Les maisons funéraires des Jaraï ( Các nhà mộ của người Gia Lai)

Nhà mộ của người Gia Lai (hay Gia Rai)

Version française

Ai  đã có dịp đến tham quan viện bảo tàng Hà Nội thì thấy  ngôi nhà mộ của người Gia Lai được dựng theo  nguyên mẫu của ngôi nhà mộ của làng Kép Pinh huyện Chư Pả, tỉnh Gia Lai. Dân làng ở đây không dám làm nhà mồ  nầy cho bảo tàng vì không có lễ bỏ mả (hay lễ Pơ Thi), một lễ được xem là quan trọng theo tập tục của người Gia Lai. Nếu làm thì họ sẽ bị hồn ma hại. Vì vậy phải nhờ đến năm người Gia Lai của một làng khác để mà xây dựng. Theo nhà khảo cổ học Việt Ngô Văn Doanh,  nghi thức mai táng của người Gia Lai không những có sự tương tự  với các dân tộc  Tây Nguyên như dân tộc Bà Na chẳng hạn  mà luôn cả  với các dân tộc thiểu số ở Đông Nam Á và Thái Bình Dương.

Nhìn thoáng qua nhà mồ của người Gia Lai thì cảm thấy rợn người vì nó có vẻ huyền  bí nhất là ở xung quanh mộ có một hàng rào (krep) được dựng với các cột trụ tạc bằng rìu  không có trau chuốt tĩ mĩ. Đây là cách gợi và tạc các bức tượng bằng gỗ rất sinh động và có mang tín ngưỡng phồn thực: cảnh sinh hoạt tình dục của vợ chồng với các bộ phận sinh dục không cân xứng, nam nữ giao hợp, phụ nữ có thai, nhân vật ngồi xổm, người ôm mặt với hai tay vân vân … Chính các bức tượng  ôm mặt nầy được phổ biến và đựợc thấy ở 4 góc bờ  hàng rào. Theo các dân làng thì các tượng gỗ nầy là những kẻ phục vụ và hầu hạ ma người chết khi chưa có làm lễ bỏ mả. Thưở xưa người hậu hạ bị chôn sống theo người  địa chủ giàu  chết. Ngày nay hình tượng nầy gợi lại cái cảnh thân nhân đến viếng thăm mộ, mang thức ăn để « nuôi dưởng người chết » hằng ngày qua chiếc ống cấm sâu xuống lòng  ngôi mộ và buồn rầu than thở trong tư thế ngồi xổm trên mộ hai tay chống lên đầu gối hay ôm má. Các bức tượng bằng gỗ nầy chỉ được dựng và trông thấy cùng các mái nhà trang trí trước thời gian ngày lễ bỏ mả.

Đối với người Gia Lai, chết không phải là kết thúc cuộc sống này mà là sự khởi đầu của một cuộc sống khác ở thế giới bên kia. Linh hồn mà người Gia Lai gọi là « m’gàt » sẽ trở thành một vong linh hay hồn ma (hoặc atâu theo tiếng Gia Lai). Từ  đó người chết trở về  sống với tổ tiên ở  trong thế giới thần linh (poloi atâu).  Nhưng  trước khi lễ  bỏ  mả,  hồn ma cũng cần có thức ăn, quần áo và một cái nhà nhỏ tạm thời  để ở cũng như bao nhiêu người  thân thuộc còn sống  với các dụng cụ cần thiết để ma người chết sẽ đem theo sang sống ở thế giới bên kia nhưng tất cả được thu nhỏ lại bằng gỗ (rìu, dao, cuốc, gùi, vỏ bầu đựng nước vân vân…) Bởi vậy thường thấy dựng tạm trên mộ một ngôi nhà nhỏ. Đấy là nhà của ma người chết (hay bang atâu). Nhà mộ dài  8,25 thước và rộng 2,25 thước. Tính luôn  cả hàng rào bao chung quanh thì ngôi nhà mộ có một diện tích khoảng 45 mét vuông. Bởi vậy  người Gia Lai có tục chôn chung  có nghĩa là trong một mộ lớn như vậy có thể chứa  được nhiều quan tài thuộc những người thân thuộc với nhau. Nhà mộ có gắn liền với lễ bỏ mả. Thời gian tang chế  có  thể  mấy tháng mà cũng có thể cả năm trời, gia đình của người chết cố  kéo giữ hồn ma ở  lại trong gia đình. Thời gian nầy thường gọi là thời gian  bảo trì  ngôi mộ (dja m’xàt) thì người  thân thuộc phải đến dọn dẹp nhà mồ  thường xuyên, phải đem thức ăn cho  người chết và phải cúng kiến heo gà mỗi tháng. Theo tập tục  thì  hồn ma vẫn hiện diện ở chung quanh nhà mồ tạm. Mỗi năm, sau mùa mưa và sau khi kết thúc mùa thu hoạch thì  thấy người Gia Lai hay thường tổ chức lễ bỏ mả trong những ngày trông sáng ba ngày liên tục nhưng trước đó họ phải dành cả mấy tháng trời để dựng  một ngôi nhà mới  lại  thay thế  ngôi nhà tạm nhỏ  bé nhưng ngôi nhà nầy  nó chỉ là một cái xác vật chất không có linh hồn vì ma người chết đã  đi về với tổ tiên trong thế giới thần linh. Trong ba ngày lễ nầy, mọi người tổ chức ăn cỗ linh đình, uống rượu cần, tấu cồng chiêng, cùng nắm tay nhau múa vũ điệu truyền thống. Từ đây  các người thân thuộc của người chết mới cắt đứt vĩnh viễn mối quan hệ  với người chết. Người goá vợ hay góa chồng có  quyền lập lại cuộc đời. Còn nhà mộ nó tự  phân hủy một cách tự nhiên theo ngày tháng dù nó có hoành tráng hay trang trí thật đẹp vì theo tập tục, người thân thuộc mong rằng người chết có được một cuộc sống tốt đẹp ở thế giới bên kia. Tuy nhiên, nhà tang lễ  nầy  rất đáng được chú ý về mặt nghệ thuật và văn hóa qua  một số  tượng hình trang trí, các hoa văn được thấy trên các mái nhà của nhà mộ  để nói lên sự luân hồi của kiếp người cũng như sinh sôi nảy nở theo quan niệm của dân tộc Tây Nguyên.

Version française

Quiconque a eu l’occasion de visiter le musée d’ethnographie de  Hanoï voit probablement la maison funéraire des Jaraï construite suivant  le modèle du village Kep Pinh du district de Chu Pa de la province de Gia Lai. Les gens  de ce village n’osent pas la bâtir  pour le musée car il n’y a pas la cérémonie d’abandon de la tombe (ou cérémonie Pơ Thi), qui est considérée comme importante selon les coutumes des Jaraï.  En cas de construction de cette maison funéraire, ils seront punis par les esprits. C’est pour cela que le musée doit compter sur cinq personnes issues d’un autre village pour la construire. Selon l’archéologue vietnamien Ngô Văn Doanh, les rites funéraires des Jaraï ont non seulement des similitudes à celles des ethnies des Hauts Plateaux du Centre Vietnam (comme les Bahnar) mais aussi à  celles d’autres minorités ethniques de l’Asie du Sud- Est et de l’océan Pacifique.  En jetant un coup d’œil sur la tombe des Jaraï,  il  est possible d’être effrayé  car elle paraît être mystérieuse du fait qu’il y a autour de cette tombe, une palissade (krep) faite  de piliers massifs (ameh) sculptés sans aucune  finition avec des haches. C’est une façon d’évoquer  des sculptures très expressives en bois liées au culte de fertilité: des scènes d’activités sexuelles  entre mari et femme avec des organes génitaux démesurés,  des copulations entre hommes  et femmes,  des femmes enceintes,  des figures  accroupies, des personnages  se serrant le visage  avec leurs mains etc… Ce sont ces derniers qui sont de loin les plus populaires et qu’on retrouve aux quatre coins de la clôture.  Selon les villageois, ils représentent les gens destinés à servir les morts lorsque la cérémonie d’abandon de leur tombe n’a pas encore lieu.

Autrefois, les serviteurs  devaient  être enterrés vivants avec leurs riches propriétaires qui venaient  d’être décédés. Aujourd’hui, ces sculptures rappellent bien la scène où les  proches du défunt doivent rendre visite à sa maison funéraire  et alimenter quotidiennement  son « esprit » par l’intermédiaire d’un tuyau enfoncé au fond de sa tombe et se lamenter en position accroupie sur sa tombe avec les deux mains sur les genoux ou sur la joue. La mise en place de ces figures en bois en même temps que la décoration réalisée sur les toitures doit avoir lieu  juste avant  la période précédant la cérémonie d’abandon de la tombe.

Pour les Jaraï, la mort n’est pas la fin de cette vie mais le début d’une autre vie dans l’au-delà. L’âme que les Jaraï appellent  « m’gat »  se transforme en un un fantôme ou un esprit  (ou atau en Gia Lai). Désormais il rejoindra ses  ancêtres vivant dans le monde des esprits (poloi atau). Mais avant la cérémonie d’abandon de la tombe, le fantôme a besoin de nourriture, de vêtements et d’une petite maison temporaire pour y vivre comme ses proches encore en vie  avec les outils nécessaires au quotidien et emmenés avec lui dans la vie d’au-delà. Ceux-ci  sont réduits en miniature  (hache, couteau, pioche, hotte, calebasse d’eau etc…). C’est pourquoi on est habitué à voir l’installation temporaire  d’une hutte  sur la tombe. C’est la maison de l’esprit du défunt (ou bang atau). La tombe mesure 8,25 mètres de long et 2,25 mètres de large.

Y compris la clôture environnante, la maison funéraire a une superficie d’environ 45 mètres carrés. Les Jaraï ont la coutume d’enterrer ensemble les morts, ce qui signifie qu’une tombe aussi grande peut contenir de nombreux cercueils appartenant à des personnes proches les unes des autres.

La maison funéraire est associée souvent  à la cérémonie d’abandon de la tombe. La période de deuil peut durer des mois voire des années. La famille du défunt tente de garder le plus longtemps possible  le fantôme dans la famille. Cette  période est souvent appelée période d’entretien de la tombe (dja m’xàt): les proches doivent nettoyer régulièrement la tombe, apporter de la nourriture pour les morts et faire des offrandes alimentaires (poulets, porcs) tous les mois.

Selon la coutume, le fantôme ou l’esprit du trépassé est  toujours présent autour de la hutte provisoire. Chaque année, après la saison des pluies et après la fin de la saison des récoltes, les Jaraï organisent souvent la cérémonie d’abandon de la tombe  durant les trois jours lumineux consécutifs  mais avant cela, ils doivent passer plusieurs mois à construire la maison funéraire. Celle-ci va remplacer  la hutte provisoire  mais elle n’est qu’une  carcasse physique sans âme car l’esprit du défunt  est déjà parti pour rejoindre ses ancêtres dans le monde des esprits. Durant ces trois jours, les gens s’organisent pour faire le festin, boire de l’alcool de riz, jouer des gongs, se tenir la main  dans les danses traditionnelles.

Désormais, les proches du défunt  couperont définitivement les liens avec le mort. Les veuves ou les veufs ont le droit de refaire leur vie. Quant à la maison funéraire, elle se décompose naturellement au fil des années malgré qu’elle soit grandiose ou magnifiquement décorée. Selon la coutume, les proches espèrent que le trépassé  aura  une belle vie dans l’au-delà.

Cependant, cette maison funéraire mérite de retenir une plus grande  attention artistique et culturelle à travers un certain nombre de figurines décoratives et de motifs retrouvés  sur les deux toits principaux et sur les deux petits toits à pignons triangulaires car cela représente la réincarnation de la vie humaine ainsi que la fécondité selon le concept du peuple des Hauts Plateaux.

 

 

Les eunuques de la dynastie des Nguyễn (Thái giám dưới triều đại nhà Nguyễn)

Version française 

Thái giám dưới triều đại nhà Nguyễn

 

Khác với người bình thường, thái giám hay hoạn quan là người chuyên hầu hạ và phục vụ vua chúa dưới thời phong kiến. Đất nước ta có ba người đại tài hoạn quan và có công trạng ít ai có thể so sánh bằng vì họ  đem lại không những cho dân tộc ta một trang sử  vẻ vang rạng rỡ  vào bậc nhất mà còn cả niềm tự hào lớn lao. Đó là danh tướng  hoạn quan vĩ  đại nhất dưới triều đại nhà Lý, Lý Thường Kiệt, có công phá Tống bình Chiêm. Sau đó là Nguyễn An, kiến trúc sư tài năng bị lưu đày về Trung Quốc  bởi tướng Trương Phụ khi nhà Minh xâm chiếm Việt Nam và  làm thái giám với tên gọi A Lưu. Chính ông là người  kiến trúc trưởng thiết kế trong việc xây cất  Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh   dưới thời Minh Thành Tổ  Chu Đệ (Vĩnh Lạc). Sau cùng Lê Văn Duyệt  là một khai quốc công thần nhà Nguyễn mà đền thờ của ông  được mọi người chiêm bái ở Sàigon (hay thành phố Hồ Chí Minh) và  được gọi là Lăng Ông. Ông là người có công trạng bình định và phát triển vùng đất Nam kỳ với chức vụ Tổng Trấn Gia Định.

Tục lệ kén chọn hoạn quan nầy đã có từ thời nhà Lý nhưng nhiệm vụ chỉ để hầu hạ vua  chớ  không có quyền can dự chính sự và không có khả năng chuyên quyền  như  ở Trung Hoa  với hoạn quan Triệu Cao của Tần Thủy Hoàng  ở giai đoạn cuối của nhà Tần. Nếu sinh ra mà phi nam phi nữ gọi là giám sinh. Còn tự thiến thì gọi là giám lặt. Còn một khi vào đại nội để chuyên hầu vua thì gọi là yêm hoạn hay hoạn quan tức là  kẻ hạ đẳng phục vụ  chốn hoàng cung. Lý Thường Kiệt, ông là cháu năm đời của Ngô Quyền. Theo  lời kể trong quyển sách « Kể chuyện các quan thái giám trong lịch sử Việt Nam » của tác giả Phạm Minh Thảo thì mẹ ông, bà Hàn Diệu Chi trước khi có bầu sinh ra ông thì có gặp một ông lão già xem thiên văn tiên đoán rằng bà sẽ có  tin vui, có một người con trai khôi ngôi tuấn kiệt, sẽ uy danh lừng lẫy không những mang lại vinh quang cho dòng họ Ngô mà còn làm  rạng rỡ  nước Nam ta nữa nhưng có một điều là không có con để nối dòng. Ông khởi đầu sự nghiệp với một chức quan kỵ mã hiệu uý dưới triều nhà Lý. Tuy có vợ nhưng không có con. Có một lần đi săn, vua Lý Thái Tông gặp được ông đem lòng qúi mến nhưng muốn được ở gần vua thì phải « tự yêm ». Còn với Nguyễn An thì cuộc đời rất trôi nổi lúc còn trẻ. Ông bị tướng nhà Minh Trương Phụ lưu đày mang về Trung Hoa để làm hoạn quan phục vụ trong cung vua nhà Minh sau khi chiếm nước ta và không ngần ngại áp đặt chính sách  lùng bắt tất cả trai trẻ có tài của nước ta. Bởi vậy Nguyễn An trở thành ho ạn quan của vua Minh Thành Tổ (Chu Đệ) dưới cái tên Hoa là A Lưu. Ông là một nhà kiến trúc sư đại tài xuất chúng vì  ông không chỉ có công thiết kế, giám sát xây dựng cổ thành Bắc Kinh trong vòng ba năm với một vạn binh  chứ không năm năm với 18 vạn thợ  theo dự đoán của bộ công mà còn có tài trong các công trình trị thủy sông Hoàng Hà  của Trung Quốc. Theo  nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm thì Trung Quốc  đời sau cố lờ đi vì A Lưu là người An Nam nhưng may thay có bài viết của  nhà sử học đương đại  Trương Tú Dân được đăng báo công nhận vai trò quang trọng của Nguyễn An trong việc xây dựng lại Tử Cấm Thành (Bắc Kinh) và nhất là gần đây với phim tài liệu của Tây Đức « Tử Cấm Thành Bắc Kinh ». 

Sau cùng là Lê Văn Duyệt hay thường gọi là Tả Quân Duyệt. Có một lần Nguyễn Ánh (hay vua Gia Long về sau)  bị truy nã bởi quân Tây Sơn  chạy trốn ở vùng Rạch Gầm, làng Long Hưng tỉnh Mỹ Tho (nay là Tiền Giang)  và thuyền của ngài  được cứu bởi  Lê Văn Duyệt trong một đêm bão tố. Sau đó Nguyễn Ánh nhìn thấy Lê Văn Duyệt một cậu bé khác thường và có công cứu mạng ngài nên không ngại tuyển dụng ông làm thái giám để bảo vệ ngài và  cung quyến lúc đó ông chỉ 17 tuổi. Theo nhà văn Hoàng Lai Giang, Lê Văn Duyệt là một tấm gương soi sáng muôn đời ở phương nam. Ông không những là một danh tướng tài ba mà còn là một nhà ngoại giao khôn khéo, một nhà chính trị có tài năng khiến vùng đất Gia Định trở thành giàu có. Dám chặt đầu cha vợ của vua Minh Mạng là Huỳnh Công Lý để giữ công bằng cho dân khiến làm vua Minh Mạng đố kỵ, xem ông là cái gai chọc vào mắt mình nên chỉ cần có cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi, con nuôi của Lê Văn Duyệt  để có dịp hài tội công lao của ông bằng cách  san bằng mộ Lê Văn Duyệt mà còn có thêm tám chữ « Quyền yêm Lê Văn duyệt phục pháp xử » ở trên bia. Chỉ có ông khi gặp vua được miễn qùi bái  cho thấy vua Gia Long rất qúi trọng  như thế nào. Như vậy cũng biết được cái nhìn của vua Gia Long không sai về con người Lê Văn Duyệt mà Minh Mạng quên đi lại nghe lời dèm pha. Sau nầy  các vua  Thiêu Trị Tự Đức cho phép  đắp lại mồ của Lê Văn Duyệt  và sửa sang miếu thờ.

Chỉ có dưới thời vua Minh Mệnh thứ 17 (1836) nhà vua ban dụ nhằm hạn chế tối đa quyền hành của thái giám một cách rõ ràng. Theo dụ nầy, thái giám không được dự vào phẩm cấp quan chế, không được xem như quan lại. Tuy nhiên trong chức vụ thái giám, cũng có năm bực mà mỗi bực có một vai trò trách nhiệm khác nhau nhưng với chủ đích để sai khiến và phục vụ  vua trong nội cung. Thái giám là người gần gũi vua nhiều nhất  nên phải sắp xếp  ngày giờ, các công việc liên hệ giữa vua và các cung phi và phải ghi chép lại tên họ trong trường hợp bà cung phi  nào có con thì được xác nhận. Bởi vậy cung phi nào muốn  được vua yêu chuộng thì cần nhờ đến tài ăn nói của thái giám.  Ngoài ra, thái giám còn phải phục vụ các bà cung phi goá bụa  ở các lăng tẩm. Để phân biệt với các quan, các thái giám mặc một chiếc áo dài bằng lụa xanh, ở trước ngực thì có một mảng dệt hoa và có mũ theo một kiểu riêng tư.  Họ có một cuộc sống cũng  đáng thương. Khi ốm đau, thì họ không có quyền  ở lại trong đại nội mà phải về ở Cung Giám Viện nằm ở phiá bắc hoàng thành. Nếu chữa không hết bệnh  thì nằm  ở  đây chờ chết chớ không được quay về đại nội. Lúc còn trẻ nếu là  giám sinh thì phải đến trình quan địa  phương  rồi sau đó được đưa về kinh đô vào bộ lễ để  được tấu thay và được sai khiến và trọng dụng ở nội đình. Còn được tuyển làm thái giám thì được hưởng nhiều quyền lợi vật chất nhất là cha mẹ được triều đình cấp dưỡng và khi có đại lễ thì được thưởng tiền bạc hay vải vóc. Lúc về già, không có con để nối dòng và thờ phụng lúc qua đời nên họ  phải cùng nhau đóng góp tiền để tu sửa chùa Từ Hiếu ở Huế vào năm 1893 và mượn nơi đó làm nơi  an nghỉ và tìm lại sự bình yên. Bởi vây dưới thời Pháp thuộc, người Pháp họ gọi chùa nầy là « chùa thái giám » vì  còn có rất nhiều lăng mộ của các thái giám dưới triều Nguyễn.

Version française

Contrairement aux gens ordinaires, les eunuques sont destinés à être au service du roi à l’époque féodale. Notre pays a trois grands eunuques avec lesquels peu de gens peuvent  se rivaliser car ils ont réussi à donner non seulement à notre peuple une page d’histoire glorieuse et  particulièrement resplendissante mais aussi une grande fierté. D’abord c’est le général eunuque célèbre Lý Thường Kiệt de la dynastie des Lý  ayant réussi à écraser l’armée des Song et pacifier le Champa. Puis un architecte talentueux  de nom Nguyễn An  a été capturé et exilé de force en Chine par le général Tchang Fou (Trương Phụ) au moment de l’annexion du Vietnam par les Ming. Il fut engagé ensuite comme eunuque et connu dès lors sous le nom chinois «Ruan An». Il  devint ainsi l’architecte concepteur en chef  dans le projet de construction de la Cité interdite de Pékin sous le règne du troisième empereur des Ming, Yong Le. Enfin le dernier est le général eunuque Lê Văn Duyệt qui  est l’un des mandarins méritants et brillants   de la dynastie  des Nguyễn dont le temple est connu par tout le monde à Saigon (ou Ho Chi Minh Ville) sous le nom « Lăng Ông ». Il avait le mérite de pacifier et développer la région de Cochinchine en tant que gouverneur de Gia Định (ancien nom donné à Saïgon ou Hồ Chí Minh d’aujourd’hui).

La coutume de choisir les eunuques  date de l’époque de la  dynastie des Lý mais leur fonction consiste à  servir uniquement le roi mais en aucun cas  elle n’a pas le droit d’interférer dans la politique et  n’a pas la capacité d’abuser du pouvoir comme en Chine avec l’eunuque Zhao Cao (Triệu Cao) de l’empereur Qin Shi Huang Di (Tần Thủy Hoàng) à la fin de la dynastie des Qin.  Si on est né sans avoir la possibilité de connaître clairement le sexe, on est appelé « giám sinh (ou état d’ambiguïté sexuelle) » en vietnamien ». Par contre si on pratique  l’auto-castration, on est appelé  «  giám lặt (état de se débarrasser de son sexe)   en vietnamien ». Une fois sélectionné et devenu la personne chargée de servir le roi dans la citadelle, on est appelé eunuque c’est-à-dire un subalterne  au service du roi dans le palais. Lý Thường Kiệt est le descendant de la cinquième génération de Ngô Quyền

D’après le livre intitulé « Les récits sur la vie des  eunuques dans l’histoire du Vietnam» de l’écrivain Pham Minh Thảo,  avant d’être enceinte, sa mère de nom Hàn Diệu Chi, avait l’occasion de rencontrer  un vieux maître  astrologue. Ce dernier lui prédit qu’elle  aura une bonne nouvelle. Elle aura un  beau garçon, un fils  devenu  très célèbre en apportant non seulement  la gloire à la famille Ngô, mais aussi  la radiance dans notre pays du Sud.  Mais il n’aura pas de rejeton pour assumer la descendance.  Lý Thường Kiệt  commença sa carrière en tant que capitaine de cavalerie sous la dynastie des Lý. Malgré qu’il fût marié, il n’avait pas d’enfant. Il y avait une fois au moment de la chasse, il eut l’occasion de rencontrer le roi Lý Thái Tông. Celui-ci lui montra son affection. Pour être plus proche du roi, il fut obligé de s’auto-castrer. Quant à Nguyễn An, sa vie ressemble à celle d’un galérien durant sa jeunesse. Il fut capturé et renvoyé de force en Chine par le général chinois  Tchang Fou (Trương Phụ) pour devenir l’eunuque dans la cour des Ming après avoir annexé notre pays et mis en place la politique de traque de toutes les forces vives de notre nation. C’est pour cette raison qu’il devenait l’eunuque de l’empereur des Ming Chenzu (Chu Đệ), connu  sous le nom chinois Ruan An (A Lưu).   Il était un architecte talentueux hors norme car il avait le mérite de concevoir et  de superviser  non seulement  la construction de la cité interdite de Pékin dans trois ans avec dix mille  soldats à la place de cinq ans avec dix huit mille ouvriers dans la prévision du ministère public mais aussi  les travaux hydrauliques importants du Fleuve Jaune en Chine. Selon le chercheur Trần Ngọc Thêm, la Chine a tenté d’oublier  Ruan An dans la construction de la cité interdite car ce dernier était un Vietnamien mais heureusement il y a l’article écrit  par l’historien chinois contemporain de nom Trương Tú Dân dans le journal n’hésitant pas à rapporter le rôle important de Ruan An dans la construction de la Cité interdite de Pékin. 

Enfin, il y a  le général eunuque Lê Văn Duyệt, appelé communément Tả Quân Duyệt. Une fois le jeune prince Nguyễn Ánh (ou l’empereur Gia Long plus tard) fut poursuivi par l’armée des Tây Sơn. Il fut obligé de trouver refuge dans le village de Long Hưng de la contrée Rạch Gầm dans la  province de Mỹ Tho (devenue aujourd’hui Tiền Giang) et son embarcation fut sauvée par le jeune Lê Văn Duyệt dans une nuit orageuse. Nguyễn Ánh aperçut que Lê Văn Duyệt  était un garçon au talent exceptionnel ayant eu le mérite de le sauver si bien qu’il n’hésita pas  à l’engager comme eunuque chargé de le protéger et sa famille alors que Lê Văn Duyệt n’avait que 17 ans. Selon l’écrivain Hoàng Lai Giang, Lê Văn Duyệt  est un exemple qui s’éclaire éternellement dans le Sud. Il n’est pas non seulement un général talentueux mais un diplomate habile, un homme politique  reconnu  dans sa capacité de transformer la région Gia  Định en une zone prospère et florissante. Ayant osé décapiter le père de la concubine du roi Minh Mạng (Huỳnh Công Lý) pour maintenir la justice au peuple, il provoque la jalousie du roi Minh Mạng. Celui-ci trouve qu’il est une épine qui s’introduit dans son œil. C’est pourquoi il suffit d’avoir la révolte de son  fils adoptif  Lê Văn Khôi pour donner l’occasion au roi de remettre en cause son grand  mérite en rasant sa tombe et en y élevant de plus une stèle portant  les 8 lettres suivantes « Quyền yêm Lê Văn duyệt phục pháp xử  ou le lieu où l’eunuque Lê Văn duyệt reçoit la condamnation ». Il n’y a que lui qui avait le droit d’être exempté  de s’agenouiller devant l’empereur Gia Long. Cela montre  à tel point  le respect que ce dernier avait entretenu envers lui. On connait ainsi le jugement juste  de l’empereur Gia Long à l’égard du personnage Lê Văn Duyệt.  Minh Mạng n’en tenait pas compte à cause des calomnies de son entourage. Plus tard, ses successeurs Thiệu Trị et Tự Đức ont ordonné la reconstruction de sa tombe et la réparation de son temple.

L’autel de Lê Văn Duyệt (Saïgon)

C’est sous le règne du roi  Minh Mạng en 1836 qu’il y avait un édit royal destiné à limiter au maximum le pouvoir de l’eunuque. Selon cet édit, les eunuques n’étaient  pas autorisés à participer au rang de mandarins et ils n’étaient pas considérés comme des mandarins. Cependant, dans la fonction d’eunuque, il y avait  aussi cinq grades, chacun ayant un rôle déterminé  et une responsabilité différente mais le but restait  de servir le roi dans le palais intérieur.

Étant la personne la plus proche du roi, l’eunuque devait donc organiser la date et l’heure des contacts  entre le roi et ses concubines et devait enregistrer leur nom au cas où une concubine  était enceinte  et  confirmer la naissance  de l’enfant. En conséquence, toute concubine voulant retenir l’attention du roi  devait compter sur l’éloquence de l’eunuque.

En outre, l’eunuque devait s’occuper des concubines veuves vivant dans les mausolées. Pour se distinguer des mandarins, les eunuques avaient l’habitude de porter une tunique en soie de couleur verte avec un morceau de tissu à motif floral sur leur poitrine et un chapeau fait de façon particulière. Ils avaient aussi une vie misérable.

Lorsqu’ils étaient malades, ils n’avaient pas le droit de rester dans le palais royal mais ils  devaient retourner au palais « Cung Giám Viện »  situé au nord de la citadelle impériale. Si l’eunuque ne pouvait pas être guéri,  il devait y rester  et attendait de mourir.  Il ne pouvait pas retourner au palais royal Quand il était jeune et dans un état d’ambiguïté sexuelle, il devait se rendre aux autorités locales. Puis il était renvoyé au ministère des rites dans la capitale et il était condamné  à travailler dans la cour intérieure, une fois son état reconnu. Au cas où il était choisi comme l’eunuque du roi, il  avait un grand nombre d’avantages matériels. Ses parents recevaient les subventions de la cour royale. Au cas où une grande fête avait lieu, il recevait de l’argent ou des étoffes en récompense. 

Quand les eunuques devenaient vieux, ils n’avaient pas d’enfants pour maintenir la lignée et le culte au moment de leur mort.  Ils étaient obligés d’apporter conjointement leur contribution pour réparer la pagode Từ  Hiếu  à Hué en 1893 et ​​se servir de cet endroit comme lieu de repos et de paix. C’est pourquoi à l’époque coloniale, les Français appelaient ce lieu  sous le nom « pagode  des eunuques » car il y a encore aujourd’hui  de nombreuses tombes d’eunuques de la dynastie des  Nguyễn.

 

La palanche (Chiếc đòn gánh)

 

Chiếc đòn gánh (la palanche).

Version française

 Khi đến đất nước ta các người ngoại quốc được nhìn thấy ít nhất một lần người bán hàng rong nhẹ nhàng nhún nhảy bên phải bên trái với đôi quang gánh trên đường phố.  Đối với họ, đây là một hình ảnh thật lạ mắt  và quyến rũ nhưng đối với chúng ta nó là một hình ảnh quá quen thuộc, nó làm chúng ta nao lòng, nặng trĩu trong tâm hồn vì nó gợi lại cho chúng ta hình ảnh của nguời phụ nữ  Việt nam  can đãm,  hy sinh, chịu đựng  dù nghèo khổ  đến đâu  vẫn cố gắng bán rong tần tão nuôi con hay gia đình nhờ  chiếc  đòn gánh dung dị nầy. Đối với họ, một người phụ nữ nhỏ bé Việt Nam nầy làm sao lại có thể  gánh nổi đến hàng chục cân chỉ nhờ cây đòn gánh mỏng manh, quả thật  một điều kỳ dị phi thường. Theo kết quả được được công bố vào  đầu tháng 1 năm 2020 từ  sự hợp tác của ba đại học Edith Cowan (Mỹ),  Calgary (Gia Nã Đại) và trường y dược của đại học Thái Nguyên thì chúng ta  biết được những người mang  chiếc đòn gánh bằng tre tiết kiệm tới 20% năng lượng so với các đòn gánh cứng.  Chính nhờ sự điều chỉnh được sự cân bằng của họ trong bước đi khiến giảm đến 18% lực mà số tạ ép lên vai nhất là họ có thể chuyển vai nên bớt mệt mỏi. Nguyên liệu làm đòn gánh dồi dào nhất là tre được  trông thấy  ở đồng bằng còn ở  các vùng thượng du thì làm bằng gỗ. Ngay từ khi làm chiếc đòn gánh, phải cẩn thận trong việc  chọn lựa  những gốc tre già và thẳng, không bị kiến làm tổ trong ống và có đốt đều nhau. Rất quan trọng khi làm đòn gánh, đó là độ dẻo dai. Nếu đòn gánh quá cứng thì người gánh lâu sẽ rất đau vai, mềm quá thì sẽ không đỡ được trọng lượng ở  hai đầu, dễ bị gãy.  Chính nhờ ờ  sự dẻo dai của chiếc quang gánh nên sự uyển chuyển của người phụ nữ Việt trông rất mềm mại duyên dáng trong bước đi.

Theo nhà văn Hữu Ngọc, cái vật lãng mạn nhất ở phương Đông, chẳng rõ nó có từ bao giờ có lẽ nó được kết tinh từ nền văn hóa nông nghiệp với trí óc tưởng tượng của người cần lao  để rồi nó  trở thành một phương  tiện di chuyển hữu hiệu  ở  trên các bờ ruộng chật hẹp và các đường về làng lại nhỏ bé.

Lúc đầu người nông dân dùng gánh lúa nặng kẽo kẹt để đi qua các cánh đồng vài cây số  mang lúa về nhà. Nhạc sỹ Phạm Duy có dịp nhắc đến chiếc đòn gánh trong nhạc phẩm « Gánh Lúa » như sau :

Lúc trời mà rạng đông, rạng đông
Bóng người thấp thoáng cuối đường thanh vắng
Bước đều mà quang gánh nặng vai….

Nó còn dùng để gánh nước giếng  ở trong làng. Có tục lệ là dù nghèo hay giàu  phải gánh nước đêm ba mươi  để  tượng trưng đầy đủ những tiện nghi vật chất ở trong nhà. Nếu nhà có đầy nước thì có nghĩa là chúng ta có một mái nhà sung túc, có cơm ăn, có áo mặc vân vân … Sau đó nó trở thành bầu bạn của bao nhiêu thế hệ phụ nữ Việt Nam bán rong ở các phiên chợ hay  len lỏi chân bước liêu  xiêu  trên các nẻo đường phố tấp nập mà chúng ta hay thường trông thấy giờ đây ở các đô thị. Đó là hình ảnh của những người mẹ tảo tần nuôi con từ lúc còn thơ, chẳng từ gian nan gồng gánh cả gia đình với chiếc quang gánh. Nói như nhà thơ Nguyễn Vân Thiên trong bài thơ «Cây  đòn  gánh» :

Da xương bào cật tre mòn
Trăm năm mẹ gánh đời con qua đèo
Gánh yêu thương, gánh khổ nghèo
Gánh mơ ước lẫn gieo neo đi về…

Phải cật tre tuy rất cứng thế lại mòn vì thấm ướt  bao nhiêu năm nay mồ hôi nước mắt của mẹ.  Lúc còn thơ, con còn được ngồi trong quang gánh lúc chiều  về.  Còn bây giờ  con càng lớn  thì  quang gánh của mẹ càng thêm nặng dù con không có ngồi đi nữa, đôi vai mẹ càng thêm hao gầy, lưng mẹ vẫn còng thêm vì gia đình. Biết bao giờ cho con gánh mẹ lại một lần, đó cũng là niềm ước mơ của nhạc sỹ Quách Beem  trong nhạc phẩm « Gánh Mẹ ». Hình ảnh của  người phụ nữ  bán rong với  đôi quang gánh  trên đường  phố  nó ăn sâu từ bao giờ trong tâm khảm của  biết bao nhiêu người dân Việt và nói lên sự can đảm  phi thường, tình yêu bao la thắm thiết  của  một người mẹ, một người vợ, người phụ nữ sống vì các con, vì chồng, vì cuộc sống  lam lũ hằng ngày. Uớc mong một ngày nào đó ở  đất nước chúng ta hình ảnh quen thuộc này nó chỉ còn là một ký ức của một thời xa xôi nhờ  sự phát triển của công nghệ hoá khiến chúng ta  không còn thấy nao lòng  mà cảm thấy  hân hoan vì nó là một  biểu tượng đặc trưng từ đây trong  văn hóa Việt Nam cũng như trống đồng, chiếc áo dài, hoa sen, con trâu vân vân…

La palanche 

Débarqués dans notre pays, les  touristes étrangers ont  l’occasion de voir au moins une fois une marchande ambulante balancer doucement son corps  au rythme de son déplacement tantôt à gauche, tantôt à droite avec la palanche et ses deux paniers dans les rues de la ville. Pour eux, il s’agit d’une image étrange à leurs yeux et séduisante. Par contre pour nous, c’est une image très familière qui nous rend profondément attristés et nous  fait mal au cœur car elle nous évoque l’image d’une femme vietnamienne courageuse, résignée à vivre dans une extrême pauvreté, n’arrêtant pas à faire beaucoup de sacrifices et s’efforçant de colporter, grâce à cette palanche rudimentaire, ses marchandises journalières pour nourrir sa famille.  Pour ces touristes, comment cette femme  vietnamienne de petite taille  arrive-t-elle à porter des dizaines de kilos avec seulement une mince tige en bambou allongée et incurvée?  C’est en fait un miracle extraordinaire. Selon les résultats récemment connus au début du mois de janvier 2020 provenant de la coopération des universités Edith Cowan (USA), Calgary (Canada) et l’école de médecine et de pharmacie de  l’université Thái Nguyên, on sait que les  gens portant  la palanche en bambou économisent jusqu’à 20 % de leur énergie par rapport à ceux se servant des  tiges en bois rigide en ajustant leur équilibre dans la marche, ce qui fait diminuer de 18%  le poids du fardeau  supporté avec la possibilité de changer d’épaule leur palanche pour soulager la fatigue.

 

Le matériau de base  employé  abondamment dans la fabrication de la palanche  est le bambou que l’on trouve surtout dans les plaines et dans les hautes terres, elle est faite de bois. Au moment de sa fabrication, il faut prendre soin de choisir bien droit le pied du vieux  bambou. Celui-ci  ne porte aucune trace du nid de fourmis dans sa cavité et ayant des entre-nœuds uniformément répartis. Il est important de connaître son degré de flexibilité lors de cette fabrication. Si la tige est trop dure, la personne qui la porte longtemps aura beaucoup de douleur à l’épaule. Par contre  une tige trop molle ne peut pas supporter le poids aux deux extrémités, ce qui facilite la cassure.

 

 

(Chiếc đòn gánh)

C’est grâce à la flexibilité de la palanche que le mouvement de la femme vietnamienne fait preuve de sa souplesse étonnante  et sa grâce dans ses pas.

Selon l’écrivain Hữu Ngọc, on ne connait pas exactement  la date d’apparition de l’objet le plus romantique de l’Orient. Celui-ci  provient probablement de la civilisation  agricole avec l’esprit d’invention d’un « ouvrier-paysan »  afin de devenir le moyen de transport le plus efficace sur la lisière des champs étroits et des petits chemins d’accès au village.

Au début, la paysanne se sert de la palanche pour ramener à la maison la lourde charge du riz paddy à travers des champs  sur quelques kilomètres. Le célèbre compositeur Phạm Duy a eu l’occasion d’évoquer cet instrument dans sa chanson « Gánh Lúa » comme suit:

Lúc trời mà rạng đông, rạng đông
Bóng người thấp thoáng cuối đường thanh vắng
Bước đều mà quang gánh nặng vai….

Au moment de l’aube se profilent au bout du chemin peu fréquenté les ombres des gens …
Leurs pas sont réguliers mais la palanche commence à se faire sentir sur leurs épaules ….

La palanche  est également utilisée pour transporter l’eau du puits du village. Il existe une coutume selon laquelle les pauvres ou les riches doivent ramener de l’eau avec la palanche  la trentième nuit du nouvel an pour symboliser tout le confort matériel qu’ils ont dans  leur maison.

Si la maison a assez d’eau, cela signifie qu’on est aisé, on a assez de la nourriture à manger, des vêtements à s’habiller etc…

Puis la palanche est devenue le compagnon de nombreuses générations de femmes vietnamiennes tentant de vendre leurs marchandises aux coins des marchés ou se faufilant à petits pas chancelants dans les rues animées que l’on voit souvent aujourd’hui dans les zones urbaines. C’est l’image des mères  prenant soin de leurs enfants dès leur plus jeune âge et  ne renonçant pas à affronter les difficultés et les afflictions en subvenant aux besoins de la famille (grâce à  leur palanche) . Comme l’a dit le poète Nguyễn Văn Thiên dans le poème intitulé « La palanche »:

Da xương bào cật tre mòn
Trăm năm mẹ gánh đời con qua đèo
Gánh yêu thương, gánh khổ nghèo
Gánh mơ ước lẫn gieo neo đi về…

Ayant sa peau ratatinée semblable à l’écorce  de la tige du bambou usée, la mère continue à «accompagner l’enfant tout au long de sa vie » au fil des années, garder constamment  l’amour, supporter la pauvreté,  continuer  à avoir des rêves ainsi que des difficultés rencontrées.

Même si l’écorce de la palanche en  bambou est très coriace, elle  est usée car elle  a été mouillée au fil de nombreuses années par la sueur et les larmes de notre  mère. Quand  nous étions enfants, nous pouvions encore nous asseoir dans les paniers suspendus à la fin de la journée. Mais  maintenant nous sommes grands et nous ne pouvons plus nous y asseoir. Malgré cela, les  épaules de notre mère continuent à s’amaigrir, son dos ne s’arrête pas à  se courber à cause de la famille. Comment pourrais-je porter une fois ma mère ? C’est le souhait ardent du musicien vietnamien  Quách Beem dans la chanson « Gánh Mẹ ».

L’image d’une colporteuse vietnamienne trainant dans la rue sa palanche et ses deux suspensions est ancrée depuis longtemps  dans le fond du cœur de nombreux Vietnamiens et témoigne du courage extraordinaire et de l’immense amour d’une mère, d’une épouse, d’une femme qui vit pour ses enfants, pour son mari et pour sa vie quotidienne.

Espérons qu’un jour cette image familière ne soit que le souvenir d’une période lointaine grâce au développement de la technologie dans notre pays. Elle ne nous rend plus attristés mais elle va nous réjouir  car elle devient désormais un symbole de représentation  dans notre culture vietnamienne comme les tambours de bronze, la tunique (Áo dài), le lotus, le buffle etc…

Giếng nước (Puits)

Giếng nước (Puits)

Version française

Cây đa, mái đình, giếng nước là những thành phần không thể thiếu được  trong bức tranh của các làng quê ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Bao lần đi tham quan chùa chiền hay đình làng ở miền Bắc thì lúc nào cũng thấy có cái giếng ở đâu đó. Người Việt cổ có quan niệm «thiên viên địa phương (trời tròn đất vuông)» nầy nên có thói quen chia mãnh đất ra làm chín lô với mô hình dựa trên chữ  tĩnh  (giếng nước) viết bằng chữ Hán. Lô ở trung tâm dùng để xây cái giếng còn 8 lô  xung quanh còn lại để xây cất nhà. Đây là đơn vi gia cư đâu tiên  trong xã hội nông nghiệp và từ đó dẫn đến việc thành hình làng cổ.  Giếng nước hay thường được thấy ở trong làng quê dưới dạng hình tròn tượng trưng cho trời, giếng hình vuông tượng trưng cho đất.  Giếng còn thấy ở trước cổng chùa hay đình vì theo phong thủy, những nơi nầy được xem là « địa linh », là những nơi có « huyệt đạo » thì giếng ở đó không bao giờ cạn nước được dù có ở đỉnh núi cao như núi Nưa nơi thờ Bà Triệu (Thanh Hoá). Trong những ngày lễ hội, các bộ  lão hay dùng nước giếng để nấu chè cúng thần linh  ở  đình hay Phật (ở chùa)  và để tắm rửa các tượng. Ngoài ra giếng được xem bởi người dân trong làng là một không gian để hẹn hò gặp gỡ. Đi làm ở đồng về thì cũng ghé qua cái giếng nước để  rửa mặt hay rửa tay cho mát, có khi lại uống nước nếu là giếng mát và sạch. Nói tóm lại ở đâu có làng là có giếng nên giếng được xem lúc nào là hồn xưa của làng, đấy là cái vẻ đẹp ngàn đời của nông thôn Việt Nam mà nhà thơ Nguyễn Bính nhắc đến trong không gian làng quê.

Trong văn hóa nhân loại thì giếng nước mang lại sự dồi dào, sung mãn và đầy đủ. Bởi vậy người Pháp hay thường dùng câu « nguồn hiểu biết » để ám chỉ  các nhà học giả bởi vì họ biết lắm chuyện cũng như giếng nước, múc mấy cũng không cạn.

Giếng còn mang cả những huyền tích lịch sử và ý nghĩa tâm linh nữa. Ở  đền Cổ Loa, huyện Đông Anh, thì có giếng Ngọc nằm ngay trước cửa đền An Dương Vương nhắc  đến chuyện tình éo le của Trọng Thủy -Mỵ Châu. Ở trong khu đền các vua Hùng (Phú Thọ) thì có đền Giếng, nơi mà  hai nàng công chúa Ngọc Hoa và Tiên Dung, con của Vua Hùng thứ 18 thường đến đây soi gương chải tóc.  Còn ở hoàng thành Thăng Long (Hà Nội)  thì qua các  công trình khảo cứu, người ta tìm được cho đến ngày nay  26 giếng nước. Có nhiều tập tục vẫn còn giữ  và có liên quan đến giếng nước chẳng hạn  như  đến thời điểm này, trai ở làng Diềm (Bắc Ninh) đi hỏi vợ vẫn mang gạo nếp ra, lấy nước ở giếng vo để thổi xôi đem đi hỏi vợ. Hay là  ở làng Mông Phụ (Đường Lâm, Sơn Tây) có cái giếng được gọi là « giếng xin sữa ».  Mặc  dù giếng rất nhỏ, nhưng đã ngàn năm nay nước giếng vẫn luôn đầy và trong vắt. Những bà mẹ ở làng Đường Lâm thiếu sữa nuôi con thường đến làm lễ xin sữa, rồi uống nước giếng là có đủ sữa cho con bú. Ở phiá nam Hà Thành, các làng  Mai Động và  Hoàng Mai nhờ làm từ giếng nước nên món Đậu Phụ rất ngon cũng như ở Hội An với món Cao Lầu làm từ nước giếng Ba Lễ, một giếng cổ trứ danh của vùng. Trong kho tàng ca dao Việt Nam, hình tượng giếng nước rất khá phổ biến mà còn đa dạng về ý nghĩa và mang nhiều sắc thái thẩm mĩ độc đáo. Thưở xưa người thiếu nữ ở làng quê  hay thường bị ép duyên lấy chồng bởi gia đình nên mới có sự may rủi và mới có câu dao như sau:

Thân em như hạt mưa rào
Hạt rơi xuống giếng, hạt và vườn hoa

Như cái giếng nước, người thiếu nữ phải chấp nhận số  phận của mình:

Thân em như giếng giữa đường
Người khôn rửa mặt, người thường rửa chân.

Sống trong một xã hội phong kiến lạc hậu, người đàn ông vẫn thường được xem ưu tú trọng đãi, có thể làm nên sự  nghiệp  dù  có  nông nổi đi nữa. Còn đàn bà dù có sâu sắt chi cho mấy mà tấm lòng nông cạn  cũng như cái khơi không sâu  đựng trầu.   Đây là một câu tục ngữ được sử dụng  với nghĩa châm chọc và thể hiện trọng nam khinh nữ trong xã hội cũ.

Đàn ông nông nổi giếng khơi
Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu

Nói đến giếng nước thì không thể nào không nhắc đến bài  « Ngọc tỉnh liên phú (Hoa sen trong giếng ngọc) » của Mạc Đỉnh Chi. Sen là loại cây mà sĩ phu Mạc Đỉnh Chi lựa chọn để bộc lộ tài năng xuất chúng và thiên tài chưa từng thấy. Vua Trần Anh Tôn ngần ngại phong ông làm « tiến sỹ » đầu tiên vì ông quá xấu xí vào thời điểm ông nhận bằng. Để thuyết phục nhà vua, ông tự ví mình như hoa sen trong giếng ngọc ở núi Hoa Sơn.  

Giống quý ấy ta đây có sẳn
Tay áo nầy ta chứa đã lâu
Phải đâu đào , lý thô màu
Phải đâu mai, trúc dãi dầu tuyết sương
Cũng không phải tăng phường câu kỷ
Cũng không là Lạc Thủy mẫu đan
Cũng không là cúc, là lan
Chính là sen ở giếng vàng đầu non.

Giờ đây, trong quá trình đô thị hóa rất nhanh ở các vùng nông thôn  khiến tạo ra một khuôn mặt mới ở các làng quê. Biết rằng đời sống kinh tế nó linh hoạt hơn, nó giúp dân ta ra khỏi nghèo đói nhưng nó  cũng làm mất đi  phần nào cái yên tĩnh, những tập tục, những nghề truyền thống, những kỷ niệm của một thời thơ ấu, những biểu tượng  ở các làng quê. Giếng làng vừa thể hiện nét đẹp của làng quê mà vừa  là nơi sinh hoạt rất thân thương nhưng giờ đây không còn nữa, được lấp đi để phân lô, xây nhà bê tông cột  thép.  Làm sao có thể  bám giữ được « đất lề, quê thói » ? Đây là một thách thức không nhỏ để giữ  được giá trị truyền thống của làng quê.

Version française

 

 

 

 

 

 

 

Le puits d’eau

Le banian, le toit de la maison communale et le puits sont les éléments ne pouvant pas être manquants dans le paysage des  villages situés dans le delta du Fleuve Rouge. En visitant maintes fois les pagodes ou les maisons communales du Nord, on s’aperçoit qu’il y a toujours  quelque part un puits. Ayant  toujours l’idée que le ciel est rond et la terre plate,  les Proto-Vietnamiens  sont habitués à morceler une portion de terrain en neuf lots en prenant comme modèle le caractère Han 井 tĩnh  désignant le puits (giếng nước). Le lot au centre est prévu pour la construction d’un puits d’eau et les huit lots restants sont destinés pour la construction des maisons, ce qui constitue  ainsi la première unité d’habitation dans la société agricole et aboutit ainsi à la  formation d’un ancien village. Le puits est fréquemment visible dans le village soit sous la forme d’un cercle symbolisant le ciel soit sous la forme d’un carré représentant la terre. On le trouve aussi devant l’entrée de la pagode ou la maison communale car selon le Feng Shui, ces lieux sont considérés sacrés, des endroits ayant une structure topographique spéciale, ce qui ne fait pas tarir le puits même s’il est au sommet d’une montagne. C’est le cas de la montagne Nưa où il y a l’autel dédié à la dame Triệu. (Thanh Hoá).

Durant les jours de fête, les sages du village ont l’habitude de prendre l’eau du puits dans la préparation du thé pour offrir aux génies de la maison communale ou Bouddha (dans les pagodes) et dans les ablutions des statues. D’autre part, le puits est considéré par les villageois comme l’endroit idéal pour se donner le rendez-vous  et se rencontrer. En revenant des champs et des rizières, les villageois s’arrêtent au puits pour se laver le visage ou les mains et boire parfois de l’eau de puits si celle-ci est fraîche et propre.

Bref, là où il y a un village, on trouve aussi un puits. Celui-ci  est considéré en quelque sorte comme l’âme ancienne du village. C’est la beauté éternelle  de la campagne vietnamienne que le poète Nguyễn Bính a évoquée dans l’espace du village. Dans la culture de l’humanité, le puits évoque l’abondance, la plénitude et la complétude. C’est pourquoi les Français ont l’habitude de se servir de l’expression « puits de science ou puits d’érudition»  pour faire allusion aux érudits car ils connaissent beaucoup de choses comme un puits de savoir, un puits qu’on n’arrive pas à tarir malgré le puisement régulier d’eau.  Le puits revêt une importance toute particulière en légendes et a une signification spirituelle. Dans la citadelle  Cổ Loa du district Đồng Anh, se trouve  juste en face du temple du roi An Dương Vương le puits de jade évoquant l’histoire d’amour de Trọng Thuỷ- Mỵ Châu.  Dans le temple des Rois Hùng (Phú Thọ), il y a le Temple du Puits, où deux princesses Ngọc Hoa et Tien Dung, les filles du 18ème Roi Hùng, viennent souvent ici pour se regarder dans le miroir et se brosser les cheveux. Quant à la citadelle Thăng Long (Hà Nội), grâce aux fouilles archéologiques, on arrive à recenser jusqu’à aujourd’hui 26 puits d’eau. Il existe un grand nombre de traditions encore conservées et en liaison étroite avec l’eau du puits. C’est le cas des garçons du village de Diềm (Bắc Ninh) continuant à garder  jusqu’à aujourd’hui la tradition de laver du riz gluant à l’eau du puits pour faire « xôi vò »  avant de l’apporter à leurs fiançailles. Ou bien dans le village Mông Phụ (Đường Lâm, Sơn Tây) ; il existe un puits d’eau nommé « puits destiné à alimenter du lait maternel ». Malgré l’étroitesse du puits, celui-ci continue à être rempli et son eau reste limpide. Les femmes du village Đường Lâm n’ayant pas assez du lait maternel ont l’habitude de venir ici, d’y faire des offrandes avant de boire son eau. C’est ainsi qu’elles arrivent à avoir du lait maternel pour allaiter leur enfant. Dans le sud de Hanoï, les villages  Mai Động et Hoàng Mai sont connues pour leur plat Đậu Phụ fait avec l’eau de leur puits. C’est aussi le cas de Hội An (ou Faifo)  avec la spécialité gastronomique Cao Lầu préparée à partir de l’eau de  Ba Lễ, un ancien puits célèbre dans cette région. Dans le trésor des chansons populaires vietnamiennes, l’image du puits est assez répandue. Elle revêt non seulement plusieurs significations différentes mais aussi des nuances esthétiques originales. Autrefois, la fille du village est obligée d’épouser le mari selon l’arrangement imposé par sa famille. C’est pourquoi il y a le risque de se retrouver dans une situation aberrante et pour cela il y a l’humour ironique dans le vieil adage suivant:  

Thân em như hạt mưa rào
Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa

Mon sort ressemble à celui des pluies d’averse
Certaines tombent dans le puits, d’autres dans le jardin des fleurs.
Analogue à un puits d’eau, la fille est à la merci du destin.

Thân em như giếng giữa đường
Người khôn rửa mặt, người thường rửa chân.

Je suis comparée au puits trouvé sur la route
L’homme décent y lave le visage, le vulgaire y rince les pieds.

L’homme est toujours bien considéré  comme un puits profond dans une société féodale et arriérée malgré que le fait qu’il soit superficiel. Par contre malgré sa profondeur dans son âme, la femme est toujours taxée de ressembler à une boîte de bétel à rebord très court.  C’est  le proverbe qu’on emploie pour l’ironie et pour le mépris des femmes dans l’ancienne société.

Đàn ông nông nổi giếng khơi
Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu

L’homme, si superficiel soit-il est un puits profond
La femme, si profond soit-elle, est analogue à une boîte de bétel à rebord très court.

En parlant du puits d’eau, il est impensable de ne pas évoquer le poème intitulé « Ngọc tỉnh liên phú (Le lotus dans un puits de jade) » du lettré Mạc Đỉnh Chi. Le lotus est la plante choisie par lui-même pour révéler son talent inouï et son génie indescriptible lorsque le roi Trần Anh Tôn hésite à le nommer « Premier docteur » en le trouvant trop laid au moment de la remise du diplôme. Pour convaincre le roi, il se compare au lotus dans un puits de  jade  au sommet de la montagne Hoa Sơn

Giống quý ấy ta đây có sẳn
Tay áo nầy ta chứa đã lâu
Phải đâu đào , lý thô màu
Phải đâu mai, trúc dãi dầu tuyết sương
Cũng không phải tăng phường câu kỷ
Cũng không là Lạc Thủy mẫu đan
Cũng không là cúc, là lan
Chính là sen ở giếng vàng đầu non.

J’ai cette espèce précieuse à ma disposition
La manche de cette veste la contient depuis longtemps
Elle n’est ni le pêcher, ni le jambosier perdant l’éclat de la couleur
Elle n’est ni l’abricotier ni le bambou exposés aux intempéries de la neige et des rosées
Elle n’est pas non plus la baie dont l’odeur doit être évitée
ou la pivoine de Lạc Thủy,
ou le chrysanthème ou la fleur du magnolia
mais c’est le lotus dans un puits d’or au sommet de la montagne.

À présent, dans le processus d’urbanisation accéléré des campagnes, un nouveau visage se crée dans les villages. Sachant que la vie économique est plus dynamique, elle peut aider notre peuple à sortir de la pauvreté, mais elle détruit aussi en grande partie la tranquillité, les coutumes, les métiers traditionnels, les souvenirs d’enfance, les symboles représentatifs du village. Le puits  incarne non seulement la beauté particulière du village mais aussi le lieu d’activité intime et préféré de tous. Aujourd’hui il commence à disparaître  et à être remplacé  par la répartition des lots pour la construction des maisons en béton avec des colonnes de fer. Comment peut-on réussir à garder « les règles et les traditions locales de chaque village »? C’est un grand défi de pouvoir garder les valeurs traditionnelles du village dans les années à venir.

 

Tết Trung Thu (Fête de la mi -automne)


Tết Trung Thu

Version française

Ở Việt Nam, nông nghiệp được đóng một vai trò  trọng yếu bởi vì người ta rất chú trọng đến mưa, nó làm cho đất được màu mỡ. Đây là lý do tại sao rồng được  có mặt chủ yếu  ở nơi nầy vì nó biểu tượng mưa và có khả năng sinh sản. Gần gũi với người dân Việt này, rồng đóng góp  vào việc thành công của mùa thu gặt hè tới. Không có gì đáng ngạc nhiên khi hàng năm ở Việt Nam vào đêm rầm ngày 15 tháng 8 âm lịch, người Việt cổ có tục lệ  tôn vinh con động vật tuyệt vời này từ buổi ban sơ.

Đặc biêt vào Tết Trung Thu, rồng  hay thường  xuất  hiện trên các đường phổ  ở nông thôn lẫn thành thị với sự hoành tráng, hay được dẫn đầu ờ phiá trước trong cuộc diễu hành bởi  các biểu ngữ muôn màu, các đèn lồng được trưng bày dưới dạng các loại trái cây, các con vật sống dưới nước vân vân… Rồng được làm bằng tre đan, bộc bằng giấy hay vải và được nâng lên cao qua các cây sào để cho phép các  người vận chuyển làm thân rồng ngoằn ngoèo khi họ tạo vòng đi lại. Rồng thường được tháp tùng trong cuộc diễu hành với một con lân cũng làm bằng tre và bộc giấy màu nhưng chỉ có đầu lân và được một người cầm lấy  chắc và lay động bằng hai tay để mô phỏng điệu múa lân trong bầu không khí vui tươi. Múa lân được biểu diễn và hòa nhịp theo tiếng trống và tiếng chập chỏa để cầu xin được  hòa bình và thịnh vượng cho đất nước. Ở Việt Nam, Tết Trung thu là Tết của thiếu nhi. Đây là lý do tại sao chúng ta thường  thấy các trẻ con hay đi trong đêm nầy với  những chiếc đèn lồng được thắp sáng bởi những ngọn nến nhỏ bên trong và được làm không chỉ bằng giấy nhiều màu mà còn ở  dưới nhiều hình dáng khác nhau (ngôi sao, rồng, cá chép, thỏ, bươm bướm vân vân..) trên đường phố. Các trẻ con c òn mang mặt nạ theo hình ảnh của các anh hùng huyền thoại như Chí Phèo, Chú Tều vân vân.. và hay cầm trống lục lạc.

Đấy là lễ mà những đứa trẻ trở thành những người lớn sau nầy cũng không bao giờ quên được  bởi vì  nó vẫn để lại ở nơi chúng những kỉ niệm đẹp nhất

của tuổi thanh xuân theo năm tháng mặc dù  những món đồ chơi rẻ tiền nầy. Còn các thanh niên thì hay tham gia các cuộc thi hát xen kẽ (trống quân) trong khi các cụ thì dự đoán tương lai của đất nước bằng cách quan sát trăng tròn và màu sắc của nó. Sau đó, họ tụ nhau với gia đình hoặc bạn bè  ngồi chung quanh bàn để thưởng thức ăn bánh trung thu uống trà. Các bánh này thường  màu trắng và hay dính hoặc màu vàng và được nướng,  thường được gộp thành 4 bánh để trong các hộp các-tông vuông xinh xắn  được bán khắp mọi nơi khi đến gần ngày lễ trung thu. Lễ nầy được tổ chức hầu hết ở các quốc gia ở Châu Á theo các phong tục và truyền thống.

Trước hết  ở Trung Hoa, chúng ta quen thấy việc tổ chức ngày lễ này như là một truyền thống, nó có từ thời nhà Đường. Theo nhà nghiên cứu người Việt  Nguyễn Văn Huyền của Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp(EFEO), nhờ một đạo sĩ già của Lão giáo làm cái cầu vòng nối qua cây trượng ma thuật mà Hoàng đế Đường Huyền Tông (tức là Đường Minh Hoàng) lên được mặt trăng. Ngay sau khi trở về lại trái đất, ngài không ngừng buồn bã và hay thường tổ chức ca múa trong cung điện của ngài để nhớ  lại  các kỳ quan ở trên cung trăng. Kể từ đó, các nhà thơ, các nghệ sĩ và các trẻ em có tục lệ tôn sùng mặt trăng.

Ở Nhật Bản, lễ hội được tổ chức ở  tại các ngôi chùa Phật giáo, nơi mà những người tham gia hay mặc trang phục truyền thống và tôn vinh lễ hội bằng cách ca hát để bày tỏ lòng biết ơn đối với Mẹ Thiên nhiên. Theo âm lịch, Nhật Bản có hai lễ hội, một lễ được gọi là « Zyugoga » và lễ còn lại là « Zyusanya » vào ngày 13 của tháng 10. Lễ  đầu tiên thì có liên quan đến truyền thống « otsuki-mi (sự chiêm ngưỡng mặt trăng) ». Vào mùa thu, người ta có thể chiêm ngưỡng mặt trăng dưới ngày đẹp trời  trước thời điểm thu gặt muà màng và cảm ơn mặt trăng vì những lợi ích mà nó mang lại. Bất cứ ai tham gia lễ hội đầu tiên đều phải ăn mừng lễ hội thứ hai nếu không sẽ gặp xui xẻo. Như ở Việt Nam, trẻ em Nhật Bản tham gia vào cuộc diễu hành với chiếc đèn lồng hình con cá chép có ghi lại ngày sinh. Cá chép tượng trưng cho lòng dũng cảm vì trong truyện cổ tích Nhật Bản, cá chép là hiện thân của sức mạnh và lòng dũng cảm lội ngược dòng nước và mạnh dạn bất chấp các loại thú săn mồi.

Ở Hàn Quốc, Tết Trung thu là dịp để người Hàn bày tỏ lòng biết ơn đối với tổ tiên. Lễ hội này diễn ra một ngày trước đó và kết thúc sau ngày 15/8 trong âm lịch. Loại bánh truyền thống cho dịp này được gọi là  bánh “Songphyun” . Bánh nầy được làm từ gạo, đậu xanh, hạt mè và các quả hạch. Họ dành thời gian họ có để  viếng  thăm các nghĩa trang và  để bày tỏ lòng thành kính với tổ tiên và tham gia các hoạt động văn hóa khác (nhảy múa dưới trăng, mặc trang phục truyền thống vân vân…).

Ở Thái Lan, mỗi  gia đình đều  có tổ chức Tết Trung thu được gọi là “Tết trông trăng”.  Họ tận dụng cơ hội này để ngồi chung quanh bàn đầy trái cây (các quả đào, sầu riêng và bánh trung thu) và kể lại với nhau những câu chuyện xưa.

Ở Cao Miên, theo lịch của Phật Giáo, người Khơ Me chuẩn bị lễ vật, hoa tươi, cơm nhừ và nước mía cho buổi tối hôm đó. Khi mặt trăng bắt đầu nhô lên khỏi những ngọn cây, thì bữa tiệc có thể bắt đầu. Những người Khơ Me này có truyền thống hay đút cơm đầy vào miệng của trẻ con để tượng trưng cho sự dư dả.

Version française

C’est au Vietnam que l’agriculture joue un rôle de premier plan, car on attache une grande importance aux pluies qui fécondent le sol. C’est pourquoi le dragon y fait figure principalement car il est le symbole de la pluie et de la fécondité. Cet animal si proche des Vietnamiens doit apporter sa contribution à la réussite des moissons de l’été. Rien n’est étonnant de voir chaque année au Vietnam  dans  la nuit du quinzième jour du mois Août du calendrier lunaire la glorification de cet animal fabuleux depuis la nuit des temps par les Proto-Vietnamiens. Le dragon se manifeste à la fois dans les zones rurales et urbaines  en grande pompe, précédé  par d’étendards aux cinq couleurs, des lanternes figurant des fruits, des animaux aquatiques  etc… Le dragon  est fait en bambou tressé, enveloppé de papier et de toile et monté  sur des perches pour permettre aux porteurs de lui imprimer des mouvements serpentins en faisant la ronde. Il est accompagné souvent dans sa procession d’un lion  fait aussi en bambou et en papier coloré, présenté seulement par sa tête portée  et secouée par un homme avec ses deux bras pour simuler la danse du lion dans une atmosphère joyeuse.  Cette danse est  exécutée et rythmée au son des tambours et cymbales  pour demander la paix et la prospérité au pays. Au Vietnam, la fête de mi – automne est la fête des enfants. C’est pourquoi  on les voit promener durant cette nuit  leurs lampions éclairés par les petites bougies  et faits non seulement en papier multicolore mais aussi sous diverses formes  (étoile, dragon, carpe, lapin, papillon  etc…) dans les rues. Ils   portent  des masques à l’image des héros légendaires  (Chí Phèo,  Chú Tều etc…) et frappent sur leurs tambourins. C’est la fête que les enfants devenus plus tard adultes n’oublient jamais car elle leur laisse toujours  au fil des années  les meilleurs souvenirs de sa jeunesse en dépit du prix dérisoire de ces jouets. Durant la nuit de la fête, les jeunes gens participent  aux concours de chansons alternées (trống quân)  tandis que les sages tirent des présages pour l’avenir du pays en observant la pleine lune et sa couleur. Puis  ils se réunissent  plus tard dans la famille ou entre amis autour d’une table pour goûter avec du thé les gâteaux de lune. Ceux-ci sont blancs et gluants ou jaunes et grillés  et sont regroupés souvent  par quatre  dans des boîtes carrées en carton vendues partout à l’approche de la fête. On la célèbre dans la plupart des pays en Asie selon les us et traditions.

D’abord en Chine,  on est habitué à célébrer cette fête comme une tradition datant de l’époque de la dynastie des Tang. Selon le chercheur vietnamien  Nguyễn Văn Huyền (EFEO), grâce au guide d’un vieillard taoïste qui fit un pont pour l’empereur Tang Xuanzong (Đường Minh Hoàng) avec son bâton magique, ce dernier monta dans la lune. Dès son retour sur la terre, il ne cessa pas de s’attrister et il fit exécuter dans son palais musique et danse pour sa nostalgie des merveilles lunaires. Depuis lors, les poètes, les artistes et les enfants n’arrêtent pas d’honorer le culte de la lune.

 Au Japon, la fête est organisée dans les temples bouddhistes où on trouve leurs participants portant des vêtements traditionnels et honorant cette fête  en chantant pour exprimer leur gratitude  envers la mère Nature.  Dans le calendrier lunaire, le Japon a deux festivals dont l’un est connu sous le nom « Zyugoga » et l’autre est « Zyusanya »  au 13ème jour du mois Octobre. Le premier est associé à la tradition « otsuki-mi (contemplation de la lune)». En automne, on peut contempler la lune sous son beau jour juste avant la période des récoltes et la remercier pour les bénéfices qu’elle apporte. Quiconque  participe au premier festival  doit  célébrer le second sinon il aura la malchance. Comme au Vietnam, les enfants japonais se joignent au parade avec leur lanterne en forme de carpe sur laquelle est écrite sa date de naissance. La carpe symbolise le courage car dans les contes de fées nippons, la carpe incarne la force et le courage de remonter le cours d’eau à contre sens et de braver tous les prédateurs.

En Corée, la fête de la mi-automne  est une occasion pour les Coréens d’exprimer leur gratitude envers leurs ancêtres.  Cette fête a lieu la veille et se termine après le 15 Août dans le calendrier lunaire.  Le gâteau traditionnel  pour cette occasion est « Songphyun » qui est fait avec du riz, des haricots verts, des sésames et des noix. Ils passent leur temps à visiter les cimetières pour montrer leur respect envers les ancêtres et prennent part à  d’autres  activités culturelles (danse sous la lune, port du costume traditionnel etc …). 

En Thaïlande, chaque ménage célèbre aussi la fête de mi-automne connue sous le nom «Fête de la lune ». On profite de cette occasion pour se mettre autour de la table remplie de fruits (pêches, durions et gâteaux de lune) et pour raconter les anciennes histoires.

Au Cambodge, selon le calendrier bouddhiste,  les Khmers préparent les cadeaux, les fleurs fraîches, le riz écrasé et le jus de canne à sucre pour cette soirée. Quand la lune commence à monter au dessus du sommet des arbres,  on peut démarrer la fête. Ces Khmers ont la tradition de mettre  pleinement dans la bouche d’un enfant le riz pour symboliser l’abondance.

Cây sung (Le figuier)

Le figuier

Version française

Cây sung là một loại cây quen thuộc với chúng ta, thường sống ở các vùng nhiệt đới như ở đất nước ta. Nó được nhận diện ra nhờ các lá xanh có dạng hình mũi mác hay hình trứng, dài khoảng 5 đến 10 cm và sắp xếp theo hình xoắn ốc xung quanh cành cây. Nó được nổi bật  trong thế giới thực vật qua phương thức nở hoa và đậu quả. Nó sinh ra được  hai loại hoa:  hoa đực (vô sinh) và  hoa cái (sinh sản) nhưng các  hoa cái nầy không thể thụ phấn được cần nhờ  đến một loại sâu bọ như loại  Blastophaga, một loại ong thật nhỏ bé của cây sung (Blastophaga psenes).  Nhờ con ong cái nhỏ bé nầy mà các  hoa cái mới thụ phấn và  mới có nhiều quả bế (akènes) chính đây mới là những hạt li ti bé nhỏ, những quả thật sự ở  trong đài hoa  dưới dạng cái kén (một quả giả tròn trịa  chính mùi) được trông thấy ở  bên ngoài  (infrutescence). Do đài hoa ôm trọn hoa cái và hoa đực ở bên trong cái kén  nên chúng ta không nhìn thấy. Vì vậy chúng ta cho rằng cây sung không có hoa. Khi ong chung vào ở lổ hở (ostiole) của đài hoa thi ong bị vỡ cánh và râu nên không ra được, chỉ biết giúp hoa cái thụ phấn để có trái rồi chết khiến ta thường nghe nói có  ăn được một  trái sung thì ta có  ăn thêm một con ong chết khiến người ăn chay không bao giờ thích ăn trái sung. Thật sự trái sung có tiết ra một loại enzyme làm tiêu tan thể xác của con ong và chế biến nó thành protein.

 Cây sung thường thấy có quả chớ không thấy hoa. Phải chẻ ra làm đôi mới  thấy hoa nên gọi là giống ẻn hoa (cryptogame). Người Trung Hoa gọi là “vô hoa quả”. Trong kho tàng thành ngữ tiếng Việt, cây sung thường được nhắc đến nhiều.

Chờ cho sung rụng nằm dài gốc cây.

Cây sung là loại cây có trái không mọc ở cành cây mà mọc từ gốc đến ngọn và hay thường mọc thành từng chùm ở thân cây. Bởi vậy không cần mệt phải leo trèo để hái quả, chỉ cần vói tay là được  mà cũng chẳng cần đứng chi cả. Câu thành ngữ  nầy dùng chỉ những kẻ lười biếng quá mức.

Ăn sung nằm gốc cây sung

Lấy nhau thì lấy, nằm chung không nằm.

Đây là một thành ngữ dùng ám chỉ  một cuộc hôn nhân bị cưỡng ép, không thương mà phải lấy nhau. Dù có giấy tờ hôn thú đi nữa cũng nhất định không chịu nằm chung một giường. Mà  đôi khi còn có thái độ bất hợp tác với một chính quyền, một áp lực nào của ngọai bang nên tỏ ra có chủ trương thụ động đề kháng như thời kỳ thời thực dân Pháp đô hộ bắt dân ta phải chịu các hiệp ước dưới thời vua Tự Đức.

Còn “Ăn quả vả trả quả sung” để nói không có việc tương xứng trong việc mượn trả. Muốn nói đây có một người khôn lõi và một người khờ dại để bị lừa gạt trong cuộc giao dịch.  Quả vả thì rất to lớn thịt nhiều ở bên trong có hoa. Người Tây Phương thường gọi là “figue de Roxburg”. Còn quả sung thì nhỏ hơn lại tròn mà gọi là “figue sycamore”. Cả hai thuộc giống Ficus, họ Moracées.  Hay là: Ăn sung giả ngái. Câu nầy ám chỉ sự lường gạt và vong ân bội nghiã vì sung và ngái hai loại quả hoàn toàn khác giống, một thứ ăn được còn một thứ không ăn được. Để chỉ người không biết điều, chỉ nghĩ đến mình mà chẳng nghĩ ai cả và ích kỷ thì dân ta hay dùng câu thành ngữ như sau:

Ăn sung ngồi gốc cây sung
Ăn rồi lại ném tứ tung ngũ hoành.

 

Cây sung còn tượng trưng cho người ẩn sĩ  vì hoa của cây sung chúng ta biết  không bao giờ thấy thường ẩn  trong đài hoa. Nhắc đến  biểu tượng nầy thì cũng không thể quên cụ Phan Bội Châu (1867-1940). Đây là một nhà yêu nước lớn ở đầu thế kỷ 20 trong thời kỳ Pháp thuộc.  Ông bị thực dân Pháp bắt cóc tại Thượng Hải   giải về nước lãnh án tử hình, mặc dù trước đó (1912) ông đã bị đối phương kết án vắng mặt. Trước làn sóng phẫn nộ của dân chúng, toàn quyền Alexandre Varenne của đảng SFIO buộc lòng nhượng bộ, đem ông về Huế giam lỏng. Từ đó ông sống ở một ngôi nhà nhỏ ba gian ở xóm Bến Ngự như nhà ẩn sĩ, bất hợp tác với chính quyền thực dân Pháp. Ông sống với một cuộc sống giản dị cho đến ngày 29 Tháng 10 dương lịch 1940. Đó là  ngày ông từ trần và hưởng thọ 74 tuổi. Ông ra đi mang nhiều hoài  bão, bao nhiêu tâm sự  và còn để lại cho chúng ta một lý  tưởng “Sống” của  một chí sĩ yêu nước.

Sống tủi làm chi đứng chật trời
Sống nhìn thế giới hổ chăng ai?
Sống làm nô lệ cho người khiến
Sống chịu ngu si để chúng cười
Sống tưởng công danh, không tưởng nước
Sống lo phú quý, chẳng lo đời
Sống mà như thế đừng nên sống
Sống tủi làm chi đứng chật trời.

Le figuier

Le figuier qui nous est très familier  est un arbre vivant souvent dans les régions tropicales comme dans le cas de notre pays. On le reconnaît grâce à ses feuilles lancéolées ou ovales de couleur verte foncée, longues de 5 à 10 cm et  disposées en spirale autour du rameau. Il se distingue dans le monde végétal par son mode de floraison et de fructification. Il produit deux types de  fleurs: les fleurs mâles (stériles)  et femelles (fertiles) mais ces dernières ne peuvent  être pollinisées  sans la collaboration d’insectes  du genre Blastophaga, une sorte de guêpe  lilliputienne (Blastophaga psenes). C’est grâce à celle-ci que ces fleurs femelles reçoivent la pollinisation et ont plusieurs akènes qui sont les minuscules grains trouvés dans la chair ou les vrais fruits dans le réceptacle floral sous la forme d’un cocon (faux fruit ou infrutescence), charnu à maturité et visible à l’extérieur. À cause de la protection totale du réceptacle floral, on ne voit ni les fleurs mâles ni les fleurs femelles. C’est pour cela qu’on dit que le figuier n’a pas de fleurs. Lors de l’introduction de la guêpe dans ce réceptacle par la petite ouverture (ou ostiole), la guêpe se brise les ailes et les antennes. Elle ne peut pas en ressortir. Elle apporte la pollinisation  aux fleurs enfermées pour donner naissance à un fruit. Elle se retrouve bloquée et meurt dans le fruit. On est habitué à dire qu’en mangeant une figue, on mange également une guêpe morte.  C’est pour cela qu’une personne végétarienne n’aime pas manger la figue. La figue sécrète en fait une enzyme qui dissout le corps de l’abeille et le transforme en protéine.

On ne voit que sur le figuier les fruits mais pas les fleurs. Il faut couper la figue en deux pour pouvoir voir les fleurs à son intérieur (cryptogame). Les Chinois l’appellent sous le vocable «l’arbre sans fleurs». Dans le trésor des idiomes vietnamiens, le figuier est souvent mentionné.

Chờ cho sung rụng nằm dài gốc cây.

Dans l’attente de la chute de ses fruits, on peut s’étaler au pied du figuier.

Le figuier est un arbre dont les fruits ne poussent pas souvent sur les branches mais on les voit  apparaître souvent groupés en grappes sur le tronc d’arbre ou de la racine jusqu’à la cime. Par conséquent, il n’est pas nécessaire de se lasser de grimper pour cueillir les fruits. Il suffit de tendre la main pour les prendre  et de ne pas avoir besoin de se tenir debout. Cet idiome est utilisé pour désigner ceux qui sont extrêmement paresseux.

Ăn sung nằm gốc cây sung
Lấy nhau thì lấy, nằm chung không nằm.

En mangeant la figue, on doit rester au pied du figuier.
En consentant à se marier ensemble, on n’est pas obligé de se coucher dans le même lit.

C’est un idiome employé pour dénoncer un mariage forcé sans aucun amour mutuel et véritable. Malgré que le  certificat de mariage soit délivré, on ne veut pas  partager certainement le même lit. Mais parfois il y a aussi une attitude de non-coopération avec un gouvernement et  une pression étrangère. Cela conduit à avoir une politique de résistance passive. C’est le cas de la période coloniale française où le peuple vietnamien fut obligé d’accepter des traités sous le règne du roi Tự Đức.

On se sert de l’idiome  « Manger votre figue et rendre une autre » pour dire qu’il n’y a pas de correspondance parfaite entre l’emprunt et le retour. Cela veut dire qu’il y a un homme fourbe  et un homme  crédule  qui se laisse duper dans les transactions. Les figues qui sont très grosses et charnues avec des fleurs  cachées à l’intérieur, sont appelées  souvent « figues de Roxburg » par les Occidentaux. En revanche, les figues qui sont plus petites et rondes, sont connues sous le nom de « figues sycomores ». Toutes les deux appartiennent au genre Ficus et sont issues de la famille Moracées. Ou bien: « Manger les figues sycomores  et rendre les figues d’une autre espèce de nom ngái ». Cet  idiome est employé pour faire allusion à la tromperie et à l’ingratitude parce que ces figues sont deux fruits complètement différents, l’un comestible et l’autre non comestible. Pour désigner quelqu’un égoïste qui ne connait pas le savoir-vivre et ne pense qu’à ses intérêts sans tenir compte de ceux des autres on est habitué à employer l’idiome suivant:

Ăn sung ngồi gốc cây sung
Ăn rồi lại ném tứ tung ngũ hoành.

En mangeant la figue, on doit rester assis à côté du figuier.
Une fois la consommation terminée, on ne doit pas jeter partout le reste.

Le figuier est employé fréquemment  pour désigner un ermite car on ne voit jamais la fleur du figuier qui se cache dans le réceptacle floral (ou faux fruit). En évoquant cette représentation symbolique, on ne peut pas oublier Phan Bội Châu (1867-1940). C’est un grand patriote vietnamien au début du 20ème siècle à l’époque coloniale française. Il fut kidnappé à Shanghai, ramené au Vietnam et condamné à mort malgré qu’il eût reçu auparavant en 1912 un arrêt de mort en son absence. Face à la vague de protestation de la population locale, le gouverneur Alexandre Varenne du parti SFIO fut obligé de céder en l’astreignant à la résidence surveillée à la capitale impériale Huế. Dès lors, il mena sa vie journalière  comme celle d’un ermite dans une petite maison dans le hameau Bến Ngự et refusa de collaborer avec les autorités coloniales. Il choisit la voie d’une vie simple et tranquille jusqu’au jour de son décès  le 29 Octobre 1940 à l’âge de 74 ans.  Il nous quitta en emmenant avec lui toutes ses aspirations et  ses sentiments intimes et en nous laissant surtout la façon de «se comporter» d’un lettré  idéaliste comme lui à travers son poème intitulé « Vivre ».

 

 

Bibliographie

Thái văn Kiểm: Việt Nam Quang Hoa. Editeur: Xuân Thu. Californie, USA.
Le grand Atlas botanique gourmand. Editions Atlas. 2015
Bill Laws : 50 plantes qui ont changé le cours de l’histoire. Editeur: Mathieu Biberon 2013

 

Con nghê của ngươi dân Việt

 

Version francaise

Con nghê

Trong văn hóa Việt nam, chúng ta thường bị lầm lẫn con nghê với con kỳ lân (*). Con nghê nó không phải con vật có thật mà nó cũng không phải là linh vật ngoại nhập. Nó là con linh vật thuần việt, có từ ngàn xưa. Con nghê có nét giống kỳ lân. Đặc điểm phân biệt giữa nghê và lân là ở bộ móng, nghê mang móng vuốt còn kỳ lân mang móng guốc. Vã lại nghê  mang một thân hình con chó để được phù hợp với bản sắc và văn hóa của người dân Việt. Trong các tự điển sinh học không hề thấy tên con động vật nào có tên nghê cả mà chỉ có  con toan nghê (con sư tử). Trước thời đô hộ của người Hán, không có con nghê. Nó chắc chắn được hình thành trong văn hóa Việt từ giai đoạn bị người Hán đô hộ, ở thời kỳ Đồng Sơn muộn và khi nhà Lý có công xây dựng nền độc lập tự chủ thì thấy nó xuất hiện trong các công trình kiến trúc nghệ thuật như hoàng thành Thăng Long,  các chùa Dâu và Phật Tích, các đình làng vân vân… Nghê là một linh vật hư cấu khiến nó không có hình dáng cố định như hổ hay sư tử.

Bởi thế nó có sự biến đổi khi tạo hình. Nó là con vật có bốn chân, không có sừng, mình thon dáng thanh trông dáng con chó. Đặc tính của nó là « canh  giữ hay chầu chực ».  Bởi vậy thường nghe nói « phượng múa nghê chầu » trong thành ngữ.  Theo tự điển tiếng Việt, « chầu » có nghĩa là động từ dùng để hầu hạ và là canh chừng ra vào. Nó có yếu tố linh thiêng và chống lại tà ma và ác qủy.  Bởi vậy nghê được thấy ở khắp nơi trong văn hóa dân gian của người Việt từ cung đình, chùa chiền cho đến cổng làng, lăng mộ hay nóc nhà.

Theo nhà nghiên cứu mỹ thuật Trần Hậu Yên Thế thì con nghê nó có một dung mạo, một sắc thái bình dị khiến nó bộc lộ được tính gần gũi, một nét thân quen phảng phất hình ảnh con chó với cái đuôi ngắn. Nó thể hiện sự trung thành. Nhà sử học Lê Văn Lan cho biết: Mỗi con linh vật khi được tạo thành hình dáng, nó phải có khởi hình từ  một con thú nào có thật. Như vậy nghê lấy khởi hình từ con chó cũng như con rồng từ con cá sấu vậy.  Vị trí của nghê xuất hiện ở nơi nào đều phải có mang một ý nghĩa cụ thể.  Con nghê ở lăng mộ nó khác hẳn với con nghê ở cổng  đình. Ở trên đỉnh nóc của đình Đinh Bảng chẳng hạn thì nghê được xem như phượng hoàng tượng trưng cho cõi trên nhìn xuống  xem xét coi người đến viếng thăm có tâm thiện hay không để mà trừng phạt.  Còn ở  trên đỉnh của  hai cột ở trước cổng đình Mông Phụ (Đường Lâm) thì hai con nghê mang dáng điệu hồ hởi đón chào. Còn nghê ở lăng mộ thì nó thể hiện lòng kính cẩn thương xót. Nó không thể hiện sự hung dữ, uy quyền được thường  thấy như con toan nghê của Trung Hoa.  Còn nghê đội đèn được trông thấy ở  các đồ đồng Đông Sơn muộn thì có chức năng  làm tỏa ánh sáng diệt trừ tà khí. Còn ở trước cổng làng thì nó có nhiệm vụ  bảo vệ cả làng.

Theo nhà nghiên cứu mỹ thuật Trần Hậu Yên Thế, ở thời Lê trung hưng ((1428-1788), nghê vẫn xuất hiện ở các lăng mộ. Nhưng hầu hết trong các lăng mộ của các ông hoàng bà chúa triều Nguyễn thì  không có nghê mà  lại thay thế bằng kỳ lân. Nhưng trong đời sống thế tục, nghê còn được thấy ở trong hệ thống kiến trúc của hàng trăm ngôi làng Bắc bộ và cho đến nay người ta vẫn làm hình con nghê chầu”. Nó rất đa dạng, nó rất phù hợp với quan cảnh của nơi nó xuất hiện và nó thể hiện được  tâm thức của người Việt. Tùy từng giai đoạn của lịch sử, nó có những nét đặc trưng khác nhau nhưng nét cơ bản đa phần của nó  vẫn mang đậm yếu tố dân gian Việt Nam.

(*) Kỳ Lân, trong đó, Kỳ là con đực và Lân là con cái.                                                  

con_nghe

Qilin

Dans la culture vietnamienne, nous sommes habitués à confondre l’animal « nghê (ou chien-lion) » et le qilin (kỳ lân)(*).  Le « chien-lion » n’existe pas réellement dans la nature mais il n’est non plus un animal sacré emprunté à d’autres cultures. C’est une pure créature vietnamienne  datant des temps anciens. Le nghê a certains traits du qilin. La principale caractéristique permettant de faire la  distinction entre le nghê et le qilin  réside dans les doigts de pied, le nghê étant armé des griffes et le qilin des sabots. De plus le nghê a le corps d’un chien  pour être conforme à l’identité et la culture du peuple vietnamien. Dans les dictionnaires de biologie, il n’y a aucun animal portant ce nom « nghê » ou « chien-lion », mais il existe  seulement le lion. Avant la domination des Han (ou Chinois), on ne décèle pas son existence. Sa formation a lieu  dans la culture vietnamienne à partir de la période de domination des Han, à la fin de la période Đồng Sơn et au moment où la dynastie des  Lý a  réussi à  acquérir l’indépendance totale. C’est durant cette période qu’on vit son apparition dans les projets de construction architecturale comme la citadelle impériale de Thăng Long, les  pagode Dâu et Phật Tích, les maisons communales etc… C’est une créature imaginaire  n’ayant jamais une apparence ou une forme précise comme un tigre ou un lion.

C’est pour cela qu’il y a la variation de modification dans la mise en forme de cette créature. Celle-ci est un animal à quatre pattes,  sans cornes, un corps  effilé, ce qui lui donne une ressemblance à un chien de garde. Sa caractéristique particulière est « la garde et la protection ». On est habitué à dire « le phénix danse et le chien-lion fait la garde» dans un proverbe. Dans le dictionnaire vietnamien, « chầu » est employé pour signifier « attendre l’ordre » et « surveiller ». Cette créature possède l’élément « sacré »  destiné à éloigner et neutraliser les mauvais esprits. C’est pourquoi, le chien-lion (ou nghê) est visible partout dans le folklore vietnamien,  de la cour royale et de la pagode jusqu’à l’entrée du village, les tombes et les toits des maisons.

Selon le  spécialiste des beaux-arts Trần Hậu Yên Thế, cette créature  a une physionomie, une  apparence idyllique  qui lui permet de faciliter le premier abord, une caractéristique familière, révélant ainsi sa loyauté à l’image d’un chien à la queue courte. 

L’historien Lê Văn Lan nous fait savoir qu’au moment de la création de la  mascotte, on doit s’inspirer au départ d’un vrai animal. C’est ainsi que  le chien-lion est crée à  partir du chien de garde comme c’est le cas du dragon avec le crocodile. Partout, dans chaque lieu, le chien-lion doit apparaître avec une signification particulière. Le  nghê situé  au cimetière est différent de celui se trouvant à l’entrée de la maison communale.

Au sommet de la toiture de cette dernière (Đinh Bảng par exemple), le chien-lion, analogue à un phénix appartenant aux animaux d’en haut, observe en bas le déplacement  du visiteur dans le but de le protéger ou de le punir en fonction de son comportement lors de sa visite. Par contre, sur les  sommets des  deux colonnes à  l’entrée de la maison communale Mông Phụ (Đường Lâm), se trouvent deux nghê ayant chacun une allure joyeuse et accueillante.  Quant au nghê accroupi devant le  tombeau, il se montre à la fois compatissant et miséricordieux. Cela ne manifeste pas en aucun cas  la férocité et la puissance trouvées fréquemment chez le lion chinois. Le pied de lampe  en forme de « chien-lion » accroupi trouvé dans les trouvailles de la culture de Đồng Sơn tardif,  a pour fonction de  faire rayonner une lumière   destinée à  éloigner et  détruire les esprits maléfiques. Devant l’entrée du village, sa présence apporte à tout le village la protection.

Selon le spécialiste des beaux-arts Trần Hậu Yên Thế, durant la période des Lê Trung Hưng (1428-1788) , le « chien-lion » est est encore présent auprès des tombes royales. Par contre il n’existe plus le « nghê » dans la plupart des tombes royales sous  la dynastie des  Nguyễn mais il est remplacé par le qilin.

Mais dans la vie ordinaire, le chien-lion est visible  toujours dans le réseau architectural des  centaines de villages du Nord. Jusqu’à présent, on continue  à faire des statues de « chien-lion » en position de garde. Le chien-lion se trouve sous diverses formes. Il est très adapté au paysage du lieu où il est présent et il montre l’esprit du peuple vietnamien. En fonction de chaque période de l’histoire, il se présente de manière différente et distinctive mais la base de ses caractéristiques continue à porter l’élément folklorique vietnamien.

(*) Qilin, c’est le mot désignant le couple d’animaux de Fengsui où Qi est le mâle et Lin est la femelle.

Bibliographie:

Đinh Hồng Hải: Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa truyền thống Việt Nam.  Tập 3. Các con vật linh. Editions Nhà Xuất Bản thế giới. Hànội 2016
Trần Hậu Yên Thế, Nguyễn Đưc Hoà, Hồ Hữu Long: Phác họa Nghê. Nhà Xuất Bản thế giới.

Les Mường (Version française)

Les Mường

Version vietnamienne

Étant la troisième minorité du Vietnam d’aujourd’hui par le nombre (estimé à 1,4 millions de personnes), les Mường ont été établis de longue date dans les provinces Hoà Bình, Thanh Hoá, Phú Thọ, Sơn La, Ninh Bình etc …

Selon le digne successeur vietnamien de l’ethnologue française Jeanne Cuisinier, Trần Từ (ou Nguyễn Đức Từ Chi), le mot Mường est employé par les Vietnamiens (ou les Kinh ) pour désigner la région où il y a plusieurs villages mường. Les Vietnamiens profitent de cet usage pour nommer ce peuple. Celui-ci se désigne souvent par un nom lié à la région où il habite: mol, moan à Hoà Bình, mwanl à Thanh Hoá ou Mol, Monl à Thanh Sơn et signifie avec exactitude « người » (personne, individu).

En se plongeant dans le récit de leur mythe de création (Ngu Kơ et Lương Wong) et celui des Vietnamiens (Âu Cơ -Lạc Long Quân) , on s’aperçoit qu’ils pourraient être issus du même peuple que l’histoire et la géographie auraient scindé en deux groupes vers le IX-Xème siècles, le premier constitué des Vietnamiens descendus dans la plaine et subissant une forte influence chinoise, l’autre composé des Mường restés dans les coins les plus refoulés des régions montagneuses et recevant une forte influence de la part  des Thaï refoulés en masse au sud du territoire chinois. C’est pourquoi les Mường continuent à être plus proches des Vietnamiens par la langue. Ils sont dans le même groupe Việt-Mường de la langue austro-asiatique ( Ngữ hệ Nam Á ) à laquelle appartient aussi la sous-famille môn-khmer. C’est l’origine des tons du vietnamien (6 tons) qui permit au savant français A.G. Haudricourt d’affirmer dans ses travaux en 1954 l’appartenance du vietnamien aux langues austro-asiatiques, opinion communément partagée aujourd’hui par un grand nombre de chercheurs étrangers et de linguistes vietnamiens. L’ethnologue français Christine Hemmet du Musée de l’homme (Paris), a réitéré cette appartenance lors d’une conférence du 18 Mai 2000 sur la pluralité ethnique, multilinguisme et développement du Vietnam. Puis ce groupe việt-mường se divisa en deux langues indépendantes: le vietnamien et le mường du XIVème  au XVIème siècle. Avec les emprunts chinois et français, le premier réussît à connaître au début du XXème siècle un prodigieux développement avec son quốc ngữ dans le domaine de la littérature vietnamienne où il parvint à exprimer toutes les nuances de la pensée et du sentiment dans tous les aspects de la vie (1). Quant au second, il était à l’écart de l’influence étrangère et restait dans l’état où il devient ce qu’on a aujourd’hui. On trouve dans cette langue mường, celle des Vietnamiens d’autrefois (ou des Proto-Vietnamiens).

Pour les Mường, les Vietnamiens ( ou les Kinh) sont issus des parents communs et ont le même sang qu’eux. C’est pourquoi ils sont habitués à dire dans l’une de leurs chansons populaires les deux vers suivants:

Ta với mình tuy hai mà một
Mình với ta tuy một thành hai

Bien que moi et vous soyons DEUX êtres, nous ne faisons qu’UN.
Etant UN seul être, moi et vous pourrions être considérés toujours comme DEUX.

C’est aussi dans l’une des légendes mường (Đức Thánh Tản Viên) qu’on retrouve les luttes répétées des génies de l’eau et des montagnes évoquées par les Vietnamiens dans leur légende célèbre « Sơn Tinh Thủy Tinh« . Cela montre bien à tel point que les Vietnamiens et les Mường, malgré leurs destins différents, sont si proches que même leurs légendes ne soient pas tellement distinctes. Deux rois vietnamiens célèbres étaient issus des Mường (Lê Đại Hành et Lê Lợi). Par contre, au niveau d’organisation sociale et culturelle, les Mường sont plus proches aujourd’hui des Thái et des Tày.

Le territoire habité par les Mường est divisé en régions (ou mường) dont les chefs sont des seigneurs appelés « lang cun » et dont chacune a 20 ou 30 hameaux. Ceux-ci sont dirigés par des « lang đạo », des descendants des héros bâtisseurs de ces hameaux et sont appelés en fonction de leur situation topographique: Xóm Ðác ( hameau à côté d’une chute d’eau), Xóm Ðung ( hameau tout près de la forêt), Xóm Ðôn ( hameau sur une colline), Xóm Thung ( hameau sur une vallée ) ou ou en fonction du nom des arbres fruitiers et familiers: Xóm Trạch (hameau bambou), Xóm Mít (hameau jaquier) etc … ou en fonction des noms des animaux: Xóm Hò ( hameau Tortue), Xóm Oong (Hameau Abeille) etc.. ou en fonction des catégories de la société mường: Xóm Chiềng ( hameau où vit le lang cun (ou seigneur féodal)), Xóm Roong ( hameau appartenant à des cultivateurs ). On voit apparaître dans la société traditionnelle des Mường, l’établissement d’une oligarchie. Ce système qu’on appelle en vietnamien NHÀ LANG, est basé essentiellement sur le droit du premier occupant à posséder la terre, les bois, les rivières, à les fructifier et à les léguer toujours aux descendants aînés de la lignée mâle de génération en génération dans le respect de la tradition observée dans le culte des ancêtres des Mường. Cela permet à NHÀ LANG de contrôler pratiquement les trois quarts des terres qui sont cultivés et entretenus par des rotations périodiques d’équipes de villageois corvéables et d’accorder à ces derniers le droit d’exploiter en compensation le quart des terres restant. Malgré ces lacunes, on ne peut pas nier qu’il existe une relation assez démocratique entre NHÀ LANG et les Mường.

En comparaison avec le système foncier féodal vietnamien de cette époque, NHÀ LANG des Mường a des facteurs de progrès indiscutables car elle défend non seulement ses droits maix aussi ceux des Mường. Il doit aider les villageois mường en cas de sécheresse, de famine ou de mauvaises récoltes. Il doit rendre des comptes au cas où son lang cun a un comportement indigne de son rang. C’est le cas du fils de ce dernier commettant un acte déshonorable en violant par exemple une villageoise ou en se bagarrant dans la rue. On peut aller jusqu’à la destitution du lang cun si celui-ci n’assume pas correctement son autorité et ses devoirs. Dans ce cas, les villageois peuvent faire appel à NHÀ LANG pour son remplacement. C’est aussi le cas où le lang cun n’a pas d’héritiers mâles. Cela revient aussi à NHÀ LANG la charge d’organiser les festivités concernant les récoltes et les ripailles liées aux cultes des génies. Par contre il y a des règles que les villageois mường ne peuvent pas ignorer. Ils ne peuvent pas épouser une fille de NHÀ LANG car celle-ci ne peut que choisir les gens de son rang et issus de NHÀ LANG. De même une villageoise qui est choisie par hasard comme épouse par le lang cun et qui a des enfants avec ce dernier ne peut pas prétendre jouer un rôle important dans le NHÀ LANG.

Ses enfants ne peuvent pas devenir des lang cun car cette fonction est réservée uniquement pour les descendants aînés de la lignée mâle dont la mère doit être une fille issue de NHÀ LANG. Les membres de celui-ci sont respectés même s’ils sont jeunes. Quel que soit l’âge de l’enfant, un villageois doit l’appeler respectivement par « Chàng » ou « Nàng » lorsqu’il est un garçon ou une fille de NHÀ LANG. La hiérarchie est tellement respectée qu’il est possible de connaître l’appartenance de la personne en question. De plus, ce système permet d’attribuer aux lang cun le monopole de certains noms (Ðinh, Hà etc..). Il fut supprimé dans les années 50 par le gouvernement vietnamien lors de l’organisation des  coopératives agricoles. Malgré cela, ce système constitue l’un des traits originaux de la société traditionnelle des Mường et reste l’une des traditions qu’on ne peut pas ignorer quand on parle des Mường. Pour insinuer ce système, les Mường ont l’habitude de dire: Mường có lang, làng có tạo. (Les régions ont des lang comme les villages des tạo (ou Đạo en vietnamien)). On se sert de LANG ĐẠO pour désigner ce système.

Les Mừơng ont l’habitude de choisir les basses terres et les terrains accidentés pour construire leurs maisons. Celles-ci sont adossées d’une manière générale aux flancs des collines et des montagnes pour bénéficier de l’air pur et pour faciliter le déplacement au niveau de la chasse et la cueillette. Ces maisons possèdent chacune une toiture à 4 pans ressemblant à la carapace des tortues. Leur maison se dresse sur des pilotis très bas et est construite sur 3 niveaux. Cela correspond bien à la conception de création de l’univers des Mường: un monde céleste et terrestre ( thiên giới và trần giới ), un monde marin (thủy quốc) et un monde souterrain (âm phủ). Le premier niveau est réservé au stockage des aliments. Il est en quelque sorte le grenier. Le deuxième niveau correspond bien à l’endroit où les activités familiales prennent place et où on reçoit les visiteurs. Quant au dernier niveau situé au dessous du plancher, il est destiné à élever le bétail et à ranger les outils agraires.

La construction de leur maison doit répondre aux exigences matérielles aussi bien que spirituelles. Pour les Mường, la fenêtre de la pièce (voong tong) où est situé l’autel des ancêtres est très sacrée. Aucun n’a le droit de s’appuyer sur cette fenêtre ou de faire passer les objets à travers de celle-ci car selon les Mường, les ancêtres ne sont pas autant coupés des vivants. Ils continuent à participer avec eux aux grandes occasions de leur existence. De plus, les 2 escaliers de la maison ont chacun un nombre impair de marches. L’escalier principal, est tout proche de la pièce d’entrée (voong toong) et il est réservé uniquement pour les hommes. Quant aux femmes, elles sont obligées de prendre le second escalier qui n’est pas loin de leur pièce intérieure (voong khua). Les Mường improvisent d’ingénieux systèmes hydrauliques (roue, rigole etc … ) pour canaliser et faire monter de l’eau dans le but d’arroser les extraordinaires rizières en terrasses  sur les pentes des collines. Ils pratiquent aussi la culture sur brûlis, ce qui leur fournit le benjoin, la canne à sucre, le manioc, le maïs etc…

Comparés à d’autres minorités ethniques, les costumes mường sont tout à fait uniques. Les hommes sont très simples dans l’habillement. Ils portent un pantalon de couleur indigo. Par contre le vêtement des femmes mường est plus compliqué.

D’une manière générale, on trouve dans le costume traditionnel des femmes: un turban blanc ou bleu (mu) fait d’un carré d’étoffe de dimension 35cm x150 cm attaché par derrière au niveau de la nuque, une camisole (yếm ou ạo báng), une chemise courte (áo cánh ou ạo pắn en langue mường ), une jupe longue et noire (váy ou kloốc en langue  mường) descendant jusqu’à la cheville et une  large ceinture en soie ou en tissu.

Etant de couleur blanche, vert pâle ou rose, la chemise courte mường a 4 pans dont les deux situés à l’arrière sont très bien cousus et les deux situés en avant ont chacun un longue bordure allant du cou jusqu’à l’ourlet de la veste. Analogues aux Vietnamiennes, les femmes mường se servent des chemises courtes ayant un cou assez rond et mesurant à peu près 2,5 cm ou 3 cm et deux manches longues. Etant ouvertes sur le devant et souvent non boutonnées, ces chemises sont destinées à couvrir la camisole dont l’ourlet inférieur est rangé soigneusement derrière la large ceinture de la jupe (cạp váy) en soie ou en tissu rugueux illustrant bien le charme folklorique et la séduction. C’est la particularité majeure retenant l’attention  dans les  costumes féminins mường.

On trouve dans la constitution de cette large ceinture trois bandes rectangulaires à riches ornements appelées respectivement « dang trên », « dang cao » et  « dang dưới » qui sont cousues  solidement ensemble. La bande « dang dưới » se distingue des deux autres par la richesse des motifs représentant des animaux hiératiques (dragons, phénix, tortues etc..) ou familiers (serpents, grues, poissons etc ..). La tunique (ạo chụng) est préférée à la place de la veste lors des jours de fêtes. La couleur de la tenue change en fonction du statut de la femme mường. Pour son mariage, elle doit se vêtir d’une longue tunique de couleur verte tandis que la couleur blanche est réservée pour sa demoiselle d’honneur (dâu phụ). Les vêtements funéraires (đồ tem) sont confectionnés toujours à l’envers avec les ourlets inférieurs effrangés.

Parmi ceux-ci, il y a un bonnet de deuil, une jupe dépourvue de la large ceinture rectangulaire aux multiples couleurs, une chemise courte de couleur blanche et une ceinture en tissu rugueux. En cas de deuil des beaux-parents, la mariée mường doit porter usuellement une jupe noire, une camisole, une chemise courte et une veste  en brocart rouge. Les Mường ont l’habitude de dire: Diện như nàng dâu đi quạt (1) (S’embellir à  la manière de la bru au moment des funérailles). Le port de la tenue reste le même à l’exception de la chemise courte qui doit posséder la couleur blanche lorsque les parents de la mariée sont encore en vie.

Pour montrer leurs différences avec les Vietnamiens, les Mường ont un proverbe très connu:

Cơm đồ, nhà gác, nứớc vác, lợn thui, ngày lùi, tháng tới.
Rit cuit à la vapeur ou à l’étouffée, maisons sur pilotis, eau contenue dans le tube en bambou porté sur l’épaule, porc cuit à la broche, jour en retard et mois en avance.

Ce sont les coutumes caractéristiques des Mường qu’on ne trouve pas chez les Vietnamiens d’aujourd’hui. Les Mường préparent la plupart des aliments et des gâteaux à partir du riz: riz glutineux (lõ kẳm) (2) riz cuit à l’ordinaire (gạo tẻ). Il y a plusieurs types de gâteaux : gâteau de riz (bánh chưng) durant les fêtes du Têt, gâteau bánh bò ou bánh trâu en l’honneur du génie-buffle (vía trâu), gâteau uôi pour les funérailles, gâteau bắng pour le mariage, gâteau ống pour les fiançailles etc…

Pour le calcul des jours et des mois, les Mường s’appuyent sur le calendrier Ðoi qui est différent de celui des Vietnamiens. Ðoi est une étoile qui s’avance plus vite que la lune. En se basant sur le déplacement de cette étoile, leur calendrier Ðoi est en avance de 4 mois sur le calendrier lunaire des Vietnamiens.

Analogues aux Vietnamiens, les Mường ont une maison communale (đình) réservée pour le génie tutélaire (ou thành hoàng) dans chaque hameau ou village. Ils croient à l’existence d’un grand nombre d’esprits malfaisants qui hantent les forêts et qu’ils appellent ma-khũ (ou ma qũi en vietnamien). Ceux-ci sont des âmes désincarnées errant dans le monde des morts et celui des vivants et pouvant causer des soucis aux humains.

Pour les Mường, il y a dans un être humain plusieurs âmes qu’ils nomment wại. Celles-ci se divisent en deux catégories:  wại kang (les âmes fastueuses) et wại thặng (les âmes dures). Les premières sont supérieures et immortelles tandis que les secondes, attachées au corps, sont mauvaises. La mort n’est que la conséquence de l’évasion de ces âmes. Grâce au rite funéraire (ma chay), les âmes supérieures peuvent résider au ciel. Elles auront besoin d’être accompagnées par le concours et la sollicitude de la famille durant leur périlleuse migration. C’est ce qu’on trouve dans l’affection et l’attachement que Les Mường réservent particulièrement au défunt par un ensemble des règles d’habillement, de décoration et d’accompagnement du cercueil (un tronc de bois fendu en deux et évidé) . Grâce à l’accomplissement du dernier rite, les âmes reposeront en paix sinon les âmes dures pourront être néfastes et maléfiques en devenant ainsi des esprits flottants et dangereux (Ma). Ce rite funéraire (mo tang) peut durer plusieurs jours (12 jours au moins) et nécessite la présence d’un sorcier (ou mo en langue mường).

 Selon les Mường, le défunt possède une force surnaturelle qui empêche les vivants de lui communiquer et de l’aider matériellement ou spirituellement. C’est thầy mo (ou le sorcier) qui peut le faire seulement. C’est à lui la charge de guider, avant l’enterrement, l’âme du défunt dans toutes les démarches administratives auprès du seigneur céleste (Chạo Hẹ) pour obtenir un jugement. Celui-ci sera rendu dans un panier de cendres déposé à l’entrée de la porte de la maison, à l’endroit où le défunt devra rentrer chez lui. Il y a un procès car durant son existence, le trépassé a sacrifié beaucoup d’animaux pour sa consommation.

En fonction du verdict du jugement révélé grâce à l’interprétation  des signes ou à des empreintes par le sorcier, il pourra être condamné à se réincarner dans le corps d’un de ces animaux sacrifiés ou mener désormais une vie en paix. Le sorcier occupe une place importante dans le rite funéraire des Mường. C’est lui qui accompagne l’âme du défunt pour aller chercher de l’argent dans la maison du grand-père paternel (ta keo heng), emprunter ensuite les vêtements à la maison de Thiên mư, s’inscrire dans le registre des fantômes (sổ ma) pour faciliter le déplacement et procurer enfin des objets usuels indispensables dans le monde des fantômes. C’est aussi lui qui donne à l’âme du défunt le dernier repas et qui l’aide à déménager la nuit ses affaires dans la sépulture. On y trouve un grand nombre d’objets : bols, plats, jarres d’eau etc… et des tambours de bronze pour un lang cung (ou seigneur féodal). Puis c’est aux enfants de ce défunt d’organiser à la fin du troisième jour d’enterrement, une cérémonie célébrant le retour de son âme à la maison avant de pouvoir commencer son culte. Celui-ci permet au défunt d’être présent désormais dans toutes les grandes occasions et dans tous les festins animant le quotidien: mariages, fêtes du nouvel an, inauguration d’une maison etc… ). Analogues aux Vietnamiens, les Mường célèbrent l’anniversaire de la mort du défunt avec solennité et ils portent le deuil. Le défunt fait partie désormais des ancêtres qui ont été honorés sur l’autel familial jusqu’à la cinquième génération. Le culte des ancêtres est très important dans la vie spirituelle des Mường.

Ma Chay

Analogues aux autres minorités ethniques du Vietnam, les Mường sont des animistes. Ils pensent que toute chose possède une âme. C’est pourquoi on trouve dans leur culte un grand nombre de génies, de dieux et d’esprits malfaisants ou non. Même dans chaque famille mường, il existe un esprit bienveillant (ou bien le démon des ancêtres (ma tổ tiên)) censé de protéger la famille. C’est pourquoi il y a une tradition que les Mường doivent respecter après l’annonce du décès d’un de leurs proches. Le fils aîné du défunt doit frapper trois fois de suite la porte de la maison du trépassé avec un couteau pour blâmer l’attitude du démon familial de ne pas intervenir à temps dans la mort de son père. Avant d’abattre de gros arbres dans la forêt, les Mường présentent une offrande au génie des arbres (Thần cây) en même temps que la hache qui doit leur servir pour ce travail. Même en tuant une gibier à la chasse, ils sont obligés de rendre hommage au génie des fauves en lui offrant la tête et une épaule, une fois la bête dépecée. C’est en quelque sorte une amende honorable au protecteur des fauves, une coutume fréquemment rencontrée chez d’autres peuples chasseurs. Les Mường ont coutume de vénérer les roches, les citrouilles rouges au moment de leur installation dans la nouvelle maison (lễ tân gia), l’arbre cây si, les totems de famille, les sources d’eau, les génies du sol et de la cuisine etc..

Chez les Mường, la résurrection et la réincarnation de l’âme sont des sujets  tabous. Pour eux, l’âme est multiple, indestructible et immortelle, bonne ou mauvaise. Dans cette conception mường, la naissance d’un enfant est entourée de mystère. Ils se sont posé beaucoup de questions sur son identité: enfant, génie, esprit malfaisant ou mânes des ancêtres?

De plus, pour les Mường, la naissance du premier enfant, marque le début de maturité de jeunes parents. Ils comptent aussi sur leurs enfants afin de pouvoir avoir plus tard une paisible retraite. Le dicton mường suivant montre à tel point ce soutien souhaité:

Trẻ cậy cha, gìa cậy con
Les jeunes comptent sur leur père comme les vieux sur leurs enfants.

LA NAISSANCE

C’est pourquoi la naissance d’un enfant tient une place importante dans la vie des Mường. Pour parer à toute éventualité, les Mường prennent un grand nombre de précautions habituelles et rituelles liées à la grossesse et à la naissance. Au moment où la mère est enceinte, elle doit respecter certaines règles immuables depuis la nuit des temps: se protéger contre les esprits malfaisants avec une feuille d’arbre lors de son passage devant les cimetières et les temples, éviter les funérailles (un effet néfaste pour la mère et son futur enfant au niveau de la santé) et les mariages (un possible divorce pour les parents ), s’abstenir de marcher sur l’écorce de l’arbre utilisé dans la fabrication des cercueils (un possible avortement ), ne pas fuir devant le serpent pour empêcher le nouveau né d’avoir une langue allongée hors de sa bouche, éviter de manger des fruits « jumeaux » (une possible naissance multiple), faciliter l’accouchement en se réveillant de bonne heure le matin et en ouvrant toutes les portes de la maison, garder toujours la sérénité et la joie, éviter la colère etc…

De même, le mari doit connaître un grand nombre d’astreintes. Il lui est interdit de porter le cercueil, de remplacer la toiture de la maison, et de rénover la maison. A l’approche de son accouchement, la femme mường enceinte n’a pas l’intérêt de fréquenter la maison de ses parents car au cas où l’évènement aura lieu, elle sera obligée d’accoucher l’enfant sous le plancher à l’endroit où se trouve le bétail. Selon les Mường, la femme enceinte ne fait plus partie de leur famille (Con gái là con của người ta) mais elle est la fille de la famille de son mari. L’enfant né n’a pas le même sang de la famille (khác máu tanh lỏng). Cela pourra jeter plus tard un sort pour les gens de la maison. Pour une fille qui tombe enceinte sans mari, son accouchement ne pourra pas avoir lieu dans la maison. Il devra se tenir dans le jardin. La punition est la même pour la fille commettant la faute de tomber enceinte avant son mariage.

D’une manière générale, l’accouchement se déroule à la maison. L’heureux évènement de la naissance est annoncé par la présence d’un signe distinctif rangé toujours à gauche (s’il s’agit d’un garçon) et à droite (s’il s’agit d’une fille) à l’entrée de la maison. Ce signe sera enlevé à la fin du septième jour pour un garçon et neuvième jour pour une fille. Parfois, l’intervention du sorcier (thầy mo) est souhaitable au cas où on pense avoir affaire à des esprits malfaisants et à les tenir responsables de ces difficultés.

Il y a beaucoup d’astreintes pour la femme mais aussi pour le mari durant la grossesse.  Même après la naissance, l’enfant continue à être la cause des plus grands maux pour ses parents durant ses premières années de vie. Selon les Mường, l’âme attachée à son corps est tellement volage et vagabonde qu’elle peut s’évader de son corps à tout moment. C’est pour cela que l’enfant, avant de sortir de la maison, a besoin d’être protégé en lui accrochant à ses poignets ou à ses chevilles un bracelet d’argent (pwok wai) dont le rôle sert à empêcher son âme de sortir. Au cas où cette dernière quitterait son corps, ce bracelet lui permettrait d’y revenir et de prendre possession de l’enfant. De plus pour s’assurer que rien ne lui arrive durant ses premières années, ses parents mường organisent une cérémonie rituelle connue sous le nom cak wai pour lui permettre d’être désormais sous la protection des génies protecteurs Mẹ Mụ. Ceux-ci sont en quelque sorte les nourrices célestes de l’âme de l’enfant. Les Mu ont le droit d’avoir dans chaque maison mường, leur autel qui a été inauguré après la première naissance.

On ne peut pas ignorer la relation entre mari et femme chez les Mường car elle est l’un des traits saillants permettant à ces derniers d’acquérir des qualités louables et de fonder une société à la fois pacifique, humaniste, hospitalière et altruiste.

Etant basée essentiellement sur la fidélité, l’amour et le bonheur, cette relation permet de cimenter la société mường et lui permet de résister mieux à l’évolution des mœurs qu’a connue le Vietnam depuis sa réunification.

Malgré les facilités de pouvoir se parler, se fréquenter et se connaître avant le mariage, les jeunes ne peuvent pas outrepasser les principes et les exigences que la tradition mường a instaurées depuis la nuit des temps. Un homme doit être à la fois sérieux, fort, droit et gentil. Ce sont les qualités qu’on demande à un homme pour pouvoir se marier sinon il lui est difficile de trouver une femme dans la société mường. « Học ăn, học nói, học gói, học mở » (Apprendre à se comporter, à parler, à affronter et à dénouer les difficultés de la vie) c’est la devise qu’on aimerait appliquer dans la recherche d’un futur mari pour une fille mường. Un homme doit savoir construire la maison, tresser les panneaux de toiture en paille, élever le bétail etc … On est habitué à dire aussi dans un proverbe mường: Một đàn ông không dựng nổi nhà (un homme est incapable de construire la maison ) pour montrer à tel point leur attachement à cette opinion préconçue. Cette exigence est facile à comprendre car dans un environnement inhospitalier et dans une société à la fois solidaire et hiérarchique, un homme mường doit montrer sa capacité et être à la hauteur de cette exigence. Quant à la femme mường, elle n’est pas bien lotie non plus. On lui demande de posséder certaines qualités: avoir une bonne conduite, parler avec douceur, être courtoise, savoir se confectionner des habits etc…

MARIAGE

Hantés par le proverbe suivant  » Một đàn bà không cắt nổi gianh » (Une femme est incapable de couper le panneau en chaume), les Mường sont amenés à avoir un jugement plus clairvoyant sur leur future belle-fille et à déceler ses qualités et ses défauts avec lucidité. La devise « Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem họ » (Epouser une femme après avoir observé sa lignée, chercher un mari après avoir connu sa famille) n’est pas étrangère non plus à leur comportement et leur observation dans le mariage. Pour réussir ce dernier, ils ont besoin de l’aide d’une entremetteuse (bà mờ) (1) qui est en quelque sorte le pivot central dans cette affaire ardue. Elle est non seulement l’interface privilégiée de deux familles mais aussi la responsable et le témoin engagé des transactions émanant de ces deux familles. Elle doit être proche de la famille de la future mariée. Elle doit avoir du talent dans la communication pour convaincre les gens. Le proverbe mường suivant: » Thiếu gì nước trong giếng, thiếu gì tiếng trong mồm mà không nói ra cho vừa lòng nhau » (Il y a tellement de l’eau dans le puits comme des sons dans la bouche. Pourquoi n’arrive-t-on pas à trouver des mots pour se plaire ?) montre  l’attachement des Mường à tel point à la communication. Son respect est incontestable dans le village. Son profil répond à un grand nombre de critères que la tradition mường exige: avoir une vie irréprochable dans son couple et dans sa famille. Il est évident pour elle d’avoir comme enfants garçon et fille d’après un proverbe mường: có nếp, có tẻ ( il y a du riz gluant et du riz ordinaire ). Avant d’entamer sa démarche auprès de la famille de la femme, elle doit consulter le calendrier Đoi (2) car selon les calculs, il y a certainement des mois et des heures néfastes dans le jour (tháng thướm, giờ thướm ) qu’il faut éviter à tout prix pour le mariage. C’est aussi le cas des Vietnamiens avec le mois « Ngâu » qu’ils ont à proscrire pour cet évènement. Elle est censée de connaître la date de naissance de chacun des mariés afin d’éviter plus tard le problème d’incompatibilité et la mésentente du couple. En cas du divorce ou d’échec, c’est sur elle que seront tombés tous les griefs et les reproches de deux côtés. De plus, elle recevra le blâme du seigneur local (quan lang).

Après l’obtention de tous les éléments d’information et le feu vert de la famille du mari, l’entremetteuse peut commencer à fixer le premier rendez-vous (Thoỏng thiếng ou ướm tiếng ) avec la famille de la future mariée. Celle-ci doit aviser tous ses proches de cet heureux évènement et leur demander parfois des conseils. Lors de cette visite, elle a l’habitude de remettre à la famille de la fille une bouteille de vin qui va être accrochée tout de suite à l’intérieur de la maison à la colonne principale. Si cette bouteille de vin aura été servie après l’entretien, l’entremetteuse sera sûre de la réussite de sa mission. Dans le cas contraire, elle sera partie avec la bouteille de vin. Connue sous le nom en mường « Tì kháo thiếng », cette étape est suivie au moins 3 ou 4 fois par le va-et-vient (ou nòm en mường) de l’entremetteuse qui ne parvint pas à obtenir immédiatement l’accord pour la première fois. Il est dans l’intérêt de la famille de la future mariée de montrer à l’entremetteuse qu’il s’agit d’un fait important nécessitant une période de réflexion et de concertation avec la fille. Cela permet à approfondir les relations entre les deux familles et à les rendre plus intimes par le biais de l’entremetteuse.

Grâce aux va-et-vient (ou nòm), on s’assure de trouver en mari et femme toutes les qualités requises. C’est à la fin du dernier nòm, on commencera à choisir la date pour fêter le « nòm cả » (nòm principal). Connue sous le nom de « ăn hỏi ou tì nòm », cette cérémonie est célèbrée en grande pompe. On trouve dans les présents du futur mari un grand nombre d’objets symboliques parmi lesquels figurent un cochon, 20 tubes de liqueur de riz (rượu cần), 2 paires de bottes de canne à sucre, des feuilles de bétel, des gâteaux de riz gluant (bánh chưng) sans garniture (không nhân), une beauté morale et une convention tacite sur la virginité de la future mariée. Tous les cadeaux offerts doivent être en nombre pair. C’est lors de cette cérémonie que le futur mari sera présenté à la famille de la fille. Cette présentation est connue sous le nom mường: ti cháu ( lễ ra mắt chú rể). A la fin de cette cérémonie, la famille de la future mariée parlera de la dot aux parents du futur époux. Connue en mường sous le nom de « thách cưới (défier le mariage) », elle est acceptée avec facilité par ces derniers pour montrer qu’ils sont à la hauteur de cette exigence financière et pour ne pas perdre la face. C’est à l’entremetteuse le soin de marchander le coût de la dot, de le réduire ou de refuser carrément le mariage. Parfois, le futur époux sera assuré par la promesse de la famille de la fille de recevoir une part de l’héritage au cas où celle-ci n’a pas d’héritiers mâles.

Connue pour ses études sur les Mường, l’ethnologue française Jeanne Cuisinier a vu dans ce marchandage un acte d’achat pour les mariés. Rien ne permet de justifier entièrement cette interprétation car du côté de la famille de la fille, il y a bien un acte d’engagement, une caution morale pour ce mariage avec la participation de toute sa lignée et une sincérité de vouloir pérenniser la vie du couple par le biais de cette exigence financière ardue. En cas du divorce, la famille de l’épouse devra restituer intégralement toute la dot reçue au moment du mariage. C’est une contrainte supplémentaire permettant d’éviter la séparation et de mûrir bien la réflexion avant tout acte irréparable. C’est aussi l’un des facteurs qui permettent d’expliquer la cohésion familiale et sociale des Mường par rapport à d’autres ethnies, en particulier à des Kinh. De plus, pour le futur époux, il y a une promesse de lui céder une part de l’héritage et une habitude de l’adopter dans une famille n’ayant pas des héritiers mâles. Ce n’est pas vraiment la signification du terme d’achat trouvé dans sa définition car le futur époux recevra en compensation une dot quand même.

Selon la tradition mường, la cérémonie officielle aura lieu après 3 ans du nòm principal. C’est la période durant laquelle les futurs mariés devront se connaître, s’échanger des conversations et aplanir les divergences dans le but de faciliter plus tard la vie du couple. Cette fois, la cérémonie commence très tôt le matin car l’entremetteuse accompagnée par les proches du mari doit ramener un grand nombre d’objets et d’animaux répondant à l’exigence formulée au moment du nồm principal. (un buffle, deux cochons, 5 ou 6 paniers du riz gluant, un régime de noix d’arec, une centaine de feuilles de bétel, 20 tubes de liqueur de riz etc..). Le nombre de gens composant la suite doit être pair. Etant reçue par la famille de la mariée et participant avec les autres à une fête organisée en leur honneur, l’entremetteuse va demander aux parents de la mariée la permission de ramener leur fille à la maison de son mari à l’heure jugée convenable et portant la chance pour les mariés. Avant son départ, la mariée doit prier devant l’autel des ancêtres puis elle doit effectuer des lạy devant ses grand-parents ainsi que ses parents. Sur le chemin de retour, elle porte un chapeau conique et a toujours dans sa main un couteau pour éloigner les esprits malfaisants et protéger son « âme ». Il lui est interdit de retourner la tête en arrière. Cela prend du temps car dans la plupart des cas, les villages sont très éloignés les uns des autres. C’est pourquoi on est habitué à dire en mường: Làm rể vào buổi trưa, làm dâu vào buổi tối. (On devient le gendre  le matin, la bru le soir ).

Une fois arrivée sur place, elle est accueillie par la soeur du mari qui lui demande d’aller laver les pieds et de passer au dessus d’un fagot de bois avant de monter sur l’escalier de la maison. Elle est obligée d’aller prier tout de suite devant l’autel du génie de la cuisine avant d’effectuer le même geste devant l’autel des ancêtres et les parents du mari. Puis une cérémonie rituelle (lễ tơ hồng) a lieu au milieu de la maison en présence des mariés. Elle sera suivie ensuite par un festin en l’honneur du nouveau couple. Quelques jours après, celui-ci retournera à la maison de la mariée pour sa première visite ( lễ ra mặt). Dans le passé, il faut une période du défi (bù mà ruộng) avant de pouvoir entamer réellement la vie conjugale.

Pour les Vietnamiens, les Mường ne sont pas seulement une ethnie minoritaire mais aussi un peuple conservatoire d’une culture commune originelle. C’est pourquoi, il est dans l’intérêt des Vietnamiens de faire des études ethnographiques sur les Mường car grâce à eux, ils réussirent à comprendre mieux le genre de vie de leurs ancêtres ainsi que leur culture archaïque et millénaire. L’ethnologue vietnamien Nguyễn Từ Chi a eu l’occasion de rappeler les traits caractéristiques des Mường dans la culture Việt dans son livre « La cosmologie Mường ( Vũ trụ quan Mường ) ». Sans les Mường, on croit que la culture vietnamienne est celle des Chinois, une opinion largement fausse et erronée au fil des siècles. Ils méritent d’être pour toujours les cousins des Vietnamiens ou plutôt les frères jumeaux comme ils ont eu l’habitude de dire souvent dans l’une de leurs chansons populaires:

Ta với mình tuy hai mà một
Mình với ta tuy một thành hai

Bien que moi et vous soyons DEUX êtres, nous ne faisons qu’UN.
Etant UN seul être, moi et vous, nous pourrions être considérés toujours comme DEUX.

Les Mường sont plus que jamais les survivants de la culture antique des Vietnamiens. Ils sont là pour en témoigner et pour rappeler aux Vietnamiens qu’ils ont comme eux une culture propre qui leur permet de se différencier des Chinois et qui mérite d’être connue et préservée pour les futures générations face à l’évolution galopante de la société vietnamienne d’aujourd’hui.


(1) quạt: ce mot est utilisé pour désigner les funérailles (quạt ma).
(2): Le riz glutineux est une sorte de riz dont le grain est noir.
(1) Parfois c’est un entremetteur (ồng mờ).
(2): Calendrier Đoi: une caractéristique unique de la culture Mường. Ce calendrier est constitué de douze pièces en bambou et sculpté avec des lignes dans le but de faciliter l’indication des phénomènes et des changements climatiques.

Văn hóa Điền Quốc và Nam Chiếu (Royaume de Dian et Nanzhao)

Văn hóa Điền Quốc

Version française

Thời kỳ Bắc thuộc,  nước Giao Châu thường bị quấy nhiểu cướp bóc bởi nước Nam Chiếu 南诏 (Vân Nam)  nhất là cuối đời nhà Đường thời vua Huyền Tôn (Xuanzong). Nước nầy được thống nhất nhờ tù trưởng của chiếu Mông Xá,  Bi La Cáp (Piluoge) và gồm có sáu nước nhỏ  mà mỗi nước nầy được gọi là chiếu (zhao). Chiếu Mông Xá (Meng She) của  Bi La Cáp  nằm  ở  phiá nam vì vậy mới gọi là Nam chiếu. Vương quốc nầy ở gần hồ Nhĩ Hải (Erhai)  nằm ở tỉnh Vân Nam ngày nay và ở phiá tây của bắc bộ Việt Nam. Theo sử gia Trần Trọng Kim thì người Nam Chiếu phần đồng là người nòi thái mà có cả người Bạch và người Lô Lô thuộc về nhóm Tạng-Miến. Nhờ sự thống nhất nầy mà Nam Chiếu càng ngày càng mạnh đem quân đi đánh Thổ phồn (Tây Tạng)  rồi dời đô lên đóng ở thành Thái Hoà (thành Đại Lý ngày nay). Nam Chiếu cũng đã từng xâm chiếm An Nam (tên gọi khi đó của Việt Nam dưới thời nhà Đường ) từ những năm 858 tới năm 866. Hai lần nhà Đường gữi binh sang cứu Giao Châu cũng bị thất bại nên phải đợi đến năm ất dậu (865) vua nhà Đường sai tướng là Cao Biền mới bình được giặc quân Nam Chiếu. Có lần quân Nam Chiếu chiếm đoạt được thành giết dân  Giao Châu hơn 15 vạn. Đất Giao Châu bị Nam Chiếu phá hại gần mười năm trời.

Sở dĩ Nam Chiếu thường liên tục phát động các cuộc chiến tranh xâm lấn An Nam Đô hộ phủ  (Vietnam) hay Tây Xuyên (dải phía Tây Tứ Xuyên) là chủ yếu cướp bóc tài nguyên và nô lê.  Nước nầy thống trị dựa trên ba bộ phận mà mà bộ phận chính là nô lệ. Bậc trên  cao cả là  bậc thống trị gồm có các đại diện của qúy tộc chủ nô (vương thất, tướng tá, quan lớn nhỏ), bậc kế  đó có các bình dân và bậc sau cùng  là tù binh chiến tranh và dân thiểu số bị chinh phục và trở thành nô lệ.  Sau khi bị đuổi  bởi Cao Biền ra khỏi An Nam  thì Nam Chiếu bị suy dần vì chiến tranh triền miên. Năm 873, Nam chiếu bị đẩy ra khỏi Tứ Xuyên và phải lùi sau đó về Vân Nam. Khi Viêt nam được thoát ách thống trị Trung Hoa với Ngô Quyền thì nước Nam Chiếu bị tiêu diệt và được thay thế sau một thời gian ngắn  bởi  vương quốc  của Đoàn Tư Bình. Ông nầy lập ra nhà Đại Lý vào năm 937 và bị thôn tính bởi quân Mông Cổ vào năm 1253.

Sở dĩ Nam Chiếu nhất là Vân Nam được nhắc đến nhiều ở trong sử ta vì nơi nầy có một nền văn hoá Điền Quốc cùng thời với nền văn hoá Đồng Sơn của Việt Nam. Theo sự quan sát của nhà khảo cổ học Việt Nguyễn Việt, có thể nói vào thời đó, văn hóa Đồng Sơn đuợc phát triển trong bối cảnh cởi mở, đã trao đổi lẫn nhau những thông tin và sản phẩm với Điền quốc qua sông Hồng. Lấy nguổn nước ở Vân Nam, sông Hồng được xem thời đó như là đường tơ lụa sông.  Qua các cuộc khai quật khảo cổ, các  dữ liệu tích lũy hơn nửa thế kỷ đã chứng minh rằng các hiện vật kiếm được, từ vùng Đông Sơn và Vân Nam, thuộc hai nền văn hóa có liên quan trong lĩnh vực văn hóa dựa trên nền tảng văn hóa Việt ở tây nam Trung Quốc và bán đảo Đông Dương. Cả hai trung tâm khu vực đều là nơi mà những người tiêu dùng nhiều các trống đồng và các dụng cụ kim loại.  Người Điền thường  sử dụng trống đồng lớn nhằm để liên lạc trong chiến trận.  Cũng trông thấy trong các ngôi mộ của tầng lớp quý tộc người Điền có các trống đồng lớn chứa vỏ sò. Phần trên của trống thường được  thay thế bằng một nắp đúc từ đồng thiếc.  Trên nắp  được thấy nhiều cảnh vật khác nhau trong cuộc sống hằng ngày của người dân Điền qua các tượng hình nhỏ bé: săn bắn, trộng trọt hay dệt vải. Đôi khi còn có các cảnh êm đềm hơn nữa như khiêu vũ, đấu bò tót vân vân…

Người Điền là  những người có đầu óc sáng kiến khiến họ tạo ra nhiều hình dáng phưc tạp và tinh xảo. Họ  dùng  cả hai phương pháp khuôn sáp đã mất và phương pháp khuôn mảnh.  Phải làm thế nào để  sáng tỏ  hai nền văn hóa này tương tác với nhau trong bối cảnh luyện kim ở châu Á? Hiển nhiên  là ngoài ra mối quan hệ rõ ràng với văn hoá Đông Sơn, đồ đồng Vân Nam cũng thể hiện những đặc điểm nổi bật ở các khu vực phía bắc và phía tây của hồ Điền quốc  mà  được xem đó là  các nguồn có thể có cho sự  cảm hứng trong việc sáng tạo. (TzeiHuey Chiou-Peng).

Version française

La culture de Dian 

Durant la période de domination chinoise, la province Giao Châu était souvent envahie  et pillée par le royaume  de Nanzhao 南诏 (Yunnan), en particulier à la fin de la dynastie  des Tang sous le règne de l’empereur Huyền Tôn (Xuanzong). Ce pays était unifié par le  roi de Meng She, Piluoge (ou Bi La Cáp en vietnamien) et constitué de six petits royaumes, dont chacun était appelé un zhao (ou chi  ).  Le royaume  Meng She de  Piluoge était localisé  dans le sud. C’est pour cette raison qu’il était désigné  sous le nom Nan Zhao (ou pays au sud). Ce royaume était situé  près du lac Erhai dans l’actuelle province de Yunnan et à l’ouest du nord du Vietnam. Selon l’historien vietnamien  Trần Trọng Kim, le royaume de Nan Zhao était occupé en grande partie par la population Thaïe mais les Bai  et les Lo Lo appartenant au groupe tibéto-birman y étaient aussi présents. Grâce à cette unification,  le royaume Nan Zhao se renforça de jour en jour et envoya ses troupes pour combattre Thổ Phồn (ou Tibet) puis déplaça et installa  sa capitale à  la ville  Thái Hòa (capitale Dali d’aujourd’hui). Nan Zhao a également envahi An Nam (le nom donné au  Vietnam à l’époque de la dynastie des Tang) de l’an 858 jusqu’en   866. La dynastie Tang a tenté d’envoyer  deux fois des troupes pour sauver la  province Giao Châu de cette occupation mais  elle a échoué complètement.  Il faut attendre jusqu’en l’an 865, pour que l’empereur des Tang envoyât cette fois le général Kao Ping (Cao Biền) pour chasser définitivement les Nan Zhao et  pacifier la province Giao Châu. Une fois, l’armée de Nan Zhao réussit à occuper la province An Nam et tuer plus de 15 000 habitants. La province  Giao Châu  supporta incessamment le harcèlement des Nan Zhao durant presque dix ans.

La raison pour laquelle le royaume de Nan Zhao a lancé incessamment des guerres pour envahir An Nam (Vietnam) ou la bande occidentale du Sichuan était principalement le pillage des ressources et la capture des esclaves. Ce pays était fortement hiérarchisé  avec une structure à trois niveaux dont le plus important et le plus bas était basé essentiellement au système  d’esclavage. Le niveau le plus élevé revenait à la classe dirigeante  composée de représentants de la noblesse et des maîtres d’esclaves (famille royale, généraux, grands et petits fonctionnaires). Le niveau suivant comprenait les gens ordinaires et le dernier niveau était occupé par  les prisonniers de guerre et la minorité ethnique chargés d’entretenir le système d’esclavage. Après avoir été expulsé par Kao Ping hors d’An Nam,  le royaume de Nanzhao a progressivement décliné en raison de la guerre sempiternelle avec ses voisins. En 873, les Nan Zhao furent expulsés du Sichuan et  refoulés vers la région de Yunnan. Lors de la libération du Viêt Nam de la domination chinoise  avec Ngô Quyền, le royaume de Nan Zhao fut entièrement détruit et  remplacé peu de temps après par le royaume de Duan Siping ( Đoàn Tư Bình). Celui-ci fonda le royaume de Dali en  937 et disparut lors de la conquête mongole en 1253.

Le royaume de Nan Zhao ainsi que la province de Yunnan était mentionné souvent dans notre histoire car elle avait la culture de Dian à la même époque  de celle de  Đồng Sơn au Vietnam. Selon l’archéologue vietnamien Nguyễn Việt, on peut dire qu’à cette époque, la culture Đồng Sơn s’est développée dans un cadre très ouvert, a échangé réciproquement  les informations et les  objets avec  le royaume de Dian  au moyen du fleuve Rouge. Prenant la source au Yunnan, le fleuve Rouge était considéré à l’époque comme la route de la soie. Grâce à des fouilles archéologiques, les données recueillies durant  plus d’un demi-siècle ont prouvé que les artefacts comparables dans les régions de Đồng Sơn et de Yunnan, appartenaient à deux cultures apparentées dans la sphère culturelle des Yue du sud-ouest de la Chine et la péninsule indochinoise. Les deux centres régionaux abritaient de nombreux consommateurs de tambours de bronze et d’instruments métalliques. Les Dian utilisaient souvent de grands tambours en bronze pour faciliter la communication au combat. On voit également dans les tombes de l’aristocratie  de Dian de grands tambours en bronze contenant des coquillages. La partie supérieure du tambour est généralement remplacée par un couvercle en fonte de bronze. Sur le couvercle, on peut voir de nombreuses scènes différentes de la vie quotidienne des Dian à travers des figurines: chasse, agriculture ou tissage. Parfois, il y a des scènes encore plus paisibles  comme la danse, la tauromachie etc.

Les Dian étaient des gens créatifs qui leur permettaient de créer de nombreuses formes très complexes et sophistiquées. Ils utilisaient à la fois la méthode de moulage à la cire perdue et la méthode de moulage en plusieurs fragments. Comment ces deux cultures devraient-elles interagir dans le contexte de la métallurgie en Asie? Il est évident  qu’outre  leurs affinités évidentes avec la culture de Đồng Sơn, les bronzes de Yunnan présentent aussi les caractéristiques des régions nord et ouest du lac de Dian considérées comme les sources  possibles pour leur inspiration. (TzeiHuey Chiou-Peng).

Bibliographie:
TzeHuey Chiou-Peng: Dian bronze art : its source and formation.  IPPA 2008, n° 28, pp 34-43.
Trần Trọng Kim: Việt nam sử lược. Imprimerie Vĩnh Thanh, Hànôi 1928.
Chiêm Toàn Hữu: Văn hóa Nam Chiếu Đại Lý. Nhà xuất bản văn hóa thông tin Hànôi 2004.
 

Chùa Chiền Việt Nam: Phần 1 (Version vietnamienne)

 

Thân là nguồn sinh diệt, Pháp tính vẫn như xưa
Thiền sư Thuần Chân của phái  Tì Na Lưu Đà Chi(1101)

pagoda

Version française

Không giống như chữ « Đền » thường chỉ nơi thờ một danh nhân (anh hùng, vua hoặc thần), chữ « Chùa » thì chỉ được dùng để chỉ nơi thờ phượng  tôn kính Đức Phật. Trước khi xây dựng tòa nhà này, điều cần thiết là phải xem xét kỹ vị trí vì cần phải có sự hòa hợp với thiên nhiên ở xung quanh. Mặt khác, không giống như những ngôi chùa ở Trung Quốc, Ấn Độ hay Cao Miên, việc hoành tráng và xa hoa không nằm ở trong các tiêu chuẩn được lựa chọn trong việc thực hiện công trình này. Đây là lý do tại sao các vật liệu cơ bản được sử dụng chủ yếu thường là gỗ, gạch và ngói. Chùa không nhất thiết phải trội hơn các toà nhà ở xung quanh.  Trên thực tế  ở trong mỗi ngôi làng đều có một ngôi chùa. Tương tự như đình, chùa thường khơi lại đối với mọi người  dân Việt hình ảnh làng quê mà còn lại bao hàm cả hình ảnh quê hương. Chùa  vẫn có  một sức lôi cuốn quyến rũ đối với họ.

pagode0

Chùa được ghé thăm nhiều hơn đình vì không có phân chia giai cấp nào được nhìn thấy ở nơi đó. Đây là sự bình đẳng tuyệt đối giữa  các con người với nhau mà cũng là phương châm do chính Đức Phật thuyết giảng để chia sẻ và giải thoát những đau khổ của con người. Ngay cả trong khung cảnh nghiêm túc và trang trọng này, đôi khi còn tìm thấy ở trong sân chùa các vở kịch cổ điển. Đây không phải là trường hợp của đình nơi  cần có sự tôn trọng nghiêm ngặt. Sự phân biệt thứ bậc có thể thấy được ít nhiều. Ngay cả phép vua cũng không thể ảnh hưởng đến phong tục lệ làng đựơc. Đó cũng là lý do tại sao chùa rất gần gũi với người dân Việt hơn bao giờ hết. Chúng ta vẫn thường quen nói: Đất vua, chùa làng, cảnh Phật để gợi nhớ không chỉ sự gần gũi, gắn bó hữu tình của chùa với dân làng mà còn là sự hòa hợp với thiên nhiên.icone_lotus

Chùa có được  một vai trò then chốt trong đời sống xã hội của làng xã cho đến nỗi chùa được nhắc đến thường xuyên trong các  câu ca dao:

Ðầu làng có một cây đa,
Cuối làng cây thị, đàng xa ngôi chùa.

hay

Rủ nhau xuống bể mò cua,
Lên non bẻ củi, vào chùa nghe kinh.

khiến cho chúng ta nhận thấy người dân Việt rất gắn bó sâu  sắc với biển cả và núi non để được nuôi dưỡng và với  chùa  chiền  để  đáp ứng nhu cầu tâm linh. Chùa chiền đúng là nơi nương tựa lý tưởng và tâm linh của họ trước những thiên tai, hiểm họa thường gặp trong cuộc sống hàng ngày.

Cho đến ngày nay, nguồn gốc của từ « chùa » vẫn chưa được làm sáng tỏ. Không có mối liên hệ nào được tìm thấy về nguồn gốc của chữ từ « tự (chùa) » trong tiếng Hán. Theo một số nhà chuyên môn, nguồn gốc của nó nên được tìm thấy trong chữ Pali « thupa » hoặc « stupa » viết bằng tiếng phạn vì lúc mới xây dựng, chùa Việt Nam có dáng dấp của một bảo tháp. Do đó người Việt Nam  hay quen rút gọn trong cách phát âm của các từ  được du nhập từ nước ngoài, từ « stupa » trở thành từ « stu » hoặc « thu » để nhanh chóng dẫn đến từ « chùa » qua nhiều năm. Theo nhà nghiên cứu Việt Nam Hà Văn Tấn, đây chỉ là  sự phỏng đoán mà thôi. 

pagode_chuachien

Còn từ “Chiền” thì có ở trong tiếng Việt cổ, ngày nay được dùng cùng với từ “chùa” để gợi lên kiến ​​trúc của chùa. Tuy nhiên, từ « chiền » này thường được nhắc đến một mình trong quá khứ để chỉ chùa. Đây là điều chúng ta  tìm thấy trong bài thơ “Chùa vắng vẻ, tịch mịch” của vua Trần Nhân Tôn hay bài “Cảnh ở tự chiền” của Nguyễn Trãi.  Đối với nhiều người, từ « chiền » này có nguồn gốc từ tiếng Pali « cetiya » hoặc trong từ « Caitya » trong tiếng phạn để chỉ bàn thờ Phật trong mọi trường hợp.

Công trình xây dựng chùa đòi hỏi nhiều thời gian và công sức nghiên cứu nhất là việc thăm dò sơ bộ mặt bằng. Nó phải đáp ứng nghiêm ngặt một số tiêu chí nhất định ở  trong phong thủy vì theo người dân Việt, môn khoa học này có thể gây ra   một ảnh hưởng tai hại hay không đối với đời sống xã hội của dân làng. Nhà sư Khổng Lộ của phái Vô Ngôn Thông (1016-1094), cố vấn triều Lý, đã có dịp đề cập đến vấn đề này trong một bài thơ của mình với câu như sau: Tuyển đắc long xà địa khả  cư  (chọn được đất rồng mới có thể ở yên). Chúng ta thường quen xây dựng chùa trên một ngọn đồi hoặc một gò đất hoặc trên một khu vực đủ cao để nó có thể chiếm ưu thế đới với các nhà của dân làng. Bởi vậy vì có liên hệ với địa hình của chùa nên từ « Lên chùa » được người Việt sử dụng ngay cả khi chùa được nằm trên mặt đất bằng.

Hầu hết ở các chùa, đặc biệt là các chùa ở miền bắc Việt Nam, khung cảnh rất thanh bình, huyền bí và tráng lệ. Sông, núi, đồi, suối vân vân… luôn hiện hữu ở nơi đó, đôi khi còn tạo nên những cảnh quan ngoạn mục bởi sự hòa nhập hài hòa với thiên nhiên. Đây là trường hợp của chùa Thầy ở tỉnh Hà Tây, cách thủ đô Hànội 20 cây số nằm  giữa núi và nước. [Tiếp theo]