Mois : février 2025
Dynastie des Tang (Đại Đường)
Người Trung Hoa tự hào luôn luôn là con cháu của nhà Hán. Tuy nhiên, thời đại hoàng kim của văn minh Trung Hoa không phải là thời kỳ của nhà Hán mà chính là thời nhà Đường được kéo dài ba thế kỷ sau đó (618-907). Nhờ có nguồn tài liệu phong phú và việc phát giác ra các minh khí, các vật thu nhỏ nghi lễ được đặt trong các ngôi mộ của giới thượng lưu thời đó, chúng ta biết được thời kỳ nhà Đường là một thời kỳ có những tiến bộ đáng kể về khoa học và kỹ thuật (thuốc súng, bản in khắc gỗ, kỹ thuật cơ khí, y học, bản đồ, vân vân..). Đây là một triều đại rất cởi mở với thế giới bên ngoài bằng cách có chính sách khoan dung chưa từng có đối với các nền văn hóa khác và các tôn giáo nước ngoài như Giáo hội Phương Đông hay Cảnh Giáo, đạo thờ lửa , một tôn giáo đa thần đến từ Ba Tư, Phật giáo đang phát triển nhanh chóng vân vân. Cũng dưới thời ngự trị của hoàng đế sáng lập nhà Đường, Đường Tháit Tôn (Lỳ Thế Dân) nhà sư Huyền Trang mới bắt đầu cuộc hành hương vào năm 629 mà được gọi là « Tây du Ký » bằng cách tự nguyện đi một mình suốt 17 năm từ thủ đô Trường An theo lời yêu cầu của hoàng đế hầu mang về các kinh điển từ nước Thiên Trúc. Đây cũng là thời kỳ nghệ thuật và văn học phát triển đến đỉnh cao với các nhà thơ Đỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch Cư Dị, họa sĩ Vương Duy vân vân và quyền tự do tương đối khả quan cho giới phụ nữ. Họ có thể xuất sắc trong nghệ thuật, đặc biệt là âm nhạc và thi ca, và đôi khi họ có thể có một địa vị cao hơn trong xã hội. Đây là trường hợp của hoàng hậu Võ Tắc Thiên (Võ Hậu). Phụ nữ thời đó có thể mặc trang phục ít gò bó hơn với áo dài rộng Hanfu (Hán phục)
Cũng dưới triều đại này, con đường tơ lụa đã phát triển nhanh chóng cho nhiều mục đích kinh tế, chính trị và tôn giáo bằng cách áp dụng chính sách hôn nhân chiến lược, các cuộc chinh phục quân sự và viẽc sử dụng tơ lụa nhầm củng cố liên minh, mua chuộc và chia rẽ các cư dân du mục và bành trướng đế chế về phía Tây. Nhờ có sự thiết lập này, triều đại nhà Đường đã thành công trong việc thiết lập các mối quan hệ thương mại và văn hóa trên con đường tơ lụa. Đây là con đường mà hai nhà sư của đạo Phương Đông đã mang theo trứng giun tơ lụa từ Trung Quốc về Byzance bằng cách giấu trong hai gậy bằng tre. Cuối cùng, đây cũng là thời kỳ Việt Nam ta nằm dưới sự đô hộ của nhà Đường sau khi bị sáp nhập trước đó bởi nhà Tùy với tướng Lưu Phương.
Dưới triều đại nhà Đường, Trường An là một thành phố quốc tế lớn nhất thế giới vào thời điểm đó. Nó còn được mệnh danh là « thành phố một triệu dân » trong các tài liệu của Trung Hoa. Được biết đến với cái tên « Bình An vĩnh cửu » , nó là thành phố đông dân nhất thế giới trước Baghdad và Byzance. Tuy nhiên, theo bản ghi chép điều tra dân số năm 742 trong sách Tân Đường Thư, Trường An và các vùng lân cận có đến 362.921 gia đình với dân số là 1960188 người trong khi ước tính có hơn 50 triệu người Trung Hoa sống vào thời điểm đó trên một lãnh thổ từ Biển Đông Trung Quốc đến Trung Á, từ sa mạc Gobi ở phía bắc và vượt qua dãy núi Nanglin (Lĩnh Nam) ở phía nam, nơi có xứ An Nam. Với diện tích gần 87 km2, Trường An không chỉ là một trung tâm quyền lực chính trị và kinh tế mà còn là một chỗ bình an với những con đường rộng rãi, các cung điện xinh đẹp, các đền Phật giáo, các khu vườn tư nhân và các chợ rộng lớn. Các đại lộ và các đường xá được sắp xếp theo một hệ thống hình chữ nhật gồm 114 khối nhà được vách tường bao xung quanh riêng lẻ và được bảo vệ chung tất cả bởi một bức tường khác nằm ở bên ngoài.
Mỗi buổi sáng, sau khi tiếng trống đầu tiên vang lên, người dân từ khắp nơi đế chế cũng như các thương nhân nước ngoài bị thu hút bởi công việc buôn bán thủ đô bắt đầu đi vào thành và lo chuyện kinh doanh. Còn đêm lại, chỉ có thể đi từ con đường lớn nầy đến con đường khác nếu có giấy phép. Tất cả các loại hàng hóa, từ đồ nội thất đến các loại gia vị (nghệ của Ba Tư, ớt của Ấn Độ, vân vân) đều được tìm thấy ở hai chợ lớn của thành phố, một chợ nằm ở phía đông và một chợ ở phía tây. Triều đình quy định kiểm soát giá cả và chất lượng hàng tuần. Sự phát hiện ra một số ngôi mộ của người Sogdian (Thổ) ở thủ đô càng làm rõ thêm tại sao các yếu tố của văn hóa nước ngoài có thể xâm nhập vào xã hội Trung Quốc ở Trường An và ngược lại. Thậm chí còn có cả một khu phố dành cho người nước ngoài.
Quân lính của nhà Đường có rất nhiều đơn vị người Thổ cổ được gọi là Tujue (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ nguyên thủy). Nhờ chính sách tuyển dụng này và kinh nghiệm chiến trường của các sĩ quan Thổ, nhà Đường thành công mở rộng đế chế của mình về phía tây. Đó là việc chinh phục các vương quốc ốc đảo Karakhoja, bởi nhà Đường với tướng Sogdian A Sử Na Xã Nhĩ (Ashina Sheer) vào năm 648 ở tỉnh Tân Cương ngày nay. Ông được Hoàng đế Đường Cao Tông bổ nhiệm làm Hữu vệ đại tướng quân. Ông qua đời vào năm 655 và được chôn cất bên cạnh Đường Thái Tông (Lý Thế Dân). Ông được đổi tên thụy là Nguyên (Yuan (元)) sau khi ông qua đời.
Trường An đóng giữ một vai trò quan trọng trong giao dịch thương mại ở trên con đường tơ lụa với các khu vực xa xôi như Thiên Trúc (Ấn Độ), Trung Đông và châu Âu. Mạng lưới đô thị và kiến trúc tôn giáo của nó (Tháp Đại Nhạn nơi lưu giữ những áng kinh Phật cổ được dịch bởi Đường Tăng Huyền Trang) và cung điện (Đại Minh Cung, nơi ở của các hoàng đế nhà Đường) là bằng chứng cho thấy sự hiểu biết kỹ thuật trong việc coi trọng sự hài hòa và môi trường và mang lại ảnh hưởng đáng kể về sau trong việc thiết kế các thủ đô của các vương quốc Silla ở Hàn Quốc và Heian ở Japon. Trường An vẫn là một phần quan trọng trong di sản lịch sử và văn hóa của Trung Quốc.
Dưới triều đại của Hoàng đế Đường Thái Tôn, các thương gia và các người đi buôn có thể đi lại ở khắp đế chế mà không sợ bị cướp giựt. Các nhà tù thì trống rỗng và người dân không cảm nhận áy náy phải khóa cửa nhà. Mùa màng bội thu: chỉ cần 3 hoặc 4 xu ( qian ) mua được 10 lít gạo. Đây không chỉ là giai đoạn thời kỳ thịnh vượng mà Trung Quốc có được cho đến thời đại của Hoàng đế Huyền Tông trước cuộc nổi dậy của tướng Sogdian An Lộc Sơn (An Lu Shan) vào năm 755 mà nó còn là mô hình cai trị thường được nhắc đến trong lịch sử Trung Quốc
Musée des arts asiatiques Guimet
Les Chinois sont fiers d’être toujours les fils des Han. Pourtant l’âge d’or de la civilisation chinoise n’est pas la période des Han mais plutôt celle des Tang qui perdure trois siècles plus tard (618-907). Grâce à l’abondance de documentation et la découverte des figurines minqi, des objets rituels déposés dans les tombes des élites de l’époque, on sait que la période des Tang est une période durant laquelle les progrès sont significatifs en matière des sciences et techniques ( poudre à canon, xylographie, génie mécanique, médecine, cartographie, etc.). C’est une dynastie ouverte sur le monde en acceptant la tolérance sans précédent à l’égard des cultures et des religions étrangères (l’église nestorienne, le zoroastrisme, une religion polythéiste venue de Perse, bouddhisme en plein essor etc.). C’est aussi sous le règne de l’empereur fondateur Tang Tai Zong (Đường Thái Tôn hay Lý Thế Dân) que le moine bouddhiste Xuan Zang (Huyền Trang) entama en l’an 629 le pèlerinage sacré connu sous le nom de « Pérégrinations vers l’Ouest (Tây Du Ký) » en partant seul de la capitale Chang An durant 17 ans, à la demande de l’empereur pour ramener les écritures sacrées de l’Inde. C’est aussi la période où l’épanouissement des arts et des lettres était à son comble avec les poètes Du Fu (Đỗ Phủ), Li Bai (Lý Bạch), Bai Juji (Bạch Cư Dị) , le peintre Wang Wei (Vương Duy) etc. et celle de la liberté relative pour les femmes. Celles-ci pouvaient exceller dans les arts, en particulier dans la musique et la poésie. Elles pouvaient avoir parfois un statut plus élevé dans la société. C’est le cas de l’impératrice Wu Zetian (Võ Tắc Thiên). Les femmes pouvaient porter des vêtements moins contraignants avec la robe ample Hanfu (Hán phục).
C’est aussi sous cette dynastie que la Route de la Soie connut un grand essor pour de nombreuses fins à la fois économiques, politiques et religieuses par la mise en place de la politique de mariage stratégique, les conquêtes militaires et la soie dans le but de consolider les alliances, de soudoyer et de diviser les nomades et d’agrandir son empire vers l’Ouest. Grâce à cette mise en place, la dynastie réussit à établir des liens commerciaux et culturels tout le long de la route de la soie. C’est par cette route que deux moines nestoriens ont ramené à Byzance les œufs de vers à soie de la Chine, en les cachant dans leurs cannes de bambou. Enfin c’est aussi la période où le Vietnam était sous le giron des Tang après avoir été annexé plus tôt par les Sui avec le général Liu Fang (Lưu Phương).
Sous la dynastie des Tang, Chang-An est la plus grande ville cosmopolite au monde à cette époque. Elle est surnommée « ville d’un million d’habitants » dans les archives chinoises. Connue sous le nom « Paix Eternelle », elle est la ville la plus densément peuplée du monde devant Bagdad et Byzance. Mais d’après l’enregistrement du recensement en l’an 742 dans le Nouveau Livre des Tang (Tân Đường Thư), Chang ’An et ses environs ont eu 362 921 familles comptant 1960188 personnes tandis qu’on estime plus de 50 millions d’habitants vivant à cette époque en Chine sur un territoire allant de la mer de Chine orientale à l’Asie centrale, du désert de Gobi au nord et au-delà des montagnes Nanglin (Lĩnh Nam) dans le sud où se trouve l’Annam. D’une surface intérieure de presque 87km2, la capitale cosmopolite Chang ’An était non seulement un centre de pouvoir politique et économique mais aussi un havre de paix doté de larges avenues, de magnifiques palais, de temples bouddhistes, de jardins privés et de vastes marchés. Ses larges avenues et ses rues étaient disposées selon un damier rectangulaire de 114 blocs de maisons individuellement murés et protégés tous par la même muraille externe.
Chaque matin, dès l’annonce de l’ouverture de sa porte principale par les premiers coups des tambours, les gens venant de tous les coins de l’empire ainsi que de nombreux marchands étrangers attirés par l’important commerce de la capitale commençaient à y entrer et à vaquer à leurs affaires. La nuit, on ne pouvait circuler d’un artère qu’à un autre à condition d’avoir un laissez-passer. On y trouvait toutes sortes de marchandises, des meubles jusqu’aux épices (safran de Perse, poivre d’Inde etc.) dans les deux grands marchés de la ville, l’un à l’est et l’autre à l’ouest. La cour impériale réglementait le contrôle des prix et de la qualité des produits par semaine. La découverte d’un certain nombre de tombes sogdiennes dans la capitale a permis de mieux comprendre comment des éléments de la culture étrangère se sont infiltrés dans la société chinoise de Chang’ An et vice-versa. Même on y trouvait un quartier étranger.
L’armée des Tang comptait beaucoup d’importants contingents de soldats turcs appelés sous le nom Tujue (proto turc). Grâce à cette politique de recrutement et de l’expérience de la steppe que les officiers turcs ont eue, cela permettait à la dynastie des Tang d’agrandir son empire vers l’Ouest. C’était la conquête des royaumes-oasis de Karakhoja, par les Tang avec le général sogdien Ashina She’er (A Sử Na Xã Nhĩ) en 648 dans l’actuelle province du Xinjiang. Il était nommé général de la garde de droite par l’empereur Tang Gaozong (Đường Cao Tông) . Il mourut en 655 et fut enterré aux côtés de l’empereur Taizong (Đường Thái Tông). Il fut renommé Yuan (元) à titre posthume.
Chang An jouait un rôle clé dans l’échange commercial sur la Route de la Soie avec les régions aussi lointaines comme l’Inde, le Moyen Orient et l’Europe. Son maillage urbain et son architecture religieuse (la grande pagode de l’Oie abritant les textes sacrés rapportés par le moine Xuan Zang) et palatiale (Palais de la Grande Clarté (Daming Gong ou la résidence des empereurs) témoignent du savoir-faire technique dans le respect de l’harmonie et de l’environnement et apportent plus tard une influence non négligeable dans l’aménagement des capitales des Silla en Corée et des Heian au Japon. Chang An reste une partie importante dans l’héritage historique et culturel de la Chine. Sous le règne de l’empereur Tai Zong (Đường Thái Tôn), les commerçants et les marchands pouvaient circuler librement dans tout l’empire sans avoir peur des bandits. Les prisons étaient vides et les gens ne ressentaient pas le besoin de fermer la porte de leurs maisons. Les récoltes étaient abondantes: il suffit d’avoir 3 ou 4 qian pour l’achat de 10 litres de riz. C’est non seulement la période de prospérité que la Chine a connue jusqu’au règne de l’empereur Xuan Zong avant la révolte du général sogdien An Lu Shan (An Lộc Sơn) en 755 mais aussi le bon modèle de gouvernance souvent évoqué dans l’histoire de la Chine.
Pagode de l’Oie (Tháp Đại Nhạn)
(
Cascade Pa Sỹ (Măng Đen, Kon Tum)
Thác Pa Sỹ
Theo tiếng dân tộc Rơ Mâm, thác nầy có nghĩa là 3 nguồn suối lớn nhất ở Măng Đen chụm lại thành một dòng nước nên được gọi là Pau Suh Thác được đọc chệch bởi dân bản xứ nên nên trở thành Pa Sỹ. Đến đây phải ăn cơm lam gà nướng , rết ngon tuyệt vời.
Selon la langue de l’ethnie Rơ Mâm, cette cascade signifie le point de rencontre des trois plus grandes sources de M ăng Đen se rejoignant dans un cours d’eau. C’est pour cela qu’elle est appelée Pau Suh qui devient au fil des années Pa S ỹ à cause de la mauvaise prononciation des gens locaux. En venant ici, il faut manger du riz gluant dans un tronçon de bois avec le poulet grillé. C’est extrêmement délicieux.
Măng Đen (Kon-Tum)
Măng Đen (Kon Tum)
Được mệnh danh là « Đà Lạt thu nhỏ » với rừng nguyên sinh, hồ thác nước Pa Sỹ, Măng Đen là một thị trấn nhỏ, rộng 148,07 km2 trên cao nguyên, thuộc huyện Kon Plong, cách thành phố Kon Tum khoảng chừng 60 cây số. Đi từ Pleiku đến đây bằng ô tô thì mất chừng 2 tiếng. Đây là vùng đất linh thiên với bức tượng Đức Mẹ Fatima mà cũng là nơi hành hương mỗi năm của người công giáo ở Tây Nguyên.
Surnommée « Dalat en miniature » avec sa forêt vierge et sa chute d’eau Pa Sỹ, Măng Đen est une petite ville d’une superficie de 148,07 km2. Elle est située environ 60 km de la ville de Kon Tum sur le plateau montagneux dans le district de Kon Plong. Il faut compter environ deux heures en voiture pour venir de Pleiku. C’est non seulement un lieu sacré avec sa statue de Notre-Dame de Fatima mais aussi un lieu de pèlerinage annuel pour les catholiques des Hauts Plateaux.
Le lever du soleil ( Bình minh ở vịnh Lan Hạ)
Còn chút gì để nhớ Pleiku, Gia Lai
Còn chút gì để nhớ Pleiku, Gia Lai
Lúc về Việt Nam vào tháng 11 vừa qua, minh được anh Phát, người sáng lập Trường Không Biên giới mời đến Pleiku để dự lễ tưởng niệm vợ anh quá cố được Mái Ấm Thiên Ân tổ chức ở Pleiku. Đây là nơi được sơ Nguyễn Thị Kim Chi, thuộc dòng các nữ tu thuộc tu viện St. Paul de Chartres ở Pháp thành lập từ năm 2010 và che chở hàng trăm em nhỏ người đồng bào dân tộc thiểu số có hoàn cảnh khó khăn, ít học hoặc bị cha mẹ bỏ rơi. Mái Ấm Thiên Ân được tọa lạc ở thôn 4, xã Chư Á, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai, mái ấm Thiên Ân cách trung tâm thành phố Pleiku khoảng chừng 9 cây số.
Nhắc đến Pleiku làm mình không thể quên bài « Còn chút gì để nhớ của nhà thơ Vũ Hữu Định mà được nhạc sỹ Phạm Duy phổ biến thành nhạc. Có dịp đến Pleiku rồi hôm nay trở về Paris tự hỏi mình còn chút gì để nhớ Pleiku hay không? Còn chứ, còn nhớ nhiều lắm, nhớ Mái Ấm Thiên Ân, nơi bao bọc các em nghèo thuộc dân tộc thiểu số (Jarai, Ede), nhớ đến các sơ không ngại khó khăn nhọc nhằn kiếm tiền từng xu qua cách trồng trọt cà phê, hạt điều, va ni vân vân và tháo vát bán buôn và đa năng để đem lại ấm no cho 189 em nghèo thiểu số, nhớ đến một thành phố hiền hoà ít xe cộ bụi bặm náo nhiệt như Saïgon thưở nào, nhớ đến phố núi đầy sương mù như Đà Lạt, nhớ đến vườn hoa tuyệt vời, một thiên đàng xinh xắn nho nhỏ được săn sóc tĩ mĩ với đầu óc thẩm mỹ của các sơ, nhớ đển buổi lễ tưởng niệm chị Marie Consolata ở nhà thờ, nhớ biển hồ T’nưng, nhớ đến buổi cơm tối ngày đầu khi ba chú cháu dùng ở một quán cơm dân dã đậm chất quê hương nhất là để lại một ấn tượng với món cá chiên dầm xoài nước mắm. Một kỷ niệm khó quên, một thành phố đáng nhớ trong cuộc hành trình nầy.
Mái Ấm Thiên Ân
Quelque chose à retenir de Pleiku, Gia Lai
À mon retour au Vietnam en novembre dernier, j’ai été invité par Mr Phát, fondateur de l’’École sans Frontières, à venir à Pleiku pour assister à la messe commémorative de sa défunte épouse organisée par le « Refuge Thiên Ân ». Il s’agit d’un havre fondé en 2010 par sœur Nguyễn Thị Kim Chi appartenant à l’ordre des Religieuses de Saint Paul de Chartres en France et abritant des centaines d’enfants de minorités ethniques en situation difficile, sans éducation ou abandonnés par leurs parents. Le refuge Thiên Ân est situé dans le village 4, commune Chu Á ville de Pleiku, province de Gia Lai, Il est à environ 9 kilomètres du centre-ville de Pleiku. En évoquant Pleiku, je ne peux pas oublier la chanson « Ce qu’il reste à retenir » du musicien talentueux Pham Duy ayant trouvé son inspiration dans le célèbre poème du poète Vũ Hữu Định.
Ayant eu l’occasion d’aller à Pleiku puis de retour à Paris aujourd’hui, je me demande si j’ai encore quelque chose à retenir de Pleiku ou non? Oui, il y a plein de choses à retenir. D’abord je me souviens du refuge Thien An, l’endroit qui abrite les enfants pauvres des minorités ethniques (Jarai, Ede), puis des religieuses polyvalentes qui n’ont pas peur des épreuves et des difficultés pour gagner de l’argent en cultivant du café, des noix de cajou, de la vanille, etc. et qui se débrouillent pas mal dans la vente au détail et en gros pour apporter la nourriture à 189 enfants pauvres des minorités ethniques, de la ville Pleiku paisible et moins polluée avec peu de voitures semblable à la ville Saïgon d’une époque lointaine, de la ville de montagne plongée dans la brume comme Dalat, du magnifique jardin fleuri, un joli petit paradis soigneusement entretenu par l’esprit esthétique et créatif des religieuses, de la messe commémorative en l’honneur de Marie Consolata à l’église, du lac T’nưng et enfin du dîner du premier jour où nous avons mangé tous les trois dans un restaurant populaire et typique de notre pays, en nous laissant à la fin du repas une impression particulière avec le poisson frit mariné dans une sauce à la mangue. Un souvenir inoubliable, une ville mémorable pour ce voyage.
Le terminal de ferry Đồng Bài (Hải Phòng)
Bến phà Đồng Bài (Hải Phòng)
Terminal de ferry Đồng Bài (Hải Phòng)
Muốn đi vịnh Lan Hạ, du khách phải mất ít nhất nữa ngày. Phải lấy đường cao tốc 5B để đến Hài Phòng rồi từ đó ra bến phà Đồng Bài mới lấy phà sang được đảo Cát Bà ở bến Cái Viêng cùng xe ô tô, cứ nữa tiếng có một phà qua lại. Rồi sau đó mới đến nơi tụ tập các thuyền máy để đưa du khách lên tàu lớn để đi tham quan vịnh Lan Hạ. Cũng có thể lấy cáp treo của Sun Word qua Cát Bà nếu không muốn mất thì giờ nhiều với phà.
Pour se rendre à la baie de Lan Ha, le visiteur doit y consacrer au moins une demi-journée. On doit prendre l’autoroute 5B pour aller à Hải Phòng et à partir de là, on se rend au terminal de ferry Đồng Bài pour rejoindre l’île Cát Bà au quai de Cai Vieng avec un ferry. il y a un ferry qui fait l’aller-retour toutes les demi-heures. Puis on se rend ensuite au lieu de rassemblement des bateaux de plaisance pour l’embarquement. On peut également prendre le téléphérique de Sun Word pour aller jusqu’à Cát Bà si on ne veut pas perdre trop de temps.
Coucher du soleil à la baie Lan Hạ
Le village antique Cái Bèo ( Làng chài cổ Cái Bèo)
Đến tham quan vịnh Lan Hạ, du khách không thể không biết đến làng chài Cái Bèo. Đây là ngôi làng cổ trên biển đã có từ thời tiền sử vì ở đây các nhà khảo cổ đã tìm ra từ 2006 các hiên vật được làm từ đá granite, 1.424 mảnh gốm tiền sử và 568 tiêu bản di cốt động vật, xương cá, vỏ sò, vỏ hàu vân vân. Nay Cái Bèo được công nhận chính thức 2009 là di tích quốc gia. Cũng là nơi sinh sống của 300 hộ dân, sống chủ yếu bằng nghề đánh cá biển và bắt sò, hàu.
Cái Bèo
De passage à la baie de Lan Hạ, le touriste ne peut pas s’empêcher de connaître le village des pêcheurs de Cái Bèo. Il s’agit bien d’un ancien village qui a existé depuis la préhistoire car ici les archéologues ont découvert depuis 2006 des artefacts fabriqués en granit, 1424 pièces de poterie datant de l’époque préhistorique et 568 pièces de reliques d’animaux, d’os de poisson, d’écailles et de huîtres etc. Aujourd’hui, Cái Bèo est officiellement reconnu comme monument national en 2009. Il abrite également 300 familles vivant essentiellement de la pêche en mer et d’élevage de coquilles et d’huîtres.
Passing through Lan Hạ Bay, tourists can’t help but get to know the fishing village of Cái Bèo. This is an ancient village that has existed since prehistoric times because since 2006 archaeologists have discovered granite artifacts, 1424 pieces of pottery dating back to prehistoric times and 568 pieces of animal relics, fish bones, scales and oysters etc. Today, Cái Bèo was officially recognized as a national monument in 2009. It is also home to 300 families who live mainly from sea fishing and shell and oyster farming.
Làng cổ Việt Hải (Le village ancien des pêcheurs Việt Hải)
Làng cổ Việt Hải (Cát Bà)
Nằm trong rừng sâu của vườn quốc gia Cát Bà, làng chài cổ Việt Hải có một diện tích khoảng chừng 141 ha được xem không những là nơi có quang cảnh hữu tình mà còn là nơi sinh sống của 70 hộ dân. Nơi nầy được du khách ngoại quốc rất ưa thích vì nó còn hoang sơ vả lại có thể đi trekking xuyên qua rừng Cát Bà khoảng 12 cây số sau khi mua vé với 160.000 đồng một người.
Situé dans la forêt profonde du parc national de Cát Bà, l’ancien village de pêcheurs de Việt Hải a une superficie d’environ 141 hectares. Il est considéré non seulement comme un endroit au paysage idyllique mais aussi le foyer de 70 familles. Cet endroit est très apprécié par les touristes étrangers car il est encore sauvage et de plus il est possible de faire la randonnée pédestre à travers la forêt de Cát Bà sur environ 12 kilomètres après avoir acheté un billet à 160 000 VND par personne.
Located in the deep forest of Cát Bà National Park, the former fishing village of Việt Hải covers an area of around 141 hectares. It is considered not only a place of idyllic scenery but also the home of 70 families. This place is prefered by foreign tourists because it is still wild and moreover it is possible to hike through the Cat Bà forest for about 12 kilometers after buying a ticket for 160,000 VND per person.