Pagode Từ Hiếu (Huế)

Version française

Pagode de la piété filiale

Nằm trên núi Dương Xuân thuộc làng Thủy Xuân và  cách trung tâm thành phố Huế 5 cây số , chùa Từ  Hiếu tọa lạc trong một khu rừng thông tuyệt  vời ở phía bắc lăng vua Tự Đức. Để tưởng nhớ mẹ của ông, ngôi chùa này được xây dựng vào năm 1843 bởi hòa thượng Nhất Định. Được biết đến với cái tên Từ Hiếu để biểu thị sự tận tâm  của ông và lòng hiếu thảo đối với mẹ. Nhưng đó cũng là ngôi chùa của các hoạn quan ở Tử Cấm Thành Huế.

Perchée sur le mont Dương Xuân dans le village de Thủy Xuân et située à 5km du centre-ville de Huế , la pagode Từ hiếu se trouve dans une belle pinède au nord du mausolée de l’empereur Tự Đức. En l’honneur de sa mère, cette pagode  fut édifiée en 1843 par le moine Nhất Đinh. Elle étai connue sous le nom de Từ Hiếu pour signifier le dévouement et la piété  de ce dernier à sa mère. Mais c’était aussi la pagode des eunuques de la cité pourpre interdite de Huế.

Technique de dorure sur bois laqué (Sơn son thếp vàng)

Technique de dorure sur bois laqué

Version française

Sơn son thếp vàng là một kỹ thuật cực kỳ công phu  hay thường được sử dụng trong việc chế tác các vật phẩm có tính chất tâm linh như các tựơng Phật và các đồ thờ như hương án, khám thờ, ngai thờ, bài vị, hoành phi câu đối vân vân… ở chùa chiền hay biểu tượng sự gìàu có và khẳng định sự tôn nghiêm, quyền lực của vương quyền trong chế độ phong kiến qua các cung đình. Nó không chỉ làm nổi bật lên vẻ đẹp, uy nghi và sang trọng mà còn gia tăng độ bền bỉ của các vật phẩm theo thời gian. Những năm gần đây, nhờ sự sùng tu Lầu Ngũ Phụng,Trường Lang, điện Thái Hoà vân vân trong Tử Cấm Thành, chúng ta mới nhận thấy kỹ thuật nầy không chỉ đòi hỏi nghệ nhân phải có tay nghề cao, kinh nghiệm, tĩ mĩ mà còn có tâm huyết và phải hiểu rõ luôn cả kiến thức xây dựng và mỹ thuật để hoàn thiện được phong cách của thời đại triều Nguyễn và làm nổi bật cái riêng biệt của mỗi cung điện. Trước hểt kỹ thuật « Sơn son thếp vàng” được tạo thành từ hai cụm từ « sơn son » và « thếp vàng ».Như vậy có hai khâu chính trong kỹ thuật nầy đó là khâu Sơn Son và Thép Vàng nhưng khâu sơn son lại đặc biệt quan trọng và phức tạp hơn nhiều so với khâu thếp vàng. Danh từ  « sơn » nầy dùng  để  ám chỉ  loại sơn được chế ra từ nhựa cây sơn ở trong rừng nước ta.  Nó có thể mọc tự nhiên hay được trồng để thu hoạch. Sau đó phài để sơn nó lắng đọng đến từ  ba  hay bốn tháng liên tục mới  có thể  gạn ra sau đó nhiều lớp nhưng lớp trên cùng là lớp lỏng có màu nâu là lớp  tốt nhất. Dù vật phẩm có tầm vóc cở nào, có thể  là tượng Phật hay cột ở trong cung đình Huế  đi nữa thì  nghệ nhân  cũng phải  tiến hành qua một số giai đoạn như sau: gắn kết, hom, lót.

Sau khi tạo cốt cho vật phẩm, nghệ nhân tiến hành đến việc sơn. Có nhiều giai đoạn  trong việc sơn son thếp vàng.Trước hết phäi xử lý phần thô vật phẩm qua việc trộn nước sơn với bột đá hay mùn cưa để lấp đi các vết rạn nứt của vật phẩm, giúp ngăn chặn sự nứt gãy, chống thấm nước, không bị mối mọt ăn. Đây là giai đọan  gắn kết. Nếu sau khi nước sơn khô, bề mặt của sản phẩm vẫn còn khuyến tật  thì nghệ  nhân buộc lòng dùng đất thó  trộn với nước sơn theo tỷ lệ nhất định. Có  thể  nước sơn nầy  được dùng đến nhiều lần  khi nó chưa đạt được yêu cầu. Tiếp theo  sau đó  đến việc mài  nhiều lần với nước làm cho nhẵn bề mặt và  sơn phủ lót nhiều lần toàn thể vật phẩm  với  nước sơn cuối (sơn sửa  chửa). Nói tóm lại  giai đọan Hom  nầy mất  rất nhiều thời gian và phải cần kiểm soát nghiêm khắc nhất là phải để các lớp sơn nó được khô. Thời gian khô của các lớp sơn nầy sẽ khác nhau mà còn tùy thuộc vào điều kiện thời tiết.

Còn thếp vàng là khâu dùng để trang trí và dán trên mặt  vật phẩm, lớp vàng lá hay vàng quỳ. Vàng nầy được dát thật mỏng đặt  lên  các mặt vật phẩm làm bằng gỗ mà được sơn lót trong khâu « Sơn Son » và lúc nước sơn lót chưa khô hoàn toàn. Chính nhờ vàng quỳ mà vật phẩm trưng bày  có được màu vàng tự nhiên, tạo ra  ánh kim dễ thu hút sư chú  ý và làm nổi bật giá trị qua sự  thay đổi màu sắc tùy theo độ « chín » của nước sơn.

Version française

La technique de dorure sur bois laqué est une technique extrêmement élaborée et souvent utilisée dans la fabrication d’objets ayant le caractère spirituel tels que les statues de Bouddha et les objets de culte comme les brûleurs d’encens, les édicules, les autels, les tablettes avec des sentences parallèles etc. trouvés surtout dans les pagodes ou le caractère solennel pour témoigner de la richesse et du pouvoir du régime féodal à travers ses palais. Elle met en valeur non seulement la beauté, la majesté et l’élégance, mais aussi la durabilité de ces objets dans le temps. Ces dernières années, grâce à la restauration du belvédère de 5 phénix, le long couloir Trường Lang, le palais de la Suprême Harmonie etc. dans la cité pourpre interdite de Huế, nous avons l’occasion de trouver que cette technique nécessite non seulement les artisans hautement qualifiés, pleins d’années d’expérience, méticuleux mais aussi leur dévotion au métier. Ils doivent avoir toutes les connaissances en construction et en arts pour parfaire le style de la période de la dynastie des Nguyễn en réussissant à mettre en valeur le caractère spécifique de chaque palais. D’abord le nom de cette technique provient de l’association de deux groupes de mots « Sơn son (Peinture d’un rouge vermillon) et «Thếp vàng (dorure sur bois laqué) ». Ceux-ci correspondent exactement à deux étapes importantes trouvées dans la réalisation de cette technique. Mais la première reste la phase la plus sophistiquée par rapport à la deuxième. Le mot «Sơn» fait référence au type de peinture fabriquée à partir de la sève de l’arbre sơn des forêts de notre pays. Cet arbre peut pousser naturellement ou être cultivé pour le rendement industriel. Ensuite, on doit laisser la peinture reposer durant trois ou quatre mois consécutifs avant de pouvoir la décanter en plusieurs couches mais la couche liquide supérieure brune reste la meilleure couche.
 
Quelle que soit la taille de l’objet (statue de Bouddha ou colonne du palais royal), l’artisan est obligé d’entamer le même processus composé de plusieurs étapes suivantes: boucher et sceller les fissures, rendre lisse la surface réparée en plusieurs fois avec les ingrédients différents (poudre de pierre, terre d’argile, sciures de bois etc.) et appliquer à la fin de ce processus la dernière couche de peinture avec le temps de séchage variable.
 
Après avoir créé l’ossature de l’objet, l’artiste commence à entamer la peinture. Il existe de nombreuses étapes dans la technique de dorure. Premièrement, la partie brute de l’objet doit être traitée en mélangeant de la peinture avec de la poudre de pierre ou de la sciure de bois pour couvrir et empêcher les fissures de l’objet en question et résister à l’eau et aux termites. C’est la phase d’agrégation et de réparation. Si après le séchage de la peinture, la surface de l’article continue à avoir toujours des défauts, l’artiste sera obligé d’utiliser de la terre d’argile mélangée à la peinture dans une certaine proportion bien déterminée. Cette peinture mélangée peut être utilisée à plusieurs reprises si elle ne répond pas aux exigences voulues. Ensuite vient le ponçage répété avec de l’eau afin de rendre lisse la surface et un apprêt répété de l’ensemble de l’article avec une couche de peinture finale (ou de retouche). Bref, cette phase Hom prend beaucoup de temps et nécessite un contrôle strict, en laissant sécher notamment les couches de peinture. Le temps de séchage de ces couches varie mais il dépend également des conditions météorologiques.
 
La dorure est une étape de décoration permettant de coller sur la surface d’un objet, une couche de feuille d’or. Cet or est laminé très finement et déposé sur les surfaces des objets en bois en question qui sont apprêtés lors de l’étape « Sơn Son » et qui ne sont pas complètement secs. Grâce à cette décoration, l’objet exposé a une couleur jaune naturelle et crée ainsi un éclat métallique qui retient facilement l’attention et fait ressortir sa valeur grâce au changement de couleur en fonction de la « maturité » de la peinture.

2025

Mausolée de Gia Long

Version française

Thông thường  đến Huế hay gặp trời mưa nhưng  kỳ nầy ba ngày ở Huế (7/11/2024 -9/11/2024) , trời lại không mưa. Nhờ đó mới có dịp đi tham quan lăng của người anh hùng được người dân Nam Bộ ngưỡng mộ, vua Gia Long nhất là nay có đường đất đi đến địa phận phường Long Hồ, quận Phú Xuân, thành phố Huế và tránh được đường bộ  khoảng 16 cây số và  phải qua  sông ở bến đò Kim Ngọc. Thật là mình có duyên kỳ nầy nhất là được đi tham quan năm lăng của các vua nhà Nguyễn và di tích thành Lồi của người Chàm ở trên đồi Long Thọ  cùng một lúc trong một ngày với chú xe ôm mặc dù đường xá không tốt chi cho mấy.

Habituellement,  il fait souvent pluvieux lors de mon passage à Huế mais cette fois, j’ai la chance d’y avoir trois jours  de suite au soleil.  Grâce à cela, j’ai eu l’occasion d’aller visiter le mausolée de celui qui était adulé par les gens de la Cochinchine, le roi Gia Long.  Il y a aujourd’hui une route menant au quartier de Long Hồ dans le district de Phú Xuân  de la ville de Huế. On peut  éviter ainsi de prendre la voie terrestre d’environ 16km et la traversée à l’embarcadère Kim Ngọc. C’est chanceux pour moi cette fois de pouvoir visiter successivement  cinq mausolées  de la dynastie des Nguyễn et la citadelle Lồi des Chams sur la colline Long Thọ  dans la même journée avec un taxi-moto malgré la route mal entretenue.

 

 

 

 

Mausolée Thiệu Trị

Version française

Được có tên là Xương Lăng, lăng của vua thứ ba của triều đại nhà Nguyễn, Thiệu Trị,  nằm dựa  lưng vào núi Thuận Đạo, ở địa phận làng Cư Chánh, phường  Thủy Bằng, quận Thuận Hóa, thành phố Huế, cách trung tâm thành phố khoảng cây số. Vua Thiệu Trị chỉ ngự trị có 7 năm và qua đời lúc 47 tuổi. Thiệu Trị được sử sách mô tả là một hoàng đế thông minh, tận tụy chăm lo việc nước, uyên bác nho học, yêu thích thơ ca. Nhưng Thiệu Trị không có đưa ra cải cách gì mới c ả, chỉ duy trì các chính sách hành chính, kinh tế, giáo dục, luật pháp, quân sự… từ thời vua Minh Mạng.

Étant connu sous le nom de Xương Lăng et adossé à la montagne Thuận Đạo, dans le village Cư Chánh du quartier Thủy Bằng, district Thuận Hóa, ville de Huế, le mausolée du troisième roi de la dynastie des Nguyễn, Thiệu Trị, est situé à environ 1 km du centre-ville. Ce roi n’a régné que 7 ans et est décédé à l’âge de 47 ans. Thiêu Tri est décrit dans les livres d’histoire comme un empereur intelligent, soucieux de prendre soin du pays, connaissant parfaitement le confucianisme et passionné de poésie. Mais Mais Thiệu Tri n’a pas entamé de nouvelles réformes en se contentant de maintenir les politiques administratives, économiques, éducatives, juridiques, militaires etc. de la période  de l’empereur Minh Mang.

 

 

L’art du bronze émaillé (Kỹ thuật pháp lam)

L’art du bronze émaillé.

Version française

Đây là kỹ thuật  làm các sản phẩm  bằng đồng  trên bề mặt được tráng men, dùng  trang trí trong  mỹ thuật ở cung đình Huế hay thường  được gọi với cái tên pháp lam. Nó có nguồn gốc từ chữ « pha lang (France) » mà người Trung Hoa gọi để chỉ kỹ thuật  được các nhà truyền bá Tây Phương mang sang, hướng dẫn cho họ làm trong việc sản xuất. Kỹ thuật pháp lam  sau đó được du nhập sang Việt Nam với các nghệ nhân Trung Hoa  vào thời ngự trị của vua Minh Mạng (1820-1841). Chính triều đình nhà Nguyễn mới  ra quyết đinh xây dựng các xưởng ở Quảng Bình và Quảng Trị nhưng  các bí mật sản xuất vẫn được các nghệ nhân Trung Quốc bảo vệ một cách nghiêm ngặt. Nhưng nhờ sự kiên trì, các thủ công Việt ngày xưa đã  khám phá  ra được   bí  quyết và thành công  trong việc sử dụng các màu không  thể xóa nhoà   khiến các sản phẩm  đồng tráng men có  được  một linh hồn. Mỗi màu  phải tương ứng  với một lớp men và đựợc đung với nhiệt độ khác nhau.

Để tránh tên húy của chúa Nguyễn Phúc Lan (1635-1648), pháp lang từ đó trở thành pháp lam và được trọng dụng ở trong cung điện  triều  Nguyễn nhất là trong việc trang trí ở ngoại thất. Có một thời kỹ thuật pháp lam nầy  bị suy tàn  dưới thời Pháp thuộc. Kỹ thuật nầy  làm cho  các hoa văn trang trí ở cung điện Huế có nét đẹp kiêu sa mà được thấy lại gần đây qua các cuộc sùng tu  ở các cung điện Huế như sân sau của điện Thái Hoà, điện Kiến Trung (*), cầu Trung Đạo của lăng Minh Mạng vân vân.


Version française

C’est la  technique de fabrication des produits en bronze aux surfaces émaillées qui est  fréquemment utilisée pour la décoration  dans l’art de Huế  et communément appelée sous le nom « Pháp Lam ». Elle tire son origine du mot « pha lang (France)» que les Chinois emploient pour désigner la technique apportée par les missionnaires occidentaux dans le but de les aider dans la production. Cette technique a été introduite ensuite au Vietnam avec les artisans chinois sous le règne du roi Minh Mang (1820-1841). C’est la dynastie des Nguyễn  qui  a décidé de construire des ateliers  à Quảng Binh et à Quảng Tri mais les secrets de production ont été encore  strictement  protégés par les artisans chinois. Grâce à leur  ténacité, les artisans vietnamiens d’antan ont  découvert le secret de fabrication et ils ont réussi à utiliser des couleurs indélébiles donnant ainsi  une âme à ces produits en  bronze émaillés. Chaque couleur correspondait ainsi à une couche d’émail et un cuisson à température différente.    

Pour éviter d’appeler le surnom du seigneur Nguyễn Phúc Lan (1635-1648),, la technique « Pháp Lang » est devenue désormais  « Pháp Lam ». Elle est très utilisée  dans les palais de la dynastie des Nguyễn, en particulier dans la décoration de leur partie extérieure.  Il y a une époque où cette technique a périclité  sous l’occupation française. Cette technique permet aux motifs décoratifs de posséder  la beauté éclatante qu’on a l’occasion de retrouver récemment lors de la restauration des palais de la citadelle impériale Huế. C’est le cas du palais de l’Harmonie suprême, le palais Kiến Trung (*), le pont de l’Intelligence et de la droiture du mausolée Minh Mạng etc. 

(*) Résidence des deux derniers empereurs du Vietnam ( Khải Định et Bảo Đại) 

2025

Phước Minh Cung (Temple de Guan Yu, Trà Vinh)

Phước Minh Cung

Quan Công là người hội đủ các đức tính trung dũng, tình nghĩa, độ lượng và công minh chính trực và cũng  là nhân vật nổi tiếng ở thời Tam Quốc hậu Hán. Chính vì vậy khi ông qua đời, người ta đã tôn thờ ông như một vị thánh. Bởi vậy nơi nào có người Hoa cư trú thường thấy họ hay thờ Quan Công. Ở Trà Vinh nơi thờ ông hay được gọi là Phước Minh Cung.

Étant un personnage réussissant à avoir toutes les vertus de courage, de loyauté, de générosité et de justice, Guan Yu est aussi  l’un des généraux célèbres chinois de l’époque des Trois Royaumes et de la fin des Han. C’est pour cela que  les Chinois le vénèrent comme un Saint lors de sa mort. Partout où la présence des Chinois est importante, on y trouve toujours un temple dédié à ce général. À Trà Vinh, le temple est connu sous le nom de Phước Minh Cung.

PAGODE VAM RAY (Tra Vinh)

Chùa Vàm Ray

Được tọa lạc ở ấp Vàm Ray, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh, ngôi chùa nầy không những  mang tính chất kiến trúc đậm chất của người Khơ Me ở Nam Bộ mà còn giữ phong cách của đế chế Angkor. Chùa còn là một ngôi chùa lớn nhất trong số 143 chùa Khơ Me  được liệt kê ở Trà Vinh. Chùa có 4 cổng vào và theo truyền thống cùa người Khơ Me thì cổng chính và toà nhà chính điện phải quay về hướng Đông biểu  tượng cho con đường tu hành của   Phật tử từ Tây sang Đông.  Chính cũng nơi nầy về hướng Đông Nam của chính điện, du khách sẽ thấy được  tượng đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn có chiều dài 54 thước. Còn bên trong chính điện thì được trang trí lộng lẫy với những bức tranh tường nhiều màu sắc, đậm chất văn hóa Khơ Me, kể lại cuộc đời của Đức Phật và giáo lý của Phật giáo.

Étant située dans le hameau de Vam Ray, district de Trà Cú, province de Trà Vinh, cette pagode porte non seulement le caractère architectural du peuple khmer du Sud Vietnam mais aussi le style de l’empire d’Angkor. La pagode est également la plus grande parmi les 143 pagodes recensées dans la province de Trà Vinh. Elle dispose de 4 portes d’entrée. Selon la tradition khmère, la porte principale et le bâtiment principal doivent être orientés vers l’est. C’est le chemin  pris par les pratiquants  bouddhistes  de l’ouest vers l’est.  C’est aussi ici que vers le sud-est du hall principal, les visiteurs verront la statue allongée de 54 mètres du Bouddha Shakyamuni, illustrant son accession au Nirvana. Quant à l’intérieur du bâtiment principal, on voit défiler des peintures murales colorées et imprégnées de la culture khmère, relatant ainsi la vie de Bouddha et les enseignements du bouddhisme.

Thiền viện Trúc Lâm (Trà Vinh)

Institut bouddhique de la secte Forêt des Bambous

Đây là ngôi thiền viện thuộc Thiền phái Trúc Lâm duy nhất trên địa bàn tỉnh Trà Vinh, nằm cách xa thành phố  khoảng chừng 50 cây số. Thiền viện Trúc Lâm Trà Vinh được xây dựng trên khuôn viên rộng 7 ha, trong khu du lịch sinh thái từng ngập mặn ven biển, mặt tiền nhìn ra biển Đông bao la.

C’est le monastère unique zen de la secte Forêt des bambous de la province de Trà Vinh. Il est  situé à  peu près de 50 kilomètres du centre-ville. Ce monastère zen a été construit sur un terrain de 7 hectares, dans une zone écotouristique autrefois salée tout le long de la côte et  faisant face à l’immense mer de l’Est.