Musée de l’Acropole (Athènes, Grèce)

Version française

Đây là bảo tàng gồm chứa tất cả các hiện vật cổ khám phá  được từ đồi Acropole. Có ít nhất 300 kiệt tác thực sự ở nơi nầy. Ở ngay lối vào ở bảo tàng này, sàn kính trong suốt cho phép du khách có thể nhìn thấy được các cuộc khai quật khảo cổ mà được thực hiện trong nhiều năm qua. Chúng ta còn có thể thấy các bản sao của năm tượng phụ nữ (cariatides) dùng cho sự hỗ trợ điện thờ Erechtheion, được xây dựng trên phần đất linh thiêng nhất của đồi Acropole. Tại đây, bạn có thể chiêm ngưỡng khung cảnh ngoạn mục của đền Parthenon nhưng rất khó để bạn  chụp ảnh do số lượng du khách quá nhiều trong mùa hè này và lệnh cấm được áp dụng ở một số phòng liên quan đến việc triển lãm các bức tượng tuyệt đẹp. Mặc dù vậy,rất hữu ích  cho du khách khi biết cuộc sống hàng ngày của người Athen  ở  thời đó, sau khi đến tham quan Acropolis và Parthénon.

C’est le musée abritant toutes les artefacts  provenant  uniquement  de la colline d’Acropole. On y recense au moins 300 chefs-d’œuvre véritables. À l’entrée de ce musée, le sol en verre transparent permet au visiteur d’avoir une vue sur les fouilles archéologiques entamées au fil des années. On peut voir  les reproductions de cinq cariatides (les statues de femmes) soutenant l’Érechthéion, le sanctuaire édifié sur la partie la plus sacrée de l’Acropole. C’est ici qu’on peut avoir une vue imprenable sur le Parthénon mais il est difficile de faire des photos vu le nombre impressionnant de visiteurs durant cet été et l’interdiction imposée dans certaines salles concernant l’exposition  des superbes statues. Malgré cela, il s’avère utile de connaître la vie quotidienne des Athéniens de cette époque après avoir visité l’Acropole et le Parthénon.

Symbole d’Athènes

Athènes , capitale de la Grèce (Thủ đô Hy Lạp)

Ses églises byzantines magnifiques

Version française

Athènes không những là thủ đô của đất nước Hy Lạp ngày nay mà còn là trung tâm văn hoá ở thế kỉ thứ V trước Công Nguyên. Trong thời kỳ hoàng kim, thế giới Hy Lạp gồm có nhiều thành bang thì Athènes được xem là thành bang quang trọng nhất và được giữ vai trò chủ đạo trong liên minh hợp nhất Delos  chống lại  đế chế  Ba Tư  qua các trận chiến hiển hách như MarathonSalamine nhưng sau đó vì tham vọng của Athènes dưới thời Périclès  nên dẩn đến  chiến tranh Péloponèse kéo dài gần 30 năm giữa Athènes và các thành bang khác được Sparte dẫn đầu khiến thành bang Athènes sau đó bị bại trận từ khi thành bang có dịch bệnh và  suy yếu khiến mất đi  về sau nền độc lập qua trận chiến  Chaeronea với vuơng quốc Macédoine của Philippe II ở phiá bắc Hy Lạp. Từ đó  quốc gia nầy trở thành bá chủ về sau với  Alexandre Đại Đế. Từ lâu nay, Athènes được coi là nơi khai sinh ra nền văn minh phương tây. Athènes thu hút hàng triệu du khách mỗi năm vì đây là thành phố có bề dày lịch sử  nhất là có một thời  kỳ bị các đế quốc Đông La Mã (Byzance) và Ottoman  cai trị  nên  rất có nhiều di tích và các nhà thờ byzantine tuyệt vời để tham quan. Du khách đến Athènes thường cư trú ở khu phố cổ Plaka tiện bề cho việc mua sắm vả lại giá cả khách sạn cũng phải chẳng. Bạn ở khu nầy thì ít mất thì giờ, có thể đi bộ  khi đi tham quan  và nếu bạn không  ở nhiều ngày ở Athènes. Khu náo nhiệt có nhiều quán ăn nhất là khu của quảng trường Monastiráki, nơi có một nhà tu viên nhỏ  được tọa lạc ở phiá bắc dưới chân đồi   của đền Acropole và nơi có trạm tàu điện ngầm cùng tên nếu bạn muốn đi métro.  Cũng dễ đi thôi chỉ có 3 tuyến đường mà thôi chớ không có thể lạc hướng như ở Paris. Ẩm thực Hy Lạp cũng quá tầm thường không có phong phú như ẩm thực Pháp hay Việt. Đời sống rẻ hơn ở Paris nhiều lắm, lương  tối thiểu là 7, 8 trăm euros một tháng theo lời  kể lại của một cháu sinh  viên phục vụ  ờ nhà hàng Hà Nội. Nhà hàng nầy  có những món ăn rất ngon và rẻ như phở, bánh cuốn hay gỏi cuốn và được đánh giá bởi Tripadvisor với số điểm 4,5  ở khu Syntagma. Khu nầy  có  quốc hội Hy Lạp nên  có cuộc diễu hành của các lính bộ binh evzone hằng ngày.  Người dân Hy Lạp cũng rất hiền hoà và hiếu khách. Ngược lại cũng như Paris ở các khu đông du khách thường có trò móc túi nên phải đề cao cảnh giác.

Version française

Athènes n’est pas non seulement  la capitale de la Grèce, mais aussi un centre culturel au Vème  siècle av. J.C.  A la période de l’âge d’or, le monde hellénistique était constitué de nombreuses cités-états parmi lesquelles  Athènes était considérée comme la cité-état la plus importante et jouait un rôle majeur  dans la ligue de  Délos contre l’empire perse à travers les batailles éclatantes ayant eu lieu à  Marathon et à Salamine, mais ensuite à cause des ambitions démesurées d’Athènes sous la gouvernance de Périclès, cela conduisait  à la guerre de  Péloponnèse durant  près de 30 ans entre Athènes et d’autres cités-états dirigées par Sparte. Étant affaiblie par l’épidémie  de  la peste détruisant ainsi un tiers de la population, Athènes dut accepter finalement  la reddition  et  perdit plus tard   son indépendance dans la bataille de Chaeronea contre le royaume de Macédoine de Philippe II dans le nord de la Grèce. Depuis lors, ce dernier ne tarda pas à imposer son hégémonie sur l’ensemble de la Grèce avec son fils  Alexandre le Grand. Athènes est considérée depuis longtemps  comme le berceau de la civilisation occidentale. Athènes attire des millions de visiteurs chaque année car c’est une ville chargée d’histoire. Il y a une  époque  où elle était annexée et  gouvernée par les empires byzantins (Byzance) et ottomans. C’est pourquoi il y a donc de nombreux vestiges historiques et des églises byzantines magnifiques à visiter.

De passage à Athènes, le touriste  peut se loger dans la vieille ville de Plaka. C’est très pratique  pour faire le shopping. Les prix des hôtels sont également raisonnables. Si vous restez dans ce quartier, cela vous prend moins de temps  avec la marche à pied pour visiter les sites historiques et si vous pensez surtout à ne pas rester longtemps à Athènes. Le quartier le plus animé et bondé de restaurants reste la  place Monastiráki, où on trouve non loin  un petit monastère situé au nord dans les contreforts du temple de l’Acropole. C’est aussi ici que vous trouvez la station de métro  portant le  même nom si vous voulez tenter de prendre le métro. C’est aussi facile de le  faire car il n’y a que 3 lignes ferroviaires. Il est difficile de s’y perdre comme à Paris. La cuisine grecque  n’est pas très fameuse. Elle n’est pas très copieuse comme la cuisine française ou vietnamienne. Le niveau de vie est beaucoup moins cher qu’à Paris.  Le salaire minimum est de 700 à 800 euros par mois, ce que m’a rapporté un jeune étudiant  travaillant  dans un restaurant vietnamien de nom Hanoï. Ce dernier nous propose des plats très  délicieux et à bon marché comme le phở, la crêpe vietnamienne  ou le rouleau de printemps.  Il est très apprécié  par Tripadvisor avec une note  de 4,5 à Syntagma. Celui-ci  abrite également le parlement grec devant lequel a lieu le défilé quotidien  des evzones. Les Grecs sont aussi très gentils et hospitaliers. En revanche, comme à Paris dans les zones touristiques surpeuplées, il faut se méfier des pickpockets et  faire preuve de prudence.

L’archipel de Santorin (Grèce)

Version française

Nằm  ở biển Égée, thuộc về quần đảo Cyclades cách xa lục địa Hy Lạp 186 cây số  về phía đông nam, quần đảo Santorini thực sự được tạo thành từ năm hòn đảo núi lửa, trong đó lớn nhất là đảo Santorini. Vào thế kỷ 13, người dân của thành quốc Venise  đặt cho hòn đảo này cái tên Santorini liên quan đến Thánh nữ Irene, tu nữ Irini đã tử vì đạo ở phương Đông dưới triều đại của Hoàng đế Diocletian vào đầu thế kỷ thứ 4, người mà các thủy thủ nước ngoài gọi là Santa Irini. Cái tên này đã  biến chuyển qua nhiều năm thành Santo Rini để trở thành ngày nay là Santorini. Sau khi quần đảo nầy được sáp nhập vào Hy Lạp vào năm 1840, nó mang tên cổ là Thera nhưng cái tên Santorini vẫn được nhiều người ưa thích. Sự ra đời của Santorini còn có nhiều bí ẩn về nó. Santorini có thể là vị trí được kể lại trong huyền  thoại về Atlantis, thành phố Hy Lạp đã biến mất dưới nước và lấy tên nó cho Đại Tây Dương. Do đó, viên ngọc  của quần đảo Cyclades có thể là Pompéi của biển Égée được kể lại trong các tác phẩm của nhà triết học Plato của Hy Lạp cổ đại.

Thành phố chính của đảo Santorini tên là Théra cao 300m so với mực nước biển, đảo nầy thực chất là một ngọn núi lửa cổ đại. Điều gây ấn tượng cho du khách đến Santorini là phong cách kiến ​​trúc của nó được nổi bật bởi tất cả những ngôi nhà màu trắng và xanh trên vách đá. Nhiều quán cà phê nằm trước biển.  Du khách có thể vừa nhâm nhi ly cốc-tay vừa ngắm hoàng hôn từ  thành phố  Théra hay tuyệt vời  hơn nữa là ở ngôi làng Oia duyên dáng.

Version française

Situé en mer Egée dans les Cyclades à 186 kilomètres au sud-est de la Grèce continentale, l’archipel de Santorin est constitué en fait de cinq îles volcaniques dont la plus grande est l’île Santorin. Au XIIIème siècle, les Vénitiens donnèrent à cette île le nom de Santorin en référence à Sainte Irène, la sœur  Irini martyrisée en Orient  sous le règne de l’empereur Dioclétien au début du  IVème siècle,  que les marins étrangers ont appelée Santa Irini. Ce nom a évolué au fil des années en  Santo Rini pour devenir  aujourd’hui Santorin. Après le rattachement de l’archipel à la Grèce en 1840, celui-ci reprend officiellement le nom antique de Théra mais le nom de Santorin est toujours largement  employé. La naissance de Santorin est entourée  encore d’un grand mystère. Santorin pourrait être l’endroit raconté dans le mythe de l’Atlantide, la ville grecque ayant eu disparu sous les eaux et donné son nom à l’océan Atlantique. La perle des Cyclades pourrait être  ainsi la  Pompéi de la mer Égée raconté dans les œuvres de Platon de la Grèce antique.

La principale ville Théra de l’île Santorin se trouve à 300m d’altitude. Cette île est en fait un ancien volcan. Ce qui frappe à Santorin c’est son style architectural qui se distingue  par toutes  ses maisons  blanches et bleues sur les falaises. De nombreux cafés se trouvent en face de  la mer. Le touriste peut  siroter un cocktail en regardant le coucher de soleil depuis la ville principale  Théra ou mieux encore au charmant village Oia.

Rùa (Qui)

Rùa (Qui)

Version française

Trong kho tàng thần thoại Việt Nam, chúng ta thường thấy thần hay biến hoá thành rùa. Loại vật sống nầy rất hiếm  ở đất nước ta nhất là rùa có mai mềm ở sông Hồng và được xem coi là một linh vật trong tứ linh (Long, Li, Qui, Phụng). So với ba con vật kia, rùa là con vật duy nhất có thật  trong tự nhiên. Vã lại, nó có tuổi thọ rất  cao và có thể sống trong một thời gian dài không cần thức ăn nên được tượng trưng cho cuộc sống thanh tao thoát tục và thể hiện được sự trường thọ vĩnh cửu. Trong lĩnh vực tâm linh thì rùa được xem là một loại động vật hội tụ trời và đất hay là Âm và Dương. Bụng thì bằng phẳng  nên tượng trưng cho mặt đất (Âm)  còn phần gù (hay mai) của nó thì cho vòm trời (Dương). Nó thường được dân ta xem là một loại vật thiêng biết tiên tri và được thần thánh hóa trong tâm trí của người dân Việt. Dân tộc ta là một trong những dân tộc sống gần sông biển ở vùng Đông Nam Á và phiá nam sông Dương Tử. Bởi vậy  theo sự nhận xét của nhà khảo cứu Pháp Jean Przyluski thì trong các truyền thuyết của các dân tộc nầy thì thường thấy được các loại vật hiển linh của miền sông nước giúp đỡ các vua chúa chống giặc ngọai xâm hay dựng nước mà trong đó có rùa, rồng, rắn hay cá. Ngược lại không có ở trong các truyền thuyết của các dân tộc sống ở lục đia như Trung Hoa và Ấn Độ những loại vật hiển linh nầy.  Bởi vậy rùa thần đã hai ba lần xuất hiện trong truyền thuyết của dân tộc ta. Lần đầu rùa được ghi chép lại trong sách Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp, một tập sách viết bằng chữ Hán thu thập lại những chuyện kỳ lạ ở nước ta, có lẽ có từ đời nhà Trần.

 Sau khi Thục Phán diệt được nước Văn Lang của Hùng Vương, Thục Phán lấy tên là  An Dương Vương và đổi tên nước thành Âu Lạc và xây thành ở đất Việt Thường. Nhưng vua  không thành công trong dự án vì thành nầy đã nhiều lần bị băng lở. Một hôm trên mặt biển hiện lên một  con rùa vàng tự xưng sứ Thanh Giang , nói sõi tiếng người  và biết về tương lai. Nhờ sự giúp đỡ của rùa nên vua xây  thành xong  trong nửa tháng sau khi  Thanh Giang bày kế giết được con yêu quái Bạch Kê Tinh (một con gà trống  tu luyện được nghìn năm thành tinh). Thành nầy rộng hơn ngàn trượng xoán như hình trôn ốc nên được gọi là Loa Thành. Trước khi từ biệt vua thì rùa thần có dặn vua rằng xã tắc an nguy đều do mệnh trời nhưng nếu vua có thể tu đức thì kéo dài được thời vận. Sau đó còn tặng cho vua một cái vuốt để làm lẫy nỏ và để giử thành rồi trở về sông. Nhờ có nỏ thần nầy mà An Dương Vương giử được thành lúc tướng Triệu Đà cử binh sang đánh. Nhưng sau đó bị trúng kế của Triệu Đà mà An Dương Vương mới mất nước về sau khi gả nàng công chúa Mỵ Châu cho Trọng Thủy, con của Triệu Đà.

Rùa vàng còn giúp vua Lý Thái Tông khôi phục lại ngai vàng sau khi Lý Thái Tổ qua đời. Lý Thái Tông lên ngôi nhưng  chưa được bao lâu phải bỏ kinh thành phải ẩn trốn trong một hang động ở Tuyên Quang vì các em của ngài làm phản và tranh giành cướp ngôi (loạn Tam Vương). Rùa vàng hiện lên trong giấc mơ cho ngài biết sẽ giúp ngài lấy lại được ngôi vua. Bởi vậy  sau khi  dẹp loạn và nhớ đến công ơn của rùa nên vua phong cho rùa tước hiệu là Minh Phúc Đại Vương. Cho đến ngày nay còn thấy có miếu thờ rùa vàng tại làng Nghiêm Sơn ở tỉnh Tuyên Quang.

Rùa vàng còn được nhắc đến thời giặc Minh xâm chiếm nước ta ở đầu thế kỷ 15. Một người tên là Lê Thận có một hôm chài được một thanh gươm và rồi đem tặng thanh gươm nầy cho Lê Lợi sau khi ông theo Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa chống giặc Minh cùng Nguyễn Trãi. Sau khi đuổi được giặc Minh, một hôm vua Lê Lợi cưỡi thuyền rồng đi dạo quanh hồ Tả Vọng (nay là Hồ gươm ở Hà Nội) thì tự nhiên giữa hồ nhô lên khỏi mặt nước một con rùa to lớn. Vua thấy lạ nên truyền lệnh cho thuyền đi chậm lại. Rùa không chút chi sợ sệt cả  mà ngóng cổ nói: Bê hạ hoàn gươm lại cho ta để ta đem về cho Long quân.  Chính Long quân giúp ngài  ổn định lấy lại được đất nước. Vua vừa rút thanh gươm ra thì nhanh như chớp rùa hé miệng đớp lấy ngang lưỡi gươm. Rồi rùa lặn xuống nước biến mất. Rùa được xem là cận thần của Lạc Long Quân, người cha của dân tộc Việt trong các truyền thuyết và có nhiệm vụ giúp đỡ luôn luôn các  con cháu Việt tộc.  Từ đó hồ nầy được lấy tên là Hồ Hoàn Kiếm.  

Trong tín ngưỡng dân gian, thường thấy có cặp hạc hay cặp phụng  đứng trên lưng mai rùa ở hai bên cạnh án hương trong các chùa và các đình. Đây là  một cặp biểu tượng cho sự điều hoà Âm Dương. Còn ở Văn Miếu thì có 82  tượng rùa đội bia tiến sĩ trên lưng. Đây là  thể hiện sự trường tồn vì các tên của tiến sĩ được ghi danh từ đời nầy qua đời khác  theo thời gian  mà  còn biểu tựợng cho sức mạnh mà họ có vì họ là hiền tài,  là nguyên khí của quốc gia. Không vua nào không xây dựng chăm lo hiền tài vì khi nguyên khí mạnh thì quốc gia mới được  thịnh vượng. Còn nguyên khí suy thì nước sẽ yếu.

Rùa được xem là loại động vật rất linh ứng nên người Việt cho rằng rùa thường  mang lại sự may mắn cho ai gặp được. Họ hay thường gọi rùa bằng “cụ” và thương hại bản thân của cụ qua câu ca dao như sau:

Thương thay cái kiếp con rùa
Lên đình đội hạc, xuống đình đội bia.

Hiện nay giống rùa khổng lồ nầy được  liệt kê như  cấp cực kỳ nguy cấp trong sách đỏ IUCN từ năm2006 và được biết với cái tên khoa học là Rafetus swinhoei. Đây là loại rùa mai mềm sống ở sông Dương Tử hay ở sông Hồng. Sau khi cụ rùa ở Hồ Gươm qua đời thì trên thế giới hiện nay còn lại ba cá thể, một con đực già sống ở Trung Quốc và ở Việt Nam  một cá thể cái của loài này ở hồ Đồng Mô (Ba Vì) và một cá thể nữa ở hồ Xuân Khanh (Sơn Tây) gần đó. Hy vọng có  cơ hội ghép đôi sinh sản theo cơ quan chức năng bảo tồn nếu cá thể ở hồ Xuân Khanh là con đực còn không thì loại nầy sẽ bị tuyệt chủng trong tương lai.

Galerie des photos

TORTUE

La tortue géante à carapace molle

 Dans le trésor de la mythologie vietnamienne, on voit souvent le dieu de la mer se transformer en tortue marine. Cette espèce aquatique géante  est rare dans notre pays, en particulier la tortue à carapace molle du fleuve Rouge (sông Hồng) et elle  fait partie des quatre animaux au pouvoir surnaturel (dragon, licorne, tortue, phénix). Par rapport aux trois autres animaux, la tortue est le véritable animal existant dans la nature. En outre, elle a une durée de vie plus longue  et peut vivre longtemps sans nourriture. C’est pour cela elle est synonyme de l’évasion de la vie trépidante et de la longévité éternelle.

Dans le domaine spirituel, la tortue est considérée comme  l’animal symbolique de l’union du ciel et de la terre ou du Yin et du Yang. Son abdomen est tellement plat qu’il représente la terre (Yin) et sa carapace représente le dôme du ciel (Yang). Elle est souvent considérée par les Vietnamiens  comme un quadrupède sacré sachant faire des prophéties et elle est sanctifiée dans leur esprit. Celui-ci est l’un des peuples vivant tout près des fleuves et des mers de l’Asie du Sud-est et dans le sud du fleuve Yangzi. C’est pourquoi le chercheur français  Jean Przyluski est amené à conclure dans ses études qu’on voit souvent dans leurs légendes, des héros ou  des forces sacrées (ou esprits sous la forme des poissons, tortues, reptiles, tortues etc…) issus des eaux, aider les rois à consolider leur nation ou à résister aux envahisseurs. Par contre on ne trouve pas ces animaux sacrés dans les légendes venant des peuples vivant sur le continent comme la Chine ou l’Inde.

C’est pourquoi  on constate l’apparition de la tortue deux ou trois fois dans les légendes vietnamiennes. Pour la première fois, la tortue est  rapportée dans le livre intitulé « Histoires extraordinaires de Lĩnh Nam » de Trần Thế Pháp écrit en caractères Han et paru probablement à l’époque des Trần. Après avoir conquis le royaume Văn Lang des rois Hùng, Thục Phán décida de prendre le titre An Dương Vương et décida de construire la citadelle dans le territoire Việt Thường. Mais il ne réussit pas à achever son projet car la citadelle continua à s’éroder à plusieurs reprises. Un jour, à la surface de la mer, apparût une tortue d’or prétendant être l’ambassadeur Thanh Giang. Celui-ci savait  parler couramment  le langage humain et prédire l’avenir. Le roi réussit à construire la citadelle après que la tortue d’or lui avait suggéré un stratagème pour tuer le monstre Bạch Kê Tinh (un coq blanc réussissant à se métamorphoser en un être humain après mille ans). Cette citadelle était assez large et portait le nom « la citadelle en colimaçon » à cause de la présence de neuf spirales de terre. Avant de dire au revoir au roi, la Tortue d’Or recommanda  au roi de gouverner avec sagesse et vertu car cela permit de prolonger son règne. Puis elle lui remit une griffe dont le roi se servait pour faire la gâchette de son arbalète et retourna à la mer. Grâce à cette arme magique, le roi réussit à garder la citadelle et résister à l’armée d’invasion de Zhao Tuo (ou Triệu Đà). Mais An Dương Vương fut plus tard victime de la ruse de Zhao Tuo et perdit son royaume en acceptant de laisser sa fille Mỵ Nương épouser Trọng Thủy, le fils de son adversaire. La Tortue d’Or aida également le roi Lý Thái Tông à reprendre son trône après la mort de son père, le roi Lý Thái Tổ. Monté sur le trône, Lý Thái Tông dut abandonner bientôt la capitale et se réfugier dans une grotte à Tuyên Quang parce que ses jeunes frères s’étaient révoltés pour lui disputer le trône. La Tortue d’Or fut apparue dans son rêve pour lui faire savoir qu’elle l’aidera à reprendre le trône. Après avoir maté la révolte, le roi se souvint du mérite de la tortue, il n’hésita pas à accorder à  cette dernière le titre de « Minh Phúc Đai Vương ». À ce jour, il existe encore le sanctuaire dédié à cette Tortue d’Or dans le village de Nghiêm Sơn de la province de Tuyên Quang.

 La tortue d’Or  fut mentionnée également lors de l’invasion des Ming (ou Chinois) au début du XVe siècle. Un pêcheur  nom de Lê Thân repêcha un jour une épée et la donna à Lê Lợi, le futur roi de la dynastie des Lê postérieurs  lors de son soulèvement contre les envahisseurs chinois. Après avoir chassé les Ming, le roi Lê Lợi entama un jour une promenade sur un bateau-dragon autour du lac Tã Vọng (connu aujourd’hui sous le nom « Lac de l’épée restituée »). Au milieu du lac, une énorme tortue émergea subitement de la surface de l’eau. Le roi  trouva étrange cette apparition. Il ordonna à ses subordonnés de ralentir la barque royale.  La tortue s’en approcha et lui dit avec sa voix humaine: Seigneur, vous devez me rendre l’épée pour que je puisse la ramener au roi Dragon (*). C’est lui qui vous a donné cette épée pour pacifier le pays. Juste au moment où le roi sortit son épée,  la tortue d’or ouvrit sa bouche, la happa d’une rapidité effarante et disparut immédiatement sous l’eau. La tortue d’or est considérée toujours dans les légendes vietnamiennes comme le prétorien du roi Dragon, le père du peuple vietnamien et elle est chargée de veiller à la protection des Vietnamiens.  De ce jour, le lac Tã Vọng devient le lac Hồ Hoàn Kiếm (ou le lac de l’épée restituée). 

Dans les croyances populaires, on est habitué à trouver une paire de grues ou phénix debout sur le carapace des  tortues rangées de chaque côté du brûleur d’encens dans les temples et les maisons communales. C’est un couple d’animaux reflétant le rôle du fonctionnement de l’harmonie du Yin et du Yang. Dans le temple de la littérature (Văn Miếu) à Hànội, il y a 82 statues de tortues portant les stèles des lauréats sur leur carapace. C’est une façon d’immortaliser les noms des gens ayant obtenu le titre tiến sĩ (degré de docteur)  ainsi que ceux de leurs villages où ils étaient nés  car ceux-ci continuent à rester honorés au fil des générations et des années et ils symbolisent la force qu’ils ont  car ils sont les hommes de talent et la source de vie de la nation.  Aucun roi ne pense à négliger le recrutement de ces  hommes de talent car la source jaillissante fait la force d’un pays. Une source tarissant l’affaiblit.

On est habitué à considérer la tortue comme un quadrupède sacré. C’est pourquoi quand quelqu’un a l’occasion de la rencontrer sur le chemin, on dit qu’il est chanceux. On l’appelle sous le nom « Cụ (Oncle) » pour marquer le respect. On prend pitié de son sort à travers l’adage suivant:

Thương thay cái kiếp con rùa
Lên đình đội hạc, xuống đình đội bia.

On ne cesse pas de se lamenter sur le sort de la tortue
Obligée de porter les grues dans les maisons communales et les stèles ailleurs.

Actuellement, cette espèce aquatique géante est classée en danger critique d’extinction sur la liste rouge de l’UICN depuis 2006 et connue sous le nom scientifique « Rafetus swinhoei ». C’est une espèce de tortue à carapace molle vivant dans le fleuve Yanzi (Chine) ou le fleuve Rouge du Vietnam. Après le décès de la tortue du lac de l’épée restituée, il existe actuellement 4 individus dont l’un est très vieux et mâle vivant en Chine, le deuxième (une femelle confirmée grâce à l’analyse du gène) et le troisième (en cours de récupération)  sont au lac Đồng Mô (Ba Vì) et le dernier vit dans le lac Xuân Khanh tout proche (Sơn Tây). L’organisme vietnamien chargé de protéger les espèces entretient l’espoir de réaliser la fécondation avec succès si l’individu récupéré au lac Đồng  Mô ou Xuân Khanh est un mâle sinon cette espèce sera éteinte dans l’avenir.

Thục Phán (Royaume de An Dương Vương)

Le Royaume de An Dương Vương

Version française

Sự tham gia của người Thái cổ (hay người Tày) trong việc thành lập vương quốc Âu Lạc của Thục Phán (hay An Dương Vương) không thể chối cải được sau khi Thục Phán đã thành công đánh bại vua Hùng cuối cùng của nhà nước Văn Lang. Cái tên Âu Lạc phản ánh hiển nhiên sự liên kết chặt chẽ của hai dân tộc Việt, một nhánh Âu (Thái cổ) và một nhánh Lạc (Việt cổ). Hơn nửa, Thục Phán là một người Việt chi Thái, điều nầy cho thấy rỏ ràng sự đoàn kết và sứ mệnh lich sử chung của hai dân tộc Việt và Thái trước sự bành trướng của người Hoa.

Theo giáo sư Đào Duy Anh, Thục Phán thuộc gia đình qúi tộc nước Thục. Tất cả đều được mách lại trong các thư tịch Tàu (Kiao -tcheou wan-yu ki hay Kouang-tcheou ki) nhưng bị bác bỏ bởi một số sử gia Việt vì vương quốc Shu (Thục) ở quá xa vương quốc Văn Lang nhất là bị thôn tính quá sớm bởi Tần quốc từ 316 trước công nguyên (hơn nửa thế kỷ trước khi lập vương quốc Âu Lạc).

Nhưng theo nhà văn Bình Nguyên Lôc, Thục Phán bị mất nước , buộc lòng phải dung thân lúc còn trẻ với các bộ hạ ở môt nước nào mà thời đó phải có quan hệ sắc tộc (ngôn ngữ và văn hóa) cũng như họ có nghĩa là nước Tây Âu ở bên cạnh nhà nước Văn Lang của người dân Việt. Hơn nửa người Hoa không có lợi chi viết sai sử học khẳng định đây là một hoàng thân của nước Thục cai trị nước Âu Lạc. Việc tá túc của Thục Phán và bộ hạ ở Tây Âu cần có một thời gian trong cuộc di tản vì vậy cần có 60 năm sau đó mới có sự sáng lập vương quốc Âu Lạc qua sự giải thích. Nhưng gỉả thuyết nầy không vững vì nhất là thời đó có 3000 cây số phải vượt để đến Tây Âu. Vả lại Thục Phán cầm đầu một đạo binh có 3 vạn quân lính. Không thể nào một đạo quân như vậy có thể tàn hình và di chuyển mà ngưởi Hoa không biết được vì không những cần sự tiếp tế lương thực mà còn vượt qua bao nhiêu khu núi rừng quản trị bởi các bộ lạc thù địch hay thân Trung Hoa. Chắc chắn Thục Phán phải tìm được ở Tây Âu tất cả những gì cần thiết (quân bị, lương thực) trước khi thôn tính nước Văn Lang.

Theo giả thuyết gần đây đựơc xem có lý và nhất quán , Thục Phán là thổ lĩnh của một bộ lạc liên minh Tây Âu và con của Thục Chế, vua của nước Nam Cương thuộc về vùng Cao Bằng và nam Quảng Tây Trung Quốc ngày nay. Có sự trùng khớp thống nhất giữa những linh vật được mách đến trong truyền thuyết nỏ thần của người dân Việt và những tập tục trong truyền thống của người Tày (Thái cổ). Rùa vàng, gà trắng là những linh vật có ý nghĩa biểu tượng quan trọng.

An Dương Vương (Thục Phán)(Ngan-yang wang) là một nhân vật lịch sử có thật. Với sự khám phá các di tích ở Cổ Loa huyện Đông An, Hànội chúng ta có thể khẳng định là vương quốc Âu Lạc có thật và được dựng bởi Thục Phán khoảng chừng 3 thế kỷ trước Công Nguyên. Âu Lạc bị thôn tín về sau bởi Triệu Đà, một tướng lãnh của nhà Tần và người sáng lập ra nước Nam Việt. Hơn nửa được tìm thấy ở thành phố Quảng Châu thuộc nước Nam Việt một thẻ ngọc có hình dáng chữ nhật với bốn gốc thẻ có khắc bốn chữ An Dương hành bảo mà nhà nghiên cứu người Trung Hoa Dư Duy Cương ở thành phố Trường Sa, tỉnh Hồ Nam Trung Quốc cho rằng: ngọc bảo nầy là An Dương cổ đại của Việt Nam.

Le royaume de An Dương Vương (ou Thục Phán)

La contribution des Proto-Thaïs (người Tày) dans la fondation du royaume Âu Lạc des Proto-Vietnamiens de Thục Phán (An Dương Vương) n’est plus mise en doute après que ce dernier a réussi à éliminer le dernier roi Hùng du royaume Văn Lang car le nom « Âu Lạc » (ou Ngeou Lo) évoque évidemment l’union de deux ethnies Yue de branche Âu (Proto-Thaï) et de branche Lạc (Proto-Vietnamien). De plus, Thục Phán était un Yue de branche Âu, ce qui montre à tel point l’union et la mission historique commune de ces deux ethnies face à l’expansion chinoise.

Selon Đào Duy Anh, Thục Phán était un prince du royaume Shu. C’est ce qui a été rapporté dans les écrits historiques chinois (Kiao -tcheou wai-yu ki ou Kouang-tcheou ki) , mais il a été réfuté catégoriquement par certains historiens vietnamiens car le royaume Shu était, à cette époque, trop loin du royaume Văn Lang . Il fut annexé très tôt (plus d’un demi siècle avant la fondation du royaume Âu Lạc) par les Tsin. (nhà Tần)

Mais pour l’écrivain vietnamien Bình Nguyên Lôc, Thục Phán ayant perdu sa patrie, dut se réfugier très jeune en compagnie de ses fidèles à cette époque dans un pays ayant la même affinité ethnique (culture, langue) que lui càd le royaume Si Ngeou (Tây Âu) situé à côté du royaume de Văn Lang des Vietnamiens. De plus, les Chinois n’ont aucun intérêt de falsifier l’histoire en rapportant que c’était un prince de Shu dirigeant le royaume de Âu Lạc. L’asile de ce dernier et de ses fidèles dans le royaume de Si Ngeou dut prendre un certain temps, ce qui explique au moins un demi-siècle dans cet exode avant la fondation de son royaume Âu Lạc. Cette hypothèse ne semble pas très convaincante car il y avait 3000 km à marcher. De plus, il était à la tête d’une armée de 30.000 soldats. C’est impossible pour lui d’assurer la logistique et de rendre son armée invisible durant l’exode en traversant des zones montagneuses de Yunnan administrées par d’autres ethnies ennemies ou pro-chinoises. Il est probable qu’il dut trouver auprès des Si Ngeou (ou des Proto-Thaïs) tout (armement et effectif militaire, provisions) ce qu’il fallait avant sa conquête.

Il y a récemment une autre hypothèse qui paraît plus cohérente et plus plausible. Thục Phán était le leader d’une tribu alliée de la confédération Si Ngeou et le fils de Thục Chế, roi d’un royaume Nam Cương localisé dans la région de Cao Bằng et non loin de Kouang Si de la Chine d’aujourd’hui. Il y a une concordance totale entre tout ce qui est rapporté dans la légende de l’arbalète magique des Vietnamiens et les rites trouvés dans la tradition des Tày (Proto-Thaïs). C’est le cas de la tortue d’or ou du coq blanc ayant chacun une signification symbolique importante. An Dương Vương (Ngan-yang wang) était un personnage historique. La découverte des vestiges de sa capitale (Cổ Loa, district Đông An, Hànội ) ne met plus en doute l’existence de ce royaume établi à peu près trois siècles avant J.C. Celui-ci fut annexé plus tard par Zhao Tuo (Triệu Đà), un général chinois de la dynastie des Tsin et fondateur du royaume de Nan Yue.

De plus, on a découvert à Canton une tablette de jade ayant la forme rectangulaire et dont les quatre coins portant les quatre mots suivants « An Dương hành bảo ». Le chercheur chinois Dư Duy Cương à Chang Sa (Province Hunan, Chine) a été amené à donner les conclusions suivantes: cette tablette de jade (ngọc giản) appartenait au royaume antique An Dương du Vietnam.

 

 

Le Clos Normand de Claude Monet (Giverny)

Version française

Nhờ việc nới rộng khu vườn « Clos Normand » và sửa đổi nguồn nước sông  Ru, Monet đã thành công tạo cho khu vườn nầy  có được một diện tích 1000 m2 và một hình dáng tuyệt vời mà du khách có cơ hội chiêm ngưỡng ngày nay  khi đến tham quan Giverny. Năm 1895, ông bắt đầu vẽ khu vườn của mình.  Khu nầy  không ngừng sung túc và phong phú thêm với các loài cây cỏ mà ông chọn trồng theo ý mình. Nhờ  đó, ông thực hiện hơn 250 bức tranh tuyệt vời từ nhiều góc độ nhìn khác nhau. Nhưng các hoa súng vẫn là chủ đề chính và quyén rũ ông đến nổi  qua các bức tranh của ông, các cảnh vật chỉ được vẽ sơ sài để nổi bật các hoa súng ưa thích.  Khu vườn nầy giúp ông có nguồn cảm hứng vô tận và  được xem từ đây như là một tuyệt phẩm nghệ thuật vẹn toàn 

Grâce à l’agrandissement du Clos Normand et à la modification du cours d’eau du Ru, Monet réussit à donner à son jardin d’eau couvrant désormais 1000m2 l’aspect actuel que le visiteur a l’occasion de contempler avec admiration  lors de sa visite à Giverny. Il se mit à peindre en 1895 son jardin d’eau renouvelé incessamment par de nouvelles plantations et par l’abondance de la végétation choisie avec soin par lui-même. Cela lui permit de réaliser  avec ingéniosité un ensemble de plus de 250 tableaux  sous de nombreux angles de vue différents. Mais les nymphéas constituent le sujet  principal dans ses tableaux  et captent son attention si bien que le paysage y est dessiné  simplement pour dégager  la beauté de ses fleurs préférées.   Son jardin d’eau lui donna  ainsi une source d’inspiration inépuisable et s’intégra désormais comme une œuvre d’art à part entier. 

Une ballade mémorable dans le jardin de Monet (Giverny, Haute Normandie)

Cùng nhau đi dạo trong vưòn của họa sỹ tài hoa Monet (Giverny)

Paris au crépuscule (Paris lúc chiều tàn)

Các tia nắng ở cuối ngày cùng dòng nước óng ánh lên sắc cam rực rỡ của sông Seine  tạo ra một quan cảnh tuyệt vời khi thành phố bắt đầu lên đèn. Bạn sẽ ngẩn ngơ và cảm nhận thích thú rạo rực trong lòng ít nhiều  khi có được những khoảnh khắc kỳ diệu nầy. Đây cũng là những kỷ niệm khó quên khi bạn có dịp đến với kinh đô ánh sáng Ba Lê. 

Les derniers rayons du soleil couchant et les eaux  irisées de la Seine vous offrent un spectacle merveilleux lorsque la ville commence à s’illuminer. Vous serez abasourdi et vous sentirez une légère excitation dans votre cœur lorsque vous aurez des moments magiques. Ce sont des souvenirs inoubliables lors que vous avez l’opportunité de visiter la ville lumière qu’est Paris.

The last rays of the setting sun and the iridescent waters of the Seine offer you a marvelous spectacle when the city starts to light up. You will be stunned and feel a slight excitement in your heart when you have these magical moments. These are unforgettable memories when you have the opportunity to visit the city of light that is Paris.

Hồ Chí Minh ville (Saïgon)

Saïgon  (Hồ Chí Minh ville)

Saïgon hai tiếng nhớ nhung
Ra đi luyến tiếc nghìn trùng cách xa

Version française

Đối với một số người dân Việt, thành phố này mãi mãi là Sàigòn. Còn  với những người khác, đấy thực sự là thành phố Hồ Chí Minh. Dù thành phố nầy có mang tên chi nữa, nó vẫn tiếp tục là trung tâm kinh tế  đối với các doanh nhân nước ngoài. Chính ở nơi đây quá cảnh hàng triệu tấn thóc gạo và cá của  đồng bằng sông Cửu Long  để được xuất khẩu. Mặc dù được đổi tên vào năm 1975, Saïgon vẫn tiếp tục giữ những thói quen cũ, những thay đổi thất thường và những nghịch lý. Thành phố vẫn luôn náo nhiệt ồn ào với những đêm không ngủ. Quang cảnh hay thường được trông thấy  ở  các đường phố hay qua đêm trong những căn phòng rộng lớn sàn gỗ với các cô gái trẻ học nhảy điệu valse và tango. Saigon vẫn sống rất linh động với 10 triệu cư dân hiện nay. Saïgon lúc nào cũng có sức sống mãnh liệt  với một tinh thần tháo vát  tuyệt vời. Thành phố vẫn phóng đãng, thích phiêu lưu và quá phấn khởi. Nó tiếp tục phát triển với những khách sạn sang trọng hàng nghìn phòng ở giữa các khu dân nghèo. Đây là thành phố đông dân nhất ở Việt Nam với mật độ dân số trung bình hơn 4.500 người trên mỗi kilomet vuông, còn  cao hơn cả Thượng Hải (Trung Quốc).

Các điểm tham quan

Nó hiện có tổng diện tích 2061 km2 và được chia thành 19 quận và 5 huyện. Trong quá khứ, thành phố gồm có 12 quận và 6 huyện trên diện tích là  2029 kilomet vuông. Saigon đã từng là Hòn Ngọc Viễn Đông trong thời kỳ Pháp thuộc  và sau đó là thủ đô của miền Nam Việt Nam từ năm 1956 đến năm 1975. Ngày nay, nhờ dự án phát triển đô thị bán đảo Thủ Thiêm và sự  gia nhập của quận Thủ Đức gần đây, thành phố  đã thành công, theo nhà nghiên cứu  người Việt Trần Khắc Minh của đại học Québec ở Montréal, trong việc mở rộng khu vực đô thị và tăng trưởng dân số một cách nhanh chóng nhờ quá trình đô thị hóa nhưng điều nầy  không ngăn cản được sự phân đọan của kết cấu đô thị ngày càng tăng  và làm nổi bật thêm  khoảng cách giàu nghèo nhất là trong việc tìm nhà cư ngụ.

Từ đầu công nguyên cho đến thế kỷ 17, Sàigon lần lượt thuộc về  vương quốc Phù Nam, rồi  đến Chân Lạp,  sau đó Chămpa và Cao Miên. Tên của nó chỉ được nhắc đến lần đầu tiên trong một  tài liệu của Việt Nam vào năm 1776, kể  lại cuộc chinh phục thành phố  nầy bởi các chúa Nguyễn vào năm 1672.  Đối với người Khơ Me (hoặc người Cao Miên), Sàigòn chỉ là tên biến dạng của từ  Prey Nokor (« thành phố trong rừng ») mà người Khơ Me  gán cho thành phố này. Sài Gòn là một vùng đầm lầy đầy cá sấu và có nhiều  khí lam chướng vào cuối thế kỷ 17. Việc những người Việt đầu tiên định cư chọn Sàigòn làm nơi tha hương không phải là một chuyện bình thường. Vì thế có một ca dao phổ biến mà người  dân Việt được biết để  nói đến vùng đất dữ, có nhiều khí lam chướng.

Chèo ghe sợ sấu cắn chân
Xuống sông sợ đĩa, lên rừng sợ ma.

Mặc dầu có nhiều khuyết điểm, Saigòn vẫn tiếp tục là tĩnh mạch trọng yếu của Việt Nam. Chính Saigon đã dạy người dân Việt biết đến chính sách Đổi Mới  từ năm 1996 đẩy mạnh không những  công nghiệp hóa và  hiện đại hóa mà còn giúp họ ưa thích  chủ nghĩa tư bản và phiêu lưu trong việc bỏ vốn đầu tư mạo hiểm. Cũng như các thành phố khác, Sàigòn có một lịch sử lâu dài trước khi bị đô hộ, sau đó bị Mỹ hóa và sau cùng  lấy tên thành phố Hồ Chí Minh sau biến cố  năm 1975.

Đối với những người quan tâm đến thành phố này, lịch sử và sự phát triển của nó thì nên đọc những cuốn sách sau đây:

  • Saigon, le chantier des utopies de Didier Lauras, Editions Autrement, Collections Monde, 1997, no 95 HS.
  • Saigon, 1925-1945 , de la belle Colonie à l’éclosion révolutionnaire de Philippe Franchini, Editions Autrement, Collections Monde, no17, 1992.

 

 

 

 

Hanoï c’est quoi en chacun de nous?

 

Hà Nội là gì trong mỗi chúng ta?
Hanoï c’est quoi en chacun de nous?

Hà Nội là bát bún ngan giản dị ? Là những ghế nhựa ngồi bệ? Là gánh hàng rong với chiếc đòn gánh là cầu Long Biên còn người gánh lại là một cô robot ? Hay là Hànội là… Đây là cuộc thi vẽ minh họa thuộc dự án Hanoi Rethink được tổ chức bởi UNESCO với sự đồng hành của nhóm Vietnam local Artist Group.

Hanoï c’est quoi en chacun de nous ? Hanoï est-elle un simple  bouillon de canard  aux vermicelles ? Ou ce sont les  chaises basses en plastique ? Ou le vendeur ambulant dont  la palanche est le pont Long Bien et qui est en fait un robot ?  Ou bien Hanoi est … C’est le concours d’illustration appartenant au  projet Hanoi Rethink organisé par UNESCO en collaboration avec le groupe Vietnam local Artist.

Depuis quand, Paris devient-elle la ville lumière?

Từ bao giờ Paris trở thành kinh đô ánh sáng?
Depuis quand, Paris devient-elle la ville lumière?

Version française

Được xem là kinh đô ánh sáng của Âu Châu, Paris đã có nét đẹp lung linh nầy từ bao giờ nhỉ? Qua nhiêu thế kỷ, Paris cũng như các thành phố Âu Châu đều chìm lặn trong bóng tối một khi màn đêm buông xuống khiến làm người qua đường áy náy lo sợ vì thiếu an ninh nhất là với một mùa đông lạnh buốt. Bởi vậy nhà thi sỹ Boileau có nhắc đến vấn đề nầy trong quyển sách ông viết có tựa đề : Les Embarras de Paris vào năm 1666. Chính vì vậy mới có các nhóm người tuần tra đi khắp nẽo đường Paris với các bó đuốc nhưng khó mà kiểm soát được Paris nhất là ở thế kỷ 17 có đến 500.000 cư dân. Thời đó, muốn đi đêm phải có đuốc hay đèn lồng. Các người giàu có thì có người nô bộc dẫn đường với chiếc đèn lồng. Sau đó ở giữa thế kỷ 17 có những người chuyên môn sinh sống với nghề cầm đuốc dẫn đường, họ đón khách ở những nơi có nhà hát hay vũ trường. Mãi cho đến đầu thế kỷ 19 nghề nầy vẫn còn thấy ở Paris. Tuy nhiên những người giàu có hay ngưởi buôn bán vẫn sợ sệt vì đường không được sáng tỏ chi cho lắm. Trong lúc đó ở Âu Châu thì các thành phố đã có hệ thống đèn đường công cộng với các lồng đèn đốt trước nhà. Dựa trên chỉ dụ của vua mặt trời của Pháp, Louis XIV thì trung tướng cảnh sát La Reynie mới ra chỉ thị bắt buộc các chủ nhà đặt đèn trước nhà khiến nhờ vậy có hơn 2700 đèn lồng được đặt ở 900 đường của thành phố. Đèn nầy được đốt từ tháng mười cho đến tháng ba, từ 6 giờ chiều đến 12 giờ đêm. Từ đó hệ thống đèn đường làm người du khách ngoại quốc đến Paris đều thán phục và say mê nhưng loại đèn lồng nầy dễ bị gió làm tắt ngọn lửa của lồng đèn. Sau đó được thay thế bằng cột đèn đường (réverbère) được sáng tạo bởi người thợ đồng hồ xứ Bourgogne tên là Bourgeois de Châteaublanc để tránh được nạn gió và soi sáng đường xá tỏ hơn đèn lồng. Hiện nay còn thấy các cột đèn nầy ở nhiều nơi sang trọng của Paris như ờ quảng trường Vendôme chẳng hạn hay dọc theo các cầu sông Seine. Chính nhờ vậy một khi hoàng hôn phủ xuống thành phố, thì các đèn đường được đốt lên thưở đầu bằng khí đốt nay thì bằng điện cả khiến Paris đẹp lung linh về đêm.

« de 13 »

Version française

Étant connue comme la capitale européenne de la lumière, Paris a-t-elle eu depuis quand cette beauté chatoyante? Au fil des siècles, Paris comme tant d’autres villes européennes ont été plongées dans l’obscurité une fois la nuit tombée. Cela faisait peur surtout aux passants en raison du manque de sécurité avec un hiver froid et rude. Le poète Boileau eut l’occasion d’évoquer ce problème dans son livre intitulé « Les Embarras de Paris » en 1666. C’était pourquoi il y avait des groupes de patrouilleurs constitués parcourant les rues de Paris avec des torches ou des lanternes mais malheureusement c’était difficile de contrôler Paris au 17ème siècle avec plus de 500 000 habitants. À cette époque, si on voulait sortir la nuit, il fallait avoir des torches ou des lanternes. Les riches étaient précédés dans leurs pas par un serviteur avec une lanterne. Puis au milieu du XVIIème siècle, il y avait des porteurs de flambeau vivant avec le métier de guide d’éclairage. Ils se postaient devant les lieux connus comme les théâtres et les salles de bal à la recherche des clients. Jusqu’au début du XIXème siècle, ce métier exista encore à Paris. Cependant, les riches ou les commerçants avaient encore peur car les rues n’étaient pas bien éclairées. Pendant ce temps en Europe, les villes avaient déjà possédé un système d’éclairage public avec des lanternes installées devant les maisons.

En se basant sur le décret du Roi Soleil de France, Louis XIV, le lieutenant général de police La Reynie a émis une directive ordonnant aux propriétaires de mettre en place les lanternes sur les façades de leurs maisons. Plus de 2 700 lanternes étaient installées ainsi dans les 900 rues de la ville. Cette lanterne devait être allumée, de 18h jusqu’à minuit, depuis le mois d’octobre jusqu’au mois de mars. Depuis, le système d’éclairage public commença à émerveiller les touristes étrangers lors de leur passage à Paris mais la lanterne s’éteignit facilement au gré du vent. Elle fut remplacée ensuite par le réverbère inventé par un horloger bourguignon de nom Bourgeois de Châteaublanc et ayant pour but d’éviter le vent et d’éclairer mieux encore la rue. Aujourd’hui, ce type de réverbère est encore visible dans de nombreux endroits luxueux à Paris, comme par exemple à la place Vendôme ou le long des ponts traversant la Seine. C’est pourquoi dès le coucher de soleil, les réverbères d’abord allumés autrefois au gaz et maintenant à l’électricité rendent Paris plus chatoyante toute la nuit.

Références bibliographiques:

Alain Cabantous: Histoire de la nuit. XVème-XV IIIème siècle Editeur Fayard, 2009.
Alfonso Lopez : Eclairage public : une lueur dans les villes.
Revue mensuelle: Histoire N°76. Octobre 2021