Bà Triệu (225 – 248 SCN)

Triệu Ẩu

Version française

Sau khi đế chế nhà Hán bị sụp đổ thì sau đó là thời kỳ Tam Quốc với ba nhân vật ai cũng được biết đó là Tào tháo, Lưu bị và Tôn Quyền. Trong thời kỳ nầy nước ta vẫn bị đô hộ bởi nước Ngô của Tôn Quyền. Đây cũng thời kỳ cũng có các vụ nổi loạn chống Tàu dành độc lập trong đó có một nữ anh hùng không thua chi hai bà Trưng thường được gọi bà Triệu (hay là Triệu thị Trinh). Từ thưở nhỏ, bà có chí khí hơn người và  giỏi võ nghệ.  Mùa xuân năm Mậu Thìn (248), thấy quan lại nhà Đông Ngô  tàn ác, dân khổ sở, bà  chiêu mộ được hơn một ngàn tráng sĩ cùng anh khởi binh chống lại quân Đông Ngô. Vua Ngô Tôn Quyền liền phái tướng Lục Dận, cháu của Lục Tốn sang làm thứ sử Giao Châu cùng 8000 quân đàn áp cuộc khởi nghĩa. Sau 6 tháng chống chọi, bà vì quân ít thế cô đành chạy về xã Bồ Điền vùng Thanh Hóa và tự tử lúc mới có 23 tuổi. Vua Nam đế  nhà Tiền Lý khen bà là người trung dũng lập miếu thờ bà. Đến nay chuyện Bà Triệu từ thế kỷ thứ II vẫn còn hằng in trong tâm thức mỗi người dân Việt với lòng ngưỡng mộ và niềm tự hào.

Đất Giao Châu đời bấy giờ cứ bị loạn lạc mãi, một phần do bị các quan lại từ nhà Ngô sang nhà Lương của thời kỳ Nam Bắc triều ở Trung Quốc  tham tàn vơ vét của dân một phần bị nước Lâm Ấp quấy nhiễu đánh phá không ngừng. Nước nầy được thành lập vào cuối đời nhà Hán  nhờ một cuộc nổi dậy ở huyện Tượng  Lâm vào năm 190 SCN do một người tự xưng là Khu Liên. Ông nầy giết thứ sử  Tàu Chu Phủ và nắm quyền tự trị trên một phần lãnh thổ cực nam của quận Nhật Nam. Nước Lâm Ấp được gọi sau nầy là Chiêm Thành bao gồm từ Quảng Bình cho đến lãnh thổ miền nam của núi Bạch Mã.

Người Lâm Ấp thuộc nòi giống Mã Lai và chịu nhiều ảnh hưởng Ấn Độ hơn Trung Quốc khiến về sau văn hóa nước nầy là văn hóa Ấn Độ, chữ Phạn là chữ họ dùng để trao đổi quốc thư với Trung Quốc.  Chính nhờ các thương nhân và các tu sĩ Ấn Độ mà người Lâm Ấp giao tiếp khiến các tôn giáo như Ấn Độ giáo và Phật giáo mới được truyền bá qua xứ nầy. Cũng nhờ đó mà Phật giáo mới du nhập vào Chiêm Thành qua đường biển rồi sau đó mới đến Giao Châu (Việtnam) qua đường bộ từ Lâm Ấp, chớ không phải đến từ Trung Hoa như c ác văn bản Trung Hoa thường  khẳng định. Bởi vậy mẹ của Tôn Quyền lúc còn sống thường mời các tu sĩ ở Luy Lâu (Bắc Ninh, Vietnam) đến thủ đô Kiến Nghiệp (Jiany) của nước Ngô, thuộc về thành phố Nam Kinh (Nankin) hiện nay, để nghe giảng kinh và bình luận về các sách kinh lễ Ấn Độ (sutra) của Phật giáo. Nước Giao Châu phải đợi cho đến cuối năm 541 mới có cuộc nổi dậy của  Lý Bí. Ông dành lại độc lập cho nước ta được 60 năm và đặt tên nước là Vạn xuân sau khi đánh bại nhà Lương  đang đô hộ nước ta.  Ông tự xưng là Nam Đế và đóng đô  ở Long Biên.

Dame  Triệu (225 – 248 après J.C.)

Après la chute de l’empire des Han, c’est la période des Trois Royaumes avec trois personnages bien connus  Cao Cao, Liu Be et Sun Quan. Durant cette période, notre pays était sous la domination du royaume Wu de Sun Quan. C’est aussi la période où il y avait des rébellions anti- chinoises réclamant l’indépendance parmi lesquelles  figurait une héroïne analogue aux sœurs Trưng et connue souvent sous le nom  Triệu Thi Trinh ou Dame Triệu. Dès son plus jeune âge, elle  ne manquait pas de caractère et était très douée en arts martiaux. Au printemps de l’année du dragon (248 après J.C.), en voyant la cruauté des  fonctionnaires de l’état Wu et la misère de ses compatriotes, elle n’hésita pas à recruter plus d’un millier de braves gens avec son frère pour déclencher une guerre  de libération contre l’armée des Wu. Le roi Wu Sun Quan  fut obligé d’envoyer immédiatement à Giao Châu le général Lu Dan, un neveu de  Lu Xun (Lục Tốn) pour réprimer le soulèvement  avec 8 000 soldats. Après 6 mois de combats, elle ne put plus tenir la résistance contre les agresseurs. Elle dut se réfugier à la commune Bồ Điền de la province Thanh Hóa à cause du manque d’appui et de partisans. Elle se suicida  à l’âge de 23 ans. Le roi  Lý Nam Đế  de la dynastie des Lý antérieurs l’a félicitée pour son courage et sa fidélité en construisant un temple dédié à sa mémoire. Jusqu’à présent, l’histoire de  Dame Triệu du IIème siècle est toujours imprégnée d’admiration et de fierté dans l’esprit de tous les Vietnamiens.

Giao Châu (l’ancien pays des Vietnamiens)  ne cessa pas  de connaître non seulement à cette époque la misère et la corruption des fonctionnaires nommés d’abord par le royaume des Wu (nhà Ngô) puis celui des Leang (nhà Lương) durant la période  dynasties du Nord et du Sud (420-580 après J.C.) en Chine mais aussi les troubles frontaliers provoqués incessamment par le royaume Lin Yi.  Ce pays limitrophe  prit naissance à la fin de la dynastie des Han grâce à un soulèvement mené dans le district de Tượng Lâm en 190 après J.C. par un brave nommé Khu Liên. Celui-ci a tué le gouverneur chinois Chu Phu et s’est  autoproclamé roi  sur une partie du territoire située le plus au sud du district de Nhật Nam. Le pays Linyi connu plus tard sous le nom de Chămpa  est constitué en fait  de la région Quảng Bình jusqu’au territoire sud de la montagne Bạch Mã.

Les habitants de Linyi étaient de la race malaise et se laissaient influencer par la culture indienne plus que   celle de la Chine. Ils adoptaient dès lors  la culture indienne comme la leur et se servaient plus tard  du sanskrit dans l’échange des lettres avec la Chine. C’est par l’intermédiaire des commerçants  et des moines indiens avec lesquels le peuple du Linyi  était en contact que l’hindouisme et le bouddhisme pouvaient s’implanter dans ce pays. Le bouddhisme a été introduit au Chămpa  par la voie maritime, puis il s’est  implanté ensuite à Giao Châu (Vietnam) par la voie terrestre prise à partir du Chămpa.

 En aucun cas, le bouddhisme vietnamien ne s’est pas  passé  par la Chine comme certains documents chinois l’ont prétendu. C’est pourquoi la mère de Sun Quan, une disciple fervente du bouddhisme eut l’occasion de  faire venir à cette époque les moines de Luy Lâu (Bắc Ninh)  à la capitale Jianye (Kiến Nghiệp) du royaume de Wu,  proche de la ville actuelle de Nankin pour leur demander de prêcher et commenter les sûtras du bouddhisme. Giao Châu dut attendre à la fin de l’année  541 pour  que l’insurrection menée par Lý Bí eût lieu. Il réussît à battre les Leang pour obtenir l’indépendance durant une soixantaine d’années,  donna à son royaume un nom prometteur de pérennité « Vạn Xuân » (ou  Dix Mille printemps).  Il se proclama  Nam Đế (Empereur du Sud) et  s’installa à Long Biên.  

 

Photos de Jean-Marie Duchange sur les Hauts Plateaux.

 

Version française

Un grand hommage au photographe

Jean-Marie  Duchange 

Jean-Marie Duchange sinh ra ở Saint Nazaire (Loire Atlantique) vào năm 1919. Dù ông không phải là một nhà dân tộc học như Georges Condominas mà cũng không phải nhà nhiếp ảnh viên chuyên nghiệp ở thời đó nhưng các tác phẩm ảnh mà gia đình ông tặng cho bảo tàng Quai Branly (Paris) và bảo tàng dân tộc học ở Hànội rất hiếm hoi và vô giá. Sau 4 năm trong quân đội, ông từ bỏ quân ngũ và làm việc 3 năm sau, từ năm 1952-1955 ở vụ y tế công cộng ở miền núi Nam Đông Dương (Tây Nguyên), ông có dịp đi nhiều nơi di chuyển  bằng xe jeep, cưỡi voi, đi bộ, đi thuyền vân vân.. Nhờ đó ông chụp được nhiều ảnh rất độc đáo với máy ảnh  Rolleyflex et Samflex để thỏa mãn sở thích chụp hình của ông. Đấy là những lời mở đầu được ghi lại trong cuốn sách mà ông dự định xuất bản khi ông ở tuổi 88. Nhưng không may ông qua đời khiến cô con gái của ông, bà Evelyne Duchaine và cô cháu ngọai bà Nadège Bourdoin không ngần ngại cứu vớt các tác phẩm ảnh nầy bằng cách cống hiến tất cả các phim âm bản cho bảo tàng Quai Branly (Paris) và  bảo tàng dân  tộc học ở Hànội. Nhờ vậy mới có cuộc trưng bày  để tưởng nhớ đến ông và để đáp lại sự hảo tâm của gia đình ông. Phải công nhận các tác phẩm của ông vẫn còn sống động và để lại cho những người đi xem như mình một niềm vui vô hạn.

Version française

Jean-Marie Duchange est né à Saint Nazaire (Loire Atlantique) en 1919. Bien qu’il ne soit ni ethnologue comme Georges Condominas ni photographe professionnel à cette époque, les œuvres photographiques que sa famille a offertes au musée du Quai Branly (Paris) et au musée d’ethnographie de Hanoï sont  rares et inestimables. Après 4 ans dans l’armée, il quitta l’armée et travailla 3 ans plus tard, de 1952 à 1955 au service de santé publique dans le sud de l’Indochine (Les Hauts Plateaux) du Vietnam, il avait l’occasion de voyager dans de nombreux endroits en jeep, à dos d’éléphant, à pieds, en pirogue  etc. Grâce à cela, il prit de nombreuses photos très originales avec son appareil photo Rolleyflex et Samflex pour assouvir sa passion  pour les photos. Ce sont les premiers mots d’introduction trouvés dans le livre qu’il envisagea de publier à l’âge de 88 ans. Mais à cause de sa mort précipitée,  sa fille Evelyne Duchaine et sa nièce Nadège Bourdoin n’hésitèrent pas à sauver son travail en offrant tous les négatifs au musée  Quai Branly (Paris)  et  au  musée d’ethnographie de Hanoï. Grâce à ce don, il y a eu une exposition au musée d’ethnographie de Hanoï  en l’honneur de sa mémoire et en reconnaissance  de la générosité de sa famille. Il faut reconnaître que ses œuvres sont toujours vivantes et laissent à des visiteurs passionnés comme moi une joie incommensurable.

 

Mộc Châu (Plantation de thé)

Plantation de thé

Mộc Châu (Sơn La) được mệnh danh là Đà Lạt của miền Bắc. Cách Hà Nội 180 km về phía Tây Bắc, nơi được nổi tiếng chè và có nét độc đáo trong văn hóa của các dân tộc H’Mông, Thái, Dao, Mường…
Mộc Châu (Sơn La) est au Vietnam du nord ce que Dalat est au Vietnam du sud. Etant située loin de la capitale Hanoï de 180 km dans le territoire du Nord-Ouest, elle est réputée pour son thé et possède le trait caractéristique dans la culture des minorités ethniques Hmong, Thaï, Yao et Mường etc.
  • Cascade des Fées (Thác Nàng Tiên)
  • Forêt des pins  Bản Áng (Rừng thông Bản Áng)
 

Thác Dãi Yếm (Casacade Dãi Yếm, Mộc Châu)

Thác Dãi Yếm

Thác Dải Yếm

Version française

Thác Dải Yếm được hình thành từ hai khe nước bo Tá Cáu và bo Co Lắm ở bản Vặt cách thác 600m về phía tay trái và cùng nằm trên QL43. Ngày xưa, nhiều người còn gọi thác này là Thác Nàng, Thác Bản Vặt, tuy nhiên cái tên được nhiều người biết đến nhất vẫn là Thác Dải Yếm. Cái tên thác đã gắn liền với sự tích về hai cô thôn nữ dũng cảm cứu chàng trai khỏi nước lũ. Nằm cách trung tâm thị trấn Mộc Châu khoảng 8km, làng nầy của người Thái được toạ lạc cách suối 600 thước  bên tay trái và trên quốc lộ 43. Thác Dải Yếm  còn là ngọn thác lớn thuộc địa phận xã Mường Sang, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.

Version française

La cascade Dãi Yếm se forme lors de la rencontre de deux cours d’eau, Bó Co Lắm  et Bo Tá Cháu dans le village de Vặt. Loin du centre-ville de Mộc Châu à peu près de 8km,  ce village des Thaïs  est situé  à 600 m de la cascade sur le côté gauche et sur la route nationale 43. Autrefois, beaucoup de gens appelaient également cette cascade Thác Nàng, Thác Bản Vặt, mais le nom le plus célèbre est toujours la cascade Dãi Yếm dont  le nom est lié  étroitement à l’histoire de deux courageuses villageoises ayant sauvé un garçon lors d’une inondation. La cascade Dãi Yếm est une chute d’eau importante appartenant à la commune de Mường Sang du district de Mộc Châu, dans la province de Sơn La.

 

Danse du lion ou de la licorne (Múa lân sư)

Version française

Múa Lân Sư

Nhắc đến Tết không có ai có thể không nhắc đến múa Lân. Đây là môn nghệ thuật múa dân gian được thấy trên đường phố ở Việt Nam. Nó được gọi là múa lân ở trong Nam còn ở ngoài Bắc thì gọi là múa sư (tức là sư tử (hay  wǔshī ). Lân là con linh vật  đứng hàng thứ nhì  trong bốn con vật có sức mạnh siêu phàm hay tứ linh (long, lân, qui, phụng). Trong văn hóa Việt nam, chúng ta thường bị lầm lẫn giữa  con kỳ lân với con ghê. Đặc điểm để phân biệt giữa nghê và lân là ở bộ móng, nghê mang móng vuốt còn kỳ lân mang móng guốc. Thật sự khi gọi kỳ lân, tức là nói đến một cặp: con đực gọi là kỳ và lân là con cái. Múa Lân thường được biểu diễn trong các dịp lễ hội, đặc biệt là Tết Nguyên Đán, Tết Trung Thu hay khánh thành cửa hàng mới vì các loại thú nầy tượng trưng cho thịnh vượng và hạnh phúc. Con lân có cái đầu được trang trí  trông rất đẹp mắt và thân thể của nó được nâng lên bởi một số vũ công uốn lượn theo nhịp điệu âm thanh của các tiếng trống. Nó luôn luôn đi cùng với một vũ công bụng phệ, vui cười hay vẫy quạt, thường đeo mặt nạ  và mặc áo choàng màu vàng nghệ (Ông Địa). Đây là cuộc khiêu chiến giữa người và động vật, giữa Thiện và Ác, luôn luôn kết thúc bằng chiến thắng của con người trên động vật.

Danse de la licorne ou du lion.

En évoquant le Têt, personne n’oublie de mentionner la danse de la licorne ou du lion. C’est un art de la danse folklorique que l’on trouve dans les rues du Vietnam. On l’appelle la danse de la licorne  dans le Sud et la danse du lion dans le Nord (ou wǔshī bính âm). La licorne  occupe la deuxième place parmi les  quatre animaux au pouvoir surnaturel (tứ linh)(long, lân, qui, phụng). Dans la culture vietnamienne, on a l’habitude de confondre la licorne avec le chien-lion (con nghê).  La principale caractéristique permettant de faire la  distinction entre la licorne  et le chien-lion  réside dans les doigts de pied, la licorne étant armée  des sabots et le chien-lion des griffes. Quand on parle de la licorne (Kỳ Lân), on a affaire à un couple d’animaux : kỳ c’est le mâle tandis que Lân est une femelle. La danse de la licorne  est souvent pratiquée lors des fêtes traditionnelles, notamment le Nouvel An lunaire, la fête de la Mi-Automne ou l’inauguration d’un nouveau magasin (ou une boutique) car ces animaux sacrés symbolisent la prospérité et  le bonheur. Cet animal légendaire dont la tête est  décorée magnifiquement et dont tout  le corps est porté par plusieurs danseurs, ondule au rythme des sons des tambourins. Il est toujours accompagné par un autre danseur hilare et ventru agitant son éventail et portant une robe de couleur safran (Ông Ðịa). C’est la danse-combat entre l’homme et l’animal, entre le Bien et le Mal qui se termine toujours par le triomphe de l’homme sur l’animal.

Quartier piétonnier (Huế)

Khu phố Tây ba lô

Cũng như mọi thành phố, Huế cũng có phố đi bộ  hay thường gọi là khu phố Tây ba lô vì người Âu Châu hay thường cư trú ở nơi nầy trong thời gian viếng thăm cố đô Huế. Cũng có đường mang tên Phạm Ngũ Lão như ở thành phố Saïgon nhưng không có náo nhiệt và đông đảo người chi cho lắm.  Tuy nhiên nó  là nơi mà người du khách có thể tìm kiếm các trò vui chơi và giải trí về đêm giữa lòng cố đô trầm tư và sâu lắng. 

Comme toutes les villes du Vietnam, Huế possède également le quartier des routards européens  car ils y résident fréquemment lors de leur visite dans l’ancienne cité de Huế. C’est étonnant de trouver une rue nommée Phạm Ngũ Lão comme celle de  la ville de Saïgon, mais elle n’est pas assez animée et bondée de gens. Cependant, c’est un endroit où les touristes peuvent trouver des divertissements et peuvent trainer  une vie nocturne au cœur de l’ancienne capitale calme et contemplative.

Le pavillon Nhật Thành ( Nhật Thành Lâu)

Nhật Thành Lâu

Công trình kiến trúc này được xây dựng vào năm 1841 dưới thời vua Thiệu Trị, lầu gồm có 2 tầng. Nơi nầy là Phật điện của nhà vua trong Tử Cấm Thành hay là kho bạc theo  lời của một tác giả. Không ai biết rõ sự bổ dụng nó trong Tử Cấm Thành. Vào thời kỳ cuối nhà Nguyễn thì nơi nầy mẹ vua Bảo Đại, bà Từ Cung và các bà trong nội cung hay thường lui tới đây để đọc kinh, cầu an và niệm Phật. Lầu Nhật Thành bị tàn phá rất nặng nề trong các năm 1947 và năm 1968 nên  chỉ còn lại phần nền của công trình. Bởi vậy năm 2018, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã cho phục dựng lại công trình này. Lầu Nhật Thành nằm ở vị trí của Minh Thận Điện thưở xưa, ở phiá đông thì có Càn Thành Điện và phía nam Thái Bình Lâu. 

Étant construite en 1841 sous le roi Thiệu Trị, cette œuvre architecturale se composait de 2 étages. Elle  n’avait aucune affectation précise dans la cité pourpre interdite. Selon certains, elle était le lieu de vénération du Bouddha par le roi ou la chambre forte royale selon la remarque d’un auteur dans son article. Vers la fin de la dynastie des Nguyễn, la mère du roi Bảo Đại, la reine Từ Cung et d’autres femmes du palais  y étaient venues souvent  pour lire des sutras, faire des prières ou vénérer Bouddha. Ce pavillon Nhật Thành qui  fut gravement endommagé durant les années  1947 et 1968 ne gardait que sa fondation. En 2018, le Centre de conservation des monuments de Huế décida de le restaurer. Étant situé à l’emplacement de l’ancien palais Minh Thận, Nhật Thành Lâu se retrouve à l’est avec le palais privé du roi, Càn Thanh et au sud avec la bibliothèque royale Thái Bình Lâu.

 

Galerie des photos

 

 

Nghinh Lương Đình (Pavillon de l’embarcadère royale)

Version française

Nghinh Lương đình  được xây dựng ở bờ bắc sông Hương, trước mặt toà Phu Văn Lâu dưới triều vua Tự Đức vào năm 1852 và được trùng tu lại dưới đời vua Thành Thái nhưng bị cơn bão vào năm 1904 nên công trình bị tàn phá nặng nề.  Sau nầy được dưới thời ngự trị của vua Khải Định (1918)  được xây dựng lại và kết nối với bến thuyền liền nhau nhưng vẫn giữ chức năng cũ. Đây là  nơi nghỉ chân và hóng mát của nhà vua trước khi xuống thuyền rồng để du ngoạn trên sông Hương. Công trình nầy được nằm dài  trên trục  chính từ Kỳ Đài truớc cửa Ngọ Môn  đến Phu Vân Lâu và  có một kiến trúc theo kiểu phương đình. Một gian, 4 chái được nối dài ra ở phía trước và phía sau  với nhà vỏ cua   qua máng xối được cấu tạo từ vật liệu kim loại. Bốn mặt của gian chính giữa đều được để trống. Còn ở giữa  bờ nóc của gian chính thì có  lưỡng long chầu nhật . Còn nhà vỏ cua thì ở bờ mái cũng có hình hồi long chầu mặt nguyệt  và ở cuối các bờ quyết  thì trang trí hình chim phượng. Các vì kèo gỗ được chạm trổ  một cách công phu ở trên mặt  với các hình ảnh mang các đề tài  bát bửu như: tù và, quạt vả, phát trần,  lẵng hoa và bầu rượu.  Mái nhà chính lợp ngói ống lưu ly vàng, hai nhà vỏ cua lợp ngói liệt men vàng.  Nghinh Lương đình  được xây dựng trên nền cao khoảng 90 cm cùng bó vỉa bằng gạch vồ và đá thanh.  Nơi phiá bờ sông thì có 13 bậc cấp dẫn xuống một hành lang xây sát mặt nước sông Hương. Nghìn Lương Đình là một trong hai công trình kiến trúc cùng Phu Văn Lâu không có nằm ở trong Đại Nội. Tuy nhiên hai công trình nầy được mọi người ở Việt Nam đều biết đến luôn cả du khách ở nước ngoài  vì hình ảnh của nó được in trên  tờ giấy 50.000 đồng Việt Nam.

Version française

Le pavillon Nghinh Lương a été construit devant Phu Văn Lâu (pavillon des Édits) sur la rive nord de la Rivière des Parfums sous le règne de l’empereur Tự Đức  en 1852. Puis  il  a été restauré à l’époque de l’empereur  Thành Thái . Puis il a subi  des dégâts importants  lors de la tempête  en 1904. Plus tard, sous le règne du roi Khải Đinh (1918), il a été reconstruit presque entièrement et relié à l’embarcadère tout en gardant son ancienne fonction. C’est le lieu de repos et de détente de l’empereur  avant de prendre une excursion en bateau sur la rivière des Parfums. Cet ouvrage architectural est situé sur l’axe principal de la tour du mât (Kỳ Đài) située en face de la porte principale Ngọ Môn jusqu’au pavillon des Édits (Phu Van) et possède une architecture du style de la maison communale. Une grand espace  entouré de 4 appentis, se prolonge en avant et en arrière par des maisons « en coquille de crabe » au moyen des gouttières de drainage en matériau métallique. L’espace central ne possède aucune porte  sur ses quatre côtés. Par contre  au milieu de son arête faitière,  on voit apparaître un globe enflammé (foudre)  vers lequel les deux dragons tournent la tête. Quant à la maison en « coquille de crabe », sur le toit, on retrouve également un couple  de dragons rendant hommage à la lune et l’ornement d’un phénix au bout de ses extrémités. Les fermes de toit en bois sont minutieusement sculptées sur leur façade avec des motifs représentant  la série des huit joyaux: corne, éventail en forme de feuille de figuier, époussette, panier de fleurs et calebasse à vin.

Le toit principal est recouvert de tuiles « Yin et Yang » jaunes et les deux maisons en coquille de crabe ont leurs tuiles vernissées jaunes. Le pavillon  Nghinh Lương a été construit sur une plate-forme d’environ 90 cm de haut avec les dalles de trottoir en pierre « thanh ». Au bord de la rivière, il y a  13 marches facilitant la descente vers un couloir construit près de la surface de l’eau de la Rivière des Parfums. Le pavillon « Nghinh Lương » est l’une des deux œuvres architecturales avec le pavillon  Phu Van, qui ne font pas partie de la Cité pourpre interdite. Pourtant, ces deux joyaux architecturaux sont connus de tous les gens y compris les touristes étrangers  au Vietnam car leur image est imprimée sur le billet de 50 000 VND.

 

 

Palais An Định (Cung An Định, Huế)


Palais An Định

 

Version française 

Đây là  biệt cung của vua Khải Định khi ngài còn là  Phụng Hóa Công Nguyễn Phúc Bửu Đảo dưới thời ngự trị của vua Thành Thái, cha của vua Duy Tân. Được  toa lạc bên bờ sông An Cựu, nay là số 97 đường Phan Đình Phùng ở thành phố Huế.  Cung nầy được ngài dùng tiền riêng tư để xây cất  làm nơi thư giản, tiếp khách và tổ chức các bữa tiệc hoàng gia. Cung nầy trở thành từ 1922 tiềm đế của Đông Cung Thái tử Vĩnh Thùy tức là vua Bảo Đại về sau. Công trình nầy được thực hiện bởi các tay nghề kỹ xảo trong số đó có  một người thợ mộc tên là Nguyễn Văn Khá và  một họa sĩ nổi tiếng Lương Quang Duyệt.  Cổng chính được trang trí  bằng đồ sành theo phong cách baroque.  Được  thấy ở  giữa  gờ  của mái cổng chính có sự kết hợp lưỡng long chậu nhật đi cùng với mô típ mây và có luôn cả các cột trụ kiểu Cô ranh tơ trong kiến trúc Hy Lạp. Ngoài cổng chính, quần thể kiến trúc còn có  đình Trung Lập hình bát giác, lầu Khải Tường, nhà hát Cửu Tư Đài, chuồng thú, hồ nước vân vân…

Lầu Khải Tường gồm có  ba tầng được xây dựng  trên nền đất có diện  tích  745 mét vuông và được trang trí rất công phu ở mặt tiền với các mô tip như  bắc đẩu bội tinh, thiên thần, bát bửu hoa văn vân vân…  theo phong cách  kiến trúc tân– cổ điển hỗn hợp cùng  các họa tiết  thường được thấy ở  trong văn hóa phương Đông như mô típ tứ linh (rồng, lân, qui, phụng). Còn bên trong của lầu đài thì ngoài sáu bích họa lộng lẫy kiêu sa sơn dầu treo trên tường,  còn thấy  ở  giữa đại sảnh  có một tượng đồng của hoàng tử Vĩnh Thùy  (tức là vua Bảo Đại) dưới ngọn đèn chùm đẹp lung linh. Các họa tiết  hoa văn ở  nơi nầy đều rất hiện đại trên vách tường và  thể  hiện phong cách phương  Tây khiến làm du khách  phải ngẫn ngơ không ít  trước cái đẹp lạ thường hiếm thấy ở các cung điện nhà Nguyễn.  Nhưng rất tiếc ngày nay toà nhà nầy bị hư  hỏng trầm trọng bởi  chiến tranh kéo dài từ bao nhiêu năm. Vả lại sau năm 1975  nó còn  là nơi khu nhà ở  tập thể dành cho các gia đình của các giáo sư ở  đại học Huế. Từ  năm 2002, chính quyền Việt Nam phải nhờ đến sự hổ  trợ tài chánh và kỹ  thuật của nuớc Cộng hoà liên bang Đức cùng  các chuyên gia của hội đoàn trao đổi  văn hóa Leibniz để phục hồi lại cho cung An Định. Chính tại nơi nầy  năm 1945, sau khi vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị và trao lại ấn kiếm cho cách mạng tháng 8, mẫu hậu Từ Cung tức là mẹ của vua Bảo Đại cùng  Nam Phương hoàng hậu và  các con cháu hoàng thất phải dọn ra đây ở. Cung An Đình  được xem ngày nay là một di tích lịch sử của một quá khứ đầy biến động mà du khách không thể bỏ qua cũng như Tử Cấm Thành khi đến tham quan Huế.

Le palais An Định (Huế). 

C’est la résidence privée  du roi Khải Định à l’époque où ce dernier était encore Phụng Hóa Công Nguyễn Phúc Bửu Đảo sous le règne du roi Thành Thái, père du roi Duy Tân. Situé sur la rive du fleuve  An Cựu, ce palais se trouve aujourd’hui au numéro 97 de la rue Phan Đình Phùng dans la ville de Huế.  Il a été construit par lui-même avec son propre argent  pour être à la fois un lieu destiné à se détendre, recevoir des invités et  organiser des banquets royaux. Il devint à partir de 1922 la résidence  du prince héritier Vĩnh Thùy, le futur roi Bảo Đại plus tard. Cet  ouvrage architectural a été réalisé par des artisans qualifiés, parmi lesquels  figuraient  un menuisier nommé Nguyễn Văn Khá et  un peintre connu sous le nom Lương Quang Duyệt.  Le portail  principal est orné d’éléments en céramique dans un style baroque. Au centre du faîte arêtière de ce dernier, on voit apparaître la combinaison d’un couple de dragons rendant leurs hommages au soleil reposant sur un lit de nuages et des piliers corinthiens dans l’architecture grecque. À part  ce portail principal, ce complexe architectural comporte  un pavillon octogonal Trung Lập dans la cour d’entrée, un palais Khải Tường à trois étages, un théâtre Cửu Tư Đài, un parc d’animaux, un lac etc.

Etant édifié sur le terrain d’une superficie de 745 m2, ce palais a été bien décoré laborieusement sur sa façade extérieure, des motifs tels que les insignes  de la légion d’honneur, les anges, les 8 joyaux agrémentés de fleurs etc. dans un style architectural néo-classique, mélangés avec ceux que l’on retrouve couramment dans la  culture orientale comme les  quatre animaux sacrés (dragon, licorne, tortue, phénix) etc. À l’intérieur du palais, outre les six superbes fresques murales peintes à l’huile, on trouve  dans le hall principal  une statue en bronze du jeune prince Vĩnh Thùy (Bảo Đại) sous un magnifique lustre scintillant.   Les motifs de décoration y sont très modernes  dans un style européen, ce qui ne  manque pas surprendre les visiteurs  en les amenant à découvrir l’exceptionnelle  beauté rarement trouvée dans les palais de la dynastie des Nguyễn. Mais c’est regrettable de voir aujourd’hui ce  bâtiment  dans un état de délabrement avancé en raison de la guerre qui a duré pendant de nombreuses années. De plus,  après 1975, il devint  l’endroit  où étaient logées plusieurs familles des enseignants de l’université de Hue. Depuis 2002, le gouvernement vietnamien dût compter sur le soutien financier et technique de la République fédérale d’Allemagne et des experts de l’association d’échanges culturels de  Leibniz pour restaurer le palais An Định. C’était en 1945 qu’après  l’abdication du roi Bảo Đại et sa remise du sceau  et de l’épée à la révolution d’août, la reine mère Từ Cung (mère du roi Bảo Đại) et  la reine Nam Phuong accompagnées par  leurs  descendants déménagèrent  ici. Le palais An Dinh est considéré aujourd’hui comme un vestige historique d’un passé tumultueux que les touristes ne peuvent pas ignorer  comme la Cité Interdite lors leur visite à Hué.