Pont Trường Tiền (Huế)

 

Version française

Có tuổi đời nhiều hơn cầu Long Biên ở Hànội, cầu Trường Tiền ở Huế  được Hãng Schneider et Cie et Letellier thiết kế và  khởi công vào tháng 5 năm 1899 và khánh thành vào ngày 18 tháng 12 năm 1900 với sự hiện diện của vua Thành Thái. Người ta ghi nhận được một cuộc chạm trán đầu tiên của ngài với  khâm sứ Alexis Auvergne ở thời điểm khánh thành cái cầu mới bắc qua sông Hương. Tự hào về  kỳ công kỹ thuật và sự vững chắc của cái cầu, Alexis Auvergne không ngần ngại  trả lời với thái độ ngạo  nghễ: Khi nào cầu nầy sụp đổ thì nước ngài sẻ được độc lập. Để cho thấy sự quan trọng mà chính quyền thực dân đã dành cho cái cầu mới này, họ đặt cho nó một cái tên mới là cầu « Thành Thái ». Điều này khiến làm vua Thành Thái  tức giận vô cùng vì ông viện cớ rằng từ nay mọi người có thể giẫm đạp lên đầu ngài qua  cái cầu này. Ngài cấm mọi người  gọi  cầu nầy bằng tên mới và xúi giục họ sử dụng tên cũ « Trường Tiền ». Vài năm sau, trong một cơn bão dữ dội năm thìn (1904), cái cầu nầy bị sập bốn nhịp phía bắc rơi xuống sông. Thành Thái nhanh chóng nhắc nhở lại câu nói của  Alexis Auvergne với sự hài hước  hóm hỉnh của ông. Alexis Auvergne đỏ mặt xấu hổ và buộc phải lánh trốn trước những lời  nói khó chịu này. Đến năm 1906, sàn cầu mới được đúc lại bằng xi măng. Năm 1938 cầu được nới rộng ra ở hai bên để làm chỗ cho người đi bộ.  Sau khi vua Thành Thái bị truất phế, cầu nầy mới lấy tên Georges Clemenceau, một thủ tướng Pháp có công với trận thế chiến thứ nhất.  Sau khi Pháp mất chủ quyền ở Đông Dương thì cầu lấy tên là Nguyễn Hoàng, một vị chúa Nguyễn đầu tiên được trấn thủ ở đất Thuận Hóa. Bao lần thay đổi, người dân Huế vẫn quen gọi là Trường Tiền hay Tràng Tiền  vì ở gần đó có công trường đúc tiền của nhà nước. Cầu nầy thật sự có 6 nhịp 12 vài cầu chớ không phải 6 vài cầu 12 nhịp như ca dao đã ghi nhận theo sự nhận xét của nhà nghiên cứu Trần Đức Anh Sơn. Bởi lẽ, cầu này có năm trụ ớ giữa, cùng với hai mổ cầu ở hai đầu, chia chiếc cầu ra sáu khoảng không gian bằng nhau (6 nhịp).  Mỗi nhịp có 2 chiếc vài ở hai bên nhầm thay đổi mômen  lực, chuyển từ lực tác động xuống một điểm trên cầu (do người và vật đi qua) thành lực dàn đều trên mặt cầu, tránh sự cộng hưởng lực và nguy hại cho tuổi thọ chiếc cầu.

Dù có rất nhiều cầu bắc ngang sông Hương nhưng cầu Trường Tiền vẫn được người dân Huế ưa thích vì nó  có  nét đẹp riêng tư.  Cái duyên dáng của nó  như chiếc trâm cài trên mái tóc của nàng thơ tên là sông Hương được nhắc đến trong bài viết của Trần Đức Anh Sơn.  Nhìn thoáng  qua từ đằng xa, cầu gồm 6 nhịp dầm thép hình vành lược được thiết kế theo phong cách gô tíc, ở đầu cầu phía bắc thỉ  có chợ Đông Ba còn ở đầu phiá nam thì   có khách sạn  lâu đời Morin (1906). Cầu  Trường Tiền nay là một biểu tượng lịch sử quan trong ở cố đô Huế.

Version française

Plus ancien que le pont Long Biên  à Hanoï, le pont Trường Tiền  de Huế fut  conçu par la compagnie Schneider et Letellier en mai 1899.  Celle-ci commença à le construire  en mai 1899 et fêta son inauguration   le 18 décembre 1900 en présence du roi Thành Thái. On nota la première altercation virulente  de ce dernier avec le résident général Alexis Auvergne au moment de l’inauguration du nouveau pont enjambant la Rivière des Parfums. Fier de la prouesse technique et sûr de la solidité du pont, Alexis Auvergne n’hésita pas à dire à Thành Thái avec son  ton arrogant:

Quand vous aurez vu ce pont s’écrouler, votre pays sera indépendant.

Pour montrer l’importance que les autorités coloniales ont donnée à ce nouveau pont, elles lui octroyèrent un nouveau nom « Thành Thái ». Cela rendit l’empereur furieux car en prenant le prétexte que tout le monde put piétiner sur sa tête par le passage de ce pont, il interdît à ses sujets de l’appeler avec le nouveau nom et les incita se servir de l’ancien nom  « »Trường Tiền » .Quelques années plus tard, lors du passage d’une tempête violente (1904), le pont s’écroula  avec ses 4 travées dans l’eau. Thành Thái ne tarda pas à rappeler à Alexis Auvergne ce qu’il lui avait dit avec son humour noir. Alexis Auvergne rougit de honte et fut obligé de déguerpir devant ces propos gênants. En 1906, le nouveau tablier du pont fut refondu avec du ciment. En 1938, le pont fut élargi des deux côtés pour accueillir les piétons. Après la destitution du roi Thành Thái, ce nouveau pont prit  le nom de Georges Clemenceau, l’ancien premier ministre français ayant rendu des services méritoires à la Première Guerre mondiale.

Après que La France avait perdu la souveraineté  en Indochine, le pont prit le nom de Nguyễn Hoàng,  le premier seigneur des  Nguyễn  chargé  d’être le gouverneur du territoire Thuận Hóa. Malgré la changement de nom en plusieurs fois, les gens de Huế aimaient à l’appeler  encore sous le nom de Trường Tiền ou Tràng Tiền car à  sa proximité se trouvait un atelier de l’état destiné à faire des pièces de monnaie. Ce pont a en fait 6 travées et 12 butées mais non  pas 6 butées et  12 travées comme cela a été dit dans  la chanson populaire  selon la remarque  du  Dr.Trần Đức Anh Sơn.

Du fait que ce pont a cinq piles  au milieu, ainsi que deux culées à ses deux extrémités, il est divisé  en six espaces égaux (6 travées). Chaque travée comporte une butée de chaque côté  ayant le rôle de modifier la poussée  en  rendant  la force d’impact d’un point du pont (causée par le passage de personnes et d’objets) en une force uniformément répartie sur le tablier du pont, ce qui permet d’éviter  la résonance des forces et des dommages pour renforcer la pérennité du pont.

Bien qu’il y ait  de nombreux ponts sur la Rivière des Parfums, le pont Trường Tiền est préféré par les gens de Huế car il se distingue par sa  beauté particulière.  Son charme a été évoqué par le chercheur Trần Đức Anh Sơn comme  celui d’une broche accrochée dans la chevelure d’une jeune fille aimée  nommée  « Sông Hương » (Rivière des Parfums)  En l’observant de loin, on constate que ce pont se compose de 6 travées de poutres en acier en forme de peigne conçues dans un style gothique. À l’extrémité nord du pont se trouve le marché Đông Ba et à son extrémité sud, il y a l’hôtel Morin datant de l’époque coloniale  (1906) . Le pont Trường Tiền devient aujourd’hui  un symbole historique important dans l’ancienne capitale de Huế.

 

Nghinh Lương Đình (Pavillon de l’embarcadère royale)

Version française

Nghinh Lương đình  được xây dựng ở bờ bắc sông Hương, trước mặt toà Phu Văn Lâu dưới triều vua Tự Đức vào năm 1852 và được trùng tu lại dưới đời vua Thành Thái nhưng bị cơn bão vào năm 1904 nên công trình bị tàn phá nặng nề.  Sau nầy được dưới thời ngự trị của vua Khải Định (1918)  được xây dựng lại và kết nối với bến thuyền liền nhau nhưng vẫn giữ chức năng cũ. Đây là  nơi nghỉ chân và hóng mát của nhà vua trước khi xuống thuyền rồng để du ngoạn trên sông Hương. Công trình nầy được nằm dài  trên trục  chính từ Kỳ Đài truớc cửa Ngọ Môn  đến Phu Vân Lâu và  có một kiến trúc theo kiểu phương đình. Một gian, 4 chái được nối dài ra ở phía trước và phía sau  với nhà vỏ cua   qua máng xối được cấu tạo từ vật liệu kim loại. Bốn mặt của gian chính giữa đều được để trống. Còn ở giữa  bờ nóc của gian chính thì có  lưỡng long chầu nhật . Còn nhà vỏ cua thì ở bờ mái cũng có hình hồi long chầu mặt nguyệt  và ở cuối các bờ quyết  thì trang trí hình chim phượng. Các vì kèo gỗ được chạm trổ  một cách công phu ở trên mặt  với các hình ảnh mang các đề tài  bát bửu như: tù và, quạt vả, phát trần,  lẵng hoa và bầu rượu.  Mái nhà chính lợp ngói ống lưu ly vàng, hai nhà vỏ cua lợp ngói liệt men vàng.  Nghinh Lương đình  được xây dựng trên nền cao khoảng 90 cm cùng bó vỉa bằng gạch vồ và đá thanh.  Nơi phiá bờ sông thì có 13 bậc cấp dẫn xuống một hành lang xây sát mặt nước sông Hương. Nghìn Lương Đình là một trong hai công trình kiến trúc cùng Phu Văn Lâu không có nằm ở trong Đại Nội. Tuy nhiên hai công trình nầy được mọi người ở Việt Nam đều biết đến luôn cả du khách ở nước ngoài  vì hình ảnh của nó được in trên  tờ giấy 50.000 đồng Việt Nam.

Version française

Le pavillon Nghinh Lương a été construit devant Phu Văn Lâu (pavillon des Édits) sur la rive nord de la Rivière des Parfums sous le règne de l’empereur Tự Đức  en 1852. Puis  il  a été restauré à l’époque de l’empereur  Thành Thái . Puis il a subi  des dégâts importants  lors de la tempête  en 1904. Plus tard, sous le règne du roi Khải Đinh (1918), il a été reconstruit presque entièrement et relié à l’embarcadère tout en gardant son ancienne fonction. C’est le lieu de repos et de détente de l’empereur  avant de prendre une excursion en bateau sur la rivière des Parfums. Cet ouvrage architectural est situé sur l’axe principal de la tour du mât (Kỳ Đài) située en face de la porte principale Ngọ Môn jusqu’au pavillon des Édits (Phu Van) et possède une architecture du style de la maison communale. Une grand espace  entouré de 4 appentis, se prolonge en avant et en arrière par des maisons « en coquille de crabe » au moyen des gouttières de drainage en matériau métallique. L’espace central ne possède aucune porte  sur ses quatre côtés. Par contre  au milieu de son arête faitière,  on voit apparaître un globe enflammé (foudre)  vers lequel les deux dragons tournent la tête. Quant à la maison en « coquille de crabe », sur le toit, on retrouve également un couple  de dragons rendant hommage à la lune et l’ornement d’un phénix au bout de ses extrémités. Les fermes de toit en bois sont minutieusement sculptées sur leur façade avec des motifs représentant  la série des huit joyaux: corne, éventail en forme de feuille de figuier, époussette, panier de fleurs et calebasse à vin.

Le toit principal est recouvert de tuiles « Yin et Yang » jaunes et les deux maisons en coquille de crabe ont leurs tuiles vernissées jaunes. Le pavillon  Nghinh Lương a été construit sur une plate-forme d’environ 90 cm de haut avec les dalles de trottoir en pierre « thanh ». Au bord de la rivière, il y a  13 marches facilitant la descente vers un couloir construit près de la surface de l’eau de la Rivière des Parfums. Le pavillon « Nghinh Lương » est l’une des deux œuvres architecturales avec le pavillon  Phu Van, qui ne font pas partie de la Cité pourpre interdite. Pourtant, ces deux joyaux architecturaux sont connus de tous les gens y compris les touristes étrangers  au Vietnam car leur image est imprimée sur le billet de 50 000 VND.

 

 

Pont doré de Ba Na Hills (Cầu vàng)

 

Được thiết kế bởi công ty TA Landscape Architecture có trụ sở ở TP Hồ Chí Minh và khánh  thành vào tháng 6 năm 2018 ở địa danh Bà Nà Hills, cái cầu vàng nầy  nó được dựng lên như một dải lụa đào màu vàng xinh đẹp  nhờ hai bàn tay nâng đở giữa một môi trường thiên nhiên.   Không những nó trở thành tuyệt tác ở nơi nầy và thu hút rất đông du khách ở trong và ngoài nước mà nó còn được nhắc  đến trong tờ báo Guardian của Anh quốc và các báo  thiết kế như  Design Boom, Street Art Globe vân vân.. Nó  có  chiều dài là 150 thước cùng với  8 nhịp cầu mà  nhịp lớn nhất là 21,2 thước  và có 7 trụ.

Étant conçu par TA Landscape Architecture, basé actuellement à Hô-Chi-Minh-Ville et inauguré en juin 2018 à Ba Na Hills, ce pont doré est construit comme un long ruban  de soie doré  soulevé par les deux mains dans un environnement naturel. Il est devenu non seulement  un chef-d’œuvre réussissant à séduire de nombreux touristes nationaux et étrangers mais il est également mentionné dans le journal britannique Guardian et dans les journaux de design tels que Design Boom, Street Art Globe etc.. Il est long de 150 mètres avec 8 travées dont la plus grande est de 21,2 mètres et a 7 piliers.

Being designed by TA Landscape Architecture, currently based in Ho Chi Minh City and inaugurated in June 2018 in Ba Na Hills, this golden bridge is built as a long golden silk ribbon lifted by the two hands in a natural environment. It has not only become a masterpiece succeeding in seducing many domestic and foreign tourists, but it is also mentioned in the British Guardian newspaper and design journals such as Design Boom, Street Art Globe etc.. It is 150 meters long with 8 spans, the largest of which is 21.2 meters and has 7 pillars.

 

 

Séville (Andalousie)

Andalousie

Trước khi được biết đến là thành phố  của nghệ  thuật Tây Ban Nha- Hồi giáo, Séville là thành phố đã được  chứng kiến  các  cuộc xâm lược tàn bạo, đầu tiên là bởi các người Visigoth đến từ phương Bắc  kế đó là  các người Berbères hay Maures đến từ phương Nam  qua eo biển Gilbratar và  sau cùng được chinh phục lại với các người Công giáo vào năm 1492. Đây là lý do tại sao phong cách kiến ​​trúc ở đây được thấy có sự hỗn hợp  của các nghệ thuật hồi giáo,  Roman và Gothic. Được gọi  là  phong cách Mudejar, nó  hay thường làm nổi bật các hình dạng và các màu sắc sinh động mà người du khách có  dịp được trông thấy khắp nơi ở Séville.

Avant d’être connue comme  la ville de l’art hispano-mauresque, Séville est une ville témoin de plusieurs invasions  barbares d’abord germaniques (les Wisigoths) venant du Nord  puis suivies par celles des Berbères du Sud par le détroit de Gilbratar et terminées par la reconquête chrétienne en1492. C’est pourquoi  on trouve dans son style d’architecture  un mélange de l’art à la fois  islamique mais aussi roman et gothique. Connu sous le nom de l’art Mudejar, ce mélange de style  se distingue visiblement par les formes et les couleurs vives que le touriste a l’occasion de  retrouver partout lors de son passage à Séville.

Musée de la culture de Sa Huỳnh (Bảo tàng văn hóa Sa Huỳnh)

Bảo tàng văn hóa Sa Huỳnh

Khi đến Hội An, du khách có dịp đến tham quan một bảo  tàng có một không hai. Nó nằm sát gần cầu chùa và ngang mặt vơi hội quán Quảng Đông.  Đấy là bảo tàng văn hoá Sa Huỳnh, một nền văn hoá cổ có trước nền văn hóa Chămpa được phát triển dọc theo bờ biển ở miền trung Việtnam (từ Thừa Thiên Huế đến Ninh Thuận, Bình Thuận) cùng thời với văn hoá Đồng Sơn. Nét nổi bật của nền văn hóa Sa Huỳnh thường thấy ở trong các chum hỏa táng qua sự phong phú của sắt. 

De passage à Hôi An, le touriste a l’occasion de visiter un musée exceptionnel. Celui-ci est situé à proximité du pont pagode et en face de la congrégation cantonaise. Il s’agit du musée de la culture Sa Huỳnh, une culture très ancienne qui est antérieure à la culture du  Champa et qui s’est développée tout le long de la côte du centre du Vietnam (de la région Thừa Thiên Huế jusqu’à Ninh Thuận, Bình Thuận)   à la même époque de la culture de Đồng Sơn. Le point culminant de la culture Sa Huynh se trouve souvent dans les jarres funéraires  grâce à l’abondance de fer.

Rừng dừa 7 mẫu (Hội An)

Rừng dừa 7 mẫu (Hội An).
La forêt des cocotiers de 7 acres.
 
 
 
Người cư dân ở Hôi An thường gọi khu vực sinh thái nầy là rừng dừa Cẩm Thanh. Nó nằm cách xa trung tâm Hội An 3 cây số và được xem là điểm tham quan mà du khách không thể bỏ qua khi đến Hội An. Du khách còn được xem trò biểu diển chèo nghệ thuật với thuyền thúng.
 
Les habitants de Hoi An sont habitués à appeler cette zone écologique sous le nom de la forêt de cocotiers de Cẩm Thanh. Celle-ci est située à 3 kilomètres du centre de Họi An et est considérée comme une destination touristique incontournable lors du passage à Hội An. Le touriste a l’occasion de voir la démonstration de l’art de ramer d’une manière artistique avec le panier en osier rond.

 

 

 

Tam Kỳ (Quảng Nam)

 

Tam Kỳ (Quảng Nam) 

Version française

Ngày 14/7 lúc  5 giờ sáng, tụi nầy phải lấy xe taxi ra ga Diêu Trì gần quốc lộ số 1 để lấy chuyến  tàu hỏa 6 giờ sáng đi Tam Kỳ. Tuy rằng thành phố nầy chỉ cách xa Quy Nhơn cở khoảng chừng 250 cây số thế mà phải mất 5 tiếng nếu đi xe đò còn không thì phải mất 3 tiếng đồng hồ nếu lấy tàu hỏa. Vì vậy tụi nầy phải chọn đi tàu hỏa vì thời gian eo hẹp nhưng cũng khá gian nan cho chuyến  đi nầy. Tụi nầy cũng gặp nhiều trở ngại không ít. Trước hết lúc lên toa xe thì giường nằm mà tụi nầy chọn là loại giường nằm ở tầng thứ ba  tức là ở tầng chót.  Không có thang chi cả, phải nhóng người  qua  cạnh giường để có  trớn mà leo lên mà thôi.  Thật tình mà nói các người cao tuổi như mình không thể luôn, cả cháu của mình nó thấy cũng không tiện vì phải co chân khi lên nằm.  Tụi nầy đành  đứng thôi ở hành lang vì toa quá nhỏ để chứa mọi người cùng hành lý. Nhưng một lúc sau lại thấy có một cô gái ngồi ở hành lang với cái ghế đẩu nên mình mới hỏi ở đâu mà cô nầy tìm được cái ghế nầy vậy.  Cô nầy đáp vì chuyện gia đình nên  muốn được đi chuyến tàu nầy nên đành phải mướn ghế đẩu.  Thừa có cơ hội nầy mà mình mới đề nghị với cô bé nầy lấy chổ của tụi nầy mà nằm để nhường lại cho tụi nầy cái ghế đẩu. Nhờ đó mà tụi nầy biết cái mẹo nầy mới có đuợc hai ghể đẩu ngồi ở hành lang suốt chuyến đi tàu hỏa. Thật ra muốn đi Tam Kỳ từ Bình Định  du khách phải buộc lòng lấy máy bay đi ra Đà Nẵng rồi từ đó lấy xe taxi  60 cây số để đi xuống Tam Kỳ ở phiá nam Đà Nẵng nhưng rất mất nhiều thời gian còn không thì phải lấy tàu hỏa mà thôi. Đến Tam Kỳ vào lúc 11 giờ trưa, ra ga tụi nầy cũng gặp một trở ngại khác là  khó tìm được một xe taxi để đưa tụi nầy về khách sạn ở cũng gần quốc lộ số 1. Lý do là  tiền di chuyển thu được quá ít ỏi nên các chú tài xế không chịu đi. Cũng may là lúc đó có một cô em gái  lái taxi cho mình biết lý do về sự từ chối của các chú tài xế nầy và đồng ý đưa tụi nầy về khách sạn. Chính nhờ đó mà tụi nầy  mới đề nghị em  nầy đưa tụi nầy đi ăn mì  Quảng và đi tham quan thành phố Tam Kỳ nhất là làng bích họa ở Tam Thanh. Đây là một làng chài ở ven biển  cách trung tâm Tam kỳ khoảng 7 cây số. Lúc trước làng nầy không ai biết đến cả. Nhờ các bàn tay khéo léo của các họa sĩ Việt và Hàn Quốc với tài năng sáng tạo mà làng chài nầy trở nên một địa điểm thu hút độc đáo với các bức tranh đầy màu sắc  sống động ở trên tường. Nó không chỉ mô tả lại cuộc sống thường nhật của cư dân chài ở đây mà còn đem lại cho du khách có được một không gian mơ mộng lạ thường. Ngoài ra, tụi nầy còn được đi tham quan bãi biển Tam Thanh với cảnh đẹp bình  dị và  nơi có  tượng đài về bà mẹ Việt Nam anh hùng lớn nhất ở  Đông Nam Á. Rất tiếc là tụi nầy chỉ ở đây ngày hôm tới vì ngày hôm sau 15/7 tụi nầy đi Hội An.

Version française

Le 14 juillet à 5h du matin, nous sommes obligés de prendre un taxi jusqu’à la gare  Diêu Trì située  près de la route nationale numéro 1 pour aller à  Tam Kỳ avec le train venant de Saïgon à 6h. Bien que cette ville ne soit qu’à environ 250 kilomètres de Quy Nhơn, cela prend quand même  5 heures en bus ou 3 heures en train. Par conséquent, nous devons choisir de prendre le train en raison du temps limité dont nous disposons mais c’est assez ardu pour nous durant le voyage en train.  Nous y avons rencontré pas mal d’obstacles.

D’abord, la couchette  que nous avons choisie est celle située au  troisième étage dans le train. Il n’y a pas d’échelle.  Il faut se tenir sur le bord du lit de chaque étage pour avoir assez d’élan et pour pouvoir se retrouver dans la couchette désirée. Honnêtement, les personnes âgées comme moi ne peuvent pas s’y mettre, y compris mon petit-fils car il est obligé de plier les jambes une fois  allongé dans la couchette. Nous étions obligés de renoncer à nous y installer. Nous préférions de rester debout dans le couloir du train car le wagon est assez petit pour les voyageurs (6 personnes)  et leurs bagages. Mais peu de temps après,  j’ai vu une fille assise dans le couloir avec un tabouret. Alors j’étais venu pour lui demander: comment elle avait trouvé ce tabouret ? Elle me répondit qu’à cause d’une affaire  familiale, elle voulait prendre ce train à tout prix. C’était pourquoi  elle devait louer ce tabouret. Profitant de cette opportunité, je proposai à cette fille de prendre  ma couchette et de me céder le tabouret. Grâce à cette astuce, nous avons réussi à avoir deux tabourets dans le couloir pour terminer notre voyage dans le train. En fait, si on veut se rendre à Tam Kỳ à partir de la province de  Binh Đinh, il vaut mieux prendre l’avion pour aller à Đà Nẵng puis prendre un taxi pour aller  à la ville  Tam Kỳ située à peu près de 60 km  au sud de la ville  Đà Nẵng. Mais cela nous prend beaucoup de temps. Arrivés à la gare de Tam Kỳ à 11h, en sortant de la gare avec nos valises,  nous allons  rencontrer également un autre obstacle.  Il nous est difficile de trouver un taxi pour nous emmener à l’hôtel  où j’ai réservé la chambre. La raison principale justifiant le refus des chauffeurs de taxi est la somme dérisoire qu’ils vont recevoir en nous emmenant à l’hôtel car ce dernier  est situé pas loin de cette route nationale numéro 1. Heureusement, à ce moment-là, il y a une conductrice de taxi tentant de nous expliquer la raison de ce  refus. Elle accepte  de nous emmener également  à l’hôtel. Lors de la conversation, nous lui demandons de nous emmener  dans un bon restaurant pour  goûter le plat traditionnel de la région Quảng Nam (Mì Quảng) et de nous faire visiter le  village des  fresques de Tam Thanh.  Ce dernier est  un village côtier de pêcheurs situé  à environ 7 kilomètres du centre-ville  de Tam Ky. Dans le passé, ce village n’était pas connu du public. Grâce aux mains habiles des artistes vietnamiens et coréens dotés d’un esprit de créativité et d’ingéniosité, ce village de pêcheurs devient ainsi une attraction unique avec des peintures aux couleurs vives sur le mur. Il  retrace non seulement la vie quotidienne des pêcheurs d’ici mais il offre également aux visiteurs un espace de rêve incroyable. De plus, nous  avons également la chance de visiter la plage de Tam Thanh avec sa beauté idyllique et l’endroit où a été édifié le plus grand monument de la mère vietnamienne héroïque en Asie du Sud -Est. Malheureusement, nous  étions ici  pour le jour de notre arrivée car le lendemain,  le 15 juillet, nous partirons pour Hội An.

 

 

Bảo tàng Bình Định (Quy Nhơn)

Bảo tàng Bình Định

Version française

Được xây dựng vào năm 1969 bảo tàng Bình Định tọa lạc ở 26 Nguyễn Huệ, thành phố Quy Nhơn ngày nay. Ở đây các tượng và các bức phù điêu  của dân tộc Chămpa  mà các nhà khảo cứu Việt Nam và ngoại quốc đã tìm thấy trong các cuộc khai quật được chọn lọc lại và phải phù hợp với nội dung tính chất của bảo tàng trước khi được trưng bày ở nơi nầy cùng với các hiện vật khác có tính chất  tiêu biểu cho vùng đất nầy qua các thời kỳ lịch sử. Có thể nói đây là một bảo tàng tổng hợp có nhiều gian phòng cùng nhiều chủ đề khác nhau như văn hóa Chămpa, con người và đất nước, các nghề truyền thống, các tính ngưỡng cổ truyền  vân vân…, mang lại cho du khách có cái nhìn tổng quan về văn hoá Bình Định.

Galerie des photos

Musée de Bình Định

Étant édifié en  l’an 1969, le musée de Binh Đinh est situé au numéro 26 Nguyễn Huệ de la ville de Quy Nhơn. Ici, les sculptures et les bas-reliefs du peuple cham que les chercheurs vietnamiens et étrangers ont trouvés lors des fouilles archéologiques, sont sélectionnés et doivent correspondre  au contenu et à la nature de ce musée avant d’y être exposés avec d’autres artefacts typiques de cette région à travers les périodes historiques. On peut dire qu’il s’agit d’un musée général avec de nombreuses salles et de nombreux thèmes différents tels que la culture du Champa, les gens et leur pays, les croyances anciennes, les  métiers traditionnels etc.. , ce qui permet au visiteur d’avoir un aperçu général sur la culture de  Bình Định.

 

Les tours Bánh Ít (Bình Định)

Các tháp Bánh Ít (Bình Định)

Version française

Theo sự nhân xét của nhà nghiên cứu Pháp Jean Boisselier, những khu đền của người Chàm thường được dựng lên ở các ngọn đồi. Đó là lý do tại sao các tháp  Bánh Ít cũng không ngoài lệ được trông thấy  nằm  trên một ngọn đồi tại thôn Đại Lộc, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Muốn thấy hết vẽ đẹp của các tháp nầy thì phải đi theo con đường xưa từ phiá đông mà đi lên chớ nếu không thì theo quốc lộ 19  từ Quy Nhơn mà ra đều nằm về phiá tây khi đến thăm khu vực nầy. Tụi nầy đến tham quan vào ngày thứ nhì lúc trưa trời rất u ám hôm đó  và mua hai vé trước cổng, mỗi vé là 15.000 đồng. 

Các tháp  Bánh Ít  nầy  nằm trền đồi nên tụi nầy phải đi bộ mất cũng 15 phút ngày hôm đó nhưng không mệt chi cho mấy vì trời sắp chuyển mưa. Khu tháp Bánh Ít ít có du lịch so với các nơi khác ở trong thành phố vì nó  quá xa thành phố Quy Nhơn 21 cây số.  Trong lúc đi bộ lên dốc  thì nghe văng vẳng tiếng kinh phật phát ra ở đâu gần đó, chắc có lẽ  có chùa gần đó. Quần thể  Bánh Ít gồm có hiện nay  4 tháp mà  hai tháp nhỏ  còn nằm ở  vòng ngoài: một tháp cổng và một tháp nằm ở  trục Đông-Nam thì  có  nhiều  cụm hình   hoạ  tiết chạm khắc được sắp xếp tựa như  các quả  bầu nậm ở trên mái  tháp với 4 cửa ngoảnh về 4 hướng.  Du khách muốn lên tầng  trên  để  đến tháp chính  thì  phải mượn   tháp cổng (hay gopura). Theo sự nhận xét của nhà nghiên cứu Việt Ngô Văn Doanh thì còn có dấu tích của một toà nhà dài dọc theo trục Đông-Tây đối diện với ngôi tháp chính. Nhà nghiên cứu Pháp Henri Parmentier cho rằng toà nhà nầy có ba gian và một  mái  ngói tựa như toà nhà dài trên cột (mandapa) được thấy ở tháp Pô Nagar (Nha Trang). Rất hợp lý với mình vì đây là ngôi nhà tĩnh tâm mà người Chàm cần phải ngồi thiền và cầu nguyện trước khi thực hiện nghi lễ cấp sắc ở tháp thờ chính. Ở tháp cổng có  thể nhìn  thấy được tháp chính qua cửa sau đứng từ trong tháp cổng. Đến nơi nầy, gió thổi lồng lộng không ngừng. Bởi vậy mỗi lần chụp hình xong là mình lại cất máy chụp vào túi ba lô liền vì sợ bụi làm hư máy nhất là còn đi chụp nhiều nơi khác lắm trong cuộc hành trình. Mình nhớ là đến trên cao trước đền tháp chính, mình vội vã lấy máy ra đeo vào cổ để chụp hình vì thấy quang cảnh quá đẹp nhất là ở gần đó có tháp mái cong hình yên ngựa  (koshagraha) còn nguyên vẹn  đã có  10 thế  kỷ, quá thơ mộng  như được thấy trên trống đồng. Nhưng khi đeo máy ảnh vào cổ rồi thì không thể nào chụp được  vì dây đeo máy ảnh cứ vướng xiết cổ mình hoài mà mình cố tình quay ngựợc lại  để  nới cái  dây ra nhưng vô phương hiệu quả.  Lúc đó mình biết phải làm gì rồi, đọc thầm trong bụng 2 câu kinh của đạo Phật  và tự  hứa chụp cảnh chớ không có ý định quấy nhiễu chi cả thì sau đó mình mới tháo dây ra dễ dàng được và đeo vào cổ lại để chụp thoải mái. Mình mới nhận thấy  nơi nầy rất  linh thiêng và chắc chắn có năng lượng nào có khả năng khuấy rối mình, không phải là  nơi du lịch như mọi nơi khác. Đây là chuyện tâm linh, tin hay không là tùy cách suy nghĩ lý luận của mỗi người nhưng riêng mình khó mà giải thích được nhất là mình đã quen lối  suy luận  theo khoa học đã từ  lâu năm khi còn làm việc ở  trung tâm nghiên cứu của Pháp.

Cháu Jeremy thì  hôm đó chả có thấy chi cả nó lung tung chạy nhảy leo trèo trên các bậc thang của các tháp ở trên đồi. Đây là một cảm xúc mà mình khó quên được nhưng phải kể lại chớ không có mê tính và sợ  hải chi cả. Ở đời có nhiều sự kiện  mình được chứng kiến  nhưng không thể giải thích khoa học được cả. Chỉ chấp nhận miễn cưỡng mà thôi. Khu vực nầy không biết có bao nhiêu tháp chắc phải có nhiều hơn 4 tháp vì nhận thấy nó có nhiều đóng gạch vụn rải rác khắp  nơi và nó có nét đẹp huyền bí lắm. Các tháp nầy được nầy được dựng vào cuối thế kỷ XI, đầu thế kỷ XII dưới thời trị vì của hai quốc vương Harivarman IVV và mang phong cách dịch chuyển giữa phong cách Mỹ Sơn A1  và phong cách Bình Định (hay Tháp Mắm). Tháp chính nó có chiều cao gần 20 thước. Lối đi vào nhô ra gần 2 thước  có  hình mũi giáo. Chính  ở  giữa vòm có phù điêu mặt Kala. Chính ở đây, ngày xưa có bức tượng đá thần Shiva bằng sa thạch hồng  được người Chàm sùng bái nay được lưu giữ ở bảo tàng Guimet (Paris) mà mình có dịp chụp hình được lúc đến tham quan.

Còn tháp hỏa hình yên ngựa không xa chi cho mấy, nằm phía bên tay trái của tháp chính nếu từ tháp cổng đi lên. Đây cũng là nơi chứa các đồ vật sùng bái.  Các cửa sổ của nó quay về hướng Đông – Tây và cửa chính của nó luôn quay về hướng Bắc.

Mình cũng thắc mắc tự hỏi tại sao kêu là các tháp nầy là các tháp Bánh Ít.? Theo sự giải thích của các  cư dân ở nơi nầy thì nhìn từ đằng xa các tháp nầy nhô ra trên đồi như  các bánh ít trong một đặc sản của xứ võ thuật  Bình Đinh.  Theo một tương truyền khác  thì có một thời có một quán của bà Thị Thiện bán bánh ít ở dưới chân đồi.  Các tháp nầy mang được nhiều tên lắm nhưng dưới thời  thuộc địa thì người Pháp vẫn gọi là Tháp Bạc (hay Tours d’Argent) mà không có sự giải thích nào cả. Không những là một kiệt tác độc đáo trong nghệ  thuật kiến trúc của người Chămpa, các tháp Bánh Ít nầy còn thể  hiện được chứng  cớ xác thực  của thời kỳ vàng son  của vương quốc Champa trên bán đảo Đông Dương.

Version francaise

Les tours Bánh Ít

Selon le chercheur français Jean Boisselier, les temples  des Chams  ont été souvent érigés sur  les collines.  C’est pourquoi les tours de Banh Ít ne font pas exception à la règle. Elles sont situées sur une colline du village de Đại Lộc de la  commune de Phước Hiệp dans le district de Tuy Phước de la  province de Bình Định. Si on veut  voir toute la beauté de ces tours, il faut prendre l’ancienne route dans la direction Est sinon on doit suivre normalement la route nationale  19  à partir de la ville de Quy Nhơn  dans la direction Ouest lors de la visite de ce domaine.  Nous y étions  venus le deuxième jour à midi. Il faisait très nuageux ce jour-là et nous devions  acheter deux billets devant l’entrée de ce domaine,  chaque billet  coûtant 15 000 piastres.

Du fait que les tours Bánh Ít étaient   situées sur la colline, nous devions marcher à pied mais nous ne sentions pas trop fatigués ce jour là  car il était sur le point de pleuvoir. Le domaine des tours  Bánh It est  moins fréquenté par rapport à d’autres lieux touristiques  de la ville parce qu’il se trouve trop loin à 21 kilomètres de la ville de Quy Nhơn. En montant la pente, nous entendions les  citations des sutras bouddhiques venant de quelque part à proximité de ce  domaine. Il y a probablement une pagode tout proche. Le domaine de Bánh Ít se compose aujourd’hui de 4 tours dont deux sont plus petites et situées dans l’enceinte extérieure: une tour-portique et une autre tour ayant 4 portes orientées vers les quatre directions. Située sur l’axe  Sud- Est,  cette dernière comporte  plusieurs groupes de motifs de sculpture  disposés comme des petites calebasses rangées sur son toit. Le visiteur désirant monter à l’étage supérieur pour accéder à  la tour principale doit emprunter la tour-portique (ou gopura).

Selon le  chercheur vietnamien Ngô Văn Doanh, il existe des vestiges  d’un bâtiment assez grand s’étendant le long de l’axe orienté Est-Ouest. Le chercheur français Henri Parmentier a déclaré que ce bâtiment possédait trois compartiments et un toit comme le long bâtiment sur colonnes (mandapa) trouvé dans la tour Pô Nagar à Nha Trang. C’est très logique pour moi car il s’agit d’un édifice  où les Chams ont besoin de faire la prière et la méditation avant d’effectuer la cérémonie rituelle à la tour principale (ou kalan). À l’intérieur  de la tour-portique, on peut voir la tour principale à travers sa porte arrière. Une fois arrivés, nous constations que le vent souffla sans arrêt.

C’est pour cela que lorsque  je prends une photo, je suis habitué à  ranger immédiatement mon appareil de  photo dans le sac à dos de peur qu’il ne fonctionne plus car j’ai besoin de rendre visite à d’autres endroits durant mon voyage. Je me rappelle qu’à mon arrivée à l’étage supérieur devant le kalan principal, je me dépêchai de faire sortir précipitamment mon appareil de photo et je le mis tout de suite autour de mon cou afin de prendre des clichés car je trouvai  magnifique le  paysage aux alentours de ce kalan, surtout la présence d’une tour à toit incurvée en forme de selle (koshagraha) pratiquement  intacte depuis 10 siècles. Elle est  trop poétique comme on la voit sur les tambours de bronze.

Une fois la courroie de l’appareil photo mise sur le cou, je n’arrivai pas à faire des photos car elle continua à me gêner énormément malgré ma tentation  de la desserrer dans le sens contraire sans avoir l’effet escompté.  Juste à ce moment là je m’aperçus qu’il fallait absolument faire quelque chose en murmurant silencieusement  les deux phrases du sutra bouddhique que je connais par cœur et en promettant de faire des photos sans aucune intention de me montrer dérangeant à ce lieu. J’arrivai à enlever tout de suite la courroie hors de mon cou avec une facilité étonnante et je la remis sans difficultés pour continuer à faire des photos à ma guise. Je vins de réaliser que ce lieu était « sacré » et il avait des esprits ou des énergies puissantes  malveillantes capables de m’embêter. Il n’est pas un lieu touristique comme ailleurs. C’est une question spirituelle. « Avoir la croyance en soi ou non », cela dépend de la façon de penser et de raisonner de chacun, mais il m’est difficile de donner une explication d’autant plus que j’ai été habitué au raisonnement scientifique pendant longtemps lorsque je travaillais encore au CNRS.

Mon neveu Jérémy ne le vit pas du tout ce jour-là. Il continua à sauter et à grimper les escaliers des  tours  de la colline. C’est une émotion que je ne peux pas oublier mais je dois la raconter sans avoir l’intention d’être superstitieux et d’avoir peur de quelque chose d’étrange.  Dans la vie, il y a de nombreux évènements dont j’ai été témoin mais je ne réussis pas à me satisfaire en cherchant une explication scientifique. Je dois l’accepter à contre cœur.

Cette zone devrait  avoir  plus de tours  car on trouve beaucoup de gravats éparpillés partout et elle a une beauté très mystérieuse. Ces tours furent construites à la fin du XIème siècle et  au début du XIIème siècle sous les règnes de deux rois Harivarman IV et V. Elles portaient le style de transition  entre le style de Mỹ  Son A1 et le style Bình Định (ou Tháp Mắm).

La tour  principale (ou kalan) a une hauteur de près de 20 mètres.  Son entrée dont la partie saillante dépasse de près de 2 mètres est en forme de lance. Au milieu de son dôme se trouve un visage de Kala en relief. C’est à l’intérieur de ce kalan que se trouvait autrefois une statue en grès rose de Shiva, vénérée par les Champs et  conservée aujourd’hui  au musée Guimet (Paris).  J’ai eu l’occasion de la photographier lors de l’une de  mes visites. La tour de feu  en forme de selle n’est pas située  très loin sur le côté gauche de la tour principale si on vient de la tour-portique. C’est le lieu de dépôt  des objets de culte. Ses fenêtres sont orientées vers la direction est-ouest et sa porte principale est toujours orientée vers le nord.

Je me demande aussi pourquoi ces tours sont appelées « tours Bánh Ít » ? Selon l’explication des habitants d’ici, ces tours sont visibles de loin sur la colline comme des petits gâteaux de forme pyramidale qu’on retrouve dans une spécialité du pays des arts martiaux de Bình Định. Selon une autre légende, il y eut une époque où il y avait une dame de nom  Thi Thiện vendant ces petits gâteaux Bánh Ít  au pied de la colline. Ces tours portent de nombreux noms mais durant  la période coloniale, les archéologues français les appelaient sous le nom des tours d’Argent sans donner aucune explication.  Étant non seulement  aujourd’hui un chef-d’œuvre unique dans l’art architectural du peuple du Champa,  les tours Bánh It témoignent aussi  de l’âge d’or du royaume Champa sur la péninsule indochinoise.

Tháp Nghinh Phong (Tuy Hoà)

Tháp Nghinh Phong (Tuy Hoà)

Version française

 

Ở phiá  bắc của Tuy Hoà điểm  chót mà tụi nầy đến tham quan đó là tháp làm bê tong cốt thép « Nghinh phong » vì th áp nầy nó nằm ở gần trung tâm thành phố.  Đây là một biểu tượng của du lịch Phú Yên, lấy ý tưởng từ gành đá đĩa và truyền thuyết Âu Cơ Lạc Long Quân  và được  tọa lạc ở ngã tư đường Nguyễn Hữu Thọ và Độc Lập. Nhờ cấu trúc xây dựng, tháp nầy có được ở chính giữa hai cột cao, một cao 35 thước tượng trưng cha Lạc Long Quân và một cột 30 thước tượng trưng Mẹ Âu Cơ. Ngoài ra còn có hai phần, mỗi phần có 50 khối đá liên kề nằm dưới chân của hai cột cao và  tượng trưng các con.  Ở  giữa hai cột tháp cao thì  chỉ có  khoảng trống chứa vừa đủ hai nguời đứng  có thể  tiếp nhận các âm thanh thiên nhiên khác nhau từ gió qua các khe, những bản nhạc không bao giờ lập lại và được  trang bị  bởi một hệ thống chiếu sáng độc đáo kết hợp với công nghệ Tesla, 3D mapping và laser cường độ cao để gây ra các hiệu ứng ánh sáng một khi hoàng hôn phủ xuống ở quảng trường.

 

Galerie des photos

La tour Nghinh Phong (à recevoir le vent) 

Au nord de la ville de Tuy Hoà, le dernier site que nous avons visité est la tour en béton armé « Nghinh Phong ( la tour à recevoir le vent) » car elle est tout proche du centre la ville. C’est le symbole touristique de la ville trouvant toute son inspiration dans  la falaise naturelle Đá Đĩa et la légende de là mère Âu Cơ et du père Lạc Long Quân  et il est à l’intersection de la route Nguyễn Hữu Thọ et celle de l’Indépendance. Grâce à sa structure de construction, la tour  comporte à son milieu deux hautes colonnes: l’une mesurant 35 mètres de haut  représente le père L ạc Long Qu ân et l’autre 39 mètres la mère Âu Cơ. De  plus  elle  possède une cinquantaine de blocs empilés les uns sur les autres aux pieds de ces deux hautes colonnes, représentant les enfants. Entre les deux hautes colonnes se trouve un espace vide pouvant contenir deux personnes debout recevant tous les sons naturels différents issus du vent à travers les interstices, les chansons qui ne se répètent pas et muni d’un système d’éclairage unique  avec la technologie Tesla, une cartographie 3D et un laser de haute intensité  provoquant des effets de lumière à la tombée de la nuit à la place « Nghinh Phong ».