Thạch xương bổ, một loại thực vật mọc ven hai  bờ sôngSông nầy được  vua Thiệu Trị ca tụng về sau trong bài thơ « Hương Giang hiểu phiếm »  trong một cuộc dạo thuyền lúc ban mai. Còn người đời  gọi sông Hương là « cô gái duyên dáng của miền Trung » hay là nàng thơ của xứ Huế trong một bài viết « Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp … » của nhà nghiên cứu Trần Đức Anh Sơn trong tạp chí 3/5/2021 Heritage (*).  Du thuyền trên sông Hương  vào một đêm trăng thanh là một cuộc du ngoạn vô  cùng thích  thú nhất là nếu có dịp được nghe tiếng hò thanh tao của các cô lái đò Huế.  Không biết bao giờ sông Hương đã trở thành một nguồn cảm hứng vô tận cho những ai có  nổi niềm tâm sự  đến đây như Nguyễn Du, tác giả của kiệt tác « Kim vân Kiều » chỉ cần thấy mảnh trăng ở trên sông Hương để gợi  lại một mối sầu muôn thưở mà cũng muốn nói lên cái thân phận ở chốn quan trường chỉ  biết khom lưng vâng dạ ở chế độ  phong kiến.

Hương giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu.

Đào Tấn, một nhà soạn tuồng nổi tiếng Việt Nam dưới thời vua Tự Đức cũng có lần  nhắc đến sông Hương qua áng thơ  văn bằng chữ Hán:

Cộng ẩm Hương Giang thủy
Vô nhân thức thủy hương

Cùng uống nước sông Hương,
Không có người cảm được mùi thơm của nước.

Còn sĩ phu  Cao Bá Quát  phấn khởi với hào khí của mình thì nhìn sông Hương như một thanh kiếm dựng đứng giữa trời xanh bao la:
Trường giang như kiếm lập thanh thiên.
Nhà thơ Thu Bồn cũng đã để lại gần đây những câu thơ bất hủ về sông Hương:

Con sông dùng dằng, con sông không chảy,
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu.

Phải người Huế đi đâu cũng vẫn lưu luyến chốn quê nhà  cũng nhớ  đến sông Hương như người Nam với dòng sông Cửu Long muôn thưở:   

Anh đã từng vô Nam ra Bắc
Thấy nhiều nơi cảnh sắc cũng xinh
Đi mô cũng nhớ quê mình
Nhớ Hương Giang gió mát, nhớ Ngự Bình trăng thanh.

(*) Tạp chí của VietnamAirLines 3/5/2021

Version française

En provenance de deux sources situées à  gauche et à droite  dans les  hautes régions de la chaîne de montagnes Trường Sơn, la rivière des parfums traverse la cité impériale de Huế puis l’estuaire de Thuận An avant d’entrer dans la mer de l’Est. Son eau est en général  limpide, de couleur turquoise et  elle est aussi calme comme celle  du lac dans un environnement naturel de plantes et de fleurs, ce qui lui confère ainsi une beauté tranquille et rêveuse, en particulier tout  le long de la rivière avec un grand nombre  d’œuvres architecturales harmonieuses et originales telles que la pagode de la Dame Céleste, le temple du Confucius, le temple du bol de jade (Hòn Chén) en l’honneur de la déesse  Thien Y A Na (Mère divine) et les mausolées des rois de la dynastie des Nguyễn. Au temps où elle appartint encore au royaume du Champa, cette rivière dut avoir  un nom que personne ne connait pas jusqu’à aujourd’hui.

Selon la monographie intitulée «Ô Châu cận lục» de Dương Văn An publiée en 1555 sous la dynastie des Mạc et l’ouvrage « Phủ biên tạp lục » de l’érudit Lê Quí Đôn vers 1776, cette rivière prit le nom  Linh Giang.  On ne connait pas exactement l’époque à laquelle elle a été nommée  « la Rivière des Parfums ». La raison pour laquelle les gens du lieu l’appellent ainsi est due au fait qu’elle  a un arôme particulier émanant du rhizome Thạch xương bồ (Acorus gramineus), une plante qui pousse le long des rives de la rivière. Celle-ci a été évoquée ensuite par le roi Thiệu Trị dans son poème intitulé « Hương Giang hiểu phiếm » lors d’une promenade en bateau le matin.

Pour les gens du coin, elle est appelée «  la charmante fille de la région du Centre  » ou la muse de Huế dans un l’article intitulé « Le pont Trường Tiền a six butées et douze travées … » du chercheur Trần Đức Anh Sơn dans la magazine Heritage (*)

Une promenade en bateau sur la rivière des Parfums par une nuit au clair de lune est une excursion extrêmement agréable, surtout si on a l’occasion d’entendre le chant éthéré des batelières de Huế. On ne sait pas quand  la Rivière des Parfums est devenue une source d’inspiration inépuisable pour ceux qui ont les confidences à révéler en venant  ici comme Nguyễn Du, l’auteur du chef-d’œuvre « Kim Vân Kiều »: il suffit de voir un morceau de la lune sur la Rivière des Parfums pour  lui rappeler la tristesse sempiternelle et évoquer l’époque féodale où  le mandarin n’avait qu’à obéir aux ordres en courbant sa tête.

Hương giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu.

Đào Tấn, un  compositeur d’opéra vietnamien très  connu sous le règne du roi Tự Đức, a eu l’occasion de mentionner un jour la Rivière des Parfums à travers son poème écrit en caractères chinois:

Cộng ẩm Hương Giang thủy
Vô nhân thức thủy hương.

On boit ensemble l’eau de la rivière des parfums
Aucun ne réussit à déceler le parfum de l’eau.

Quant au  lettré  Cao Bá Quát, enthousiasmé par sa grandeur d’âme, il considère  la Rivière des Parfums comme une épée dressée  sous un immense ciel bleu.

Le poète Thu Bồn a laissé récemment des vers immortels sur la Rivière des Parfums:

Con sông dùng dằng, con sông không chảy,
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu.

La rivière hésite, la rivière ne coule pas,
La rivière coule dans le cœur des gens de Huế qui l’affectionnent tellement.

Même les gens de Huế, où qu’ils aillent, sont toujours attachés à leur terre natale  et se souviennent aussi de la rivière des Parfums comme les gens du Sud avec l’éternel Mékong:

Anh đã từng vô Nam ra Bắc
Thấy nhiều nơi cảnh sắc cũng xinh
Đi mô cũng nhớ quê mình
Nhớ Hương Giang gió mát, nhớ Ngự Bình trăng thanh.

Vous avez eu l’occasion d’aller au Sud et de venir au Nord
Partout vous avez découvert un magnifique   paysage
Peu importe le lieu, il vous  manque aussi la  terre natale,
la rivière des parfums  au vent frais et la montagne Ngự Bình au clair de lune.

 

Nghinh Lương Đình (Pavillon de l’embarcadère royale)

Version française

Nghinh Lương đình  được xây dựng ở bờ bắc sông Hương, trước mặt toà Phu Văn Lâu dưới triều vua Tự Đức vào năm 1852 và được trùng tu lại dưới đời vua Thành Thái nhưng bị cơn bão vào năm 1904 nên công trình bị tàn phá nặng nề.  Sau nầy được dưới thời ngự trị của vua Khải Định (1918)  được xây dựng lại và kết nối với bến thuyền liền nhau nhưng vẫn giữ chức năng cũ. Đây là  nơi nghỉ chân và hóng mát của nhà vua trước khi xuống thuyền rồng để du ngoạn trên sông Hương. Công trình nầy được nằm dài  trên trục  chính từ Kỳ Đài truớc cửa Ngọ Môn  đến Phu Vân Lâu và  có một kiến trúc theo kiểu phương đình. Một gian, 4 chái được nối dài ra ở phía trước và phía sau  với nhà vỏ cua   qua máng xối được cấu tạo từ vật liệu kim loại. Bốn mặt của gian chính giữa đều được để trống. Còn ở giữa  bờ nóc của gian chính thì có  lưỡng long chầu nhật . Còn nhà vỏ cua thì ở bờ mái cũng có hình hồi long chầu mặt nguyệt  và ở cuối các bờ quyết  thì trang trí hình chim phượng. Các vì kèo gỗ được chạm trổ  một cách công phu ở trên mặt  với các hình ảnh mang các đề tài  bát bửu như: tù và, quạt vả, phát trần,  lẵng hoa và bầu rượu.  Mái nhà chính lợp ngói ống lưu ly vàng, hai nhà vỏ cua lợp ngói liệt men vàng.  Nghinh Lương đình  được xây dựng trên nền cao khoảng 90 cm cùng bó vỉa bằng gạch vồ và đá thanh.  Nơi phiá bờ sông thì có 13 bậc cấp dẫn xuống một hành lang xây sát mặt nước sông Hương. Nghìn Lương Đình là một trong hai công trình kiến trúc cùng Phu Văn Lâu không có nằm ở trong Đại Nội. Tuy nhiên hai công trình nầy được mọi người ở Việt Nam đều biết đến luôn cả du khách ở nước ngoài  vì hình ảnh của nó được in trên  tờ giấy 50.000 đồng Việt Nam.

Version française

Le pavillon Nghinh Lương a été construit devant Phu Văn Lâu (pavillon des Édits) sur la rive nord de la Rivière des Parfums sous le règne de l’empereur Tự Đức  en 1852. Puis  il  a été restauré à l’époque de l’empereur  Thành Thái . Puis il a subi  des dégâts importants  lors de la tempête  en 1904. Plus tard, sous le règne du roi Khải Đinh (1918), il a été reconstruit presque entièrement et relié à l’embarcadère tout en gardant son ancienne fonction. C’est le lieu de repos et de détente de l’empereur  avant de prendre une excursion en bateau sur la rivière des Parfums. Cet ouvrage architectural est situé sur l’axe principal de la tour du mât (Kỳ Đài) située en face de la porte principale Ngọ Môn jusqu’au pavillon des Édits (Phu Van) et possède une architecture du style de la maison communale. Une grand espace  entouré de 4 appentis, se prolonge en avant et en arrière par des maisons « en coquille de crabe » au moyen des gouttières de drainage en matériau métallique. L’espace central ne possède aucune porte  sur ses quatre côtés. Par contre  au milieu de son arête faitière,  on voit apparaître un globe enflammé (foudre)  vers lequel les deux dragons tournent la tête. Quant à la maison en « coquille de crabe », sur le toit, on retrouve également un couple  de dragons rendant hommage à la lune et l’ornement d’un phénix au bout de ses extrémités. Les fermes de toit en bois sont minutieusement sculptées sur leur façade avec des motifs représentant  la série des huit joyaux: corne, éventail en forme de feuille de figuier, époussette, panier de fleurs et calebasse à vin.

Le toit principal est recouvert de tuiles « Yin et Yang » jaunes et les deux maisons en coquille de crabe ont leurs tuiles vernissées jaunes. Le pavillon  Nghinh Lương a été construit sur une plate-forme d’environ 90 cm de haut avec les dalles de trottoir en pierre « thanh ». Au bord de la rivière, il y a  13 marches facilitant la descente vers un couloir construit près de la surface de l’eau de la Rivière des Parfums. Le pavillon « Nghinh Lương » est l’une des deux œuvres architecturales avec le pavillon  Phu Van, qui ne font pas partie de la Cité pourpre interdite. Pourtant, ces deux joyaux architecturaux sont connus de tous les gens y compris les touristes étrangers  au Vietnam car leur image est imprimée sur le billet de 50 000 VND.

 

 

Suối mơ (Ruisseau de rêve)

Version française

English version

Thác mơ là một địa điểm được ưa thích bởi người dân cư ở Lăng Cô, HuếĐà Nẵng. Nó nằm cách xa thành phố Huế cỡ chừng 65 cây số và 45 cây số với thành phố Đà Nẵng. Nhờ vị trí không xa chi cho mấy với hai thành phố nên thường thấy cư dân ở các thành phố nầy hay đến đây tham quan và thư giãn lúc cuối tuần, nhất là với thời tiết nóng oi của miền trung. Địa điểm nó còn hoang dã nên du khách có thể hoà mình  với cảnh vật thiên nhiên và nghỉ chân dưới các nhà chòi tre được dựng dọc theo dòng suối với tiếng nước  thì thầm trong vắt tựa pha lê.

La cascade de rêve (ou ruisseau de rêve) est un lieu de prédilection pour les habitants de Lăng Cô, Huế et Đà Nẵng. Elle est située à peu près 65 kilomètres de la ville de Huế et 45 kilomètres de la ville de Đà Nẵng. Grâce à son emplacement  pas trop éloigné de ces deux villes, il est fréquent de voir leurs habitants venir jusqu’ici pour se détendre surtout à la fin de la semaine, notamment sous  la chaleur suffocante dans le centre du Vietnam. L’endroit est encore sauvage si bien que  les visiteurs peuvent donc s’immerger dans le paysage naturel et  se détendre  sous les toits en bambou construits tout le long du ruisseau murmurant  aux eaux limpides comme du cristal.

Dream Waterfall (or Dream Creek) is a favorite place for the people of Lăng Cô, Huế and Đà Nẵng. It is located about 65 kilometers from Huế city and 45 kilometers from Đà Nẵng city. By its favourable geographic position not too far from these two cities, it is common to see their residents coming here to relax, especially at the end of the week, in the sweltering heat of central Vietnam. The place is still wild so visitors can immerse themselves in the natural landscape and relax under the bamboo roofs built along the babbling brook with crystal clear water.

Le lagon Lập An (Lăng Cô, Thừa Thiên Huế)

Đầm Lập An (Lăng Cô, Thừa Thiên Huế).

Version française

English version

Nằm bên cạnh quốc lộ số 1 ở trong thị trấn Lăng Cô,  được bao bọc bởi núi Bạch Mã hùng vĩ,  đầm Lập An là một địa điểm tuyệt vời vì nó có nét đẹp hoang sơ và yên tĩnh mà còn có phần huyền ảo và kì diệu với ánh nắng lấp lánh dưới nước và mây phủ trên trời cùng vài chiếc thuyền chài neo trong đầm khiến tạo ra cho du khách có được một phong cảnh hữu tình. Nơi nầy có một thời xa xưa, đầm nầy còn được gọi là đầm sam vì trong đầm có nhiều con sam theo sách Đại Nam nhất thống chí  dưới thời vua Tự Đức nhà Nguyễn. Sau đó nó còn có nhiều tên khác  được gọi như Đầm Hậu hay Đầm An cư. Có một diện tích rộng 800 héc ta, đầm nầy là nơi giao thoa giữa biển và sông khiến đầm có nước lợ  tiện lợi  cho  cư dân ở đây khai thác để nuôi các loại thủy sản nhất là hàu đá trong môi trường thiên nhiên.  Lúc đầu dựng các cọc gỗ xuống đầm để hàu bám vào sinh sống. Tuy nhiên việc sử dụng cọc gỗ này tốn kém chi phí quá  nhiều vì  gỗ dễ  bị hỏng và thường xuyên mất rất  nhiều thời gian trong việc thay thế. Sau đó, người dân nhận thấy việc nuôi hàu bằng lốp xe cũ ít tốn kém chi phí và lại có thể sử dụng được lâu dài nên chuyển sang dùng lốp xe để nuôi hàu.  Hàu được nuôi phổ biến hiện nay trên giá thể lốp cao su. Có đến hàng ngàn chiếc lốp xe cũ được người dân thả xuống đầm để làm chỗ nuôi hàu hay vứt bên cạnh đầm khiến làm ô nhiễm môi trường trong nước.  Bởi vậy  phương thức nuôi bằng lốp xe sẽ  được thay thế trong tương lai bằng nuôi bè tre âm mặt nước. Đến đây, du khách có thể thưởng thức  các món ăn hải sản trong vùng ở các quán ăn được dựng lên ở xung quanh đầm.

Lagon Lap An

Version française

Situé à côté de la route nationale n ° 1 dans la ville de Lang Co et  entouré par  la majestueuse montagne Bạch Mã (Cheval Blanc), le lagon  Lập An est un endroit formidable car il  se distingue par la beauté d’une nature sauvage et sa tranquillité mais aussi  par la magie trouvée dans les rayons du soleil scintillant dans l’eau du lagon sous le ciel fréquemment nuageux,  ce qui crée avec quelques bateaux de pêche amarrés dans le lagon un paysage extraordinaire pour les visiteurs. À  une époque lointaine, on lui a donné le nom du  « lagon des limules » car on y a trouvé   beaucoup de limules selon le livre « Đại Nam nhất thống chí » sous le règne de  l’empereur Tự Đức de la dynastie des Nguyễn. Ensuite, ce lagon a pris d’autres noms comme Đầm Hậu ou Đầm An Cư. D’une superficie de 800 hectares, ce lagon est le lieu de croisement  entre la mer et le fleuve, ce qui rend son eau légèrement  salée dont les gens d’ici profitent pour élever toutes sortes de fruits de mer, notamment les huîtres de roche dans un milieu naturel. Au début, ils installaient des piquets en bois dans le lagon pour faire vivre les huîtres. Cependant, l’utilisation de ces piquet en bois coûte trop cher car ils se détériorent  facilement dans l’eau. Cela prend souvent beaucoup de temps pour leur remplacement. Après cela, les gens se sont rendu compte que l’élevage d’huîtres avec de vieux pneus coûte moins cher et leur emploi peut être durable. Alors le recours à  de vieux  pneus devient une nécessité dans l’ostréiculture. Les huîtres sont  désormais élevées sur des substrats de pneus en caoutchouc. Beaucoup de vieux pneus totalement usés et jetés  visiblement dans le lagon polluent  ainsi son milieu aquatique. C’est pour cela que la méthode d’élevage sur de vieux pneus sera remplacée dans  l’avenir par l’utilisation des radeaux en  bambou flottant à la surface de l’eau. En venant ici, les visiteurs peuvent déguster des fruits de mer  dans les restaurants installés autour du lagon.

English version

Located adjacent to  national road No. 1 (mandarin road)  in Lang Co City and surrounded by the majestic Bạch Mã (White Horse) Mountain, Lập An Lagoon is a great place because it is distinguished by the beauty of a wild nature and its tranquility but also by the magic found in the sun  rays glistening in the lagoon  water under the frequently cloudy sky, which creates with some fishing boats moored in the lagoon an extraordinary scenery for visitors. A long time ago, it was named the « horseshoe crab lagoon » because many horseshoe crabs were found here according to the book « Đại Nam nhất thống chí » during the reign of Emperor Tự Đức of the Nguyễn Dynasty. Next, this lagoon took other names such as Đầm Hậu or Đầm An Cư. Covering an area of 800 hectares, this lagoon is at the intersection of the sea and the river, which make its water slightly salty. People here take advantage of this situation in the seafood farming, in particular rock oysters in a natural environment. In the beginning, they installed wooden stakes in the lagoon to give life to the oysters. However, the use of this wooden stake is too expensive because it deteriorates easily in water. It often takes a long time to replace it. After that, people realized that oysters farming with old tires is cheaper and their use can be sustainable. So the use of old tires became a necessity in oyster farming. Oysters are now reared on rubber tire substrates. A lot of old tires, completely worn out and visibly thrown into the lagoon, pollute its aquatic environment. Therefore, the method of farming on old tires will be replaced in the future by the use of bamboo rafts floating on the  water surface. Visitors to the lagoon can enjoy seafoods in the restaurants around the lagoon.

Elevage des huîtres avec des piquets en bois
Nuôi hàu với các cọc gỗ ở đầm Lập An.

                                                                                                   

 

Pont doré de Ba Na Hills (Cầu vàng)

 

Được thiết kế bởi công ty TA Landscape Architecture có trụ sở ở TP Hồ Chí Minh và khánh  thành vào tháng 6 năm 2018 ở địa danh Bà Nà Hills, cái cầu vàng nầy  nó được dựng lên như một dải lụa đào màu vàng xinh đẹp  nhờ hai bàn tay nâng đở giữa một môi trường thiên nhiên.   Không những nó trở thành tuyệt tác ở nơi nầy và thu hút rất đông du khách ở trong và ngoài nước mà nó còn được nhắc  đến trong tờ báo Guardian của Anh quốc và các báo  thiết kế như  Design Boom, Street Art Globe vân vân.. Nó  có  chiều dài là 150 thước cùng với  8 nhịp cầu mà  nhịp lớn nhất là 21,2 thước  và có 7 trụ.

Étant conçu par TA Landscape Architecture, basé actuellement à Hô-Chi-Minh-Ville et inauguré en juin 2018 à Ba Na Hills, ce pont doré est construit comme un long ruban  de soie doré  soulevé par les deux mains dans un environnement naturel. Il est devenu non seulement  un chef-d’œuvre réussissant à séduire de nombreux touristes nationaux et étrangers mais il est également mentionné dans le journal britannique Guardian et dans les journaux de design tels que Design Boom, Street Art Globe etc.. Il est long de 150 mètres avec 8 travées dont la plus grande est de 21,2 mètres et a 7 piliers.

Being designed by TA Landscape Architecture, currently based in Ho Chi Minh City and inaugurated in June 2018 in Ba Na Hills, this golden bridge is built as a long golden silk ribbon lifted by the two hands in a natural environment. It has not only become a masterpiece succeeding in seducing many domestic and foreign tourists, but it is also mentioned in the British Guardian newspaper and design journals such as Design Boom, Street Art Globe etc.. It is 150 meters long with 8 spans, the largest of which is 21.2 meters and has 7 pillars.

 

 

Hôi An et son secret jardin (Vườn hoa bí mật)

Vườn hoa bí mật

Version française

Dưới trời nóng gay gắt ở phổ cổ lúc 12 giờ, tụi nầy tìm được trong một ngõ hẻm một quán ăn  được gọi là « khu vườn bí mật (Secret garden) ». Thật là tuyệt vời với một bầu không khí yên tĩnh. Các thức ăn cũng ngon miệng. Cách trang trí vườn hoa  rất thơ mộng khiến tụi nầy cũng không ngờ ở phố cổ Hôi An có một không gian ẩm thực xinh xắn như thế.

secret_jardin

A 12 heures, sous le soleil accablant dans le vieux quartier de Hội An, nous avons trouvé par hasard dans une ruelle un restaurant appelé « Secret Garden ». C’est merveilleux pour nous de trouver  une ambiance parfaitement calme. Les plats  sont également délicieux. La décoration du jardin fleuri est si poétique que nous ne nous attendons pas à ce qu’il y ait un si bel espace culinaire dans le vieux quartier de Hội An.

 

Plage de Benalmadéna (Andalousie)

 


Plage de Benalmadéna (Andalousie)

Séville (Andalousie)

Andalousie

Trước khi được biết đến là thành phố  của nghệ  thuật Tây Ban Nha- Hồi giáo, Séville là thành phố đã được  chứng kiến  các  cuộc xâm lược tàn bạo, đầu tiên là bởi các người Visigoth đến từ phương Bắc  kế đó là  các người Berbères hay Maures đến từ phương Nam  qua eo biển Gilbratar và  sau cùng được chinh phục lại với các người Công giáo vào năm 1492. Đây là lý do tại sao phong cách kiến ​​trúc ở đây được thấy có sự hỗn hợp  của các nghệ thuật hồi giáo,  Roman và Gothic. Được gọi  là  phong cách Mudejar, nó  hay thường làm nổi bật các hình dạng và các màu sắc sinh động mà người du khách có  dịp được trông thấy khắp nơi ở Séville.

Avant d’être connue comme  la ville de l’art hispano-mauresque, Séville est une ville témoin de plusieurs invasions  barbares d’abord germaniques (les Wisigoths) venant du Nord  puis suivies par celles des Berbères du Sud par le détroit de Gilbratar et terminées par la reconquête chrétienne en1492. C’est pourquoi  on trouve dans son style d’architecture  un mélange de l’art à la fois  islamique mais aussi roman et gothique. Connu sous le nom de l’art Mudejar, ce mélange de style  se distingue visiblement par les formes et les couleurs vives que le touriste a l’occasion de  retrouver partout lors de son passage à Séville.

Château Colomares (Andalousie)

Château Colomares

 

Để tưởng nhớ  đến  nữ hoàng công giáo Isabelle de Castille và đặc biệt là Christophe Colomb, người đã khám phá ra thế giới mới được gọi là « Châu Mỹ », tiến sĩ Esteban Martin Martin đã bắt đầu xây dựng công trình kỳ lạ « Colomares » này vào năm 1987 trong 7 năm  liên tục với sự giúp đỡ của hai thợ nề. Nhờ  sự hiểu biết về nghệ thuật, lịch sử và kiến ​​trúc, ông đã tạo cho dinh thự này có  một phong cách vừa là Byzantine, Roman, Gothique và Maure. Đây là cách để ông tôn vinh việc  khám phá ra Châu Mỹ  bởi nước Tây Ban Nha qua các vật liệu như đá, gạch và xi măng. Lầu đài này mở cửa hàng ngày (từ 10 giờ sáng đến 6 giờ chiều) và vé vào cửa là 2 euros.

En mémoire à la reine catholique Isabelle de Castille et surtout à Christophe Colomb qui avait  découverte le nouveau monde nommé « Amérique », le Dr Esteban Martin Martin commença à construire en 1987 cette œuvre singulière « Colomares » en 7 ans de travail avec l’aide de deux maçons. Grâce à ses connaissances de l’art, de l’histoire et de l’architecture,  il a donné à cet édifice un style à la fois byzantin, roman, gothique et maure.  C’est une façon pour lui d’honorer la découverte de l’Amérique par l’Espagne  à travers les matériaux tels que la pierre, la brique et le ciment. Ce monument est ouvert tous les jours (de 10h à 18h) et le billet est de 2 euros.