Vietnam
Histoire du Vietnam
Thác Dãi Yếm (Casacade Dãi Yếm, Mộc Châu)
Thác Dải Yếm
Thác Dải Yếm được hình thành từ hai khe nước bo Tá Cáu và bo Co Lắm ở bản Vặt cách thác 600m về phía tay trái và cùng nằm trên QL43. Ngày xưa, nhiều người còn gọi thác này là Thác Nàng, Thác Bản Vặt, tuy nhiên cái tên được nhiều người biết đến nhất vẫn là Thác Dải Yếm. Cái tên thác đã gắn liền với sự tích về hai cô thôn nữ dũng cảm cứu chàng trai khỏi nước lũ. Nằm cách trung tâm thị trấn Mộc Châu khoảng 8km, làng nầy của người Thái được toạ lạc cách suối 600 thước bên tay trái và trên quốc lộ 43. Thác Dải Yếm còn là ngọn thác lớn thuộc địa phận xã Mường Sang, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
La cascade Dãi Yếm se forme lors de la rencontre de deux cours d’eau, Bó Co Lắm et Bo Tá Cháu dans le village de Vặt. Loin du centre-ville de Mộc Châu à peu près de 8km, ce village des Thaïs est situé à 600 m de la cascade sur le côté gauche et sur la route nationale 43. Autrefois, beaucoup de gens appelaient également cette cascade Thác Nàng, Thác Bản Vặt, mais le nom le plus célèbre est toujours la cascade Dãi Yếm dont le nom est lié étroitement à l’histoire de deux courageuses villageoises ayant sauvé un garçon lors d’une inondation. La cascade Dãi Yếm est une chute d’eau importante appartenant à la commune de Mường Sang du district de Mộc Châu, dans la province de Sơn La.
Danse du lion ou de la licorne (Múa lân sư)
Múa Lân Sư
Nhắc đến Tết không có ai có thể không nhắc đến múa Lân. Đây là môn nghệ thuật múa dân gian được thấy trên đường phố ở Việt Nam. Nó được gọi là múa lân ở trong Nam còn ở ngoài Bắc thì gọi là múa sư (tức là sư tử (hay wǔshī ). Lân là con linh vật đứng hàng thứ nhì trong bốn con vật có sức mạnh siêu phàm hay tứ linh (long, lân, qui, phụng). Trong văn hóa Việt nam, chúng ta thường bị lầm lẫn giữa con kỳ lân với con ghê. Đặc điểm để phân biệt giữa nghê và lân là ở bộ móng, nghê mang móng vuốt còn kỳ lân mang móng guốc. Thật sự khi gọi kỳ lân, tức là nói đến một cặp: con đực gọi là kỳ và lân là con cái. Múa Lân thường được biểu diễn trong các dịp lễ hội, đặc biệt là Tết Nguyên Đán, Tết Trung Thu hay khánh thành cửa hàng mới vì các loại thú nầy tượng trưng cho thịnh vượng và hạnh phúc. Con lân có cái đầu được trang trí trông rất đẹp mắt và thân thể của nó được nâng lên bởi một số vũ công uốn lượn theo nhịp điệu âm thanh của các tiếng trống. Nó luôn luôn đi cùng với một vũ công bụng phệ, vui cười hay vẫy quạt, thường đeo mặt nạ và mặc áo choàng màu vàng nghệ (Ông Địa). Đây là cuộc khiêu chiến giữa người và động vật, giữa Thiện và Ác, luôn luôn kết thúc bằng chiến thắng của con người trên động vật.
Danse de la licorne ou du lion.
En évoquant le Têt, personne n’oublie de mentionner la danse de la licorne ou du lion. C’est un art de la danse folklorique que l’on trouve dans les rues du Vietnam. On l’appelle la danse de la licorne dans le Sud et la danse du lion dans le Nord (ou wǔshī bính âm). La licorne occupe la deuxième place parmi les quatre animaux au pouvoir surnaturel (tứ linh)(long, lân, qui, phụng). Dans la culture vietnamienne, on a l’habitude de confondre la licorne avec le chien-lion (con nghê). La principale caractéristique permettant de faire la distinction entre la licorne et le chien-lion réside dans les doigts de pied, la licorne étant armée des sabots et le chien-lion des griffes. Quand on parle de la licorne (Kỳ Lân), on a affaire à un couple d’animaux : kỳ c’est le mâle tandis que Lân est une femelle. La danse de la licorne est souvent pratiquée lors des fêtes traditionnelles, notamment le Nouvel An lunaire, la fête de la Mi-Automne ou l’inauguration d’un nouveau magasin (ou une boutique) car ces animaux sacrés symbolisent la prospérité et le bonheur. Cet animal légendaire dont la tête est décorée magnifiquement et dont tout le corps est porté par plusieurs danseurs, ondule au rythme des sons des tambourins. Il est toujours accompagné par un autre danseur hilare et ventru agitant son éventail et portant une robe de couleur safran (Ông Ðịa). C’est la danse-combat entre l’homme et l’animal, entre le Bien et le Mal qui se termine toujours par le triomphe de l’homme sur l’animal.
Quartier piétonnier (Huế)
Khu phố Tây ba lô
Cũng như mọi thành phố, Huế cũng có phố đi bộ hay thường gọi là khu phố Tây ba lô vì người Âu Châu hay thường cư trú ở nơi nầy trong thời gian viếng thăm cố đô Huế. Cũng có đường mang tên Phạm Ngũ Lão như ở thành phố Saïgon nhưng không có náo nhiệt và đông đảo người chi cho lắm. Tuy nhiên nó là nơi mà người du khách có thể tìm kiếm các trò vui chơi và giải trí về đêm giữa lòng cố đô trầm tư và sâu lắng.
Comme toutes les villes du Vietnam, Huế possède également le quartier des routards européens car ils y résident fréquemment lors de leur visite dans l’ancienne cité de Huế. C’est étonnant de trouver une rue nommée Phạm Ngũ Lão comme celle de la ville de Saïgon, mais elle n’est pas assez animée et bondée de gens. Cependant, c’est un endroit où les touristes peuvent trouver des divertissements et peuvent trainer une vie nocturne au cœur de l’ancienne capitale calme et contemplative.
Le pavillon Nhật Thành ( Nhật Thành Lâu)
Nhật Thành Lâu
Công trình kiến trúc này được xây dựng vào năm 1841 dưới thời vua Thiệu Trị, lầu gồm có 2 tầng. Nơi nầy là Phật điện của nhà vua trong Tử Cấm Thành hay là kho bạc theo lời của một tác giả. Không ai biết rõ sự bổ dụng nó trong Tử Cấm Thành. Vào thời kỳ cuối nhà Nguyễn thì nơi nầy mẹ vua Bảo Đại, bà Từ Cung và các bà trong nội cung hay thường lui tới đây để đọc kinh, cầu an và niệm Phật. Lầu Nhật Thành bị tàn phá rất nặng nề trong các năm 1947 và năm 1968 nên chỉ còn lại phần nền của công trình. Bởi vậy năm 2018, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã cho phục dựng lại công trình này. Lầu Nhật Thành nằm ở vị trí của Minh Thận Điện thưở xưa, ở phiá đông thì có Càn Thành Điện và phía nam Thái Bình Lâu.
Étant construite en 1841 sous le roi Thiệu Trị, cette œuvre architecturale se composait de 2 étages. Elle n’avait aucune affectation précise dans la cité pourpre interdite. Selon certains, elle était le lieu de vénération du Bouddha par le roi ou la chambre forte royale selon la remarque d’un auteur dans son article. Vers la fin de la dynastie des Nguyễn, la mère du roi Bảo Đại, la reine Từ Cung et d’autres femmes du palais y étaient venues souvent pour lire des sutras, faire des prières ou vénérer Bouddha. Ce pavillon Nhật Thành qui fut gravement endommagé durant les années 1947 et 1968 ne gardait que sa fondation. En 2018, le Centre de conservation des monuments de Huế décida de le restaurer. Étant situé à l’emplacement de l’ancien palais Minh Thận, Nhật Thành Lâu se retrouve à l’est avec le palais privé du roi, Càn Thanh et au sud avec la bibliothèque royale Thái Bình Lâu.
Plan de la cité pourpre interdite (Sơ Đồ của Tử Cấm Thành)
Nghinh Lương Đình (Pavillon de l’embarcadère royale)
Nghinh Lương đình được xây dựng ở bờ bắc sông Hương, trước mặt toà Phu Văn Lâu dưới triều vua Tự Đức vào năm 1852 và được trùng tu lại dưới đời vua Thành Thái nhưng bị cơn bão vào năm 1904 nên công trình bị tàn phá nặng nề. Sau nầy được dưới thời ngự trị của vua Khải Định (1918) được xây dựng lại và kết nối với bến thuyền liền nhau nhưng vẫn giữ chức năng cũ. Đây là nơi nghỉ chân và hóng mát của nhà vua trước khi xuống thuyền rồng để du ngoạn trên sông Hương. Công trình nầy được nằm dài trên trục chính từ Kỳ Đài truớc cửa Ngọ Môn đến Phu Vân Lâu và có một kiến trúc theo kiểu phương đình. Một gian, 4 chái được nối dài ra ở phía trước và phía sau với nhà vỏ cua qua máng xối được cấu tạo từ vật liệu kim loại. Bốn mặt của gian chính giữa đều được để trống. Còn ở giữa bờ nóc của gian chính thì có lưỡng long chầu nhật . Còn nhà vỏ cua thì ở bờ mái cũng có hình hồi long chầu mặt nguyệt và ở cuối các bờ quyết thì trang trí hình chim phượng. Các vì kèo gỗ được chạm trổ một cách công phu ở trên mặt với các hình ảnh mang các đề tài bát bửu như: tù và, quạt vả, phát trần, lẵng hoa và bầu rượu. Mái nhà chính lợp ngói ống lưu ly vàng, hai nhà vỏ cua lợp ngói liệt men vàng. Nghinh Lương đình được xây dựng trên nền cao khoảng 90 cm cùng bó vỉa bằng gạch vồ và đá thanh. Nơi phiá bờ sông thì có 13 bậc cấp dẫn xuống một hành lang xây sát mặt nước sông Hương. Nghìn Lương Đình là một trong hai công trình kiến trúc cùng Phu Văn Lâu không có nằm ở trong Đại Nội. Tuy nhiên hai công trình nầy được mọi người ở Việt Nam đều biết đến luôn cả du khách ở nước ngoài vì hình ảnh của nó được in trên tờ giấy 50.000 đồng Việt Nam.
Le pavillon Nghinh Lương a été construit devant Phu Văn Lâu (pavillon des Édits) sur la rive nord de la Rivière des Parfums sous le règne de l’empereur Tự Đức en 1852. Puis il a été restauré à l’époque de l’empereur Thành Thái . Puis il a subi des dégâts importants lors de la tempête en 1904. Plus tard, sous le règne du roi Khải Đinh (1918), il a été reconstruit presque entièrement et relié à l’embarcadère tout en gardant son ancienne fonction. C’est le lieu de repos et de détente de l’empereur avant de prendre une excursion en bateau sur la rivière des Parfums. Cet ouvrage architectural est situé sur l’axe principal de la tour du mât (Kỳ Đài) située en face de la porte principale Ngọ Môn jusqu’au pavillon des Édits (Phu Van) et possède une architecture du style de la maison communale. Une grand espace entouré de 4 appentis, se prolonge en avant et en arrière par des maisons « en coquille de crabe » au moyen des gouttières de drainage en matériau métallique. L’espace central ne possède aucune porte sur ses quatre côtés. Par contre au milieu de son arête faitière, on voit apparaître un globe enflammé (foudre) vers lequel les deux dragons tournent la tête. Quant à la maison en « coquille de crabe », sur le toit, on retrouve également un couple de dragons rendant hommage à la lune et l’ornement d’un phénix au bout de ses extrémités. Les fermes de toit en bois sont minutieusement sculptées sur leur façade avec des motifs représentant la série des huit joyaux: corne, éventail en forme de feuille de figuier, époussette, panier de fleurs et calebasse à vin.
Le toit principal est recouvert de tuiles « Yin et Yang » jaunes et les deux maisons en coquille de crabe ont leurs tuiles vernissées jaunes. Le pavillon Nghinh Lương a été construit sur une plate-forme d’environ 90 cm de haut avec les dalles de trottoir en pierre « thanh ». Au bord de la rivière, il y a 13 marches facilitant la descente vers un couloir construit près de la surface de l’eau de la Rivière des Parfums. Le pavillon « Nghinh Lương » est l’une des deux œuvres architecturales avec le pavillon Phu Van, qui ne font pas partie de la Cité pourpre interdite. Pourtant, ces deux joyaux architecturaux sont connus de tous les gens y compris les touristes étrangers au Vietnam car leur image est imprimée sur le billet de 50 000 VND.
Palais An Định (Cung An Định, Huế)
Palais An Định
Đây là biệt cung của vua Khải Định khi ngài còn là Phụng Hóa Công Nguyễn Phúc Bửu Đảo dưới thời ngự trị của vua Thành Thái, cha của vua Duy Tân. Được toa lạc bên bờ sông An Cựu, nay là số 97 đường Phan Đình Phùng ở thành phố Huế. Cung nầy được ngài dùng tiền riêng tư để xây cất làm nơi thư giản, tiếp khách và tổ chức các bữa tiệc hoàng gia. Cung nầy trở thành từ 1922 tiềm đế của Đông Cung Thái tử Vĩnh Thùy tức là vua Bảo Đại về sau. Công trình nầy được thực hiện bởi các tay nghề kỹ xảo trong số đó có một người thợ mộc tên là Nguyễn Văn Khá và một họa sĩ nổi tiếng Lương Quang Duyệt. Cổng chính được trang trí bằng đồ sành theo phong cách baroque. Được thấy ở giữa gờ của mái cổng chính có sự kết hợp lưỡng long chậu nhật đi cùng với mô típ mây và có luôn cả các cột trụ kiểu Cô ranh tơ trong kiến trúc Hy Lạp. Ngoài cổng chính, quần thể kiến trúc còn có đình Trung Lập hình bát giác, lầu Khải Tường, nhà hát Cửu Tư Đài, chuồng thú, hồ nước vân vân…
Lầu Khải Tường gồm có ba tầng được xây dựng trên nền đất có diện tích 745 mét vuông và được trang trí rất công phu ở mặt tiền với các mô tip như bắc đẩu bội tinh, thiên thần, bát bửu hoa văn vân vân… theo phong cách kiến trúc tân– cổ điển hỗn hợp cùng các họa tiết thường được thấy ở trong văn hóa phương Đông như mô típ tứ linh (rồng, lân, qui, phụng). Còn bên trong của lầu đài thì ngoài sáu bích họa lộng lẫy kiêu sa sơn dầu treo trên tường, còn thấy ở giữa đại sảnh có một tượng đồng của hoàng tử Vĩnh Thùy (tức là vua Bảo Đại) dưới ngọn đèn chùm đẹp lung linh. Các họa tiết hoa văn ở nơi nầy đều rất hiện đại trên vách tường và thể hiện phong cách phương Tây khiến làm du khách phải ngẫn ngơ không ít trước cái đẹp lạ thường hiếm thấy ở các cung điện nhà Nguyễn. Nhưng rất tiếc ngày nay toà nhà nầy bị hư hỏng trầm trọng bởi chiến tranh kéo dài từ bao nhiêu năm. Vả lại sau năm 1975 nó còn là nơi khu nhà ở tập thể dành cho các gia đình của các giáo sư ở đại học Huế. Từ năm 2002, chính quyền Việt Nam phải nhờ đến sự hổ trợ tài chánh và kỹ thuật của nuớc Cộng hoà liên bang Đức cùng các chuyên gia của hội đoàn trao đổi văn hóa Leibniz để phục hồi lại cho cung An Định. Chính tại nơi nầy năm 1945, sau khi vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị và trao lại ấn kiếm cho cách mạng tháng 8, mẫu hậu Từ Cung tức là mẹ của vua Bảo Đại cùng Nam Phương hoàng hậu và các con cháu hoàng thất phải dọn ra đây ở. Cung An Đình được xem ngày nay là một di tích lịch sử của một quá khứ đầy biến động mà du khách không thể bỏ qua cũng như Tử Cấm Thành khi đến tham quan Huế.
C’est la résidence privée du roi Khải Định à l’époque où ce dernier était encore Phụng Hóa Công Nguyễn Phúc Bửu Đảo sous le règne du roi Thành Thái, père du roi Duy Tân. Situé sur la rive du fleuve An Cựu, ce palais se trouve aujourd’hui au numéro 97 de la rue Phan Đình Phùng dans la ville de Huế. Il a été construit par lui-même avec son propre argent pour être à la fois un lieu destiné à se détendre, recevoir des invités et organiser des banquets royaux. Il devint à partir de 1922 la résidence du prince héritier Vĩnh Thùy, le futur roi Bảo Đại plus tard. Cet ouvrage architectural a été réalisé par des artisans qualifiés, parmi lesquels figuraient un menuisier nommé Nguyễn Văn Khá et un peintre connu sous le nom Lương Quang Duyệt. Le portail principal est orné d’éléments en céramique dans un style baroque. Au centre du faîte arêtière de ce dernier, on voit apparaître la combinaison d’un couple de dragons rendant leurs hommages au soleil reposant sur un lit de nuages et des piliers corinthiens dans l’architecture grecque. À part ce portail principal, ce complexe architectural comporte un pavillon octogonal Trung Lập dans la cour d’entrée, un palais Khải Tường à trois étages, un théâtre Cửu Tư Đài, un parc d’animaux, un lac etc.
Etant édifié sur le terrain d’une superficie de 745 m2, ce palais a été bien décoré laborieusement sur sa façade extérieure, des motifs tels que les insignes de la légion d’honneur, les anges, les 8 joyaux agrémentés de fleurs etc. dans un style architectural néo-classique, mélangés avec ceux que l’on retrouve couramment dans la culture orientale comme les quatre animaux sacrés (dragon, licorne, tortue, phénix) etc. À l’intérieur du palais, outre les six superbes fresques murales peintes à l’huile, on trouve dans le hall principal une statue en bronze du jeune prince Vĩnh Thùy (Bảo Đại) sous un magnifique lustre scintillant. Les motifs de décoration y sont très modernes dans un style européen, ce qui ne manque pas surprendre les visiteurs en les amenant à découvrir l’exceptionnelle beauté rarement trouvée dans les palais de la dynastie des Nguyễn. Mais c’est regrettable de voir aujourd’hui ce bâtiment dans un état de délabrement avancé en raison de la guerre qui a duré pendant de nombreuses années. De plus, après 1975, il devint l’endroit où étaient logées plusieurs familles des enseignants de l’université de Hue. Depuis 2002, le gouvernement vietnamien dût compter sur le soutien financier et technique de la République fédérale d’Allemagne et des experts de l’association d’échanges culturels de Leibniz pour restaurer le palais An Định. C’était en 1945 qu’après l’abdication du roi Bảo Đại et sa remise du sceau et de l’épée à la révolution d’août, la reine mère Từ Cung (mère du roi Bảo Đại) et la reine Nam Phuong accompagnées par leurs descendants déménagèrent ici. Le palais An Dinh est considéré aujourd’hui comme un vestige historique d’un passé tumultueux que les touristes ne peuvent pas ignorer comme la Cité Interdite lors leur visite à Hué.
Suối mơ (Ruisseau de rêve)
Thác mơ là một địa điểm được ưa thích bởi người dân cư ở Lăng Cô, Huế và Đà Nẵng. Nó nằm cách xa thành phố Huế cỡ chừng 65 cây số và 45 cây số với thành phố Đà Nẵng. Nhờ vị trí không xa chi cho mấy với hai thành phố nên thường thấy cư dân ở các thành phố nầy hay đến đây tham quan và thư giãn lúc cuối tuần, nhất là với thời tiết nóng oi của miền trung. Địa điểm nó còn hoang dã nên du khách có thể hoà mình với cảnh vật thiên nhiên và nghỉ chân dưới các nhà chòi tre được dựng dọc theo dòng suối với tiếng nước thì thầm trong vắt tựa pha lê.
La cascade de rêve (ou ruisseau de rêve) est un lieu de prédilection pour les habitants de Lăng Cô, Huế et Đà Nẵng. Elle est située à peu près 65 kilomètres de la ville de Huế et 45 kilomètres de la ville de Đà Nẵng. Grâce à son emplacement pas trop éloigné de ces deux villes, il est fréquent de voir leurs habitants venir jusqu’ici pour se détendre surtout à la fin de la semaine, notamment sous la chaleur suffocante dans le centre du Vietnam. L’endroit est encore sauvage si bien que les visiteurs peuvent donc s’immerger dans le paysage naturel et se détendre sous les toits en bambou construits tout le long du ruisseau murmurant aux eaux limpides comme du cristal.
Dream Waterfall (or Dream Creek) is a favorite place for the people of Lăng Cô, Huế and Đà Nẵng. It is located about 65 kilometers from Huế city and 45 kilometers from Đà Nẵng city. By its favourable geographic position not too far from these two cities, it is common to see their residents coming here to relax, especially at the end of the week, in the sweltering heat of central Vietnam. The place is still wild so visitors can immerse themselves in the natural landscape and relax under the bamboo roofs built along the babbling brook with crystal clear water.
Le lagon Lập An (Lăng Cô, Thừa Thiên Huế)
Đầm Lập An (Lăng Cô, Thừa Thiên Huế).
Nằm bên cạnh quốc lộ số 1 ở trong thị trấn Lăng Cô, được bao bọc bởi núi Bạch Mã hùng vĩ, đầm Lập An là một địa điểm tuyệt vời vì nó có nét đẹp hoang sơ và yên tĩnh mà còn có phần huyền ảo và kì diệu với ánh nắng lấp lánh dưới nước và mây phủ trên trời cùng vài chiếc thuyền chài neo trong đầm khiến tạo ra cho du khách có được một phong cảnh hữu tình. Nơi nầy có một thời xa xưa, đầm nầy còn được gọi là đầm sam vì trong đầm có nhiều con sam theo sách Đại Nam nhất thống chí dưới thời vua Tự Đức nhà Nguyễn. Sau đó nó còn có nhiều tên khác được gọi như Đầm Hậu hay Đầm An cư. Có một diện tích rộng 800 héc ta, đầm nầy là nơi giao thoa giữa biển và sông khiến đầm có nước lợ tiện lợi cho cư dân ở đây khai thác để nuôi các loại thủy sản nhất là hàu đá trong môi trường thiên nhiên. Lúc đầu dựng các cọc gỗ xuống đầm để hàu bám vào sinh sống. Tuy nhiên việc sử dụng cọc gỗ này tốn kém chi phí quá nhiều vì gỗ dễ bị hỏng và thường xuyên mất rất nhiều thời gian trong việc thay thế. Sau đó, người dân nhận thấy việc nuôi hàu bằng lốp xe cũ ít tốn kém chi phí và lại có thể sử dụng được lâu dài nên chuyển sang dùng lốp xe để nuôi hàu. Hàu được nuôi phổ biến hiện nay trên giá thể lốp cao su. Có đến hàng ngàn chiếc lốp xe cũ được người dân thả xuống đầm để làm chỗ nuôi hàu hay vứt bên cạnh đầm khiến làm ô nhiễm môi trường trong nước. Bởi vậy phương thức nuôi bằng lốp xe sẽ được thay thế trong tương lai bằng nuôi bè tre âm mặt nước. Đến đây, du khách có thể thưởng thức các món ăn hải sản trong vùng ở các quán ăn được dựng lên ở xung quanh đầm.
Situé à côté de la route nationale n ° 1 dans la ville de Lang Co et entouré par la majestueuse montagne Bạch Mã (Cheval Blanc), le lagon Lập An est un endroit formidable car il se distingue par la beauté d’une nature sauvage et sa tranquillité mais aussi par la magie trouvée dans les rayons du soleil scintillant dans l’eau du lagon sous le ciel fréquemment nuageux, ce qui crée avec quelques bateaux de pêche amarrés dans le lagon un paysage extraordinaire pour les visiteurs. À une époque lointaine, on lui a donné le nom du « lagon des limules » car on y a trouvé beaucoup de limules selon le livre « Đại Nam nhất thống chí » sous le règne de l’empereur Tự Đức de la dynastie des Nguyễn. Ensuite, ce lagon a pris d’autres noms comme Đầm Hậu ou Đầm An Cư. D’une superficie de 800 hectares, ce lagon est le lieu de croisement entre la mer et le fleuve, ce qui rend son eau légèrement salée dont les gens d’ici profitent pour élever toutes sortes de fruits de mer, notamment les huîtres de roche dans un milieu naturel. Au début, ils installaient des piquets en bois dans le lagon pour faire vivre les huîtres. Cependant, l’utilisation de ces piquet en bois coûte trop cher car ils se détériorent facilement dans l’eau. Cela prend souvent beaucoup de temps pour leur remplacement. Après cela, les gens se sont rendu compte que l’élevage d’huîtres avec de vieux pneus coûte moins cher et leur emploi peut être durable. Alors le recours à de vieux pneus devient une nécessité dans l’ostréiculture. Les huîtres sont désormais élevées sur des substrats de pneus en caoutchouc. Beaucoup de vieux pneus totalement usés et jetés visiblement dans le lagon polluent ainsi son milieu aquatique. C’est pour cela que la méthode d’élevage sur de vieux pneus sera remplacée dans l’avenir par l’utilisation des radeaux en bambou flottant à la surface de l’eau. En venant ici, les visiteurs peuvent déguster des fruits de mer dans les restaurants installés autour du lagon.
Located adjacent to national road No. 1 (mandarin road) in Lang Co City and surrounded by the majestic Bạch Mã (White Horse) Mountain, Lập An Lagoon is a great place because it is distinguished by the beauty of a wild nature and its tranquility but also by the magic found in the sun rays glistening in the lagoon water under the frequently cloudy sky, which creates with some fishing boats moored in the lagoon an extraordinary scenery for visitors. A long time ago, it was named the « horseshoe crab lagoon » because many horseshoe crabs were found here according to the book « Đại Nam nhất thống chí » during the reign of Emperor Tự Đức of the Nguyễn Dynasty. Next, this lagoon took other names such as Đầm Hậu or Đầm An Cư. Covering an area of 800 hectares, this lagoon is at the intersection of the sea and the river, which make its water slightly salty. People here take advantage of this situation in the seafood farming, in particular rock oysters in a natural environment. In the beginning, they installed wooden stakes in the lagoon to give life to the oysters. However, the use of this wooden stake is too expensive because it deteriorates easily in water. It often takes a long time to replace it. After that, people realized that oysters farming with old tires is cheaper and their use can be sustainable. So the use of old tires became a necessity in oyster farming. Oysters are now reared on rubber tire substrates. A lot of old tires, completely worn out and visibly thrown into the lagoon, pollute its aquatic environment. Therefore, the method of farming on old tires will be replaced in the future by the use of bamboo rafts floating on the water surface. Visitors to the lagoon can enjoy seafoods in the restaurants around the lagoon.
Elevage des huîtres avec des piquets en bois
Nuôi hàu với các cọc gỗ ở đầm Lập An.