Culture du riz inondé (Canh tác trồng lúa nước)

Chính cũng ở đất nước ta với các cuộc khai quật ở đầu thế kỷ 20 mà nhà nữ khảo cổ Pháp Madeleine Colani khám phá  được văn hoá Hòa Bình (18000-10000 TCN) vào năm 1922.  Đây cũng là một nền văn hoá khởi nguồn cho nền văn minh của người Việt cổ, một nền văn minh trồng lúa nước. Nhờ các cuộc khai quật khảo cổ  trong thời gian qua thì biết rõ ngày nay cư dân Hoà Bình là những người đầu tiên biết rõ về kỷ thuật  trồng lúa  nước và nông nghiệp khác như ngũ cốc vân vân…(Hang Ma chẳng hạn).

C’est aussi dans notre pays que l’archéologue française Madeleine Colani a découvert, lors des fouilles archéologiques au début du 20ème siècle,  la culture de Hoà Bình (18000-10000 avant JC) en 1922. C’est aussi la culture  donnant naissance à la  civilisation des Proto-Vietnamiens, une civilisation du riz inondé. Grâce aux fouilles archéologiques dans le passé, on sait maintenant  que les habitants de Hoà Bình étaient  les premiers à connaître la culture du riz irrigué et d’autres techniques agricoles comme la culture des céréales etc. (La cave des esprits par exemple).

 

Photos prises au Musée  d’ethnographie (Hanoï)

Culture du riz inondé

Poétesse Huyện Thanh Quan

Version française

Ít ai biết tên thật của bà  trong làng văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ XIX. Chỉ gọi bà là bà huyện Thanh  Quan vì chồng bà tên là Lưu Nghị, có  đậu cử nhân năm 1821 (Minh Mạng thứ 2) và có một thời làm tri huyện Thanh Quan (tỉnh Thái Bình). Thật sự tên thật của bà là Nguyễn Thị Hinh người phường Nghi Tâm, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây, quận Tây Hồ (Hà Nội).  Cha của bà là ông Nguyễn Lý  (1755-1837) đỗ thủ khoa năm 1783  dưới  đời vua  Lê Hiến Tông. Qua các  bài thơ nôm  bi thương của bà, chúng ta thường thấy có sự nhớ thương  day dứt không nguôi, có một nỗi buồn của nữ sĩ đa tài  về những sự thay đổi của cảnh vật thâm trầm nhất là Thăng Long nơi mà sinh ra cũng không còn là kinh đô của đất nước mà là Huế. Còn chồng bà cũng bị cách chức một thời sau đó được thăng lên chức  Bát phẩm Thư lại bộ Hình và mất sớm ở tuổi 43. Bà rất nỗi tiếng « hay chữ » nhất là về loại thơ Đường. Loại thơ nầy  còn được gọi là cổ thi vì được  dùng cho việc thi cử tuyển chọn nhân tài, rất phổ biến ở Việt Nam vào thời Bắc thuộc (Nhà Đường). Bởi vậy thơ nầy mới có tên là thơ Đường.

Lọai thơ nầy chỉ vỏn vẹn có 8 câu ; mỗi câu 7 chữ tức là có tất cả là 8×7= 56 chữ  thế mà bà mô tả và dựng   lên được  một cách tài tình,  một bức tranh tuyệt vời từ ngọai cảnh lẫn nội dung. Tuy nhiên thể thơ nầy nó có luật rất chặt chẽ và được điều chỉnh bởi ba quy tắc thiết yếu :vần, điệu và đối khiến  ở Việt Nam từ 1925 thì các thi sĩ không còn tôn trọng quy luật bằng-trắc để có thể hiện  được sự lãng mạn của mình trong từng câu thơ. Nhưng những bài thơ thất ngôn bát cú của bà Thanh Quan thì phải xem đây là những  viên ngọc quý trong làng văn học Việt Nam. Bà đã thành công trong việc vẽ được một cảnh quan nhỏ bé với 56 chữ và bày tỏ cảm xúc sâu sắc  của mình một cách tinh tế  và sử dụng ngôn ngữ Hán Việt trong  thể thơ thất ngôn bát cú một cách điêu luyện.Theo nhà nghiên cứu  Trần Cửu Chấn, thành viên của Viện hàn lâm văn học và nghệ thuật Paris  thì các bài thơ của bà được xem như  là  những  viên ngọc quý được  bà chọn lọc và  gọt dũa đặt trên vương miện hay  được cắt bằng men.

Các bài thơ Đường của bà không chỉ mang tính chất cổ điển mà còn thể hiện được  sự điêu luyện trong cách dùng chữ. Bà còn có tài năng  biết biến thành những biểu tượng vô hồn như đá  (Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt), nước (Nước còn chau mặt với tang thương), hay cỏ cây (Cỏ cây chen đá, lá chen hoa) thành những  vật thể sinh động, còn mang tính và  hồn người và còn biết dùng màu sắc đậm nhạt để thể hiện sự tương phản (Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn/ Vàng tỏa non tây bóng ác tà) hay đưa quá khứ về cùng với hiện tại  (Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo/Nền cũ lâu đài bóng tịch dương/Ngàn năm gương cũ soi kim cổ)  khiến  các  bài thơ  tả cảnh của bà trở thành những bức tranh thiên nhiên  tuyệt vời cũng như các bức tranh thủy   mà họa sĩ dùng bút lông  vẽ trên lụa  với sắc thái   đậm  nhạt nhờ  quan sát chính xác.

Những bài thơ Đường của bà rất được các nho gia xưa  ngâm nga  yêu chuộng. Tuy rằng chỉ  tả cảnh và  bày tỏ nỗi cảm xúc của mình nhưng lời thơ rất thanh tao của một bà thuộc tầng lớp qúy tộc  cao  có học thức thường nghĩ ngợi đến nhà, đến nước. Đây là lời nhận xét của nhà nghiên cứu văn học Dương Quảng Hàm. Bà có tấm lòng thương tiếc nhà Lê nhưng  đồng thời  chỉ bày tỏ  tâm sự của một người không bằng lòng với thời cục, mong mỏi sự tốt đẹp như đã có ở một thời xa xôi trước đây mà thôi. (Nghìn năm gương cũ soi kim cổ/ Cảnh đấy người đây luống đoạn trường).  Cụ thể bà còn  giữ chức Cung Trung Giáo Tập để dạy học cho các công chúa và cung phi dưới thời vua Minh Mang  cûa nhà Nguyễn. Có một lần vua Minh Mạng có một bộ chén kiểu của Trung Quốc mới đưa sang và vẽ sơn thủy Việt Nam cũng như một số đồ sứ kiểu thời đó. Vua mới khoe và ban phép cho bà được làm một bài thơ nôm. Bà liền làm ngay hai câu thơ như sau :

Như in thảo mộc trời Nam lại
Đem cả sơn hà đất Bắc sang

khiến làm vua rất  hài lòng và thích thú. Phài nói  người Trung Hoa hay thường xem trọng sơn hà nên thường thấy ở trên các đồ kiểu còn ở Việt nam ta thì rất hướng về  ruộng lúa xanh tươi thế mà bà biết vận dụng  thành thạo  chữ nôm để có hai câu thơ đối  gợi ý tuyệt vời.

Nhưng sau khi chồng bà qua đời, một tháng sau bà xin  về hưu và  trở về sinh sống ở quê quán của mình cùng 4 đứa con. Bà mất đi ở tuổi 43 vào năm 1848.(1805-1848)

Các bài thơ nôm của bà tuy không nhiều chỉ có 6 bài nhưng thể hiện được tinh thần  thanh cao của các nho sĩ, cùng với tinh túy của Đường thi. Viết chữ Hán thì đã khó mà sang chữ Nôm thì càng khó hơn vì khó học mà  còn dùng lời văn  trang nhã, điêu luyện và ngắn gọn  như bà để giữ được quy tắc chặt chẽ của thơ Đường. Thật không có ai có thể bằng bà đựợc nhất là bà biết dùng ngoại cảnh để bày tỏ nỗi cô đơn  và tâm trạng của mình. Bà cũng không biết cùng ai để chia  sẻ cái ray rứt ở trong lòng (Một mảnh tình riêng ta với ta./Lấy ai mà kể nổi hàn ôn?). Bà luôn luôn tiếc nuối xót xa về quá khứ với một  tâm hồn thanh cao lúc nào cũng hướng về gia đình và quê hương.

QUA ĐÈO NGANG

Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa
Lom khom dưới núí, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mâý nhà
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc
Thương nhà, mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại: trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.

THĂNG LONG HOÀI CỔ

Tạo hoá gây chi cuộc hí trường
Đến nay thắm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường.

CẢNH CHIỀU HÔM

Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc đưa xa vẳng trống đồn
Gác mái, ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai, gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu, sương sa khách bước dồn
Kẻ chốn chương đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nổi hàn ôn?

CHIỀU HÔM NHỚ NHÀ

Vàng tỏa non tây bóng ác tà
Đầm đầm ngọn cỏ tuyết phun hoa
Ngàn mai lác đác chim về tổ
Dậm liễu bâng khuâng khách nhớ nhà
Còi mục gác trăng miền khoáng dã
Chài ngư tung gió bãi bình sa
Lòng quê một bước dường ngao ngán
Mấy kẻ chung tình có thấu là..?

CHÙA TRẤN BẮC

Trấn bắc hành cung cỏ dãi dầu
Ai đi qua đó chạnh niềm đau
Mấy tòa sen rớt mùi hương ngự
Năm thức mây phong nếp áo chầu
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
Người xưa cảnh cũ nào đâu tá
Ngơ ngẩn lòng thu khách bạc đầu

CẢNH THU

Thấp thoáng non tiên lác đác mưa
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang sơn, say chấp rượu,
Túi lưng phong nguyệt, nặng vì thơ
Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ ?
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ ?…

Version française

Peu de gens connaissaient son vrai nom dans la communauté littéraire vietnamienne au début du XIXème siècle. On l’appelait  simplement  Madame  le sous-préfet   du  district Thanh Quan parce que son mari  Lưu Nghi fut reçu aux trois concours de la  licence en 1821 sous le règne de l’empereur  Minh Mang et fut un temps sous-préfet du district de Thanh Quan (province de Thái Binh). En fait, son vrai nom était  Nguyễn Thị Hinh. Elle était issue du village  Nghi Tâm du district de Vĩnh Thuận, près du lac de l’Ouest dans l’arrondissement de Tây Hồ (Hanoï). Son père était Mr Nguyễn Lý  (1755-1837)  ayant eu réussi  être le premier dans le concours interprovincial  en 1783 sous le règne du roi  Lê Hiến Tông. À travers à ses poèmes élégiaques, nous  remarquons toujours  la douleur et la tristesse  sempiternelle  de la poétesse talentueuse  face aux changements ayant un  profond impact au paysage, en particulier à l’ancienne capitale Thăng Long où elle est née. Cette dernière n’était  plus  la capitale du pays mais c’était plutôt Huế. Son mari fut licencié durant un certain temps avant  d’être promu au poste de secrétaire du Ministère de la Justice. Il fut décédé prématurément à l’âge de 43 ans. Elle a un penchant  pour la  versification  Tang. Ce type de poésie est également appelé la poésie antique car il est utilisé  dans les concours destinés à  recruter des gens de talent et il est  très populaire au Vietnam durant  la période de domination des gens du Nord (dynastie des Tang). C’est pourquoi il  s’appelle la poésie  des Tang.

Ce type de poème composé seulement de  8 vers de 7 pieds permet d’avoir un total de 8 × 7 = 56 mots. Pourtant la poétesse  réussit à décrire avec ingéniosité  un magnifique  tableau porté à la fois sur le  paysage externe et le contenu. Cependant, ce poème  des Tang a des règles très strictes et est régie par trois principes essentiels: la rime, le rythme et le parallélisme. Depuis 1925 au Vietnam, les poètes ne respectent plus les règles de la métrique pour s’exprimer librement dans le but d’obtenir le lyrisme dans chaque vers. Mais les poèmes des  Tang de Mme Thanh Quan doivent être considérés comme un joyau précieux dans le monde littéraire vietnamien.  Elle a réussi à  décrire et à brosser un petit paysage avec 56 mots et a exprimé ses profonds  sentiments de manière raffinée.  Elle a utilisé la langue sino-vietnamienne sous une forme poétique de 8 vers de   7 pieds avec adresse. Selon le chercheur Trần Cửu Chấn, membre de à l’Académie des Lettres et des Arts de Paris, ses poèmes Tang  sont considérés comme des perles  précieuses qu’elle  sélectionne, polit et met sur une couronne en or ou  ciselée en émail.

Ses poèmes n’ont pas seulement le caractère classique  mais ils  traduisent aussi la virtuosité  dans l’utilisation des mots. Elle a également le talent de savoir  transformer des éléments sans vie tels que la pierre (la pierre reste toujours impassible au fil du temps), l’eau (l’eau se montre indignée  devant l’instabilité des choses de la vie) ou l’herbe et les arbres (l’herbe et les arbres s’intercalent avec les rochers tandis que  les feuilles s’introduisent au sein des fleurs) en des êtres vivants  ayant la nature humaine  et l’âme et utiliser des couleurs foncée et claire  pour faire sortir les contrastes (Sous le ciel blafard, le soir ramène les ombres du crépuscule / Le jaune brille sur les montagnes de l’ouest sous les rayons du soleil couchant) ou rapprocher  le passé du présent ((Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo/  Sur la vieille voie  prise par les calèches, se promène l’âme des herbes d’automne)(Nền cũ lâu đài bóng tịch dương/ Les vestiges du palais somptueux sont éclairés par les rayons du soleil couchant) (Ngàn năm gương cũ soi kim cổ/ Au fil des siècles, dans ce  miroir antique, on met en parallèle le passé et le présent). Cela  fait de ses poèmes Tang  décrivant des  scènes de paysage  en de merveilleuses peintures naturelles comme les aquarelles  que l’artiste  réussit à peindre au pinceau   sur le  tissu en soie avec des nuances entre le foncé et clair  à l’aide d’une observation rigoureuse.

Ses poèmes des  Tang sont  très appréciés par les anciens érudits confucéens. Bien qu’ils  ne fassent  que décrire le paysage  et exprimer ses sentiments, les  termes  employés sont tellement  raffinés  et écrits par une dame aristocratique très instruite qui pense souvent à son foyer et à son pays. C’est le commentaire du chercheur littéraire  Dương Quảng Hàm. Elle avait un attachement profond à la dynastie des Lê  mais en même temps  elle n’exprimait que les sentiments de quelqu’un qui n’était pas satisfait de la situation actuelle et  qui espérait de retrouver  ce qui existait auparavant. ( Ngàn năm gương cũ soi kim cổ/Cảnh đấy người đây luống đoạn trường) (Devant ce tableau, mes entrailles se sentent déchirées en morceaux).  La preuve est qu’elle  acceptait la tâche d’enseigner les princesses et les concubines   sous le règne de l’empereur Minh Mạng de la dynastie des Nguyễn. Une fois, ce dernier reçut  un nouvel service  à thé en céramique venant de la Chine  et ayant pour décor le paysage du Vietnam. Il le montra  à ses subordonnés et demanda  à la poétesse de composer un distique. Elle ne tarda pas à  improviser  les deux sentences  suivantes:

Như in thảo mộc trời Nam lại
Đem cả sơn hà đất Bắc sang.

L’herbe et les arbres du Sud sont reproduits visiblement   sur la céramique ainsi  que  les monts et fleuves du Nord ainsi ramenés.

Sa spontanéité rendit satisfait l’empereur. Il faut reconnaitre que les Chinois font souvent attention aux montagnes et aux fleuves qu’on retrouve souvent sur les objets de décoration. Par contre au Vietnam, on s’attache   à la luxuriance des rizières. Elle réussit à  saisir l’essentiel et à composer ces deux vers parallèles tout en sachant respecter strictement  les règles de poésie des Tang. Lors du décès de son mari, un mois plus tard, elle demanda au roi de  lui permettre de désister sa fonction et retourner  à sa terre natale avec ses quatre enfants. Elle mourut en l’an 1848 lorsqu’elle n’avait que 43 ans. (1805-1848)

Étant  en nombre limité (6 en tout), ses poèmes réussissent à refléter  l’esprit noble des poètes et  la quintessence de la poésie des Tang. La composition de ces poèmes est déjà difficile en caractères chinois mais elle parait insurmontable  en  caractères démotiques dans la mesure où il faut respecter en plus les règles strictes de la poésie des Tang. Peu de gens  arrivent à l’égaler car elle sait utiliser des mots avec une rare finesse de langage pour révéler sa solitude et son état d’âme  tout en s’appuyant sur le pittoresque des scènes de la nature. Elle  ne sait non plus à qui elle peut révéler ses confidences. (Một mảnh tình riêng ta với ta./Lấy ai mà kể nổi hàn ôn?). Sous le poids de son état d’âme, elle se sent seule avec soi-même. Elle continue à éprouver  des regrets et se retourner vers  le passé  avec son esprit noble et à penser sans cesse  à son foyer et à sa terre natale.

 LE COL DE LA PORTE D’ANNAM (*)

Au moment je  gravis le Col de la Porte d’Annam, les ombres du crépuscule s’allongent vers l’occident
L’herbe et les arbres s’introduisent dans les rochers, les fleurs éclosent au milieu des feuilles.
Au pied de la montagne marchent quelques bûcherons , le dos courbé sous le faix;
Sur l’autre côté de la rivière s’élève un marché formé de quelques cases éparses.
En pensant avec douleur à la patrie absente le râle d’eau gémit sans arrêts,
Oppressée par l’attachement au foyer, la perdrix pusse des cris ininterrompus.
Je m’arrête sur le chemin et ne vois autour de moi que ciel, montagnes et mer;
Sous le poids de cet état d’âme, je me sens seule avec moi-même.

CRÉPUSCULE (*)

Sous un ciel blafard, le soir ramène les ombres du crépuscule
Au loin le son de la trompe des veilleurs répond au tam-tam du poste de garde.
Déposant sa rame, le vieux pêcheur regagne sa station lointaine;
Le jeune bouvier frappant sur les cornes de son buffle, retourne au hameau solitaire.
Les oiseaux volent avec effort vers les immenses touffes d’abricotiers qui ondulent sous le vent;
Le voyageur presse le pas sur la route que bordent les saules enveloppés de brume.
Moi je reste au logis ; vous , vous êtes en voyage;
À qui pourrais-je exprimer toutes mes confidences?
 

(*) Extrait du livre intitulé « Les grandes poétesses du Vietnam », Auteur Trần Cửu Chấn. éditions Thế Giới

 

Pourquoi les Thaïs ont-ils un bout d’histoire avec le peuple vietnamien ?

 

Version vietnamienne

Một đọan đường chung lịch sử với dân Việt.

Selon les érudits occidentaux comme l’archéologue Bernard Groslier,  les Thaïs  étaient regroupés avec les Vietnamiens  dans le groupe Thaï-Vietnamien  d’autant plus qu’ils ont fondé leur pays seulement au 14ème siècle et il y a eu au Vietnam la présence des sous-groupes Thai noirs et blancs. Alors, ceux-ci sont-ils des Thaïs trouvés en Thaïlande d’aujourd’hui ?

Refoulés par les Tsin de Shi Huang Di, les Thaïs tentaient de résister maintes fois. Pour l’écrivain vietnamien Bình Nguyên Lôc, les sujets des royaumes Shu et Ba (Ba Thục) annexés très tôt par les Tsin dans le Sichuan  étaient les proto-Thaïs (ou Tày). Selon cet écrivain, ils appartenaient au groupe austro-asiatique de branche Âu (ou Ngu en langage mường ou Ngê U en mandarin chinois (quan thoại)) auquel étaient rattachés les Thaïs et les Tày. Pour lui comme pour d’autres chercheurs vietnamiens Trần Ngọc Thêm, Nguyễn Đình Khoa, Hà Văn Tấn etc., le groupe austro-asiatique comporte 4 sous groupes distincts: sous-groupe Môn-Khmer, sous groupe Việt Mường (branche Lạc) , sous-groupe Tày-Thái (branche Âu) et sous-groupe Mèo-Dao auxquels il faut ajouter le sous-groupe austronésien   (Chàm, Raglai, Êdê  etc.) pour définir la race indonésienne (ou Proto-Malais) (Chủng cổ Mã Lai)

La contribution des Thaïs dans la fondation du royaume Âu Lạc des Viêt de Thục Phán (An Dương Vương) n’est plus mise en doute après que ce dernier a réussi à éliminer le dernier roi Hùng du royaume Văn Lang car le nom « Âu Lạc » (ou Ngeou Lo) évoque évidemment l’union de deux ethnies Yue de branche Âu (Proto-Thaï) et de branche Lạc (Proto-Viet). De plus, Thục Phán   était  un Yue de branche Âu, ce qui montre à tel point l’union et la mission historique  commune de ces deux ethnies face à l’expansion chinoise. Selon Đào Duy Anh, Thục Phán était un prince du royaume Shu. C’est ce qui a été rapporté dans les écrits historiques chinois (Kiao -tcheou wai-yu ki ou Kouang-tcheou ki) , mais il a été réfuté catégoriquement  par certains historiens vietnamiens car le royaume Shu était situé trop loin à cette époque, du royaume Văn Lang. Il fut annexé très tôt (plus d’un demi-siècle avant la fondation du royaume Âu Lạc) par les Tsin. Mais pour l’écrivain vietnamien Bình Nguyên Lôc, Thục Phán ayant eu perdu sa patrie, dut se réfugier très jeune en compagnie de ses fidèles à cette époque dans un pays ayant la même affinité ethnique (culture, langue) que lui càd le royaume Si Ngeou (Tây Âu) situé à côté du royaume Văn Lang des Vietnamiens. De plus, les Chinois n’ont eu aucun intérêt de falsifier l’histoire en rapportant que c’était un prince de Shu dirigeant le royaume de Âu Lạc. L’asile de ce dernier et de ses fidèles dans le royaume de Si Ngeou  dut prendre un certain temps, ce qui explique au moins un demi-siècle dans cet exode avant la fondation de son royaume Âu Lạc. Cette hypothèse ne semble pas très convaincante car il y avait 3000 km à marcher. De plus, il était à la tête d’une armée de 30.000 soldats. C’est impossible pour lui d’assurer la logistique et de rendre son armée invisible durant l’exode en traversant des zones montagneuses de Yunnan administrées par d’autres ethnies ennemies ou fidèles aux Chinois. Il est probable qu’il dut trouver auprès des Si Ngeou (ou des Proto-Thaïs) tout  (armement et effectif militaire, provisions) ce qu’il fallait  avant sa conquête. Il y a récemment une autre hypothèse qui paraît plus cohérente.  Thục Phán était le leader d’une tribu alliée  de la confédération Si Ngeou et le fils de Thục Chế, roi d’un royaume  nommé Nam Cương localisé dans la région de Cao Bằng et non loin de Kouang Si de la Chine d’aujourd’hui. Il y a une concordance totale entre  tout ce qui est rapporté dans la légende de l’arbalète magique des Vietnamiens et les rites trouvés  dans la tradition des Tày (Proto-Thaïs). C’est le cas de la tortue d’or ou du coq blanc ayant chacun une signification symbolique importante. An Dương Vương (Ngan-yang wang) était un personnage historique. La découverte des vestiges de sa capitale (Cổ Loa, huyện Đông An, Hànội ) ne met plus en doute l’existence de ce royaume établi à peu près trois siècles avant J.C. Celui-ci fut annexé plus tard par Zhao To (Triệu Đà), fondateur du royaume de Nan Yue.

Le mythe Lạc Long Quân-Âu Cơ  a insinué avec adresse l’union et la séparation de deux ethnies Yue, l’une de branche Lạc ( les Proto-Vietnamiens) descendant dans les plaines fertiles en suivant les cours d’eau et les rivières et l’autre de branche Âu  (les Proto-Thaïs) se réfugiant dans les régions montagneuses. Il y a eu les Mường dans cet exode. Proches des Vietnamiens au niveau linguistique, les Mường ont réussi à garder les coutumes ancestrales car ils étaient refoulés et protégés dans les montagnes.  Ceux-ci  avaient  une organisation sociale semblable à celle des Tày et des Thaïs.

Situé dans les provinces Kouang Tong (Quãng Đông ) et Kouang Si (Quãng Tây), le royaume de Si Ngeou (Tây Âu) n’est autre que le pays des proto-Thaïs (les ancêtres des Thaïs). C’est ici que se réfugia Thục Phán avant la conquête du royaume Văn Lang. Il faut rappeler aussi que l’empereur chinois Shi Houang Di dut mobiliser à cette époque plus de 500.000 soldats dans la conquête du royaume de Si Ngeou après avoir réussi à défaire l’armée du royaume de Chu (ou Sỡ) avec 600.000 hommes. On doit penser qu’outre la résistance implacable de ses guerriers, le royaume de Si Ngeou devrait être de taille importante et assez peuplé pour que Shi Houang Di (Tần Thủy Hoàng) engage une force militaire importante.

Malgré la mort prématurée d’un roi Si Ngeou de nom Yi-Hiu-Song (Dịch Hu Tống), la résistance menée par les Yue de branche Thai ou (Si Ngeou)(Tây Âu) réussît à obtenir quelques succès escomptés dans la région du Kouang Si méridional avec la mort d’un général T’ou Tsiu (Uất Đồ Thư) à la tête d’une armée chinoise de 500.000 hommes, ce qui a été noté dans les annales du Maître Houa-nan (ou Houai–nan –tseu en chinois ou Hoài Nam Tử en vietnamien ) écrites par Liu An (Lưu An), petit-fils de l’empereur Kao-Tsou (ou Liu Bang), fondateur de la dynastie des Han entre les années 164 et 173 avant notre ère.

Si Ngeou était connu pour la valeur de ses guerriers redoutables. Cela correspond exactement au tempérament des Thaïs d’autrefois décrit par l’écrivain et photographe français Alfred Raquez: Les Siamois d’autrefois, belliqueux et coureurs d’aventures, furent presque continuellement en guerre avec leurs voisins et souvent virent leurs expéditions couronnées de succès. À la suite de chaque campagne heureuse, ils emmenèrent avec eux des prisonniers et les établirent sur une partie du territoire de Siam, aussi éloignée que possible de leur pays d’origine.

Après la disparition de Si Ngeou  et celle de Âu Lạc, les proto-Thaïs qui restèrent au Vietnam à cette époque sous le giron de Zhao To (un ancien général chinois des Tsin devenu plus tard le premier empereur du royaume de Nanyue) avaient leurs descendants formant bien aujourd’hui la minorité ethnique Thai du Vietnam. Les autres proto-Thaïs s’enfuirent vers le Yunnan où ils s’unirent au VIII ème siècle au royaume de Nanzhao (Nam Chiếu) puis à celui de Dali (Đại Lý) où le bouddhisme du grand véhicule (Phật Giáo Đại Thừa) commença à s’implanter. Malheureusement, leur tentative fut vaine. Les pays Shu, Ba, Si Ngeou, Âu Lạc, Nan Zhao, Dali faisient partie de la longue liste des pays annexés l’un après l’autre par les Chinois durant leur exode. Dans ces pays soumis, la présence des Proto-Thaïs était assez importante. Face à cette pression chinoise sans relâche et à la barrière inexorable de l’Himalaya, les proto-Thaïs furent obligés de redescendre dans la péninsule indochinoise  en s’infiltrant lentement en éventail dans le Laos, le Nord-Ouest du Vietnam (Tây Bắc), le nord de la Thaïlande et la haute Birmanie.

Selon les inscriptions historiques thaï trouvées au Vietnam, il y a trois vagues importantes de migration entamées par les Thaïs de Yunnan dans le Nord-Ouest du Vietnam durant les 9ème et 11ème siècles . Cela correspond exactement à la période où le royaume de Nanzhao fut annexé par le royaume de Dali anéanti à son tour 3 siècles plus tard par les Mongols de Kubilai Khan en Chine. Lors cette infiltration, les proto-Thaïs se divisèrent en plusieurs groupes: les Thaïs du Vietnam, les Thaïs en Birmanie (ou Shans), les Thaïs au Laos (ou Ai Lao) et les Thaïs dans le nord de la Thaïlande. Chacun de ces groupes commence à épouser la religion de ces pays hôtes. Les Thaïs du Vietnam n’avaient pas la même religion que ceux des autres territoires. Ils continuaient  à garder l’animisme (vạn vật hữu linh) ou le totémisme. C’est  pour cette raison qu’ils constituaient ainsi les minorités ethniques du Viet Nam d’aujourd’hui.

Version vietnamienne

Theo các nhà học giả tây phương như nhà khảo cổ Bernard Groslier thì  người Thái được ghép  cùng dân tộc ta trong nhóm Thái-Việt nhất là họ chỉ mới dựng nước chỉ có từ thế kỷ 14 và lại ở Việt Nam có nhóm người Thái trắng và Thái đen. Vậy những nhóm dân tộc nầy có phải là người Thái ờ Thái Lan hiện nay hay không? Họ là môt dân tộc đã có mặt lâu đời ở phía nam của Trung Hoa. Họ thuộc chủng Nam Á (hay đại tộc Bách Việt). Bị xua đuổi bởi quân của Tần Thủy Hoàng, người Thái chống lại mãnh liệt bao lần. Theo nhà văn Bình Nguyên Lộc, những thần dân của các vương quốc Ba và Thục (hay thường gọi là Ba Thục) bị quân Tần thôn tính ở Tứ Xuyên là người Thái cổ (hay người Tày cổ). Họ cũng thuộc về nhánh Âu của chủng Nam Á (hay Ngu theo tiếng nói người Mường hay Ngê U theo tiếng Tàu Quan Thoại) trong đó có người Thái và người Tày. Đối với ông cũng như với các nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm, Nguyễn Đình Khoa, Hà Văn Tấn vân vân thì chủng Nam Á gồm có 4 nhóm riêng biệt như sau: nhóm Môn-Khơ Me, nhóm Việt-Mường, nhóm Tày-Thái và nhóm Mèo -Dao thêm vào đó có thêm nhóm Nam Đảo (Chàm, Raglai, Êdê) để có thể định nghĩa giống chủng Cổ Mã Lai (Indonésien). Sự tham gia của người Thái trong việc thành lập vương quốc Âu Lạc của Thục Phán (hay An Dương Vương) không thể chối cải được sau khi Thục Phán đã thành công đánh bại vua Hùng cuối cùng của nhà nước Văn Lang. Cái tên Âu Lạc phản ánh hiển nhiên sự liên kết chặt chẽ của hai dân tộc Việt, một nhánh Âu (Thái cổ) và một nhánh Lạc (Việt cổ). Hơn nửa, Thục Phán là một người Việt chi Thái, điều nầy cho thấy r õ ràng sự đoàn kết và sứ mệnh lich sử chung của hai dân tộc Việt và Thái trước sự bành trướng của người Hoa. Theo giáo sư Đào Duy Anh, Thục Phán thuộc gia đình qúi tộc nước Thục.
 
Tất cả đều được mách lại trong các thư tịch Tàu (Kiao -tcheou wan-yu ki hay Kouang-tcheou ki) nhưng bị bác bỏ bởi một số sử gia Việt vì vương quốc Shu (Thục) ở quá xa vương quốc Văn Lang nhất là bị thôn tính quá sớm bởi Tần quốc từ 316 trước công nguyên (hơn nửa thế kỷ trước khi lập vương quốc Âu Lạc). Nhưng theo nhà văn Bình Nguyên Lôc, Thục Phán bị mất nước, buộc lòng phải dung thân lúc còn trẻ với các bộ hạ ở môt nước nào mà thời đó phải có quan hệ sắc tộc (ngôn ngữ và văn hóa) cũng như họ có nghĩa là nước Tây Âu ở bên cạnh nhà nước Văn Lang của dân Việt. Hơn nửa người Tàu không có lợi chi viết sai sử học khẳng định đây là một hoàng thân của nước Thục cai trị nước Âu Lạc. Việc tá túc của Thục Phán và bộ hạ ở Tây Âu cần có một thời gian trong cuộc di tản vì vậy có 60 năm sau đó mới có sự sáng lập vương quốc Âu Lạc qua sự giải thích. Nhưng gỉả thuyết nầy không vững vì nhất là thời đó có 3000 cây số phải vượt để đến Tây Âu. Vả lại Thục Phán cầm đầu một đạo binh có 3 vạn quân lính. Không thể nào một đạo quân như vậy có thể tàn hình và di chuyển mà người Tàu không biết được vì không những cần sự tiếp tế lương thực mà còn vượt qua bao nhiêu khu núi rừng quản trị bởi các bộ lạc thù địch hay thân Tàu.
 
Chắc chắn Thục Phán phải tìm được ở Tây Âu tất cả những gì cần thiết (quân bị, lương thực) trước khi thôn tính nước Văn Lang. Theo giả thuyết gần đây, Thục Phán là thổ lĩnh của một bộ lạc liên minh Tây Âu và con của Thục Chế, vua của nước Nam Cương thuộc về vùng Cao Bằng và nam Quảng Tây Trung Quốc ngày nay. Có sự trùng khớp thống nhất giữa những linh vật được mách đến trong truyền thuyết nỏ thần của người dân Việt và những tập tục trong truyền thống của người Tày (Thái cổ). Rùa vàng, gà trắng là những linh vật có ý nghĩa biểu tượng quan trọng. An Dương Vương (Thục Phán)(Ngan-yang wang) là một nhân vật lịch sử. Với sự khám phá các di tích ở Cổ Loa huyện Đông An, Hànội chúng ta có thể khẳng định là vương quốc Âu Lạc có thật và được dựng bởi Thục Phán khoảng chừng 3 thế kỷ trước Công Nguyên. Âu Lạc bị thôn tín về sau bởi Triệu Đà, người sáng lập ra nước Nam Việt.
 
Huyền thoạiLạc Long Quân-Âu Cơ đã khéo léo ám chỉ sự hợp nhất và chia ly của hai dân tộc Việt, một thuộc nhánh Lạc (Việt Cổ) đi xuống vùng đồng bằng màu mỡ theo sông suối và nhánh còn lại từ nhánh Âu (dân tộc Âu tức là người Thái nguyên thủy) đang trú ẩn ở vùng núi. Có người Mường trong cuộc di cư này. Gần gũi với người Việt về mặt ngôn ngữ, người Mường vẫn giữ được phong tục tập quán của tổ tiên vì họ không bị đàn áp và được bảo vệ nhờ ở trên núi. Họ có tổ chức xã hội tương tự như người Tày và người Thái.
 
Nằm ở các tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây , Tây Âu là vương quốc của người Tày và người Thái cổ (Tổ tiên của người Thái ngày nay). Chính ở nơi nầy mà Thục Phán liên minh các bộ lạc trước khi thôn tính nước Văn Lang. Nên nhớ lại Tần Thủy Hoàng phải cổ động thời đó hơn 50 vạn binh lính trước khi xâm chiếm Tây Âu và sau khi diệt nước Sỡ với 60 vạn quân. Ngoài sự chống cự mãnh liệt của các chiến binh, Tây Âu phải là một nước có tầm vóc quan trọng và khá đông dân để Tần Thủy Hoàng phải dùng một binh lực như vậy. Mặc dầu thủ lĩnh Tây Âu Dich Hu Tống bị tử nạn, sự kháng cự của dân Tây Âu cũng thu gặt được vài kết quả đáng kể trong vùng Quảng Tây với cái chết của tướng Tàu Uất Đồ Thư cầm đầu một đạo binh 50 vạn quân và được nhắc đến trong bộ sách Hoài Nam Tử mà hoài nam vương Lưu An, cháu của Hán Cao Tổ Lưu Bang, người sáng lập nhà Hán, biên soạn vào giữa năm 164 và 173 trước Công Nguyên. Tây Âu được nổi tiếng thời đó nhờ có những chiến sĩ gan dạ. Tính tình của
 
Người Thái thưở xưa được nhà văn hào và nhiếp ảnh Pháp Alfred Raquez mô tả như sau:
Người Xiêm La thưở xưa, rất hiếu chiến và thích phiêu lưu, thường hay sinh sự gây chiến tranh không ngớt với các nước láng giềng và hay thường thắng lợi trong các cuộc viễn chinh. Mỗi lần có được một chiến dịch mỹ mãn, họ thường mang về theo họ các tù binh và đày các người nầy ở những vùng đất của Xiêm La càng xa quê quán của họ càng tốt.
 
Khi Tây Âu và Âu Lạc bị Triệu Đà tướng của nhà Tần thôn tính, tất cả người Thái cổ ở lại có con cháu về sau nầy trở thành nhóm người thiểu số Tày ở Việt Nam. Còn những người Thái cổ khác, họ chạy trốn lên Vân Nam mà họ cùng nhau liên hiệp ở thế kỷ thứ 8 để lập vương quốc Nam Chiếu rồi sau đó nước Đại Lý mà Phật Giáo Đại Thừa bắt đầu du nhập. Chẳng may các nước Ba Thục, Tây Âu, Âu Lạc, Nam Chiếu, Đại Lý đều bị người Hoa thôn tính trong cuộc di dân của người Thái. Để đối phó áp lực không ngừng của người Hoa và trước hàng rào thiên nhiên không lay chuyển của Hy Mã Lạp Sơn, nhóm người Thái cổ buộc lòng đi trở xuống và xâm nhập lại bán đảo Đông Dương nhưng di cư lần nầy từ từ theo mô hình nan quạt, chia ra nhiều ngã và nhiều nhóm vào đất Lào, Tây Bắc Việtnam, miền bắc Thái Lan và vùng Thượng Miến Điện.
Theo các văn bản lịch sử Thái tìm được ở Việtnam thì có ba đợt di dân quan trọng của dân cư Thái ở Vân Nam vào Tây Bắc Việtnam suốt thế kỷ 9 và 11. Đó là thời kỳ mà vương quốc Nam Chiếu bị Đại Lý thôn tín rồi ba thế kỷ sau đó đến lượt Đai Lý bị hủy diệt bởi quân Mông cổ của Hốt Tất Liệt (Kubilai Khan), cháu nội của Thành Các Tư Hãn (Gengis Khan). Khi lúc xâm nhập, cư dân Thái cổ chia ra nhiều nhóm: nhóm Thái ở Việtnam, nhóm Thái ở Miến Điện (thường gọi là người Shan) , nhóm Thái ở Lào (hay Ai Lao ) và nhóm Thái ở miền bắc của Thái Lan ngày nay. Mỗi nhóm bắt đầu theo đạo của các nước mà họ được cư trú. Vì vậy nhóm người Thái ở Việt Nam không có cùng đạo với các nhóm Thái ở nơi khác. Họ vẫn tiếp tục thờ đa thần và theo tín ngưỡng « vạn vật hữu linh ». Chính vì vây họ trở thành các dân tộc thiểu số của nước Việt.

 

Poème dédié à mon pays natal

 

Deux mots à me rappeler 

Việt nam hai tiếng nhớ nhung

Ra đi luyến tiếc nghìn trùng cách xa

Ðôi khi chạnh nhớ Quê nhà

Mơ màng hiện thoáng cây đa đầu làng

Giật mình thức tỉnh ngỡ ngàng

Hồn nầy lạc lõng muộn màng xót xa

Ðất người ai chẳng thiết tha

Ðược tình gia thất bôn ba cõi đời.

que_huong

  

Anh Cả anh Hai

 

Tại sao ở trong Nam thay vì gọi anh Cả như ở miền Bắc  lại gọi anh Hai?

Version française

Có lần mình đi tham quan theo tour ở miền nam, có dịp nghe anh hướng dẫn kể cho tụi nầy về việc nầy. Theo chú nầy thì trong cuộc  hành trình Nam tiến của dân tộc ta thì người con cả phải ở lại cùng mẹ lo cho gia đình còn cha thì đi vào Nam một mình. Khi vào Nam một mình xa quê nhà hay thường lấy vợ thứ nên thường có con. Thì đứa con nầy thường được gọi là chị HAI hay anh HAI theo cấp bậc trong gia đình đông con  vì con đầu lòng đã có rồi ở ngoài Bắc.  Còn có một giả thuyết khác như sau: dưới triều nhà Nguyễn hay có thói quen kiêng gọi tên cúng cơm c ủa vua nên chẳng hạn ĐẢM  trở thành ĐỞM vì là Đảm là tên của  Nguyễn Phúc Đảm (vua Minh Mạng) (can Đảm trở  thành can đởm). Vua Minh Mạng có vợ tên là Hồ Thị Hoa, mẹ của vua Thiệu Trị nên cái cầu mà Tả quân Lê văn Duyệt xây cất ở gần một vườn hoa xinh đẹp ở Bến Nghé (Quận 1 ngày nay) được gọi lúc đầu là cầu HOA sau phải lấy tên là BÔNG. Vậy chữ Cả thì sao? Theo dã  sử có người cho rằng Cả bị kiêng cữ  vì  chỉ người con cả của vua Gia Long (hoàng tử  Cảnh) nên phải dùng chữ khác. Thật là vô lý vì  Hương  Cả  là chức đứng đầu trong làng ở Nam Bộ mà  vẫn thường  nghe dân gọi và vẫn dùng dưới thời Pháp thuộc. Như  vậy là không đúng. Chúng ta nên nhớ  lại người Việt ta thuộc ngữ Nam Á. Ngoài người Việt  còn  có rất nhiều dân tộc khác mà nay ta gọi là đồng bào thiểu số như Tai-Kadai, Nam Đảo, Mường, Hmông, Chàm  vân vân). Vì thế có sự vay mượn các  từ ở  trong ng ôn ngữ  của các bộ tộc thuộc về ngữ hệ Nam Á hay Nam Đảo. Ở Nam Bộ trước đây là lãnh thổ của nước Phù Nam mà người nước nầy giờ đây biết rõ không phải là người Cao Miên mà là người Nam Đảo cũng như người Chàm, người Mạ dù biết rằng nước Phù Nam bị nước Chân Lạp (Cao Miên)  thôn tính. Nhưng vì đất quá rộng nên chổ nào mà người Khơ Me chiếm ở thì người Phù Nam trở thành người Khơ Me vì  bị  đồng hóa còn chổ nào không bị chiếm như  ở Nam Bộ  thì họ vẫn là người Phù Nam thuộc về chủng Nam Đảo.  Từ sự gần gũi của chủng Nam Á  với  chủng Nam Đảo đã có cả nghìn năm theo các tài liệu nghiên cứu di truyền từ 20 năm g ần đây nên chuyện mượn từ HAK của người Phù Nam của chủng Nam Đảo ở  Nam Bộ  rất bình thường để chỉ con cái. Theo nhà văn Bình Nguyên Lộc, con CẢ mà người Phù Nam gọi là con HAK.  Như vây anh HAI, chị HAI là từ anh HAK, chị HAK của người  Phù Nam. Bởi vậy ở miền nam hay thường thấy người Việt nào có tóc dợn sóng đó là người có gốc Phù Nam còn người Việt không bao giờ  có tóc  dợn sóng cả  vì chúng  ta có  lai Mông Cổ  thuộc chủng Mông Cổ Phương Nam nên tóc rất thẳng.  

Version française

Pourquoi dans le Sud Vietnam au lieu d’appeler « Frère aîné  (Cả)» comme au Nord, on l’appelle « Frère Hai » ?

Une fois, alors que je  faisais une visite dans le Sud Vietnam, j’avais l’occasion d’écouter le guide  du car nous en parler. Selon lui,  lors de la marche de notre peuple vers le Sud, le fils aîné doit rester auprès de sa mère pour subvenir aux besoins de la famille tandis que son père engagé dans l’armée se rend tout seul dans le Sud. Loin de sa famille et de sa terre natale, il a l’habitude de prendre une seconde épouse et d’avoir un autre enfant. Celui-ci  sera appelé « sœur Hai » ou « frère Hai » car cela correspond au rang « DEUX » dans la famille composée de plusieurs enfants. Il existe une autre hypothèse comme suit:

Sous la dynastie des  Nguyễn, il y a une tradition de s’abstenir de toute action faisant référence au prénom du roi ou de ses proches. C’est pour cela que le mot ĐẢM est remplacé par le mot ĐỞM car ĐẢM est le prénom de Nguyễn Phúc Đảm (Roi Minh Mang) (can đảm signifiant courage est transformé en can đỏm). Le roi Minh Mang avait une épouse nommée Hồ Thị Hoa, mère du roi Thiệu Trị.  Le vice-roi Lê Văn Duyệt a construit près d’un magnifique jardin à Bến Nghé (premier arrondissement de Hồ Chí Minh Ville d’aujourd’hui) un pont portant à son début  le nom « pont fleuri  (cầu  HOA)» devenu plus tard « cầu BÔNG ». Selon l’on dit, le mot Cả n’est pas employé car il fait allusion au fils aîné du roi Gia Long (Prince Cảnh). C’est absurde car « Hương Cả » est le titre octroyé au premier personnage du village dans le Sud Vietnam, souvent entendu par la population et utilisé encore à l’époque coloniale française. C’est absurde car on ne fait jamais attention au rang ou au titre accordé.

On doit rappeler  que les Vietnamiens font partie du groupe austro-asiatique. Outre les Vietnamiens, il y a de nombreuses autres ethnies que l’on appelle désormais  des minorités ethniques telles que les Tai-Kadai, les Austronésiens, les Mường, les Hmong, les Cham etc.). Par conséquent, il y a toujours l’emprunt réciproque des mots dans le vocabulaire employé par ces ethnies. Au Sud Vietnam, jadis c’était le  territoire du royaume de Founan dont les habitants n’étaient pas les Khmers mais les Austronésiens comme les Cham et les Mạ dans la région Đồng Nai malgré l’annexion de ce royaume plus tard par le Chenla devenu plus tard l’empire angkorien  des Khmers. Comme leur  territoire était trop vaste, les Khmers n’arrivaient pas à  assumer leur présence partout. C’est pour cela que les Founanais  ne devenaient que les Khmers dans les endroits où le contact était possible grâce à la politique d’assimilation. Par contre dans d’autres endroits les Founanais continuaient à vivre comme avant.  

Étant donnée la proximité incontestable des groupes austro-asiatiques et austronésiens prouvée depuis des milliers d’années par les documents des travaux de  recherche génétique il y a  récemment une vingtaine d’années, l’emprunt du mot  HAK des Founanais appartenant au groupe austronésien  dans le Sud Vietnam par les Vietnamiens est très normal pour désigner les enfants.

Selon l’écrivain vietnamien Bình Nguyên Lộc, le fils aîné est appelé toujours sous le nom « Fils HAK »par les Founanais. Alors « sœur HAI » ou « frère HAI » employés par les Vietnamiens dans le Sud Vietnam  proviennent évidemment des  Founanais. C’est pourquoi dans le Sud Vietnam lorsqu’on rencontre un Vietnamien ayant des cheveux ondulés, on peut déduire qu’il est d’origine founanaise comme les Mạ dans la région Đồng Nai. Un pur Vietnamien n’a jamais les cheveux ondulés mais il a par contre les cheveux droits  car il  fait partie du groupe mongoloïde du Sud.

 

Bà Triệu (225 – 248 SCN)

Triệu Ẩu

Version française

Sau khi đế chế nhà Hán bị sụp đổ thì sau đó là thời kỳ Tam Quốc với ba nhân vật ai cũng được biết đó là Tào tháo, Lưu bị và Tôn Quyền. Trong thời kỳ nầy nước ta vẫn bị đô hộ bởi nước Ngô của Tôn Quyền. Đây cũng thời kỳ cũng có các vụ nổi loạn chống Tàu dành độc lập trong đó có một nữ anh hùng không thua chi hai bà Trưng thường được gọi bà Triệu (hay là Triệu thị Trinh). Từ thưở nhỏ, bà có chí khí hơn người và  giỏi võ nghệ.  Mùa xuân năm Mậu Thìn (248), thấy quan lại nhà Đông Ngô  tàn ác, dân khổ sở, bà  chiêu mộ được hơn một ngàn tráng sĩ cùng anh khởi binh chống lại quân Đông Ngô. Vua Ngô Tôn Quyền liền phái tướng Lục Dận, cháu của Lục Tốn sang làm thứ sử Giao Châu cùng 8000 quân đàn áp cuộc khởi nghĩa. Sau 6 tháng chống chọi, bà vì quân ít thế cô đành chạy về xã Bồ Điền vùng Thanh Hóa và tự tử lúc mới có 23 tuổi. Vua Nam đế  nhà Tiền Lý khen bà là người trung dũng lập miếu thờ bà. Đến nay chuyện Bà Triệu từ thế kỷ thứ II vẫn còn hằng in trong tâm thức mỗi người dân Việt với lòng ngưỡng mộ và niềm tự hào.

Đất Giao Châu đời bấy giờ cứ bị loạn lạc mãi, một phần do bị các quan lại từ nhà Ngô sang nhà Lương của thời kỳ Nam Bắc triều ở Trung Quốc  tham tàn vơ vét của dân một phần bị nước Lâm Ấp quấy nhiễu đánh phá không ngừng. Nước nầy được thành lập vào cuối đời nhà Hán  nhờ một cuộc nổi dậy ở huyện Tượng  Lâm vào năm 190 SCN do một người tự xưng là Khu Liên. Ông nầy giết thứ sử  Tàu Chu Phủ và nắm quyền tự trị trên một phần lãnh thổ cực nam của quận Nhật Nam. Nước Lâm Ấp được gọi sau nầy là Chiêm Thành bao gồm từ Quảng Bình cho đến lãnh thổ miền nam của núi Bạch Mã.

Người Lâm Ấp thuộc nòi giống Mã Lai và chịu nhiều ảnh hưởng Ấn Độ hơn Trung Quốc khiến về sau văn hóa nước nầy là văn hóa Ấn Độ, chữ Phạn là chữ họ dùng để trao đổi quốc thư với Trung Quốc.  Chính nhờ các thương nhân và các tu sĩ Ấn Độ mà người Lâm Ấp giao tiếp khiến các tôn giáo như Ấn Độ giáo và Phật giáo mới được truyền bá qua xứ nầy. Cũng nhờ đó mà Phật giáo mới du nhập vào Chiêm Thành qua đường biển rồi sau đó mới đến Giao Châu (Việtnam) qua đường bộ từ Lâm Ấp, chớ không phải đến từ Trung Hoa như c ác văn bản Trung Hoa thường  khẳng định. Bởi vậy mẹ của Tôn Quyền lúc còn sống thường mời các tu sĩ ở Luy Lâu (Bắc Ninh, Vietnam) đến thủ đô Kiến Nghiệp (Jiany) của nước Ngô, thuộc về thành phố Nam Kinh (Nankin) hiện nay, để nghe giảng kinh và bình luận về các sách kinh lễ Ấn Độ (sutra) của Phật giáo. Nước Giao Châu phải đợi cho đến cuối năm 541 mới có cuộc nổi dậy của  Lý Bí. Ông dành lại độc lập cho nước ta được 60 năm và đặt tên nước là Vạn xuân sau khi đánh bại nhà Lương  đang đô hộ nước ta.  Ông tự xưng là Nam Đế và đóng đô  ở Long Biên.

Dame  Triệu (225 – 248 après J.C.)

Après la chute de l’empire des Han, c’est la période des Trois Royaumes avec trois personnages bien connus  Cao Cao, Liu Be et Sun Quan. Durant cette période, notre pays était sous la domination du royaume Wu de Sun Quan. C’est aussi la période où il y avait des rébellions anti- chinoises réclamant l’indépendance parmi lesquelles  figurait une héroïne analogue aux sœurs Trưng et connue souvent sous le nom  Triệu Thi Trinh ou Dame Triệu. Dès son plus jeune âge, elle  ne manquait pas de caractère et était très douée en arts martiaux. Au printemps de l’année du dragon (248 après J.C.), en voyant la cruauté des  fonctionnaires de l’état Wu et la misère de ses compatriotes, elle n’hésita pas à recruter plus d’un millier de braves gens avec son frère pour déclencher une guerre  de libération contre l’armée des Wu. Le roi Wu Sun Quan  fut obligé d’envoyer immédiatement à Giao Châu le général Lu Dan, un neveu de  Lu Xun (Lục Tốn) pour réprimer le soulèvement  avec 8 000 soldats. Après 6 mois de combats, elle ne put plus tenir la résistance contre les agresseurs. Elle dut se réfugier à la commune Bồ Điền de la province Thanh Hóa à cause du manque d’appui et de partisans. Elle se suicida  à l’âge de 23 ans. Le roi  Lý Nam Đế  de la dynastie des Lý antérieurs l’a félicitée pour son courage et sa fidélité en construisant un temple dédié à sa mémoire. Jusqu’à présent, l’histoire de  Dame Triệu du IIème siècle est toujours imprégnée d’admiration et de fierté dans l’esprit de tous les Vietnamiens.

Giao Châu (l’ancien pays des Vietnamiens)  ne cessa pas  de connaître non seulement à cette époque la misère et la corruption des fonctionnaires nommés d’abord par le royaume des Wu (nhà Ngô) puis celui des Leang (nhà Lương) durant la période  dynasties du Nord et du Sud (420-580 après J.C.) en Chine mais aussi les troubles frontaliers provoqués incessamment par le royaume Lin Yi.  Ce pays limitrophe  prit naissance à la fin de la dynastie des Han grâce à un soulèvement mené dans le district de Tượng Lâm en 190 après J.C. par un brave nommé Khu Liên. Celui-ci a tué le gouverneur chinois Chu Phu et s’est  autoproclamé roi  sur une partie du territoire située le plus au sud du district de Nhật Nam. Le pays Linyi connu plus tard sous le nom de Chămpa  est constitué en fait  de la région Quảng Bình jusqu’au territoire sud de la montagne Bạch Mã.

Les habitants de Linyi étaient de la race malaise et se laissaient influencer par la culture indienne plus que   celle de la Chine. Ils adoptaient dès lors  la culture indienne comme la leur et se servaient plus tard  du sanskrit dans l’échange des lettres avec la Chine. C’est par l’intermédiaire des commerçants  et des moines indiens avec lesquels le peuple du Linyi  était en contact que l’hindouisme et le bouddhisme pouvaient s’implanter dans ce pays. Le bouddhisme a été introduit au Chămpa  par la voie maritime, puis il s’est  implanté ensuite à Giao Châu (Vietnam) par la voie terrestre prise à partir du Chămpa.

 En aucun cas, le bouddhisme vietnamien ne s’est pas  passé  par la Chine comme certains documents chinois l’ont prétendu. C’est pourquoi la mère de Sun Quan, une disciple fervente du bouddhisme eut l’occasion de  faire venir à cette époque les moines de Luy Lâu (Bắc Ninh)  à la capitale Jianye (Kiến Nghiệp) du royaume de Wu,  proche de la ville actuelle de Nankin pour leur demander de prêcher et commenter les sûtras du bouddhisme. Giao Châu dut attendre à la fin de l’année  541 pour  que l’insurrection menée par Lý Bí eût lieu. Il réussît à battre les Leang pour obtenir l’indépendance durant une soixantaine d’années,  donna à son royaume un nom prometteur de pérennité « Vạn Xuân » (ou  Dix Mille printemps).  Il se proclama  Nam Đế (Empereur du Sud) et  s’installa à Long Biên.  

 

Photos de Jean-Marie Duchange sur les Hauts Plateaux.

 

Version française

Un grand hommage au photographe

Jean-Marie  Duchange 

Jean-Marie Duchange sinh ra ở Saint Nazaire (Loire Atlantique) vào năm 1919. Dù ông không phải là một nhà dân tộc học như Georges Condominas mà cũng không phải nhà nhiếp ảnh viên chuyên nghiệp ở thời đó nhưng các tác phẩm ảnh mà gia đình ông tặng cho bảo tàng Quai Branly (Paris) và bảo tàng dân tộc học ở Hànội rất hiếm hoi và vô giá. Sau 4 năm trong quân đội, ông từ bỏ quân ngũ và làm việc 3 năm sau, từ năm 1952-1955 ở vụ y tế công cộng ở miền núi Nam Đông Dương (Tây Nguyên), ông có dịp đi nhiều nơi di chuyển  bằng xe jeep, cưỡi voi, đi bộ, đi thuyền vân vân.. Nhờ đó ông chụp được nhiều ảnh rất độc đáo với máy ảnh  Rolleyflex et Samflex để thỏa mãn sở thích chụp hình của ông. Đấy là những lời mở đầu được ghi lại trong cuốn sách mà ông dự định xuất bản khi ông ở tuổi 88. Nhưng không may ông qua đời khiến cô con gái của ông, bà Evelyne Duchaine và cô cháu ngọai bà Nadège Bourdoin không ngần ngại cứu vớt các tác phẩm ảnh nầy bằng cách cống hiến tất cả các phim âm bản cho bảo tàng Quai Branly (Paris) và  bảo tàng dân  tộc học ở Hànội. Nhờ vậy mới có cuộc trưng bày  để tưởng nhớ đến ông và để đáp lại sự hảo tâm của gia đình ông. Phải công nhận các tác phẩm của ông vẫn còn sống động và để lại cho những người đi xem như mình một niềm vui vô hạn.

Version française

Jean-Marie Duchange est né à Saint Nazaire (Loire Atlantique) en 1919. Bien qu’il ne soit ni ethnologue comme Georges Condominas ni photographe professionnel à cette époque, les œuvres photographiques que sa famille a offertes au musée du Quai Branly (Paris) et au musée d’ethnographie de Hanoï sont  rares et inestimables. Après 4 ans dans l’armée, il quitta l’armée et travailla 3 ans plus tard, de 1952 à 1955 au service de santé publique dans le sud de l’Indochine (Les Hauts Plateaux) du Vietnam, il avait l’occasion de voyager dans de nombreux endroits en jeep, à dos d’éléphant, à pieds, en pirogue  etc. Grâce à cela, il prit de nombreuses photos très originales avec son appareil photo Rolleyflex et Samflex pour assouvir sa passion  pour les photos. Ce sont les premiers mots d’introduction trouvés dans le livre qu’il envisagea de publier à l’âge de 88 ans. Mais à cause de sa mort précipitée,  sa fille Evelyne Duchaine et sa nièce Nadège Bourdoin n’hésitèrent pas à sauver son travail en offrant tous les négatifs au musée  Quai Branly (Paris)  et  au  musée d’ethnographie de Hanoï. Grâce à ce don, il y a eu une exposition au musée d’ethnographie de Hanoï  en l’honneur de sa mémoire et en reconnaissance  de la générosité de sa famille. Il faut reconnaître que ses œuvres sont toujours vivantes et laissent à des visiteurs passionnés comme moi une joie incommensurable.

 

Mộc Châu (Plantation de thé)

Plantation de thé

Mộc Châu (Sơn La) được mệnh danh là Đà Lạt của miền Bắc. Cách Hà Nội 180 km về phía Tây Bắc, nơi được nổi tiếng chè và có nét độc đáo trong văn hóa của các dân tộc H’Mông, Thái, Dao, Mường…
Mộc Châu (Sơn La) est au Vietnam du nord ce que Dalat est au Vietnam du sud. Etant située loin de la capitale Hanoï de 180 km dans le territoire du Nord-Ouest, elle est réputée pour son thé et possède le trait caractéristique dans la culture des minorités ethniques Hmong, Thaï, Yao et Mường etc.
  • Cascade des Fées (Thác Nàng Tiên)
  • Forêt des pins  Bản Áng (Rừng thông Bản Áng)
 

Thác Dải Yếm (Cascade Dải Yếm, Mai Châu)

Thác Dải Yếm

Thác Dải Yếm

Version française

Thác Dải Yếm được hình thành từ hai khe nước bo Tá Cáu và bo Co Lắm ở bản Vặt cách thác 600m về phía tay trái và cùng nằm trên QL43. Ngày xưa, nhiều người còn gọi thác này là Thác Nàng, Thác Bản Vặt, tuy nhiên cái tên được nhiều người biết đến nhất vẫn là Thác Dải Yếm. Cái tên thác đã gắn liền với sự tích về hai cô thôn nữ dũng cảm cứu chàng trai khỏi nước lũ. Nằm cách trung tâm thị trấn Mộc Châu khoảng 8km, làng nầy của người Thái được toạ lạc cách suối 600 thước  bên tay trái và trên quốc lộ 43. Thác Dải Yếm  còn là ngọn thác lớn thuộc địa phận xã Mường Sang, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.

Version française

La cascade Dãi Yếm se forme lors de la rencontre de deux cours d’eau, Bó Co Lắm  et Bo Tá Cháu dans le village de Vặt. Loin du centre-ville de Mộc Châu à peu près de 8km,  ce village des Thaïs  est situé  à 600 m de la cascade sur le côté gauche et sur la route nationale 43. Autrefois, beaucoup de gens appelaient également cette cascade Thác Nàng, Thác Bản Vặt, mais le nom le plus célèbre est toujours la cascade Dải Yếm dont  le nom est lié  étroitement à l’histoire de deux courageuses villageoises ayant sauvé un garçon lors d’une inondation. La cascade Dải Yếm est une chute d’eau importante appartenant à la commune de Mường Sang du district de Mộc Châu, dans la province de Sơn La.

 

Danse du lion ou de la licorne (Múa lân sư)

Version française

Múa Lân Sư

Nhắc đến Tết không có ai có thể không nhắc đến múa Lân. Đây là môn nghệ thuật múa dân gian được thấy trên đường phố ở Việt Nam. Nó được gọi là múa lân ở trong Nam còn ở ngoài Bắc thì gọi là múa sư (tức là sư tử (hay  wǔshī ). Lân là con linh vật  đứng hàng thứ nhì  trong bốn con vật có sức mạnh siêu phàm hay tứ linh (long, lân, qui, phụng). Trong văn hóa Việt nam, chúng ta thường bị lầm lẫn giữa  con kỳ lân với con ghê. Đặc điểm để phân biệt giữa nghê và lân là ở bộ móng, nghê mang móng vuốt còn kỳ lân mang móng guốc. Thật sự khi gọi kỳ lân, tức là nói đến một cặp: con đực gọi là kỳ và lân là con cái. Múa Lân thường được biểu diễn trong các dịp lễ hội, đặc biệt là Tết Nguyên Đán, Tết Trung Thu hay khánh thành cửa hàng mới vì các loại thú nầy tượng trưng cho thịnh vượng và hạnh phúc. Con lân có cái đầu được trang trí  trông rất đẹp mắt và thân thể của nó được nâng lên bởi một số vũ công uốn lượn theo nhịp điệu âm thanh của các tiếng trống. Nó luôn luôn đi cùng với một vũ công bụng phệ, vui cười hay vẫy quạt, thường đeo mặt nạ  và mặc áo choàng màu vàng nghệ (Ông Địa). Đây là cuộc khiêu chiến giữa người và động vật, giữa Thiện và Ác, luôn luôn kết thúc bằng chiến thắng của con người trên động vật.

Danse de la licorne ou du lion.


 

En évoquant le Têt, personne n’oublie de mentionner la danse de la licorne ou du lion. C’est un art de la danse folklorique que l’on trouve dans les rues du Vietnam. On l’appelle la danse de la licorne  dans le Sud et la danse du lion dans le Nord (ou wǔshī bính âm). La licorne  occupe la deuxième place parmi les  quatre animaux au pouvoir surnaturel (tứ linh)(long, lân, qui, phụng). Dans la culture vietnamienne, on a l’habitude de confondre la licorne avec le chien-lion (con nghê).  La principale caractéristique permettant de faire la  distinction entre la licorne  et le chien-lion  réside dans les doigts de pied, la licorne étant armée  des sabots et le chien-lion des griffes. Quand on parle de la licorne (Kỳ Lân), on a affaire à un couple d’animaux : kỳ c’est le mâle tandis que Lân est une femelle. La danse de la licorne  est souvent pratiquée lors des fêtes traditionnelles, notamment le Nouvel An lunaire, la fête de la Mi-Automne ou l’inauguration d’un nouveau magasin (ou une boutique) car ces animaux sacrés symbolisent la prospérité et  le bonheur. Cet animal légendaire dont la tête est  décorée magnifiquement et dont tout  le corps est porté par plusieurs danseurs, ondule au rythme des sons des tambourins. Il est toujours accompagné par un autre danseur hilare et ventru agitant son éventail et portant une robe de couleur safran (Ông Ðịa). C’est la danse-combat entre l’homme et l’animal, entre le Bien et le Mal qui se termine toujours par le triomphe de l’homme sur l’animal.