
Version française
Tên thật của ông là Ngô Tuấn và ông là con của Sùng Tiết tướng quân Ngô An Ngữ và bà Hàn Diệu Chi. Cha ông, Ngô An Ngữ là tướng của Khai Quốc vương Lý Long Bồ, con thứ hai của Lý Thái Tổ. Ông sinh vào năm 1019 và mất vào năm 1105 dưới thời vua Lý Nhân Tông. Ông là cháu 6 đời (chút) của tướng Ngô Quyền, nguời có công dành lại độc lập cho tộc Việt sau trận chiến oanh liệt ở sông Bạch Đằng chống lại nhà Nam Hán. Tuy rằng ông lập nhiều đại công hiển hách đánh Tống bình Chiêm, một nhà chiến lược đa tài không kém chi như Đức Trần Hưng Đạo và Quang Trung nhưng ông có không ít nho gia khinh khi ông chỉ vì ông là một hoạn quan nên trong sách sử của nước ta có bốn quyển cũ như Đại-Việt sử-ký, Lê Văn-Hưu, Việt sử-lược, Việt-Điện U-Linh và Thiền Uyển Tập Anh ngự-lục chỉ nói qua loa ngoài trừ nhà học giã Hoàng Xuân Hãn viết lại về Lý Thường Kiệt một quyển sách rất nghiêm túc vì ông không những dựa trên tài liệu sử Việt mà còn có luôn cả tài liệu sử Trung Hoa và các bia sử nữa nhất là ông có cái lý luận của nhà khoa học.
Tại sao Lý Thường Kiệt trở thành hoạn quan? Đây là một câu hỏi hóc búa cho đến nay không có phần giải đáp thích đáng. Theo học giã Hoàng Xuân Hãn, việc ông tịnh thân là sự thật, sử ta cũng như sách Mộng-khê-bút-đàm của người Tống đều nói ông là một hoạn quan. Dựa trên bia chùa Linh-Xứng và sách Việt-Điện U-Linh (VĐUL) của Lý Tế-Xuyên (đời nhà Trần) thì vào khoảng hai mươi tuổi, Lý Thường Kiệt đã được cử vào cung và giữ chức Hoàng-môn chỉ-hậu nhằm để hầu hạ vua Lý Thái Tông từ năm 1041 đến năm 1053. Vì lẽ gì ông lại tĩnh thân để làm hoạn quan ? Có nhiều thuyết về việc nầy. Theo sách VĐUL, thì vua Lý Thái Tông thấy mặt mũi ông đẹp đẽ, cho ông tiền ba vạn, bảo tự yếm. Thuyết nầy không có lý vì số tiền ban thưởng nó quá lớn nếu tính vào thời điểm đó triều đình có thể nuôi được 75000 quân lính trong khoảng ba năm. Vã lại ta nên nhớ rằng ông thuộc gia đình có danh giá nhất là cha ông Ngô An Ngữ là một công thần của nhà Lý nên ít nhiều ông cũng thừa hưởng cùng em Lý Thừa Hiển một gia sản của người cha để lại cũng đủ để anh em có một cuộc sống cũng như con cái của các quan lại ở trong triều thời đó.
Ông còn là người tài năng xuất chúng, văn võ song toàn thì việc vào cung cũng không phải là chuyện khó khăn. Chỉ cẩn một cuộc kỳ thi võ công do triều đình tổ chức, ông có thể đậu ngay và trở thành một võ quan một cách dễ dàng. Ông không phải là một hoạn quan bẩm sinh vì theo nguồn sử liệu từ văn bia, các bản sắc phong tại nhiều đền thờ Lý Thường Kiệt thì ông có nhiều vợ. Theo phả họ Ngô Việt Nam thì chép rằng, ông « lấy vợ sớm, 16 tuổi sinh con, không may chết cả mẹ và con. Sau lấy vợ khác, một bà họ Tạ, một bà vợ nữa là Lý Thị Duy Mỹ ». Theo tác giả Đinh Ngọc Thu (Nghiên Cưu Lịch Sử) thì ông có một mối tình với Dương Hồng Hạc tức là hoàng hậu Thượng Dương sau nầy với vua Lý Thánh Tôn. Dương Hồng Hạc là con của Dương Đức Uy và là cháu gọi hoàng hậu Thiên Cảm, vợ vua Lý Thái Tông, bằng cô. Khi hoàng hậu Thiên Cảm được vua Lý Thái Tông sủng ái, cha của bà là Dương Đức Thành được phong làm Tể Tướng và cháu của bà là Dương Hồng Hạc được bà mai mối gã cho thái tử Nhật Tôn tức là (Lý Thánh Tôn về sau nầy) để tạo thêm thế lực cho họ Dương. Chính vì vậy khi lên ngôi vua, vua Lý Thánh Tôn đề phòng cảnh giác sợ có một Vương Mãng thời nhà Hán ở nước ta nên ít có thèm đoái hoài tới bà khiến bà buộc lòng phải nhờ đến Lý Thường Kiệt giúp bà nói với Nhật Tôn để được “ban hồng ân”. Nhưng vì lý do nào Lý Thường Kiệt không nhận lời giúp bà. Có lẽ vì vậy mà ông đã bị Hồng Hạc và hoàng hậu Thiên Cảm ra tay bức hại trong một đợt tĩnh thân tuyển hoạn quan vào cung. Có thể vì vậy Lý Thường Kiệt đã đứng về phe của bà Ỷ Lan chứ không phải là phe của hoàng hậu Thượng Dương trong việc tranh giành quyền “nhiếp chính” sau khi vua Lý Thánh Tông qua đời. Theo tác giả, lập luận này có lý hơn khi nhìn lại những chuyện “thâm cung bí sử” trong cung đình lúc bấy giờ.
Nhưng có một thuyết mà it ai dám nói đến nhất là nước ta từ xưa đến nay Nho Giáo vẫn giữ vai trò độc tôn trong xã hội, từ chính trị đến giáo dục. Cũng có vì thế mà thuyết nầy không được nói đến trong sử ta một cách cặn kẽ. Theo thuyết nầy mà tác giả ẩn danh chỉ được nói đến trên trang nhà « Tiếng nói hậu thế » thì do cha mẹ mất sớm hai anh em Thường Kiệt và Thường Hiển được Lý Long Bồ nhận làm con nuôi. Ngoài ra vương gia Lý Long Bồ còn nhận cả Lý Nhật Tôn (tức là Lý Thánh Tôn) làm nghĩa tử. Chính vì vậy Thường Kiệt và Lý Thánh Tôn quen biết nhau từ thưở nhỏ. Lúc đó Lý Nhật Tôn nhỏ hơn Thường Kiệt bốn tuổi. Với danh hiệu « Đệ nhất mỹ nam tử » ở kinh thành và thêm tài văn võ khó ai sánh bằng thì làm sao Lý Nhật Tôn không ưa thích và bám theo để học hỏi?. Tục lệ nhà Lý là rất coi trọng lòng dân nên cần hiểu biết cuộc sống của dân. Vì thế Lý Nhật Tôn lúc thưở nhỏ hay thường sống ở ngoài cung để hiểu được cái cơ cực và đói khổ của dân. Vì thế khi Lý Long Bộ đề nghị Lý Nhật Tôn cư ngụ ở Ngô phủ thì vua Lý Thái Tông đồng ý ngay. Chính vì vậy ngoài mặt là quan hệ chúa-tôi nhưng bên trong hai người rất gẩn gũi nhau như hình với bóng. Nếu không thành huynh đệ chi giao thì cũng thành Cao Tiệm Ly với Khinh Kha dưới thời Chiến Quốc.
Chính trong thời gian nầy, Ngô Tuấn có quen một người con gái tên là Dương Hồng Hạc. Để cô nầy khỏi quyến rũ Ngô Tuấn, Nhật Tôn đành chịu lấy Dương Hồng Hạc làm vợ nhưng khi lên ngôi vua, Lý Thánh Tôn có bao giờ sùng ái hoàng hậu Thượng Dương một ngày nào đâu. Phải nói đây là kế sách mà Nhật Tôn dùng để giữ Ngô Tuấn (Thường Kiệt) mà thôi. Có lẽ Ngô Tuấn không biết chớ Nhật Tôn là người biết rõ nhất. Sau thời gian để tang mẹ, ông nhận được lệnh trở thành Thái tử Mật thư tỉnh sự thuộc về phủ Đông Cung. Đây là một chức nửa văn nửa vỏ giúp thái tử lúc 13 tuổi để tâp làm vua. Mỗi tháng cũng thiết triều 3 lần nhưng không cùng ngày với vua. Luôn ở bên cạnh thái tử, người nầy có nhiệm vụ trình và đọc tất cả mọi tấu chương cho thái tử. Như vậy lúc nào ông cũng bên cạnh thái tử Nhật Tôn. Sau khi vào cung ông từ từ lên chức. Chưa được một kỷ (12 năm), tiếng nổi nội đình (Bia Linh Xứng). Được thăng nhiều lần, lên đến chức Đô-tri khi 35 tuổi. Ông chịu trách nhiệm giám sát các công việc hàng ngày trong hoàng cung. Nói tóm lại lúc nào ông cũng ở bên cạnh Nhật Tông luôn cả về sau lúc chinh chiến ở Chiêm Thành.
Năm 1054, Thái tử Lý Nhật Tôn kế vị, sử gọi là Lý Thánh Tông. Dưới triều Thánh Tông, Thường Kiệt lên chức Bổng hành quân Hiệu úy, một chức quan võ cao cấp. Ông thường ngày ở cạnh vua, thường can gián. Vì có công lao, ông được thăng làm Kiểm hiệu Thái Bảo rồi Thái Phó về sau, hai chức thứ 3 và thứ 2 trong Tam Công. Ông còn được hiệu Thiên Tử nghĩa nam (là con nuôi của vua) và lấy họ vua làm họ mình. Việc nầy cho thấy tình sâu nghĩa nặng giữa vua và ông, một minh quân ái quốc và một tướng dũng thương dân, còn gì đẹp hơn nhất là xã hội bây giờ tân tiến và có cái nhìn thông cảm và ai cũng bình đẳng như nhau. Có lẽ thuyết nầy là chính đáng nhất đấy khi tình cảm của họ còn là điều cấm kị dưới thời nho giáo đang thịnh vượng. Về sau vua Lý Nhân-tông coi ông như em nuôi, và ban cho ông hiệu Thiên-tử nghĩa-đệ.
Ông làm quan trải qua 3 triều vua: Thái Tông, Thánh Tông và Nhân Tông. Dưới triều Thái Tông, ông có giữ chức Đình Uý sứ, trông coi các việc về hình án trong triều. Năm 1042, vua Lý Thái Tông giao cho ông cùng với một số đại thần soạn thảo bộ Luật “Hình thư”, bộ luật này được xem là bộ luật hình sự đầu tiên của nước ta. Qua triều Lý Thánh Tôn, ông được vua tinh cậy, ủy thác nhiều nhiêm vụ trọng đại như việc thanh tra vùng Thanh Hóa, Nghệ An và cuộc nỗi loạn của dân Mường ở vùng Cẩm-thủy ngày nay. Ở vùng Thanh Hóa ông phủ dụ dân khôn khéo nên tất cả năm châu, sáu huyện, ba nguồn, hai mươi bốn động đều quy phục và được yên ổn. Còn ở vùng Cẩm-thủy nhờ quyền tiện nghi hành sự vua ban, ông cũng thành công dẹp loạn Mường đúng lúc ông 43 tuổi (1061) và cũng lần đầu tiên ông có quân công đáng kể.
Từ lúc Rudravarman III, mà sử ta gọi Chế-Củ vừa mới lên ngôi vào khoảng cuối năm 1061 thì Yan Pu Cri Rudravarmandra tổ chức vũ bị, luyện tập binh lính, không chịu cống nạp nữa sau khi vua Lý Thái Tôn đánh phá kinh đô Phật Thệ, giết Sạ Đẩu (Jaya Simhavarman II), vua cuối cùng của triều đại Chămpa Indrapura. Ngài còn lại sai sứ sang Tống cống phương vật và xin mua ngựa. Vua Tống ban cho một con ngựa bạch và cho phép mua lừa ở Quảng-châu. Chế Củ tìm cách dựa thế Tống để trả thù nước ta. Theo học giả Hoàng Xuân Hãn thì xét lại chính sách triều Lý sau này, ta sẽ thấy rằng các vua Lý có định tâm lấn nước Tống để mở bờ cõi miền bắc. Đối với Chiêm-thành hèn yếu hơn Tống vạn lần, chắc rằng vua Lý Thánh-Tông cũng muốn xâm chiếm đất đai ở phía nam. Lý Thánh-Tông là vua ta đầu tiên có óc lập một đế quốc, có danh ngang với một nước thiên tử nên mới đổi nước ta thành Đại Việt. Vì vậy đây chỉ là cái cớ để đánh Chiêm Thành và một cơ hội để dằn mặt nhà Tống có ý dòm ngó nước Đại Việt của ta. Tháng 2 năm 1069, ông theo vua Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành qua đường thủy đi thẳng vào cửa bể lớn Qui-Nhơn tên xưa là Thi-nại với 5 vạn quân cùng 200 thuyền lớn và cố ý bắt cho được Chế Củ. Từ Thăng-Long đến Cri Bonei, đã mất hết 26 ngày. Ông làm tiên phong đi đầu, bắt được Chế Củ. Để được thả về, Chế Củ phải dâng Ba châu Bố-chánh, Địa-lý, Ma-linh thuộc Chiêm-thành từ đó nhập về nước ta. Nay là địa phận Quảng-bình và phía bắc Quảng-trị. Tuy ông ở triều, nhưng được giao cho coi binh lính ở vùng Nam-Bình, có lẽ là ba châu mới giành được. Ông bấy giờ 51 tuổi.Sau cuộc chiến thắng Chiêm Thành, ba năm sau vua Lý Thánh Tôn qua đời vào năm 1072 thì lúc đó thái tử Càn Đức lên ngôi hoàng đế lúc 6 tuổi và lấy niên hiệu Lý Nhân Tôn.Có lẽ vua Lý Thánh Tôn chết đột ngột nên không để lại di chúc chi cả chớ lúc vua đi chinh phạt Chiêm Thành cùng Lý Thường Kiệt, vua giao quyền triều chính lại cho nguyên phi Ỷ Lan rõ ràng.
Thái tử còn trẻ lẽ ra trước khi mất, vua cha phải phó thác cho một đại thần.Vì vậy mới có chuyện cạnh tranh trong cung cấm. Phe Thượng-Dương thái hậu được Lý Đạo-Thành ủng hộ. Ông là Thái sư, người có chức vụ cao nhất trong triều còn Lý Thường Kiệt là thái uý, một vũ tướng cầm binh quyền trong tay đứng sau Lý Đạo Thành nên Thái hậu Thượng Dương được cầm quyền và Lý Đạo-Thành làm phụ chánh theo TT (Đại-Việt sử-ký toàn-thư. Ngô Sĩ-Liên (Lê)) và VSL(Việt-sử-lược (Trần)). Nhưng 4 tháng sau khi Nhân Tông lên ngôi, phe theo Thường-Kiệt đắc thắng. Thường-Kiệt được cất lên làm tể chấp, còn Lý Đạo-Thành bị giáng xuống chức thị lang. Vua lấy quyết định giam Thái-hậu và 72 thị nữ vào cung Thượng-Dương và ép bà phải chết theo vua cùng 72 cung nữ. Có lẽ muốn gỡ tội ít nhiều cho Ỷ-Lan, và có lẽ cho ông, ta nhận đời Lý còn giữ tục bắt các cung nhân chết theo vua. Vì đó mà Ỷ-Lan phải dựng 72 ngôi chùa về sau để chuộc tội. Theo Hoàng Xuân Hãn thì Lý Thường Kiệt có một phần trách nhiệm không nhỏ trong việc khuynh đảo Thượng-dương thái hậu. Cũng lạ sử nước ta ít nói đến Thường-Kiệt trong khoảng đầu đời vua Nhân Tông và sử ta chỉ đổ lỗi cho Linh nhân Hoàng thái hậu (Ỷ Lan) xúi con bởi ganh tị mà thôi chớ đây là vết đen trong sử xán lạn của Lý Thường-Kiệt. Lúc bấy giờ ông đã được 55 tuổi (1073).
Có nhiều triệu chứng chiến tranh ở biên thùy. Ở phía nam, Chiêm Thành bắt đầu quấy rối trở lại còn ở phía bắc nhà Tống đang âm thầm luyện binh, đóng thuyền bè, tập thủy chiến, cấm các châu huyện không được mua bán với Đại Việt và tích trữ lương thực chuẩn bị đưa quân tấn công nước ta theo kế hoạch nam tiến của Tể tướng nhà Tống là Vương An Thạch. Có lẽ vì vậy ông cần phải xóa sự hiềm khích gây ra với Lý Đạo Thành vì chuyện Thượng-dương thái hậu. Ông mời Lý Đạo-Thành từ Nghệ An trở về, giữ chức Thái-phó để coi việc dân và quân trong nước và để ông rảnh tay sắp đặt việc chống Tống. Được biết ý đồ của nhà Tống từ Khu Mật Viện Đại Việt, ông và các tướng đồng ý theo kế sách của Ỷ Lan là nước ta phải phòng thủ bằng cách chủ động đánh phủ đầu quân Tống trước , phá kho lương thực, vũ khí, đường xá và tất cả cầu cống nhằm ngăn cản cuộc xâm lăng của nhà Tống. Lúc này số quân nhà Tống đang tập hợp ở các căn cứ Ung, Khâm, Liêm khoảng 10 vạn nhưng chưa thể tác chiến được vì số quân này là tân binh vừa mới tuyển.
Quân Đại Việt đã huy động 10 vạn quân sang đánh phá căn cứ châu Ung (Nam Ninh, Quảng Tây ngày nay) của Tống, bao gồm cả lực lượng chính quy của triều đình lẫn quân của các thủ lĩnh dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc. Đạo quân của triều đình ở phía Đông do đích thân Lý Thường Kiệt chỉ huy, gồm cả thủy lục quân xuất phát từ châu Vĩnh An (Móng Cái ngày nay) rồi thần tốc lên biên giới phía Đông Bắc tới châu Khâm. Còn đạo quân của các thủ lĩnh dân tộc thiểu số ở phía Tây đặt dưới sự chỉ huy của Nùng Tôn Đản chia làm 4 mũi tiến vào đất Tống: Lưu Kỷ từ Quảng Nguyên (Cao Bằng), Hoàng Kim Mãn từ Môn Châu (Đông Khê-Cao Bằng), Thân Cảnh Phúc từ Quang Lang (Lạng Sơn) và Vi Thủ An từ Tô Mậu (Quảng Ninh) và nhắm tới châu Ung. Đạo quân phía Tây sẽ « giương Tây » nhằm để đạo quân phía Đông bất ngờ « kích Đông ».
Theo Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt dựa trên hai điều cốt yếu trong chiến lược xưa nay: triệt để dùng sở trường của mình là thủy quân, và rình chỗ bất ngờ mà đánh úp. Nhờ vậy thắng lợi hoàn toàn thuộc về quân ta ở phiá Đông với Khâm và Liêm Châu. Sau đó Lý Thường Kiệt dẫn quân đến châu Ung cùng đạo quân phía Tây quyết tâm hạ thành châu Ung. Tướng giữ thành là Tô Giám cố thủ để chờ viện quân Trương Thủ Tiết tiếp cứu đến từ Qúi Châu nhưng bị quân Đại Việt tiêu diệt cả ở ải Côn Lôn. Sau 42 ngày kiên cường, Lý Thường Kiệt hạ được thành Ung Châu nhưng quân ta cũng bị thiệt hại 10.000 quân, cùng một số voi chiến. Còn phía nhà Tống có hơn 50.000 người tử vong. Tô Giám cho 36 thân nhân tự sát rồi tự thiêu mà chết. Phá thành Ung Châu hơn 1 tháng đã mệt mỏi, Lý Thường Kiệt quyết định thu quân trở về Đại Việt để lo bố phòng và chuẩn bị phòng tuyến chặn địch. Tháng 3 năm 1076, quân nhà Lý rút khỏi Ung Châu. Theo Hoàng Xuân Hãn nhà Tống tiếc là không đánh Đại Việt trước nhưng vì có ý đồ nên bị Đại Việt đánh trước. Trong cuộc xung đột nam bắc, hai bên rất hiểu rõ ý nhau. Chỉ có bên nào khéo tính toan, hành động nhanh chóng, là bên đó thắng. Nhờ Lý Thường Kiệt nên Đại Việt đã giành thắng lợi hoàn toàn và tránh khỏi được sự thất bại về sau.
Ông còn biết để phục thù, vua Tống và tể tướng Vương An Thạch sẽ đánh nước ta vì vậy ông tự cho lệnh rút binh về nuớc ngay sau khi chiếm thành Ung Châu bằng cách dùng chiến thuật thanh dã là một trong những kế sách chống giặc ngoại xâm của cha ông ta, vườn không, nhà trống để lương thảo nuôi quân địch bị cạn kiệt bằng cách tạo cho đich gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc hành quân (phục kích, tập kích, quấy rối, đánh phá cơ sở hậu cần vân vân …) đẩy địch vào thế cùng quẫn, tiến thoái lưởng nan và làm địch từ sức mạnh hơn bão táp lúc đầu sẽ yếu dần khi chiến tranh kéo dài.
Ông bắt sống người ba châu ấy đem về nước và phá tan thành Ung Châu, là căn cứ tập trung quân để nam tiến. Ông đang soạn-sửa các phòng-tuyến để phòng-bị cuộc Tống tổng-phản-công. Ông còn biết vua Tống đang thúc giục hai nước Chiêm Thành và Chân Lạp gây hấn ở phía nam nước ta nhầm kèm kẹp nước ta vào giữa khó mà chống đở một lược hai mặt trận Như vậy sẽ làm hao tổn Đại Việt. Có lẽ vì lý do thận trọng, nước Chiêm Thành đưa ít quân lên đóng ở biên thùy nhưng không dám gây sự. Đúng là theo dự đoán của ông, vua Tống Thần Tông cử Quách Quỳ chỉ huy, Viên ngoại lang Bộ Lại Triệu Tiết làm phó tướng cho cuộc tấn công, thay đổi kế hoạch và chuẩn bị kỹ hơn cho cuộc tiến quân vào Đại Việt vào năm 1077. Họ điều động cả bộ binh lẫn thủy binh kỳ nầy lên đến 10 vạn binh (10×10.000=100000 binh lính).Trong số này 4,5 vạn là quân rút từ miền biên giới Liêu Hạ, do 9 tướng chỉ huy, một vạn ngựa và hai mươi vạn dân phu. Nhóm thủy-quân có bao nhiêu, ta không được rõ. Nhưng ta sẽ thấy quân ấy yếu và tướng bất-tài, sau này còn bị thủy quân của Lý kế Nguyên đánh bại, và sẽ không giúp cho lục-quân được có phương tiện cho đại quân vượt sông theo sư nhận xét của Hoàng Xuân Hãn. Nhóm bộ binh thì do Quách Quỳ chỉ huy cùng Triệu Tiết gồm có kỵ binh. Muốn phát huy được khí thế mạnh mẽ của kỵ binh thì cần phải làm sao qua khỏi các vùng núi hiểm trở biên thùy và xuống được đồng bằng thì ngựa mới tung hoành được và mới có thể thắng địch dễ dàng.
Bởi vậy họ phải đi vào châu Lạng, phải qua dãy núi rậm, có đèo Quyết Lý, ở trên đường từ tỉnh Lạng Sơn đến Đông Mô ngày nay. Rồi lại phải qua dãy núi lèn, đá đứng như tường, ở giữa có đường đi rất hiểm đó là ải Chi Lăng ở phía bắc huyện Hữu Lũng thuộc Lạng Sơn ngày nay. Các đạo quân Tống đã lần-lượt theo con đường từ bắc tiến xuống nam, mà dồn vào trước cái hào sâu thiên-nhiên, là con sông Cầu. Các quân nầy đóng trên bờ, từ khoảng tỉnh-lỵ Thái-nguyên đến vùng trước Thị-cầu. Đoạn sông Như Nguyệt mà Lý Thường Kiệt chọn lựa xây dựng phòng tuyến có vị trí mang tính chiến lược: có núi ở cả hai bên bờ đoạn sông có chiều dài khá rộng lên hơn 100 mét vắt ngang con đường dễ dàng nhất để vượt qua sông Cầu, con sông chặn mọi đường trên bộ có thể dùng để tiến quân vào Thăng Long. Trên khúc này có khoảng 11 bến đò ngang mà hai bến có tuổi đời lâu và quan trọng nhất là Như Nguyệt và Thị Cầu nằm trên đường giao thông quan trọng tiến vào Thăng Long và là con đường thuận lợi nhất để quân Tống vượt qua sông và tiến về Thăng Long. Lý Thường Kiệt đã cho quân lập ba phòng tuyến chặn quân Tống trên sông này ở ba đoạn: Phú Lương, Kháo Túc (tức Nham Biền) và Như Nguyệt. Sau khi các nơi khác bị thất thủ thì phòng tuyến trên sông Như Nguyệt là nơi cuối cùng chặn giặc không cho tiến vào Thăng Long.

Quân Tống có mở đường tiến công quyết liệt, có lúc đã chọc thủng chiến tuyến quân Đại Việt tràn qua sông Như Nguyệt, nhưng quân ta đều kịp thời phản kích, đẩy lùi quân Tống trở về bờ Bắc. Lý Thường Kiệt còn dùng chiến tranh tâm lý để khích lệ tinh thần quân ta chiến đấu. « Đang đêm, nghe tiếng vang trong đền đọc bài thơ « Nam Quốc Sơn Hà ».
- Nam quốc sơn hà Nam
- Nam quốc sơn hà Nam đế cư
- Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
- Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
- Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
- Sông núi nước Nam
- Sông núi nước Nam vua Nam ở,
- Rành rành định phận tại sách trời.
- Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
- Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Đây là bài tuyên ngôn độc lập của nước ta đầu tiên làm quân ta phấn khởi tấn công dữ dội. Quân Tống sợ, không đánh mà đã tan. Sự việc nầy có nhiều lý do. Không được thủy binh yểm trợ, khí hậu lam chướng, luơng thực thiếu thốn, tinh thần suy giảm nhất là Lý Thường kiệt dùng chiến lược « Dĩ dật đãi lao (« cách đánh làm hao mòn sức địch »). Dù tổn thất nặng trong cuộc chiến nhưng ông đã trù liệu cho việc bổ sung lại hoàn toàn và sẵn sàng lâm trận khiến thắc chặt thêm vòng vây và tạo áp lực to lớn từng bước ép buộc quân xâm lược phải rởi khỏi nước ta để ta dành chiến thắng với cái giá thấp nhất.
Lý Thường Kiệt biết tình thế quân Tống đã lâm vào thế tiến thoái lưởng nan nên cũng không ngần ngại sai sứ sang xin « nghị hòa » để quân Tống rút về. Quân Tống 10 phần chết đến 6, 7 phần. Còn ta cũng tổn thất không ít từ ngày chiến tranh Tống-Việt nhất là với trận Như Nguyệt, ta cũng mất nhiều danh tướng như Hoàng Chân, Chiêu Văn, Phạm Dật , công chúa Thiên Ninh, quận chúa Kim Loan, phò mã Hoàng Kiện và công chúa Động Thiên ở trận Phú Lương . Quách Quỳ chấp nhận giảng hòa và rút quân về không chờ lệnh của triều đình nhà Tống và chiếm giữ châu Quảng Nguyên và châu Tu Lang của tỉnh Cao Bằng và hai châu Tô và Mậu ở giáp giới tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn và huyện Quảng Lang (Ôn Châu, Lạng Sơn).
Đến năm 1078, Lý Nhân Tôn sai Đào Tôn Nguyên đưa voi sang cống và đỏi những châu huyện ở Quảng Nguyên. Vua nhà Tống bắt phải trả lại những người ở các châu Khâm, Liêm và Ung đã bị ta bắt về nước ta lúc ta xâm chiếm được ba châu của nhà Tống rồi mới trả lại cho nhà Lý các châu huyện nhà Lý đòi. Vua Tống còn đòi Lý xử « tội-nhân chiến-tranh ». Mà tội -nhân ấy chính là ám-chỉ Lý Thường-Kiệt. Vua Lý trả lời rất tường-tận. Đó là theo chú-thích ở sách Tục-tư-trị thông giám trường-biên. Lý Đào (Tống) (292/4a). Có lẽ đây là điều kiện mà vua Tống đưa ra để trả đất lại cho ta. Theo Hoàng Xuân Hãn rất tiếc không biết lời lẽ trả lời như thế nào chắc chắn là vua ta từ chối xử tội Lý Thường Kiệt. Còn tể tướng Vương An Thạch vì có ý đồ mở rộng lãnh thổ xuống phương Nam để lâm vào tình trạng chiến tranh Tống-Việt nên bị vua Tống phế chức và ông cũng xin từ chức do vua không nghe theo các cải cách khác của ông. Để nhà Tống khỏi mất mặt, Lý Thường Kiệt buộc lòng thôi chức Tể tướng vài năm sau và được vua cử về trị nhậm trấn Thanh Hóa vào năm 1082. Từ đó nước ta và nước Tàu lại thông sứ như cũ. Qua trận chiến nầy kéo dài có 15 tháng (1075-1077) mới thấy lúc nào dân tộc ta cũng chú trọng đến ba yếu tố: Thiên Thời, Địa Lợi và Nhân Hoà để dành thắng lợi. Lúc đó ông được 59 tuổi. Lúc này vua mới 12 tuổi. Lý Thường Kiệt lại tiếp tục gánh trách nhiệm lớn của triều đình trong công cuộc xây dựng đất nước và chăm lo đời sống nhân dân. Ở Thanh Hóa thì ông làm việc suốt 19 năm trời.
Sau đó năm 1101 vua Lý Nhân Tôn mời ông trở về giữ chức tể tướng. Lúc nầy ông đã 82 tuổi những vẫn tình nguyện cầm binh đi dẹp giặc Lý Giác ở Diễn Châu (1103) và đánh Chiêm Thành của Chế Ma Na (Jaya Harivarman IV) để giành lại ba châu mà vua Chế Củ nhường cho Đại Việt. Ông qua đời lúc ông 86 tuổi (tháng 6 năm Ất Dậu 1105). Ông được vua truy phong tước Việt Quốc Công và được dân ngưỡng mộ lập bàn thờ ở mọi nơi.
Ông là một nhà chiến lược lỗi lạc về quân sự, một nhà chính trị lão luyện, một quan văn võ kiệt xuất với bài thơ Nam Quốc Sơn Hà làm chúng ta vẫn còn cảm xúc khi đọc lại, mới thông hiểu được cái ý chí bất khuất của ông và dân tộc ta trong cuộc bảo vệ nền độc lập.
Version française

Son vrai nom était Ngô Tuấn et il était le fils du général Ngô An Ngữ et de Hàn Diệu Chi. Son père, Ngô An Ngữ était un lieutenant du prince Lý Long Bồ, le fils cadet de l’empereur Lý Thái Tổ. Il naquit en 1019 et mourut en 1105 sous le règne du roi Lý Nhân Tông. Il était le petit-fils de la sixième génération (arrière-arrière-petit-fils) du général Ngô Quyền, ayant eu le mérite de reconquérir l’indépendance du peuple vietnamien après la bataille héroïque engagée contre la dynastie des Han du Sud sur le fleuve Bạch Đằng. Bien que ce stratège talentueux au même titre que les généraux Trần Hưng Đạo et Quang Trung ait accompli de nombreux exploits en battant les Song et en pacifiant le Champa, de nombreux érudits confucéens le méprisaient du fait qu’il était un eunuque. Ainsi, dans les manuels d’histoire de notre pays tels que quatre ouvrages anciens : Đai Việt Sử Ký, Lê Văn Hưu, Việt Sử Lược, Việt Điện U Linh et Thiền Uyển Tập Anh , on fait mention de lui d’une manière très sommaire, à l’exception de l’érudit Hoàng Xuân Hãn. Celui-ci lui a consacré un ouvrage très complet car il s’appuie non seulement sur des documents historiques du Viet Nam, mais aussi ceux de la Chine et des stèles historiques des pagodes. Il a notamment la logique scientifique dans l’explication de certaines observations ou hypothèses.
Pourquoi Lý Thường Kiệt est-il devenu eunuque ? C’est une question difficile n’ayant pas encore trouvé de réponse précise. Selon l’érudit Hoàng Xuân Hãn, sa castration est avérée. C’est ce qui a été rapporté de manière affirmative dans notre histoire ainsi que le livre intitulé «Mộng Khê bútđàm » des Song. D’après la stèle de la pagode Linh-Xứng et le livre Việt Điện U Linh (VDUL) de Lý Tế Xuyên (dynastie des Trần), Lý Thường Kiệt âgé d’une vingtaine d’années, fut envoyé au palais et occupa le poste d’eunuque au service du roi Lý Thái Tông de 1041 à 1053. Pour quelle raison s’est-il castré pour devenir eunuque? Il existe de nombreuses théories à ce sujet. Selon le livre VĐUL, le roi Lý Thái Tông, frappé par sa beauté, n’hésita pas à lui donner trente mille pièces et lui demanda d’aller se castrer. Cette théorie est déraisonnable, car la récompense était trop importante à l’époque: la cour pouvant entretenir 75 000 soldats durant trois ans. De plus, il faut rappeler qu’il était issu d’une famille réputée. Son père Ngô An Ngữ, était un mandarin méritant de la dynastie des Lý. Il hérita donc avec son frère cadet Lý Thừa Hiển d’une fortune assez suffisante léguée par leur père pour qu’ils puissent vivre convenablement comme les enfants des mandarins de la cour impériale de l’époque.
Il était également un homme exceptionnellement talentueux, tant sur le plan littéraire que martial. Son entrée au palais n’était pas un obstacle majeur. Un seul examen d’arts martiaux organisé par la cour lui permit de réussir immédiatement au concours et de devenir officier. Il n’était pas non plus eunuque de naissance, car selon des sources historiques issues des inscriptions trouvées sur des stèles et des décrets royaux conservés dans de nombreux temples de Lý Thường Kiệt, il avait de nombreuses épouses. La généalogie de la famille Ngô au Vietnam rapporte qu’il « se maria jeune à l’âge de 16 ans et donna naissance à un enfant malheureusement décédé avec son épouse. Il épousa ensuite une deuxième nommée Tạ, et une dernière ayant pour nom Lý Thị Duy Mỹ ».
Selon l’auteur Đinh Ngọc Thu (Nghiên cứu lịch sử), il entretnait une brève liaison amoureuse avec Dương Hồng Hạc, devenant plus tard la future reine Thượng Dương du roi Lý Thánh Tôn. Dương Hồng Hạc était la fille de Dương Đức Uy et la nièce de la reine Thiên Cảm, épouse du roi Lý Thái Tông. Lorsque la reine Thiên Cảm bénéficia des faveurs du roi Lý Thái Tông, son père Dương Đức Thanh fut nommé premier ministre à cette époque et sa nièce Dương Hồng Hạc fut proposée aussi par elle pour devenir l’épouse du prince héritier Nhật Tôn (futur roi Lý Thánh Tôn) afin d’accroître le pouvoir à la famille Dương.
C’est pourquoi, lors de son accession au trône, le roi Lý Thánh Tôn était sur ses gardes et craignait la présence d’un Wang Mang de la dynastie des Han orientaux dans notre pays. Il ne se souciait guère d’elle. Elle fut obligée de demander à Lý Thường Kiệt de l’aider auprès de Nhật Tôn pour obtenir les « bonnes grâces ». Mais pour une raison inconnue, Lý Thường Kiệt refusa de l’aider. C’est peut-être pour cela qu’il devint la victime « castrée » d’un complot monté par Hồng Hạc et la reine Thiên Cảm lors d’une période d’isolement dans la sélection des eunuques au palais. C’est peut-être pour cette raison que Lý Thường Kiệt se rangea du côté de la concubine Ỷ Lan, et non pas de la reine Thượng Dương, dans la lutte pour le droit de « régence » lors de la mort subite du roi Lý Thánh Tông. Selon l’auteur, cet argument prend tout son sens lorsqu’on se penche sur les « histoires secrètes du palais » de la cour royale à cette l’époque.
Il existe cependant une théorie que peu de gens osent évoquer, notamment celle selon laquelle, dans notre pays, le confucianisme a toujours joué depuis longtemps un rôle prépondérant dans la société, de la politique jusqu’à l’éducation. C’est pourquoi cette théorie n’a pas été évoquée en détail dans notre histoire. Selon cette théorie, dont l’auteur anonyme n’est mentionné que sur sa page intitulée « Voix de la postérité », les deux frères Thường Kiệt et Thường Hiển ont été adoptés par le seigneur Lý Long Bộ en raison du décès prématuré de leurs parents. De plus, la famille royale de Lý Long Bộ a considéré également Lý Nhật Tôn (ou Lý Thánh Tôn) comme un des siens. C’est pourquoi Thường Kiệt et Lý Thánh Tôn se connaissaient depuis leur enfance. À cette époque, Lý Nhật Tôn avait quatre ans de moins que Thường Kiệt.
Avec le titre de « l’homme le plus beau » de la capitale et ses talents littéraires et martiaux inégalés, comment Lý Nhật Tôn pourrait-il être indifférent et ne pas le suivre dans son apprentissage ? La dynastie des Lý avait coutume de respecter le peuple. Donc il était essentiel pour lui de connaître la vie journalière de son peuple. C’est pourquoi, durant sa jeunesse, Lý Nhật Tôn vivait souvent hors du palais pour être au courant de la misère et la faim de ses sujets.
Lorsque Lý Long Bộ suggéra que Lý Nhật Tôn pouvait être logé à la résidence de la famille des Ngô, le roi Lý Thái Tông l’accepta volontiers. En apparence, il existait donc une relation de seigneur à son sujet, mais au fond, les deux hommes étaient inséparables. S’ils n’étaient pas frères, ils pourraient être devenus Gao Jianli (Cao Tiệm Ly) et Jing Ke (Khinh Kha) à l’époque des Royaumes combattants.
À cette époque, Ngô Tuấn rencontra une jeune fille nommée Dương Hồng Hac. Pour l’empêcher de séduire Ngô Tuấn, Nhật Tôn dut accepter Dương Hồng Hạc comme épouse. Cependant, lorsqu’il monta sur le trône, Lý Thánh Tôn ne voua jamais son amour à la reine Thượng Dương. Il faut dire que c’était une stratégie que Nhật Tôn employa pour garder Ngô Tuấn (Thường Kiệt). Ngô Tuấn l’ignora peut-être, mais Nhật Tôn le savait mieux que quiconque. Après le deuil de sa mère, il reçut l’ordre de devenir le « secrétaire particulier » du prince héritier au palais de l’Est. Un poste était destiné à aider le jeune prince héritier de 13 ans à apprendre à devenir roi.
Chaque mois, il tenait également la cour trois fois, mais pas le même jour que le roi. Toujours aux côtés du prince héritier, il avait le devoir de lui présenter tous les documents impériaux et de les lire. Il était donc toujours à ses côtés. Après son entrée au palais, il gravit progressivement tous les échelons. En moins d’une décennie (12 ans), sa réputation était bien établie à la cour impériale (Stèle Linh Xứng). Promu à plusieurs reprises, il atteignit le poste de Đô-tri à l’âge de 35 ans. Il était chargé de superviser tous les travaux quotidiens du palais. En bref, il était toujours aux côtés de Nhật Tông, même plus tard dans l’expédition militaire au Champa.
En 1054, le prince héritier Lý Nhật Tôn monta sur le trône, connu dans l’histoire sous le nom de Lý Thánh Tông. Sous le règne de celui-ci, Thường Kiệt fut promu au poste d’un haut fonctionnaire militaire « Bổng hành quân Hiệu úy». Il était toujours aux côtés du roi et il lui prodiguait souvent des conseils. Grâce à ses exploits, il fut promu d’abord au poste «Kiểm hiệu Thái Bảo », puis à celui de «Thái Phó », correspondant effectivement aux postes du troisième et deuxième dignitaire de la cour impériale.
Il reçut également le titre de Thiên Tử Nghĩa Nam (fils adoptif du roi) et adopta le nom de famille de ce dernier. Ce fait témoigne de la profonde affection qui unit le roi à Lý thường Kiệt : un roi éclairé et patriote et un général courageux et compatissant. Y-a-t-il quelque chose de plus beau dans la société moderne d’aujourd’hui où règne la compréhension et l’égalité entre tous ? Cette hypothèse était peut-être la plus plausible à une époque où leurs sentiments étaient encore tabous sous l’influence notable du confucianisme. Plus tard le roi Lý Nhân Tôn le considéra comme un frère adoptif et lui conféra le titre de « Thiên Tử Nghĩa Đệ ».
Il servit comme mandarin sous trois rois: Thái Tông, Thánh Tông et Nhân Tông. Sous Thái Tông, il occupa le poste de Đình Ủy Sứ destiné à superviser toutes les affaires criminelles à la cour. En 1042, le roi Lý Thái Tông le chargea, avec plusieurs autres dignitaires, de rédiger la loi « Hình Thư », considérée comme le premier code pénal de notre pays. Sous la dynastie de Lý Thánh Tôn, il bénéficia de la confiance du roi et se vit confier de nombreuses missions importantes, telles que l’inspection des régions de Thanh Hóa et de Nghệ An, ainsi que la rébellion du peuple Mường dans la région actuelle de Cẩm-thủy. Dans la région de Thanh Hóa, il réussit à persuader la population avec habileté, si bien que les cinq préfectures, les six districts, les trois sources et les vingt-quatre grottes se soumirent et connurent la paix. Dans la région de Cẩm-thủy, grâce à l’autorité royale accordée entièrement par le roi, il réprima également avec succès la rébellion Mường à l’âge de 43 ans (1061) et réalisa ainsi pour la première fois des exploits militaires significatifs.
Depuis que Rudravarman III, connu sous le nom « Chế-Củ » par notre histoire, vint de monter sur le trône vers la fin de l’année 1061, Yan Pu Cri Rudravarmandra organisa son armée, entraîna les soldats et refusa de payer tribut après que le roi Lý Thái Tôn avait attaqué la capitale de Phật Thệ (Vijaya) et tué Sạ Đẩu (Jaya Simhavarman II), le dernier roi de la dynastie chame d’Indrapura. Il envoya également un émissaire aux Song pour leur payer tribut et leur demander l’achat de chevaux. L’empereur des Song lui offrit un cheval blanc et l’autorisa à acheter des ânes à Canton. Chế Củ chercha à se servir du pouvoir des Song pour se venger de notre pays. Selon l’érudit Hoàng Xuân Hãn ayant eu l’occasion d’étudier les politiques ultérieures de la dynastie des Lý, les rois des Lý avaient l’intention d’envahir l’empire des Song pour agrandir leur pays à la frontière nord. En ce qui concerne le Champa, mille fois plus faible que l’empire des Song, il est certain que le roi Lý Thánh-Tông nourrissait aussi cette ambition également au sud. Lý Thánh Tông était notre premier roi à vouloir établir un empire jouissant d’une réputation aussi prestigieuse que celle du pays du Fils du Ciel. Il transforma donc notre pays en un grand pays des Yue (Dai Yue). Ce n’était donc qu’un prétexte pour attaquer le Champa et une occasion d’intimider la dynastie des Song continuant à convoiter notre pays Dai Yue. En février 1069, Lý Thường Kiệt suivit le roi Thánh Tông pour attaquer le Champa par la voie maritime et il se dirigea directement vers le grand estuaire de Qui Nhơn, autrefois connu sous le nom de Thị Nại avec 50 000 soldats et 200 grands navires dans le but de vouloir capturer à tout prix Chế Củ. De Thăng Long à Cri Bonei, il fallait compter 26 jours de navigation.
Chargé de conduire l’armée dans la position d’attaque, il réussit à capturer Chế Củ. En échange de sa libération, ce dernier dut céder les trois régions de Bố-chánh, Địa-lý et Mã-linh appartenant au Champa, qui étaient ainsi incorporées à notre pays. Ces régions constituent aujourd’hui les territoires de Quảng Bình et du nord de Quảng Tri. Malgré sa présence à la cour, il fut chargé de superviser les soldats dans la région de Nam-Bình, probablement les trois régions nouvellement conquises. Il avait alors 51 ans. Après la victoire sur le Champa, trois ans plus tard, le roi Lý Thánh Tôn mourut en 1072, date à laquelle le prince héritier Càn Đức monta sur le trône à l’âge de 6 ans et il prit le nom de Lý Nhân Tôn. Le roi Lý Thánh Tôn mourut subitement sans laisser de testament. Par contre au moment de la conquête du Champa avec Lý Thường Kiệt, il transmit clairement le pouvoir de la cour à sa première concubine, Ỷ Lan.
Le prince héritier était encore jeune. Normalement le roi devait confier son pouvoir à un haut fonctionnaire avant sa mort. C’est pourquoi il y avait une rivalité au palais. La faction de la reine mère Thượng Dượng était soutenue par Lý Đạo Thành. Il était le premier dignitaire de la cour, la personne occupant le poste du premier ministre sous la dynastie tandis que Lý Thường Kiệt était le deuxième dignitaire de la cour, un général qui détenait le pouvoir militaire derrière Lý Đạo Thành. Ainsi, la reine mère Thượng Dương était au pouvoir et Lý Đạo Thành était chargé de la seconder dans la régence selon les Annales complètes du Đại Việt de Ngô Sĩ Liên ( Lê) et la Brève Histoire du Việt (Trần) (VSL). Mais quatre mois après l’accession au trône de Nhân Tông, la faction suivant Thường Kiệt l’emporta. Thường Ki ệt fut promu au poste de Premier ministre, tandis que Lý Đạo Thành fut rétrogradé au poste de Thị Lang. Le roi décida d’emprisonner la reine mère et ses 72 servantes dans le palais de Thượng Duong et la força à mourir avec le roi et ses 72 servantes. Afin de disculper quelque peu Ỷ Lan et peut-être lui-même, la dynastie des Lý perpétuait la coutume de forcer les servantes du palais à mourir avec le roi. De ce fait, Ỷ Lan dut construire 72 pagodes plus tard pour expier ses péchés. Selon Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt joua un rôle important dans le renversement de la reine mère Thượng Dương. Il est également étrange que l’histoire de notre pays mentionnait rarement Thường Kiệt au début du règne du roi Nhân Tông et que notre histoire ne reprochait qu’à Linh Nhân Hoàng Thái Hậu (Ỷ Lan) d’avoir incité son fils par jalousie mais cela constituait une tache noire dans la brillante carrière de Lý Thường Kiệt. Il avait alors 55 ans (1073).
Les premiers signes de la guerre à la frontière étaient nombreux. Au sud, le Champa recommença à effectuer des harcèlements tandis qu’au nord, la dynastie des Song entraîna secrètement des troupes, construisit des bateaux, pratiqua la guerre navale, interdit aux districts de commercer avec le Dai Yue et constitua des réserves de vivres en prévision de l’envoi de troupes pour envahir notre pays, conformément au plan d’avancée vers le sud du Premier ministre de la dynastie des Song, Wang Anshi (Vương An Thach). C’était peut-être pour cette raison qu’il avait besoin d’effacer sa rancune envers Lý Đạo Thành au sujet de l’impératrice douairière Thương Dương. Il invita Lý Đạo Thành à revenir de Nghệ An pour occuper le poste de Thái Phó dans le but de gouverner le pays et diriger l’armée du pays et lui donner les mains libres pour organiser la lutte contre les Song. Mis au courant des mauvaises intentions de la dynastie des Song par la Cour suprême secrète de Đại Việt (Dai Yue), lui et ses généraux acceptèrent de suivre le plan de l’impératrice douairière Ỷ Lan. Notre pays dut se défendre en prenant l’initiative d’attaquer en premier l’armée des Song sur le sol chinois par la destruction des entrepôts des armes et de nourriture, des routes et des ponts et canalisations afin d’empêcher l’invasion des Song. L’armée des Song, forte d’environ 100 000 hommes, était concentrée dans les trois provinces de Ung Châu, Khâm Châu et Liêm Châu, mais elle ne pouvait pas être opérationnelle tout de suite car il y avait beaucoup de soldats nouvellement recrutés.
Pour attaquer la base militaire de la citadelle d’Ung Châu (aujourd’hui Nanning, Guangxi), l’armée du Đai Việt mobilisait 100 000 hommes et comprenait à la fois les forces régulières de la cour impériale et les troupes des chefs des minorités ethniques des montagnes du Nord. Ả l’Est, c’était l’armée de la cour dirigée personnellement par Lý Thường Kiêt. Elle comprenait les soldats de la marine provenant de l’unité administrative Vĩnh An (Móng Cái d’aujourd’hui). Elle fonçait immédiatement vers la frontière nord-est jusqu’à Khâm Châu. Quant à l’Ouest, c’était l’armée des chefs des minorités ethniques sous le commandement de Nùng Tôn Đán. Celle-ci était divisée en quatre groupes pour s’avancer vers l’objectif final Ung Châu dans le territoire des Song: Lưu Kỳ de Quảng Nguyên (Cao Bằng), Hoàng Kim Mãn de Môn Châu (Đông Khê-Cao Bằng), Thân Cảnh Phúc de Quang Lang (Lạng Sơn) et Vi Thủ An de Tô Mậu (Quảng Ninh). L’armée de l’Ouest allait faire la diversion « en étendant l’Ouest ( en leurrant les Song à l’Ouest) » afin de laisser à l’armée de Lý Thường Kiệt de prendre l’initiative d’attaquer soudainement le front de l’Est.
Selon Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt s’appuyait sur deux éléments essentiels fréquemment employés dans la stratégie ancienne: exploiter à fond sa force qui n’était autre que la marine et anticiper les attaques dans des endroits que l’ennemi n’attendait pas. Grâce à cela, la victoire revenait entièrement à son armée de l’Est avec les deux villes Liêm Châu (Lianzhou) et Khâm Châu (Qinzhou). Puis Lý Thường Kiệt menait son armée rejointe ensuite par l’armée de l’ouest afin de prendre la citadelle d’Ung Châu (Yonzhou). Le général chargé de garder la citadelle, Tô Giám (Su Jian), résistait vaillamment dans l’attente des renforts de Trương Thủ Tiết (Zhang Shoujie) venant de Quý Châu (Gui Zhou) . Malheureusement ces renforts étaient complètement anéantis par l’armée du Đai Việt au col de Côn Lôn (Kunlun).
Après 42 jours de vaillance, Ly Thuong Kiet s’empara de la citadelle de Yonzhou mais son armée subit quand même 10 000 soldats tués et de nombreux éléphants de guerre. Du côté des Song, plus de 50 000 personnes périrent. Tô Giám laissa 36 de ses proches se suicider avant de s’immoler par le feu. Après plus d’un mois de combats contre la citadelle de Yonzhou (Ung Châu), Lý Thường Kiệt, épuisé, décida de retirer ses troupes et de retourner au Đại Viêt pour préparer ses défenses et établir une ligne de défense contre les ennemis. En mars 1076, l’armée des Lý se retira de la ville Yonzhou. Selon Hoàng Xuân Hãn, les Song regrettaient de ne pas avoir attaqué le Đai Việt en premier, mais, en raison de leurs intentions, ce dernier les attaqua en premier. Dans le conflit entre le Nord et le Sud, les deux camps se comprenaient parfaitement. Seul celui qui savait calculer et agir rapidement pouvait l’emporter. Grâce à Lý Thường Kiệt, le Đại Viêt a remporté une victoire complète et a évité une future défaite. Il savait aussi que pour se venger, l’empereur des Song et le chancelier Wang Anshi attaqueraient bientôt notre pays. Il ordonnait à ses troupes de se retirer immédiatement après avoir conquis la citadelle de Yonzhou (Ung Châu) en utilisant la stratégie de nettoyage (thanh dã). C’est l’une des stratégies de nos ancêtres contre les envahisseurs étrangers en rendant les jardins et les maisons vides pour épuiser les réserves de nourriture de l’ennemi et en créant de nombreuses difficultés pour l’ennemi durant l’expédition (embuscade, raid, harcèlement, destruction des installations logistiques, etc.), ce qui pousse l’ennemi dans une situation désespérée et donne à l’ennemi au début une force incomparable comme la tempête qui s’affaiblit progressivement à mesure que la guerre se prolonge.
Il captura les habitants de ces trois régions et les ramena dans son pays. Il détruisit la citadelle de Yonzhou, base de rassemblement des troupes chinoises dans la marche vers vers le sud. Il prépara des lignes de défense en prévision de la contre-attaque des Song. Il sut également que l’empereur des Song exhortait les deux pays limitrophes, Champa et Chenla, à provoquer des troubles dans le sud de notre pays afin de coincer le Đai Việt au milieu et de lui donner beaucoup de difficultés dans la guerre simultanée sur deux fronts. Cela porterait préjudice évidemment au Đai Việt. Peut-être par prudence, le Champa envoya un petit nombre de soldats à la frontière, mais il n’osa pas y semer le trouble. En effet, conformément à ses prédictions, l’empereur Song Shenzong nomma Quách Qùy (Guo Kui) au poste de commandant en chef et Triệu Tiết (Zhao Xie), au poste de général adjoint chargé de l’attaque. Il dut modifier le plan et le prépara avec soin pour l’expédition militaire au Dai Viet en 1077.
Ils mobilisèrent cette fois l’infanterie et la marine, jusqu’à 100 000 soldats (10 × 10 000 = 100 000). Parmi ceux-ci, 45 000 étaient des troupes régulières retirées de la région frontalière de Liao Xia et commandées par 9 généraux, 10 000 chevaux et 200 000 porteurs. On ignore l’effectif de la marine. Selon Hoàng Xuân Hãn, à cause de la faiblesse de la marine chinoise avec les généraux incompétents, l’armée de mer chinoise était vaincue plus tard par la marine de Lý Kế Nguyên, ce qui ne permettait pas à l’armée des Song de réussir à traverser le fleuve. Le groupe d’infanterie y comprise la cavalerie était commandé par Guo Kui et Zhao Xie. Pour faire ressortir la force de la cavalerie, il est nécessaire de franchir les zones frontalières montagneuses et accidentées et de descendre dans les plaines afin que les chevaux puissent se déchainer librement et vaincre facilement l’ennemi.
Ils durent donc se rendre à Lạng Châu sur la route reliant la province de Lạng Sơn à Đồng Mô à travers la chaîne de montagnes où il y avait le col de Quyết Lý, Ils durent ensuite traverser la chaîne de montagnes, escarpée comme des murs, au milieu de laquelle se trouvait une route très dangereuse: le col de Chi Lăng, au nord du district de Hữu Lũng, appartenant aujourd’hui à Lạng Sơn. Les armées des Song suivirent progressivement cette route du nord au sud et furent contraintes de s’enfoncer dans la profonde tranchée naturelle de la rivière Cầu. Ces troupes furent stationnées sur la rive, de la capitale provinciale de Thái Nguyên jusqu’à la zone située en face de Thị Cầu. La section de la rivière Như Nguyệt choisie par Lý Thường Kiệt dans la construction de sa ligne de défense occupait un emplacement stratégique: des montagnes s’étendant de part et d’autre de la rivière, une section assez large de plus de 100 mètres de long, enjambant la route la plus facile pour traverser la rivière Cầu. Cette dernière bloquait toutes les voies terrestres permettant de s’avancer vers Thăng Long. Sur cette section, on comptait environ onze embarcadères dont les deux plus anciennes et les plus importantes étaient Như Nguyệt et Thị Cầu. Situées sur l’importante voie de communication vers Thăng Long, elles constituaient le moyen le plus pratique pour l’armée des Song de traverser le fleuve et de s’avancer jusqu’à Thăng Long. Lý Thường Kiet ordonna à ses troupes d’établir trois lignes de défense pour bloquer l’armée des Song sur ce fleuve, réparties en trois sections suivantes: Phú Lương, Khảo Túc (Nhâm Biền) et Như Nguyệt. Après la chute des autres lignes, la ligne de défense sur le fleuve Như Nguyệt était le dernier rempart à bloquer l’avancée des ennemis vers Thăng Long.
L’armée des Song lança une attaque féroce, perçant parfois la ligne de front de l’armée de Đại Việt et traversant la rivière Như Nguyệt, mais notre armée contre-attaqua promptement et réussit à repousser l’armée des Song vers la rive Nord. Lý Thường Kiệt recourut également à la guerre psychologique pour encourager la combativité de notre armée. « Au milieu de la nuit, j’entendis le chant mystérieux « Nam Quốc Sơn Hà (Les montagnes et les rivières du pays du Sud) » résonner dans le temple.
Nam Quốc Sơn Hà
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Sur les monts et les eaux du sud
Sur les monts et les eaux du Sud règne l’empereur du Sud
Tel est le destin fixé à jamais sur le Céleste Livre
Comment les Barbares osent-ils envahir notre sol ?
Leur audace insensée verra sa déroute sanglante.
Ce fut la première déclaration d’indépendance de notre pays, ce qui incita notre armée à passer à l’attaque avec acharnement. Effrayée, l’armée des Song, fut vaincue sans combat. Plusieurs raisons expliquaient cette défaite: absence de soutien naval, climat rigoureux, pénurie de nourriture, moral bas etc. Lý Thường Kiệt utilisa la stratégie du « Dĩ dật đãi lao » (« combattre pour épuiser les forces de l’ennemi »). Malgré de lourdes pertes, il prévit de reconstituer complètement ses effectifs et se tint prêt au combat. Cela permit de resserrer le siège et exercer une forte pression et força les envahisseurs à quitter progressivement notre pays afin que nous puissions gagner la guerre au moindre coût.
Lý Thường Kiệt sut que l’armée des Song était dans une situation difficile. Il n’hésita pas à envoyer un émissaire demandant un « accord de paix » afin de permettre à l’armée des Song se retirer. Sur dix soldats des Song, six ou sept périrent. Nous avons également subi de lourdes pertes depuis la guerre sino-vietnamienne notamment lors de la bataille de Như Nguyệt. Nous avons également perdu de nombreux généraux célèbres, tels que Hoàng Chân, Chiêu Văn, Phạm Dật , princesse Thiên Ninh, comtesse Kim Loan, gendre du roi Hoàng Kiện và princesse Động Thiên lors de la bataille de Phú Lương. Quách Qùy (Guo Kui) accepta l’accord de paix et retira ses troupes sans attendre les ordres de la cour des Song. Il occupa les districts de Quảng Nguyên et Tu Lang de la province de Cao Bằng, ainsi que les deux districts Tô Châu et Mậu Châu, à la frontière des provinces de Cao Bằng et de Lạng Sơn, et le district de Quảng Lang (Ôn Châu, Lạng Sơn).
Selon Hoàng Xuân Hãn, malheureusement il est certain que notre roi a refusé de punir Lý Thường Kiệt. Quant au chancelier Vương An Thạch (Wang Anshi), ayant l’intention d’étendre le territoire vers le sud et provoquant ainsi une guerre entre les Song et les Vietnamiens, il fut obligé de démissionner également du fait que l’empereur des Song n’avait pas tenu compte de ses réformes. Afin de sauver la dignité de la dynastie des Song, Lý Thường Kiệt fut contraint de démissionner de son poste de Premier ministre quelques années plus tard et fut nommé par le roi pour gouverner Thanh Hóa en 1082. Dès lors, notre pays et la Chine renouèrent leurs relations diplomatiques. Cette bataille qui ne dura que 15 mois (1075-1077) témoignait de la conduite que notre peuple a toujours adoptée en prenant en compte les trois facteurs suivants: être au courant des conditions météorologiques, connaître bien le terrain et avoir l’adhésion populaire ou la concorde nationale afin de remporter la victoire. Il avait alors 59 ans et le roi n’était âgé que de 12 ans. Lý Thường Kiệt continuait à assumer la responsabilité importante de la Cour dans la construction du pays et la protection de la vie du peuple. Il travaillait à Thanh Hóa durant 19 ans.
En 1101, le roi Lý Nhân Tôn l’invita à revenir à la cour occuper le poste de Premier ministre. À l’âge de 82 ans, il se porta néanmoins volontaire pour mener les troupes contre les rebelles de L ý Gi ác à Diên Châu en 1103 et attaquer le Champa de Chế Ma Na (Jaya Harivarman IV) pour reconquérir les trois provinces que le roi Che Cu avait cédées au Đại Việt. Il mourut à l’âge de 86 ans (juin de l’an 1105). Le roi lui conféra à titre posthume le titre de l’archiduc Việt Quốc Công, et le peuple l’admira en érigeant partout des autels.
Lý Thường Kiệt est un stratège militaire hors pair, un politicien chevronné, un mandarin civil et militaire distingué avec le poème intitulé Nam Quốc Sơn Hà (Les montagnes et les rivières du pays du Sud) qui nous fait nous émouvoir encore, en le relisant et qui nous fait comprendre sa volonté indomptable et celle de notre peuple dans la lutte pour préserver l’indépendance.