Plage de Benalmadéna (Andalousie)
Andalousie
Trước khi được biết đến là thành phố của nghệ thuật Tây Ban Nha- Hồi giáo, Séville là thành phố đã được chứng kiến các cuộc xâm lược tàn bạo, đầu tiên là bởi các người Visigoth đến từ phương Bắc kế đó là các người Berbères hay Maures đến từ phương Nam qua eo biển Gilbratar và sau cùng được chinh phục lại với các người Công giáo vào năm 1492. Đây là lý do tại sao phong cách kiến trúc ở đây được thấy có sự hỗn hợp của các nghệ thuật hồi giáo, Roman và Gothic. Được gọi là phong cách Mudejar, nó hay thường làm nổi bật các hình dạng và các màu sắc sinh động mà người du khách có dịp được trông thấy khắp nơi ở Séville.
Avant d’être connue comme la ville de l’art hispano-mauresque, Séville est une ville témoin de plusieurs invasions barbares d’abord germaniques (les Wisigoths) venant du Nord puis suivies par celles des Berbères du Sud par le détroit de Gilbratar et terminées par la reconquête chrétienne en1492. C’est pourquoi on trouve dans son style d’architecture un mélange de l’art à la fois islamique mais aussi roman et gothique. Connu sous le nom de l’art Mudejar, ce mélange de style se distingue visiblement par les formes et les couleurs vives que le touriste a l’occasion de retrouver partout lors de son passage à Séville.
Château Colomares
Để tưởng nhớ đến nữ hoàng công giáo Isabelle de Castille và đặc biệt là Christophe Colomb, người đã khám phá ra thế giới mới được gọi là « Châu Mỹ », tiến sĩ Esteban Martin Martin đã bắt đầu xây dựng công trình kỳ lạ « Colomares » này vào năm 1987 trong 7 năm liên tục với sự giúp đỡ của hai thợ nề. Nhờ sự hiểu biết về nghệ thuật, lịch sử và kiến trúc, ông đã tạo cho dinh thự này có một phong cách vừa là Byzantine, Roman, Gothique và Maure. Đây là cách để ông tôn vinh việc khám phá ra Châu Mỹ bởi nước Tây Ban Nha qua các vật liệu như đá, gạch và xi măng. Lầu đài này mở cửa hàng ngày (từ 10 giờ sáng đến 6 giờ chiều) và vé vào cửa là 2 euros.
En mémoire à la reine catholique Isabelle de Castille et surtout à Christophe Colomb qui avait découverte le nouveau monde nommé « Amérique », le Dr Esteban Martin Martin commença à construire en 1987 cette œuvre singulière « Colomares » en 7 ans de travail avec l’aide de deux maçons. Grâce à ses connaissances de l’art, de l’histoire et de l’architecture, il a donné à cet édifice un style à la fois byzantin, roman, gothique et maure. C’est une façon pour lui d’honorer la découverte de l’Amérique par l’Espagne à travers les matériaux tels que la pierre, la brique et le ciment. Ce monument est ouvert tous les jours (de 10h à 18h) et le billet est de 2 euros.
Marbella
Được xem là một trong những thị trấn xinh đẹp nhất ở Costa del Sol, Marbella là một địa điểm du lịch không thể bỏ qua được. Đây là một thành phố có bề dày lịch sử vì nó được thành lập có lẽ lúc đầu bởi người La Mã và sau đó bị người Moor chiếm đóng. Đây cũng là những gì chúng ta đã thấy được ở trong khu phố lịch sử cũ qua các dấu tích còn lại. Những ngõ hẻm nhỏ rất sạch sẽ và tràn đầy những nhà hàng và cửa hiệu buôn bán mang lại cho Marbella một nét quyến rũ không thể phủ nhận được
Étant une l’une des belles villes de la Costa del Sol, Marbella est une destination touristique à ne pas manquer. C’est une ville chargée d’histoire car elle a été fondée probablement au début de son existence par les Romains puis occupée ensuite par les Maures. C’est ce qu’on a constaté dans le vieux quartier historique avec leurs vestiges. Ses petites ruelles sont tellement propres et remplies de petits restaurants et magasins qui lui donnent une touche de charme indéniable.
Vieux port de Marseille au fil de la nuit.
Thường được gọi là thành phố trên mặt nước , Venise được ra đời vào thế kỷ thứ 5 sau khi Đế chế La Mã bị sup đổ. Người dân ở đất liền tìm những vùng lân cận có đầm lầy như các hòn đảo cát Torcello, Iesolo và Malamocco để trốn tránh các người phương bắc, người Hun và cần một nơi như Venise có một vị trí để bảo đảm có nước và trong trường hơp bị vây hảm có sự tiếp tế dễ dàng và nhất là nước là hàng rào thiên nhiên chống địch. Venise vì nằm trên nhiều hòn đảo nhỏ nên được có vô số các cầu nổi. Sự xây cất nhà cửa cũng tùy thuộc tầm vóc của các căn nhà trọng đại nặng nhẹ hay không. Nếu căn nhà không nặng chi cho mấy thì được xây cất trực tiếp trên đất liền. Còn nếu không thì cần các cộc gỗ (pali) được cắm sâu vào nền đất cứng (carento) để cũng cố nền đất trước khi dựng sau đó một sàn gổ (plancher) dày hay mỏng và công việc xây cất được bất đầu với gạch (briques). Đôi khi còn cần phải tính toán trù liệu sự gặm mòn nước biển với các tòa nhà gần ven sông. Bởi thế đá đặc Istrie, một loại đá trắng có tiếng là bền, đến từ vùng Balkans được trọng dùng qua nhiều thế kỷ. Để giới hạn trọng lượng của các căn nhà, thường thấy có rất nhiều cửa sổ trên các mặt chính bằng đá , các sườn nhà bằng gỗ sồi thường đúc trong vôi vữa (mortier), các xà nhà (poutres) cũng như các rầm (solives) đều dùng để hấp thụ tất các chuyển động xuất phát từ sự hoạt động địa chấn ở phá (lagune). Khách du lịch ngoại quốc đi theo tour thường được cư trú ở ngoại ô vì ở trung tâm thành phố, giá khách sạn quá đắt đỏ một đêm có thể lên đến cả ngàn euro. Vì vậy sáng phải lấy tàu đi vào thành phố, có dịp cho tớ chụp hình thỏa mái. Đến đây không đi thuyền gondole, là mất đi niềm vui trọng đại vì bạn có dịp ngắm cảnh trong thành phố Venise qua các con kênh nho nhỏ và các ngóc ngách mà không thể nào biết khi đi bộ. Đến đây cũng không nên quên cái cầu than thở bằng gạch trắng Istrie với phong cách baroque, một cái cầu mà bao nhiêu người trước khi bị hành quyết phải đi qua. Cái cầu nầy thông đến toà án Des Doges ở quảng trường Saint Marc, có đôi hành lang và hai hướng khác nhau, một hướng là đi đến ngục tù tối ẩm thấp còn hướng kia thì đến các phòng « chì » sẻ bị ghẹt thở bởi sức nóng từ các bản chì phủ kín của các mái nhà. Đây là một « quan tài biết bay » , đó là cái tên mà nhà văn hào Pháp André Suarès dùng khi nói đến cái cầu nầy. Venise cũng là thành phố quê hương của Marco Polo, một thương gia thám hiểm nổi tiếng đã mang về, theo một giã thuyết, cách làm mì từ Trung Hoa dưới thời nhà Nguyên của Đại Hãn Hốt Tất Liêt ở đầu thế kỷ 13. Nhưng trong quyển sách tựa đề « La cuicina italiana » , ông Giuseppe Mantovano có lưu ý rằng tất cả loại mì đã có trước khi Marco Polo trở về. Như vậy có thể một loại mì nào đấy thời đó không có ở Venise được mang về không? Ở Ý , lúc nào trong menu của buổi cơm tối ở khách sạn Ý là cũng có pasta (hay pâte), đó là món ăn đầu tiên mà tớ được ăn hai ngày liên tiếp.
Connue souvent comme une ville bâtie sur l’eau, Venise prit naissance au Vème siècle après la la chute de l’empire romain. Les habitants vivant sur terre cherchèrent les alentours des régions marécageuses comme les îlots Torcello, Iesolo và Malamocco pour trouver refuge et fuir les gens du Nord , les Hun et choisirent Venise comme le lieu idéal pour son eau, un barrage naturel contre les ennemis et une nécessité primordiale en cas de siège et de ravitaillement. Étant étendue sur plusieurs îlots, Venise possède un grand nombre de ponts. Le choix de la construction des bâtisses est lié étroitement à leur taille imposante ou non. Si elle a une stature légère, elle est construite directement sur le sol. Par contre, pour les édifices plus élevés et plus imposants, on a besoin de consolider et soutenir leur fondation par la plantation des pieux (palis) de deux à quatre mètres enfoncés jusqu’à l’atteinte de la couche de la terre solide (carento) avant d’installer le plancher de bois plus ou moins épais avant de mettre en place la maçonnerie en briques. Parfois, il est nécessaire de prévoir la corrosion entamée par l’eau de mer pour les bâtisses au bord des rivières. C’est pourquoi la pierre compacte d’Istrie, connue pour sa résistance et provenant des Balkans est utilisée au fil des siècles. Pour limiter le poids de ces bâtisses, on est habitué à installer un grand nombre de fenêtres sur des façades en marbre, à employer des charpentes coulées dans le mortier, à utiliser et à assembler des poutres et des solives dans le but d’absorber les variations sismiques dans la lagune et à rendre ces bâtisses plus résistantes en les alignant côte à côte en cas des secousses telluriques. La plupart des circuits touristiques proposent des hôtels situés souvent aux alentours de Venise car le prix d’une chambre dans le centre de Venise est très élevé, pouvant atteindre jusqu’à un millier d’euros. C’est pour cette raison qu’il faut prendre l’embarcation pour atteindre le centre-ville de Venise. C’est aussi une occasion unique pour moi de pouvoir prendre des photos à ma guise. En venant à Venise, on ne peut pas se passer des gondoles car c’est un plaisir inouï de nous permettre de découvrir Venise au fil de l’eau dans les recoins.
On ne peut pas oublier non plus le pont des Soupirs en marbre blanc d’Istrie de style baroque, un pont que les prisonniers ont dû emprunter avant la sentence. Donnant accès au palais des Doges, ce pont possédait deux couloirs dans deux directions différentes, l’un emmenant le condamné dans un cachot humide et tout sombre et l’autre dans des cellules où le prisonnier serait suffoqué rapidement par l’excès de la chaleur emmagasinée dans les toits recouverts de plaques en plomb. C’est le « sarcophage qui s’envole », une expression employée par l’écrivain français André Suarès pour désigner ce pont. Venise c’est aussi la ville natale du marchand explorateur célèbre Marco Polo. Selon une vieille légende toujours tenace jusqu’à aujourd’hui, c’est lui qui aurait introduit les pâtes en Italie après les avoir ramenées de Chine au début de la dynastie des Yuan (Kubïlai Khan). Mais dans son ouvrage intitulé « La cuicina italiana », Giuseppe Mantovano a noté que plusieurs sortes de pâtes étaient déjà présentes avant le retour de Marco Polo. Peut-être y a-t-il une variété de pâte inconnue ramenée à cette époque à Venise? En Italie, dans le menu du dîner proposé par les hôtels italiens, il y a toujours du pasta (pâte). C’est le plat d’entrée que j’ai eu deux jours de suite dans les hôtels italiens.
Thành phố của các kênh đảo
Versions vietnamienne et française
Tọa lạc tại phía bắc của đồng bằng Lombardie, Milan thường được xem là một trong những thành phố thời trang nổi tiếng hàng đầu ở Âu Châu cùng Paris và Londres. Milan không những là thành phố thứ nhì của Ý Đại Lợi mà còn là thành phố mua sắm lý tưởng nhất vì Milan hội tụ những nhà thiết kế tài ba như Giorgio Armani, Guccio Gucci, Gianni Versace vân vân…Galerie Vittorio Emanuele II ở quảng trường Plazza del Dumo được coi là trung tâm mua sắm cổ xưa nhất thế giới với hai tọa nhà mái vòm có trần nhà kính, một dài 196 m một ngắn 105,5 m. Hai tọa nhà nầy đụng nhau thành hình chữ thập latin ở giữa dưới vòm hình bát giác bằng kính cao hơn 40 m . Dưới vòm nầy, có 4 tranh ghép mảnh tượng trưng phù hiệu của 4 vùng Milan, Florence, Turin và Rome. Ở cuối cổng ngang mặt quảng trường Plazza del Dumo thì có một khải hoàn môn còn ở cuối cổng đối diện phiá sau là nhà hát lớn nhất ở Châu Âu thời đó Opéra La Scala. Galerie nầy được đặt theo tên vị vua đầu tiên có công thống nhất vương quốc Italie. Công trình kiến trúc đặc sắc này được thiết kế bởi kiến trúc sư Giuseppe Mengoni. Ông nầy một ngày trước khi công trình được hoàn thành (tháng 12 năm 1877), bị té chết từ trên đỉnh vòm khải hoàn môn.
Còn thánh đường Milan, đây là một kiến trúc phong cách gô tích, và tân cổ điển với diện tích gần 12000 m2, dài 157 m, rộng 93m, có sức chứa đến 4000 người. Nó được xem là nhà thờ lớn nhất ở Ý Đại Lợi và được xếp hàng thứ 4 ở châu Âu chỉ sau nhà thờ St Pierre ở Vatincan, Saint Paul ở London và nhà thờ Seville của Tây Ban Nha. Nhà thờ được xây bằng gạch đá cẩm thạch trắng , làm quyến rũ các du khách khi đến tham quan với 2000 bức tượng trong đó có bức tượng David chặt đầu Goliath và 136 mũi tên trang trí ở các mặt chính. Đây là một kiệt tác không thể bỏ qua khi đến Milan. Nhưng muốn xem bên trong nhà thờ thì mất ít nhất 2 tiếng rưởi. Rất tiếc thì giở không có nên mình không có thể xem được cây thánh giá của Léonard de Vinci. Được xây cất vào năm 1386 dưới sự thúc đẩy của lãnh chúa Gian Galeazzo Visconti nhưng được hoàn thành sau 500 năm khi hoàng đế Napoléon Bonaparte muốn được phong làm vua của Ý Đai Lợi ở thánh đường Milan. Khi nhắc đến thành phố Milan thì không thể nào không nói đến gia đình Visconti , một gia tộc qúi phái có quyền lực từ thờ i Trung Cổ đến thời kỳ Phục Sinh (Renaissance) từ 1277 đến 1447. ở vùng Lombardie. Có một đạo diễn nổi tiếng thuộc gia tộc nầy đó là ông Luchino Visconti được biết đến với bộ phim The Leopard (1963) và Death in Venice (1971).
Située dans dans le nord de la Lombardie, Milan est considérée comme l’une des villes connues pour la mode en Europe avec Paris et Londres. Milan n’est pas non seulement la deuxième ville d’Italie mais elle est aussi un lieu idéal pour le shopping car elle réunit tous les grands stylistes célèbres comme Giorgio Armani, Guccio Gucci, Gianni Versace etc… Située à Plazza del Duomo, la galerie Vittorio Emanuele II est considérée comme le plus vieux centre commercial du monde constitué de deux passerelles couvertes des toits en verre et en acier, l’une longue de 196 m et l’autre courte de 105,5 m. Ces deux dernières se rejoignent en forme de croix latine en leur milieu sous un dôme octogonal haut plus de 40 mètres. Au dessous de celui-ci il y a 4 mosaïques représentant chacune un écusson de chaque région: Milan, Florence, Turin et Rome. À l’extrémité d’une passerelle située en face de la place Plazza del Dumo se trouve un arc de triomphe tandis qu’à l’autre extrémité opposée il y a l’opéra La Scala connu à cette époque comme la plus grandiose en Europe. Cette galerie prend pour nom Vittorio Emanuele II, celui qui a réussi à unifier l’Italie. Ce projet de construction est conçu et réalisé par l’architecte Giuseppe Mengoni. Ce dernier est décédé en tombant du haut de la dôme de l’arc de triomphe la veille du jour de la cérémonie d’ouverture. (décembre 1877)
Quant à la cathédrale de Milan, c’est un chef d’oeuvre architectural de style gothique et néo-classique avec une superficie de 12000 m2, longue de 157 m et large de 93 m et ayant la possibilité de contenir 4000 personnes. Elle est considérée comme la plus grande église en Italie et placée au 4 ème rang en Europe derrière les cathédrales Saint Pierre à Vatican, Saint Paul à Londres et Séville en Espagne. Cette église est édifiée en marbre d’un blanc immaculé, ne cesse pas de séduire les touristes lors de leur visite avec 2000 statues parmi lesquelles se trouve la statue de David portant dans sa main la tête de Goliath et 136 flèches ornementales sur ses façades extérieures. C’est une oeuvre architecturale d’une beauté extraordinaire qu’il est difficile de ne pas voir lorsqu’on est à Milan. Pour voir l’intérieur de l’église, il faut compter 2 h et demie. Il est regrettable pour nous d’avoir peu de temps pour y voir le crucifix de Léonard de Vinci. Cette cathédrale a été édifiée au début sous l’impulsion du seigneur Gian Galeazzo Visconti mais sa finition a eu lieu seulement 500 ans plus tard lorsque l’empereur Napoléon Bonaparte avait l’intention d’y être couronné roi d’Italie. En parlant de Milan, on ne peut pas évoquer la famille noble Visconti ayant eu à cette époque un pouvoir politique incontestable du Moyen Âge jusqu’à la Renaissance (de 1277 à 1447) en Lombardie. Un metteur en scène issu de cette famille, Luchino Visconti est très célèbre pour ses deux films The Leopard (1963) et Death in Venice (1971).