Dù rất mệt hai ngày liên tiếp khi đến Saïgon, mình rất thích trải nghiệm đi xe bus hôm nay trên sông Saịgon. Đây là một dịch vụ giải trí mới mẻ để mình chiêm ngưỡng các kiến trúc đồ sộ của thành phố Saigon dưới sông với góc nhìn hoàn toàn khác lạ và cũng có dịp để mình tìm ra những góc chụp mới mẽ. Một thưở nào xa xôi, Saigon là hòn ngọc Viễn Đông, nay nó trưởng thành siêu đô thị với sự biến đổi đáng kể. Với xe bus trên sông Saigon, bạn có thể dừng chân lại ở các bến tàu như sau: Bạch Đằng, Thủ Thiêm, Bình An, Thanh Đa, Bình Chánh và Linh Đông và bạn có thể tìm được những nơi giải trí và các quán ăn. Một trải nghiệm đáng nhớ cho mình với một tô bún riêu.
Malgré la fatigue que j’ai eue successivement durant mes deux premiers jours à Saigon, je suis content de faire l’expérience de prendre aujourd’hui le bateau-bus sur le fleuve de Saigon. C’est un nouveau service de divertissement pour permettre au visiteur de découvrir les grandes constructions architecturales de la ville de Saigon visibles d’une manière totalement différente sur l’eau et c’est aussi une occasion pour moi de chercher les nouveaux angles de prises de vue pour les photos. Étant connue à une époque lointaine la perle de l’Extrême-Orient, Saïgon devient aujourd’hui la mégapole avec tant de changements notables. En prenant le bateau-bus sur le fleuve Saigon, on peut s’arrêter aux quais suivants : Bạch Đằng, Thủ Thiêm, Bình An, Thanh Đa, Bình Chánh và Linh Đông et on peut y trouver des endroits de distraction et des restaurants. Une expérience mémorable pour moi avec un bol de soupe de vermicelles de riz au crabe.
Despite the fatigue I had during my first two days in Saigon, I am happy to experience taking the water bus on the Saigon River today. It is a new entertainment service to allow visitors to discover the great architectural constructions of the city of Saigon visible in a completely different way on the water and it is also an opportunity for me to look for new angles of shots for photos. Known in a distant time as the pearl of the Far East, Saigon today becomes the megacity with so many notable changes. By taking the water bus on the Saigon River, you can stop at the following wharves: Bạch Đằng, Thủ Thiêm, Bình An, Thanh Đa, Bình Chánh và Linh Đông and you can find places of entertainment and restaurants there. A memorable experience for me was a bowl of crab rice vermicelli soup.
The Forbidden Purple City of Hue is protected by a 4-meter-high brick wall. This wall is further reinforced by the installation of a water-filled moat system, thus encircling the city. Each gate leading into the city is preceded by one or more bridges, but the Meridian Gate remains the main entrance, once reserved for the king. Today, it is the main entrance for visitors.
It is a powerful masonry structure pierced by five passages and topped by an elegant two-story wooden structure, the Five Phoenix Belvedere (Lầu Ngũ Phụng). To the east and west of the citadel are the Chương Đức Gate (7) and the Hiển Nhơn Gate (8), which are very well decorated and each pierced by three passages. The Hiển Nhơn Gate was completely restored in 1977.
World cultural Heritage of Viet Nam
Once you pass through the Meridian Gate, you see the sumptuous Palace of Supreme Harmony or Throne Palace, which can be reached by crossing the Esplanade of Great Salutations (Sân Ðại Triều Nghi). It was in this palace that the emperor, seated on the throne in a prestigious symbolic position, received the greeting of all the dignitaries of the empire. They were lined up hierarchically on the esplanade for major ceremonies. It is also the only building that has remained relatively intact after so many years of war. Behind this palace is the private residence of the king and his family.
Từ bao giờ có khu 36 phố phường ở Hà Nội?
Depuis quand il y a le quartier des 36 rues et corporations à Hanoï?
Thăng Long được xuất phát từ làng Long Đỗ. Từ thế kỷ thứ năm, vua Lý Nam Đế đã xây ở đây « mộc thành» của nước Vạn Xuân. Nhà Đường, sau khi xâm chiếm nước ta lấy nơi nầy làm trị sở trên đất Long Đỗ và đổi tên nó ra Tống Bình.
Lý Công Uẩn dưới sự giúp đở của sư Vạn Hạnh nhận ra tiềm năng của vùng đất nầy vì nó là điểm giao nhau của các trục đường bộ và đường sông trong việc vận chuyễn hàng hóa. Vã lại nó còn đáp ứng cho việc cân bằng giữa các yếu tố nước và đất hay là giữa dòng khí tốt (Rồng xanh) và dòng khí xấu (hổ trắng) trong phong thủy mà được tướng nhà Đường Cao Biền du nhập vào nước ta. Tục truyền Cao Biền dùng bùa phép yểm trấn thành Đại La nhưng nhờ thần Bạch Mã trợ giúp mà Lý Thái Tổ thành công trong việc xây thành Thăng Long trên nền móng cũ của thành Đại La. Đền thờ Bạch Mã vẫn còn ngày nay ở phố Buồm (Rue des voiles). Vì vậy vào mùa thu 1010, Lý Công Uẩn mới ra quyết định dời đô từ Hoa Lư về vùng đất « Rồng cuộn, hổ ngồi ». Ngài muốn chọn một nơi để phát triển kinh tế cho vận nước được lâu dài và tính kế lâu dài cho con cháu được muôn vạn thế hệ và muôn vật được phồn thịnh và phong phú.
Từ đó, ngài cần lập các công xưởng thủ công để sản xuất các hàng hóa mà triều đình cần dùng và tiêu thụ. Không những các thợ thụ công giỏi đua nhau đến Thăng Long làm việc mà luôn cả các nông dân ở thôn quê vùng sông Hồng lúc nhàn rỗi cũng tham gia sản xuất các sản phẩm hàng thủ công bán cho các con buôn mà những người này họ mang về kinh thành bán lại để kiếm lời. Lúc đầu họ tụ hợp ở các phiên chợ của bốn chợ lớn tại các cửa ô kinh thành. Nhưng về sau vì các xưởng sản xuất của triều đình không thể cung ứng đủ nên khiến một số thương nhân dần dần tập trung tại khu phố ở cửa Đông vì ở đây địa thế của chợ nầy rất thuận lợi cho việc chuyên chở hàng hóa bằng thuyền từ nông thôn ra kinh thành qua sông Hồng, Tô Lịch và các kênh. Phía trước mặt chợ thời đó là đền Bạch Mã. Còn bên phải là sông Tô Lịch và thưở đó có cái cầu bắc ngang sông hiện nay đó là phố Hàng Đường. Bởi vậy ở thế kỉ 14 mới có thành ngữ « Kẻ Chợ » (những người của chợ) để nói đến khu phố tấp nập này. Chính nơi nầy được gọi về sau là khu 36 phố phường để bán các sản phẩm thủ công mà các làng nghề xung quanh và ở nông thôn cung cấp. Các cửa hàng đều là những nhà chòi dùng để làm cơ xưởng hay để buôn bán dọc theo phố (hay đường).
Tựa như các nhà ở đồng quê, các cửa hàng nầy được dựng lên bằng gỗ, tre, mái rơm và tường trét bùn. Nhà nào cũng có chum nước để ở trên mái khi có hỏa họan thì kéo đổ xuống mái. Quá sợ hỏa hoạn, người dân lập đền Hỏa Thần (nay nó nằm ở Hàng Điếu) để ngày rằm cầu xin thần lửa đừng gây cháy. Kẻ Chợ dần dần thoát khỏi sự phụ thuộc vào kinh thành từ thế 17 dưới sự ngự trị của các chúa Trịnh nhờ có một loạt nghị quyết như giảm thuế, thống nhất hệ thống tiền bạc và xây dựng nhiều công trình đô thị lớn dẫn đến sự phát triển đáng kể. Các thủ công nhà buôn từ các làng nghề đổ xô về cư ngụ lâu dài ở thành phố và các nhà con buôn nước ngoài thì bắt đầu lập chi nhánh tại kinh thành khiến làm nền kinh tế nó rất sôi động hơn. Nhờ đó mà kinh thành trở nên trung tâm buôn bán lớn nhất của miền bắc Việt Nam.
Các thợ thủ công và các thương nhân cùng một làng quê gốc tập hợp thành các phương hội rồi cùng nhau chuyên sản xuất hay bán ở phường. Để kiếm hàng cần mua thì chỉ cần đến phường mà trước lối cổng vào thì có một tấm bảng ghi rõ chất lượng và loại hàng được bán.Thời kỳ này chữ phố cũng chưa được dùng. Theo nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến thì chữ phố vẫn được dùng với nghĩa là bến sông. Bởi vậy mới có câu « Gác mái ngư ông về viễn phố » (nhớ về bến xa) trong bài thơ « Chiều hôm nhớ nhà » của bà Huyện Thanh Quan.Theo nhà sử học Pháp Philippe Papin, thì chữ phố được sử dụng vào năm 1851 ở huyện Thọ Xuyên và Vĩnh Thuân nên mới có chức trưởng phố trong quyến sách mang tựa đề là « Lịch sử Hà Nội ». Còn trong sách Đại Nam nhất thống chí thì có chép như sau: Hà Nội là kinh đô xưa, nguyên trước có 36 phố phường …. Còn trong cuốn « Chuyến đi thăm Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) của học giả Trương Vĩnh Ký thì ông có kể ra 21 phố gồm có: Hàng Buồm, phố nầy cũng là phố Khách Trú có nhiều tiệm thuốc bắc, nhiều hàng cao lâu, Hàng Quảng Đông (Hàng Ngang hiện nay) nơi nầy cũng toàn người khách trú ở, Hàng Mã thì gắn liền với nghề sản xuất, buôn bán đồ giấy, đồ vàng mã cúng lễ, ma chay vân vân… Như vậy chữ phố có thể ra đời từ đầu thời vua Tự Đức.
Các thợ kim hoàn xuất phát từ làng Châu Khê thì định cư ở phố Hàng Bạc. Còn thợ tiện gỗ đến từ làng Nhị Kê thì ở phố Tô Tịch vân vân…Họ luôn luôn giữ liên lạc với ngôi làng gốc của họ ở nông thôn trong việc tuyển nhân công, cung ứng nguyên liệu, ghi tên vào gia phả của làng, tham gia mỗi năm và các ngày hội của làng.
Các làng ở nông thôn trở thành các nơi cung cấp không những cho làng phố đô thị các sản phẩm đạt trình độ kỹ thuật cao mà còn luôn cả nông phẩm cho kinh thành. Có thể nói các làng ở nông thôn và các làng phố ở kinh thành phụ thuộc lẫn nhau. Chính nhờ thế tình thần đoàn kết giữa các làng phố đô thị và các làng ở nông thôn càng chặt chẽ hơn nữa. Mỗi làng phố đô thị được xây dựng dọc theo phố hay một đoạn của phố và lệ thuộc một hay nhiều làng cùng làm một nghề thủ công. Thời đó đăc điểm của làng phố là ở mỗi đầu của làng phố là có cổng ra vào. Các cổng nầy đều đóng lại lúc về đêm. Mỗi làng phố còn có một bộ máy hành chánh riêng biệt cũng như có một trưởng phố, một ngôi đình riêng tư nhầm để thờ các ông tổ của nghề hay là các thần hoàng của các làng gốc ở nông thôn. Dưới thời Pháp thuộc, để tránh hỏa hoạn thì chính quyền Pháp mới ra chỉ thị xây dựng lại thành phố qua các công trình kiến trúc kiên cố với các ngôi nhà hình ống mà chúng ta được thấy ngày nay ở phố cổ Hà Nội mà họ còn lấp đi nhiều ao hồ như hồ Hàng Đào, hồ Mã Cảnh, hồ Hàng Chuối, hồ Liên Trì vân vân… Năm 1894, Pháp lấp đọan đầu sông Tô Lịch để xây chợ Đồng Xuân. Họ lại phá tường thành Hà Nội và các cửa thành. Nay chĩ còn duy nhất Ô Quan Chưởng hay (Ô cửa Đông) còn khúc sông Tô Lịch dưới chân thành cũng bị lấp đi. Giờ đây nhiều phố chỉ còn tên mà thôi như phố Hàng Bè chớ cát bồi đưa sông ra xa nên bè mảng không còn vào được sát chân đê nữa. Như vậy đâu còn bè mà cũng không còn chợ cái bè trên đê nữa.
Còn các nhà hình ống nầy mang đậm phong cách phương tây nhất là mặt tiền với ban công, lô gia, hiên nhà vân vân. Còn vật liệu xây dựng thì gồm có xi măng, cốt thép, bê tông, kính vân vân … Tuy nhiên theo sử gia Pháp Philippe Papin thì các nhà ống ở Hànội là ảnh hưởng của cộng đồng người Hoa. Luận chứng nầy không hẳn là sai nếu có dịp đến tham quan các nhà cổ của người Hoa ở Hội An. Nhưng theo nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến thì dưới thời vua Minh Mạng, đánh thuế cửa hàng không căn cứ nhà đó buôn to hay nhỏ hay chiều sâu mà chỉ đo mặt tiền. Mặt tiền rộng đóng thuế cao, hẹp thì thuế ít. Vì vậy mặt tiền rộng hay thường chia ra nhiều cửa hàng. Đôi khi con trai lập gia đình và không có điều kiện mua chỗ buộc cha mẹ phải nhường một phần cửa hàng nên mới có sự hình thành nhà ống. Các nhà ống tuy mặt tiền rất eo hẹp nhưng có thể có chiều dài lên đến 60 thước. Loại nhà nầy thường có ba phần: phiá trước dùng để buôn bán hay cơ xưởng còn ở giữa hay thường có cái sân, nơi có một nhà nhỏ xây vòm cuống giống một cái lò cao 1,8 thước để chứa các đồ qúi giá phòng khi cháy chớ nếu không mất trắng tay và phần cuối thì để ở.
Trong quyển sách được mang tên là « Miêu tả về vương quốc Bắc Kỳ », ông Samuel Baron, một thương gia người Anh có nhắc đến phố cổ qua một số tài liệu hình ảnh và những gì ông mô tả thật thú vị. Tuy rằng nhỏ hẹp so với diện tích của Việt Nam, khu phố cổ Hà Nội nó là minh chứng tiêu biểu của nền văn hóa thương mại và đô thị của người dân Việt qua nhiều thế kỷ. Đây là một kiểu mẫu mà cần thiết phải biết tường tận để hiểu rõ được cái cấu trúc truyền thống của đô thị trong thế giới làng mạc của người dân Việt.
Version française
Thăng Long était issue du village de Long Đỗ. Dès le Vème siècle, le roi Lý Nam Đế construisit ici la « citadelle en bois » du royaume de Vạn Xuân. Après avoir envahi notre pays, la dynastie des Tang a pris cet endroit comme le quartier général de son armée sur les terres de Long Đỗ et a changé son nom en Tống Binh. Lý Công Uẩn aidé par le moine Van Hanh, a trouvé l’énorme potentiel de cet endroit car il était à l’intersection des routes et des voies fluviales pour faciliter le transport de marchandises. De plus, il a répondu également à l’équilibre et l’harmonie entre les éléments Eau et Terre ou bien entre le souffle bienfaisant (Dragon vert) et le souffle malfaisant (Tigre blanc) dans la géomancie introduite dans notre pays par le général Tang Gao Pian. La légende racontait qu’il se servit des sortilèges pour protéger la citadelle de Đại La, mais grâce à l’aide apportée par le génie « métamorphosé en Cheval Blanc », Lý Thái Tổ réussit à édifier la citadelle de Thăng Long sur les anciennes fondations de la citadelle de Đại La. Le temple dédié au culte du Cheval Blanc existe encore aujourd’hui dans la rue des voiles (Phố Buồm). C’était pourquoi à l’automne 1010, Lý Thái Tổ vint de décider le transfert de la capitale, de Hoa Lư à la région où le dragon s’enroulait et le tigre était assis. Il voulait choisir un endroit pour développer l’économie à long terme et prévoir un avenir radieux avec prospérité et abondance pour dix mille générations futures.
Il dut créer dès lors des usines artisanales pour produire les marchandises dont la cour royale avait besoin pour la consommation. Il y avait non seulement des artisans talentueux se précipitant à travailler à Thăng Long, mais aussi des agriculteurs vivant dans les campagnes de la région du fleuve Rouge. Ces derniers, durant leur temps libre, ont également participé à la production de produits artisanaux destinés à être vendus aux intermédiaires qui les ont ramenés dans la capitale pour les revendre dans le but de gagner de l’argent. Dans un premier temps, ils s’étaient rassemblés aux quatre grands marchés se trouvant tout près des portes de la capitale. Mais comme les usines royales ne pouvaient pas approvisionner suffisamment les produits, ils s’étaient progressivement regroupés dans le quartier de la Porte Est car le terrain d’ici était très propice au transport fluvial des marchandises de la campagne vers la capitale en passant par le fleuve Rouge jusqu’à Tô Lich et les canaux.
À cette époque, devant le marché se trouvait le temple du Cheval Blanc (Bạch Mã). Sur sa droite il y avait la rivière Tô Lich et un pont, le tout devenant aujourd’hui la rue du sucre (Hàng Đường). C’était pourquoi au 14ème siècle l’expression « Kẻ Chợ » (ou les gens du marché) était employé pour désigner ce quartier animé. C’était cet endroit qui devenait plus tard le quartier de 36 rues et corporations destiné à vendre tous les produits artisanaux fournis par les villages artisanaux et ruraux aux alentours. Les magasins étaient entièrement des huttes utilisées comme des ateliers de fabrication ou des lieux pour faire du commerce tout le long de la rue.
Analogues à des maisons de campagne, ces magasins étaient construits en bois et en bambou, avec des toits de paille et des murs enduits de boue. Chaque maison possédait une jarre d’eau sur le toit qui, en cas d’incendie, pouvait être renversée sur le toit pour éteindre le feu. Étant effrayés par le feu, les gens ont décidé de construire un temple destiné au génie du feu (situé aujourd’hui dans la rue des pipes) pour lui demander de ne pas provoquer d’incendie tout le 15ème jour du mois lunaire. Kẻ Chợ s’’était progressivement échappé de la dépendance de la capitale depuis le XVIIème siècle sous le règne des seigneurs Trinh grâce à une série de résolutions telles que la réduction des impôts, l’unification du système monétaire et la réalisation de nombreux projets urbains conduisant à un développement important. Les artisans commerçants des villages artisanaux affluèrent vers la capitale pour y vivre de manière permanente et les commerçants étrangers commencèrent à ouvrir aussi des succursales dans la capitale, ce qui rendait l’économie plus dynamique. Grâce à cela, la capitale était devenue ainsi le plus grand centre commercial dans le nord du Vietnam.
Les artisans et les commerçants d’un même village se regroupaient en corporations et se spécialisaient ensemble dans la production ou la vente dans le quartier. Pour trouver les produits dont vous avez besoin, il vous suffit de vous rendre au quartier dont le portail d’entrée porte un panneau indiquant clairement la qualité et le type de produits vendus. Durant cette période, le mot rue n’était pas utilisé. Selon l’écrivain Nguyễn Ngoc Tiến, le mot rue était encore employé pour désigner le quai fluvial. C’est pourquoi il y a la phrase « En déposant la rame, le pêcheur se dépêche de retourner à la rive lointaine » dans le poème «L’après-midi teinté de nostalgie» de Mme Huyện Thanh Quan. Selon l’historien français Philippe Papin, le mot « rue » était utilisé en 1851 dans les districts de Thọ Xuyên et Vĩnh Thuận. C’est pour cela que le poste du chef de la rue est apparu dans son livre intitulé « Histoire de Hanoi ».
Dans le livre intitulé Đai Nam Nhất Thống Chí (Géographie du Viet Nam), il est écrit ainsi: Hanoï était l’ancienne capitale, elle comptait à l’origine 36 rues etc. Dans le livre « Un voyage au Tonkin de l’année du cochon en bois (1876) » de l’érudit Trương Vĩnh Ký, il a répertorié 21 rues dont: Hàng Buồm (Rue des voiles), cette rue étant aussi la rue des immigrants chinois avec de nombreux magasins de médecine traditionnelle et des restaurants chinois , Hàng Quảng Đông c’était la rue des Cantonnais à l’époque française (rue Hang Ngang d’aujourd’hui), Hàng Mã (Rue du cuivre à l’époque française) était associée à la production et au commerce de papiers votifs, des objets de funérailles, etc. Le mot rue pourrait donc être né dès le début du règne du roi Tự Đức.
Les bijoutiers venus du village de Châu Khê s’étaient installés dans la rue des changeurs (Hàng Bạc). Quant aux tourneurs sur bois du village de Nhi Kê, ils habitaient dans la rue Tô Tịch et ainsi de suite… Ils gardaient toujours le contact avec leur village d’origine à la campagne en recrutant des ouvriers, en fournissant du matériel, en inscrivant leurs noms dans la généalogie du village et en participant chaque année aux fêtes villageoises.
Les villages ruraux étaient devenus ainsi des lieux qui approvisionnaient non seulement les villages urbains en produits de haute technologie mais aussi en produits agricoles pour la capitale. On peut dire que les villages de la campagne et les villages de la capitale dépendaient les uns des autres. Grâce à cette interdépendance, l’esprit de solidarité entre les villages urbains et les villages ruraux était encore plus serré. Chaque village urbain était construit le long d’une rue ou d’un tronçon de rue et dépendait d’un ou plusieurs villages exerçant le même métier. A cette époque, la particularité du village résidait sur le fait qu’à chaque extrémité du village il y avait toujours un portail d’entrée qui était fermé durant la nuit. Chaque village disposait également d’un appareil administratif distinct ayant un chef de village, une maison communale dédiée au culte des ancêtres du métier ou des génies du village dont les gens étaient issus. Durant la période coloniale française, afin d’éviter les incendies, le gouvernement français prit la décision de réorganiser la ville au moyen des travaux architecturaux avec des maisons tubulaires que l’on voit aujourd’hui dans la vieille ville de Hanoï, mais il fit disparaître également de nombreux étangs et lacs comme le lac Hàng Đào, lac Mã Cảnh, lac Hàng Chuối, lac Liên Trì etc. pour construire les maisons et les bâtiments publics. En 1894, les Français ont asséché la partie supérieure de la rivière Tô Lich pour construire le marché de Đồng Xuân. Ils ont de nouveau détruit les murs de la citadelle de Hanoi et ses portes. Il ne restait désormais que la porte Quan Chưởng (porte de l’Est) et la rivière Tô Lich en contrebas de la citadelle a également été comblée de sable et d’alluvions. À présent, de nombreuses rues n’ont plus que leur nom, comme la rue Hàng Bè (rue des radeaux), car le sable a repoussé la rivière plus loin, de sorte que les radeaux ne peuvent plus s’approcher du pied de la digue. Donc il n’y a plus de radeau. Alors il n’y a non plus de marché des radeaux sur la digue.
Quant aux maisons tubulaires, on les voit mettre en valeur le style occidental, notamment leur façade avec balcon, loggia, porche etc. Les matériaux de construction comprennent le ciment, les barres d’armature, le béton, le verre etc. Cependant, selon l’historien français Philippe Papin, les maisons tubulaires de Hanoï sont influencées par la communauté chinoise. Cet argument n’est pas forcément faux si on a l’occasion de visiter les anciennes maisons des Chinois à Hội An. Mais selon l’écrivain Nguyễn Ngoc Tiến, sous le règne du roi Minh Mang, l’impôt sur les magasins n’était pas basé sur la taille ou la profondeur du magasin, mais uniquement sur la façade. Le propriétaire d’un magasin ayant une façade relativement large doit payer une taxe plus élevée par rapport à celui possédant une petite façade. On a intérêt de diviser la grande façade en plusieurs petites façades donc en plusieurs boutiques. Parfois, un fils qui se marie et n’a pas les moyens d’acheter un nouveau logement est obligé de demander à ses parents de céder une partie de leur boutique, ce qui donne naissance à la création des maisons tubulaires. Bien que celles-ci aient des façades très étroites, elles peuvent avoir une longueur allant jusqu’à 60 mètres. Ce type de maison comporte généralement trois parties: le devant avec sa façade est réservé au commerce ou à l’atelier tandis qu’au milieu se trouve généralement une petite cour où on édifie une petite maison avec un dôme ressemblant à un four de 1,8 mètre de haut pour garder des objets de valeur en cas d’incendie et le derrière du magasin est destiné à l’habitation.
Dans son livre intitulé « Une description du royaume de Tonkin », le commerçant anglais Samuel Baron en a parlé avec ses illustrations et ses descriptions intéressantes.
Malgré sa taille insignifiante par rapport à celle du Vietnam, le vieux quartier de Hanoï témoigne incontestablement de la culture commerciale et urbaine des Vietnamiens au fil de plusieurs siècles. C’est un modèle dont on a besoin pour connaître d’une manière approfondie la structure traditionnelle de la « ville » dans le monde rural des Vietnamiens.
Bibliographie :
Nguyễn Bá Chính : Hà Nôi Chỉ Nam. Guide de Hanoï. Nhà xuất bản Nhã Nam, Hà Nội.
Philippe Papin : Histoire de Hanoï. Editeur Fayard.
Hữu Ngọc: Hà Nội của tôi. Nhà xuất bản Văn Học.
Nguyễn Ngọc Tiến: Làng Làng Phố Phố Hà Nội. Nhà xuất bản hội nhà văn.
Tọa lạc ở số 380 đường Trần Hưng Đạọ (Saïgon) , đình Minh Hương Gia Thạnh được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật bởi bộ Văn Hóa. Đình nầy được coi xem là có lâu đời nhất ờ vùng Saïgon-Chợ lớn do người Minh Hương xây dựng từ năm 1789. Người Minh Hương là những Việt gốc Hoa mà tổ phụ của họ là người Hoa, thần dân của nhà Minh sang định cư ở Đàng Trong sau khi nhà Minh bị sụp đổ, được chúa Nguyễn Phúc Tần cho phép hai vị tổng binh cựu thần của nhà Minh Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên cư trú ở miền nam tức là vùng đất của Chân Lạp cùng với 3000 binh sĩ và gia đình vào năm Kỷ Mùi (1679). Dương Ngạn Địch vào khai thác vùng Mỹ Tho còn Trần Thượng Xuyên thì vào khai khẩn vùng Biên Hoà (Cù Lao Phố), một vùng đất trù phú. Người ngoại quốc thường tới lui buôn bán ở nơi nầy. Trong thời kỳ chiến tranh giữa nhà Tây Sơn và Nguyễn Ánh, thì tất cả người Minh Hương đều đứng về phía chúa Nguyễn nên nhà Tây Sơn tàn phá nhà cửa của họ vào năm 1776. Họ buộc lòng phải lánh nạn về ở vùng đất Đề Ngạn xưa tức là Chợ Lớn ngày nay. Đến năm kỷ dậu (1789) dưới thời Lê Mẫn Hoàng Đế thì con cháu nhà Minh có quyền lập ra Minh Hương xã. Ban đầu chữ « hương » dùng chữ 香 có nghĩa là « hương hỏa » (香火), đến năm 1827 đổi sang chữ 鄉 có nghĩa là « làng ». Như vậy Minh Hương có thể hiểu là « làng của người Hoa, thần dân của nhà Minh. Bởi vậy chúng ta cũng thường gọi họ là khách trú. Lúc đầu làng Minh Hương không có ranh định biên giới như các làng khác vì họ ở khắp mọi nơi của vùng đất mới. Người Minh Hương khỏi đi lính và khỏi đi làm xâu. Nếu họ phạm phép thì Minh Hương xã phân xử. Mặc dầu có đặc quyền như vậy, Minh Hương xã rất nghiêm ngặt trừng trị và lo lắng dạy dỗ con cháu họ. Bởi vậy họ sống rất hoà đồng với người dân Việt khiến mới có câu ca dao như sau:
Gỏi chi ngon bằng gỏi tôm càng
Đố ai lịch sự bằng làng Minh Hương.
Chính vua Tự Đức đã có sắc tặng cho làng Minh Hương bốn chữ: Thiện Tục Khả Phong (Phong tục tốt đẹp cần giữ lưu truyền), khắc vô một tấm biển, nay treo trước căn giữa Chánh điện của đình. Theo giáo sư Lâm Vĩnh Thế thì năm 1865, Thống Đốc Nam Kỳ lúc bấy giờ là Đô Đốc De La Grandière ban hành quyết định chấm dứt quy chế làng của Minh Hương Xã, viện lý do là Sài Gòn và Chợ Lớn là châu thành tức là thủ phủ của tỉnh, làng Minh Hương không còn có lý do tồn tại nữa. Đình Minh Hương Gia Thạnh không phải là nhà làng nữa mà trở thành từ đó nhà hương hỏa chung của tất cả hội viên, của tất cả công dân Việt Nam gốc Hoa có hơn hai trăm năm nay vì họ nói tiếng Việt, mặc quốc phục trong các dịp tế lễ, cho con cái học trường Việt và hành xử hoàn toàn như là một công dân Việt Nam. Trịnh Hoài Đức và Ngô Nhân Tịnh, hai người Minh Hương làm quan đến chức thượng thư.
Đình được xây cất theo kiểu nhà năm gian. Mái đình lợp ngói ống, trang trí hình lưỡng long tranh châu, cá hóa long, tượng ông Nhật bà Nguyệt, phù điêu trích từ các tuồng tích Trung Quốc. Trên cột và các đà ngang treo nhiều hoành phi, câu đối, phần lớn được làm từ đầu và giữa thế kỷ 19. Tại đình vẫn còn lưu giữ nhiều cổ vật quý giá nhất là đình có giá trị về nghệ thuật thư pháp, nghệ thuật chạm khắc gỗ mang phong cách Việt nam. Nhờ sự giải thích của chị Vân,một thành viên của ban tri sự quản lý đình hôm đến tham quan, mình được chị giải thích biết nhiều về các cổ vật trưng bày của đình. Thật thú vị và cũng tiện đây có một lời cám ơn chị qua bài viết nầy.
Située au numéro 380 rue Tran Hung Dao (Saïgon), la Maison communale Minh Huong Gia Thanh est reconnue comme un monument architectural et artistique par le ministère de la Culture. Cette maison communale est considérée comme la plus ancienne de la région de Saïgon-Cholon, construite par les partisans de la dynastie des Ming (ou Minh Hương) en 1789.
Les Minh Hương sont des Vietnamiens d’origine chinoise dont les ancêtres étaient des Chinois, sujets de la dynastie Ming qui s’étaient réfugiés dans le sud après la chute de la dynastie Ming en Chine. Le seigneur Nguyễn Phúc Tần permit aux deux anciens généraux de la dynastie Ming, Dương Ngạn Địch et Trần Thượng Xuyên, de trouver refuge dans le sud du Vietnam, l’ancien territoire du Chen La avec 3 000 soldats et leurs familles en l’année de la Chèvre (1679). Dương Ngạn Địch était allé exploiter la région de Mỹ Tho et Trần Thượng Xuyên la région de Biên Hoà (Cù Lao Phố), un territoire riche et peuplé. Les étrangers le fréquentaient souvent pour y faire des affaires. Durant la confrontation armée entre les Paysans de l’Ouest (Tây Sơn) et Nguyễn Ánh, tous les Minh Hương s’étaient rangés du côté de ce dernier. Furieux, les Tây Sơn pillèrent leurs maisons en 1776. Les Minh Hương étaient obligés de se réfugier dans la région de Đề Ngạn (Cholon d’aujourd’hui). En 1789, sous le règne de l’empereur Lê Mẫn, les Minh Hương obtinrent le droit de fonder leur propre village.
Le mot « Hương » était initialement écrit avec le pictogramme 香 pour évoquer le culte des ancêtres (香火), mais il était remplacé ensuite par le pictogramme 鄉 en 1827 pour signifier le village. Minh Hương pouvait être compris ainsi comme le village des sujets de la dynastie Ming. C’était pour cela on était habitué à les appeler « les résidents étrangers».
Au début, le village des Minh Hương n’était pas délimité par des frontières comme les autres villages grâce à leur possibilité de s’installer partout sur le nouveau territoire. Les Minh Hương étaient exemptés du service militaire et ils n’étaient pas forcés de travailler gratuitement pour l’état. En cas de la violation de la loi, ils seront punis par leur propre village. En dépit des privilèges qu’ils ont eus, les Minh Hương ne cessaient pas de respecter les lois avec sévérité et ils étaient toujours soucieux d’aider leurs enfants dans l’éducation. C’était pourquoi ils vivaient en harmonie avec les Vietnamiens, ce qui donnait naissance à la chanson populaire suivante :
Gỏi chi ngon bằng gỏi tôm càng
Đố ai lịch sự bằng làng Minh Hương.
Quelle salade peut-on trouver aussi délicieuse comme celle de crevettes ?
Y a t-il quiconque plus poli que le village des Minh Hương ?
L’empereur Tự Đức lui-même signa pour le village des Minh Hương un décret comportant quatre mots suivants: Thiện Tục Khả Phong (Les bonnes coutumes doivent être gardées et transmises), gravés sur une pancarte, désormais accrochée devant la salle principale de la maison communale. Selon le professeur Lâm Vĩnh Thế, en 1865, le gouverneur de la Cochinchine de l’époque, l’amiral De La Grandière, décida de mettre fin au statut de la création du village de Minh Hương Xã en prenant prétexte que Saigon-Cholon était la capitale de la province. Le village des Minh Hương n’avait plus de raison d’exister. Mais il était devenu dès lors la maison communale dédiée au culte des ancêtres pour tous ses membres et pour tous les citoyens vietnamiens d’origine chinoise depuis plus deux siècles car ils parlaient le vietnamien, ils portaient des vêtements nationaux lors des cérémonies, ils envoyaient leurs enfants dans les écoles vietnamiennes et se comportaient entièrement comme des citoyens vietnamiens. Trinh Hoài Đức et Ngô Nhân Tịnh issus des Minh Hương étaient au poste de ministre.
La maison communale a été construite dans le style d’une maison à cinq compartiments. Son toit est recouvert de tuiles tubulaires, décoré d’un couple de dragons se disputant la perle enflammée, de poissons se transformant en dragons, de génies de mariage et des tableaux en relief extraits des opéras chinois. Sur les colonnes et les poutres horizontales sont suspendus de nombreux panneaux horizontaux et des sentences parallèles dont la plupart ont été réalisés au début et au milieu du XIXème siècle.
La maison communale conserve encore de nombreuses antiquités, les plus précieuses étant l’art de la calligraphie et de la sculpture sur bois dans le style vietnamien. Grâce aux explications de Mme Vân, membre du comité de gestion de cette association, j’ai beaucoup d’informations à savoir sur les antiquités exposées. Pour moi, c’est très intéressant et aussi une opportunité de lui rappeler ma gratitude à travers cet article.
Thác Pa Sỹ
Theo tiếng dân tộc Rơ Mâm, thác nầy có nghĩa là 3 nguồn suối lớn nhất ở Măng Đen chụm lại thành một dòng nước nên được gọi là Pau Suh Thác được đọc chệch bởi dân bản xứ nên nên trở thành Pa Sỹ. Đến đây phải ăn cơm lam gà nướng , rết ngon tuyệt vời.
Selon la langue de l’ethnie Rơ Mâm, cette cascade signifie le point de rencontre des trois plus grandes sources de M ăng Đen se rejoignant dans un cours d’eau. C’est pour cela qu’elle est appelée Pau Suh qui devient au fil des années Pa S ỹ à cause de la mauvaise prononciation des gens locaux. En venant ici, il faut manger du riz gluant dans un tronçon de bois avec le poulet grillé. C’est extrêmement délicieux.
Còn chút gì để nhớ Pleiku, Gia Lai
Lúc về Việt Nam vào tháng 11 vừa qua, minh được anh Phát, người sáng lập Trường Không Biên giới mời đến Pleiku để dự lễ tưởng niệm vợ anh quá cố được Mái Ấm Thiên Ân tổ chức ở Pleiku. Đây là nơi được sơ Nguyễn Thị Kim Chi, thuộc dòng các nữ tu thuộc tu viện St. Paul de Chartres ở Pháp thành lập từ năm 2010 và che chở hàng trăm em nhỏ người đồng bào dân tộc thiểu số có hoàn cảnh khó khăn, ít học hoặc bị cha mẹ bỏ rơi. Mái Ấm Thiên Ân được tọa lạc ở thôn 4, xã Chư Á, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai, mái ấm Thiên Ân cách trung tâm thành phố Pleiku khoảng chừng 9 cây số.
Nhắc đến Pleiku làm mình không thể quên bài « Còn chút gì để nhớ của nhà thơ Vũ Hữu Định mà được nhạc sỹ Phạm Duy phổ biến thành nhạc. Có dịp đến Pleiku rồi hôm nay trở về Paris tự hỏi mình còn chút gì để nhớ Pleiku hay không? Còn chứ, còn nhớ nhiều lắm, nhớ Mái Ấm Thiên Ân, nơi bao bọc các em nghèo thuộc dân tộc thiểu số (Jarai, Ede), nhớ đến các sơ không ngại khó khăn nhọc nhằn kiếm tiền từng xu qua cách trồng trọt cà phê, hạt điều, va ni vân vân và tháo vát bán buôn và đa năng để đem lại ấm no cho 189 em nghèo thiểu số, nhớ đến một thành phố hiền hoà ít xe cộ bụi bặm náo nhiệt như Saïgon thưở nào, nhớ đến phố núi đầy sương mù như Đà Lạt, nhớ đến vườn hoa tuyệt vời, một thiên đàng xinh xắn nho nhỏ được săn sóc tĩ mĩ với đầu óc thẩm mỹ của các sơ, nhớ đển buổi lễ tưởng niệm chị Marie Consolata ở nhà thờ, nhớ biển hồ T’nưng, nhớ đến buổi cơm tối ngày đầu khi ba chú cháu dùng ở một quán cơm dân dã đậm chất quê hương nhất là để lại một ấn tượng với món cá chiên dầm xoài nước mắm. Một kỷ niệm khó quên, một thành phố đáng nhớ trong cuộc hành trình nầy.
Mái Ấm Thiên Ân
Quelque chose à retenir de Pleiku, Gia Lai
À mon retour au Vietnam en novembre dernier, j’ai été invité par Mr Phát, fondateur de l’’École sans Frontières, à venir à Pleiku pour assister à la messe commémorative de sa défunte épouse organisée par le « Refuge Thiên Ân ». Il s’agit d’un havre fondé en 2010 par sœur Nguyễn Thị Kim Chi appartenant à l’ordre des Religieuses de Saint Paul de Chartres en France et abritant des centaines d’enfants de minorités ethniques en situation difficile, sans éducation ou abandonnés par leurs parents. Le refuge Thiên Ân est situé dans le village 4, commune Chu Á ville de Pleiku, province de Gia Lai, Il est à environ 9 kilomètres du centre-ville de Pleiku. En évoquant Pleiku, je ne peux pas oublier la chanson « Ce qu’il reste à retenir » du musicien talentueux Pham Duy ayant trouvé son inspiration dans le célèbre poème du poète Vũ Hữu Định.
Ayant eu l’occasion d’aller à Pleiku puis de retour à Paris aujourd’hui, je me demande si j’ai encore quelque chose à retenir de Pleiku ou non? Oui, il y a plein de choses à retenir. D’abord je me souviens du refuge Thien An, l’endroit qui abrite les enfants pauvres des minorités ethniques (Jarai, Ede), puis des religieuses polyvalentes qui n’ont pas peur des épreuves et des difficultés pour gagner de l’argent en cultivant du café, des noix de cajou, de la vanille, etc. et qui se débrouillent pas mal dans la vente au détail et en gros pour apporter la nourriture à 189 enfants pauvres des minorités ethniques, de la ville Pleiku paisible et moins polluée avec peu de voitures semblable à la ville Saïgon d’une époque lointaine, de la ville de montagne plongée dans la brume comme Dalat, du magnifique jardin fleuri, un joli petit paradis soigneusement entretenu par l’esprit esthétique et créatif des religieuses, de la messe commémorative en l’honneur de Marie Consolata à l’église, du lac T’nưng et enfin du dîner du premier jour où nous avons mangé tous les trois dans un restaurant populaire et typique de notre pays, en nous laissant à la fin du repas une impression particulière avec le poisson frit mariné dans une sauce à la mangue. Un souvenir inoubliable, une ville mémorable pour ce voyage.
Bến phà Đồng Bài (Hải Phòng)
Terminal de ferry Đồng Bài (Hải Phòng)
Muốn đi vịnh Lan Hạ, du khách phải mất ít nhất nữa ngày. Phải lấy đường cao tốc 5B để đến Hài Phòng rồi từ đó ra bến phà Đồng Bài mới lấy phà sang được đảo Cát Bà ở bến Cái Viêng cùng xe ô tô, cứ nữa tiếng có một phà qua lại. Rồi sau đó mới đến nơi tụ tập các thuyền máy để đưa du khách lên tàu lớn để đi tham quan vịnh Lan Hạ. Cũng có thể lấy cáp treo của Sun Word qua Cát Bà nếu không muốn mất thì giờ nhiều với phà.
Pour se rendre à la baie de Lan Ha, le visiteur doit y consacrer au moins une demi-journée. On doit prendre l’autoroute 5B pour aller à Hải Phòng et à partir de là, on se rend au terminal de ferry Đồng Bài pour rejoindre l’île Cát Bà au quai de Cai Vieng avec un ferry. il y a un ferry qui fait l’aller-retour toutes les demi-heures. Puis on se rend ensuite au lieu de rassemblement des bateaux de plaisance pour l’embarquement. On peut également prendre le téléphérique de Sun Word pour aller jusqu’à Cát Bà si on ne veut pas perdre trop de temps.