Le voyage à Hà Giang, Cao Bằng (Chuyến đi Hà Giang, Cao Bằng)

Le voyage à Hà Giang et Cao Bằng

Devant la chute d’eau impressionnante de Bản Giốc (Cao Bẳng)

Version vietnamienne

Je n’ai aucun moment  de visiter jusque-là tant d’endroits durant mon séjour au Vietnam comme je viens de le faire cette fois. Cela vient peut-être de mon ambition ancrée en moi depuis longtemps malgré mon âge assez élevé. Si je ne fais pas cette fois une excursion à Hà Giang, je pense que je n’ai plus l’occasion pour y aller même si j’ai tant d’argent. En prenant habituellement un circuit touristique, on n‘est jamais gâté car on n’a pas l’occasion de faire des photos à l’endroit désiré mais on est obligé de respecter les horaires imposées par le guide. De plus on a besoin de justifier qu’on est en bonne santé et qu’on est accompagné par des proches durant le voyage. Grâce à l’aide apportée par le patron d’un hôtel situé dans la vieille ville de Hanoi, Mr Trung et à l’encouragement de mes enfants, je suis plus motivé pour réaliser ce projet. La veille de notre départ, tout le monde me recommande d’y renoncer car les routes de Hà Giang ont été dévastées par le typhon Sơn Tinh la semaine précédente. Mais je suis entêté dans ma décision car je pense que chacun de nous a son destin et Dieu continue à soutenir ma volonté d’y parvenir. En arrivant à Hà Giang, je m’aperçois qu’il y a tellement de tronçons de route sinueux dévastés. La pluie continue à tomber à des endroits où le nuage s’assombrit et la route est très dangereuse pour moi et mes proches. Il ne faut pas oublier de remercier le jeune chauffeur Minh tellement doué dans la conduite et aimable que ma peur s’estompe au fil de mon voyage malgré la succession des pentes particulièrement plus raides que celles trouvées en Corse (France). Minh ne cesse pas de répondre à mon attente et de me permettre à faire des photos à mon gré malgré sa fatigue visible sur son visage à cause de son assiduité pour parer à toute éventualité. Il faut reconnaître que j’ai la chance d’avoir des gens extrêmement gentils et d’être dans cette région. C’est aussi une occasion pour moi d’admirer la beauté naturelle et grandiose, une caractéristique de la forêt du nord-ouest semblable à un tableau naturel du créateur, de pouvoir visiter la vieille ville Đồng Văn, grimper les 384 marches de l’escalier pour voir le drapeau flottant à Lũng Cú, admirer les chutes d’eau impressionnantes de Bản Giốc (Cao Bằng) occupées en grande partie aujourd’hui par les gens du Nord dans une région jusque-là défendue vaillamment par nos ancêtres avec des larmes et du sang. Je suis à la fois triste et heureux quand je rencontre à Lũng Cú deux jeunes garçons routards vietnamiens âgés à peu près de 16 à 18 ans venant de la région Thái Nguyên avec leur moto. Leur but est de pouvoir réaliser quelques photos avec la tour du drapeau flottant à Lũng Cú en grimpant comme moi les 300 marches de l’escalier. Ce geste m’émeut tellement que je ne retiens pas mes larmes. Je me rends compte qu’il y a toujours  l’amour intense de la jeunesse vietnamienne face à la menace des gens du Nord.

Galerie des photos

Chuyến đi Hà Giang và Cao Bằng

Chưa có bao giờ tôi về Việt Nam mà đi tham quan nhiều nơi như vậy có lẻ vì hoài bão mà mình có từ lâu ở nơi mình nhưng cũng có phần nào vì tuổi tác của mình. Nếu không đi thì không bao giờ đi được nửa dù có tiền đi nửa. Đi tour thì không thích thú chi cho mấy không được chụp những nơi mình thích mà còn vô cùng vội vã tranh thủ thì giờ theo lịch trình của hướng dẩn viên . Vã lại còn phải bảo đảm không bệnh hoạn có bảo hiểm và có người thân đi chung khi đi tour. Vi thế nhờ biết cháu Trung, nguời quản lý của khách sạn mình ở và quen biết từ lâu và nhờ có các con cháu đi chung mà mình mới có động lực thực hiện được hoài bão nầy. Trước ngày đi, mọi người khuyên bỏ ý đinh nầy đi đang sạt lở đường xá ở Hà Giang với bão Sơn Tinh tuần trước. Nhưng mình nhất định đi vì mình nghĩ rằng mỗi người đều có số mạng vã lại Trời không phụ ý định tâm quyết của mình đấy. Khi đến Hà Giang, mình mới nhận thấy sạt lở ở những đoan đường quanh co, mưa vẫn còn khi có mây đen ở từng đoạn đường, rất cực kỳ nguy hiểm cho mình và mọi người. Cũng phải cảm ơn Minh, cháu tài xế trẻ lái rất giỏi và rất dễ thương khiến sự sợ hải của mình không còn nửa nhất là đèo nầy vừa qua thì đèo khác lại tới còn hơn ở đảo Corse của Pháp nhiều lắm. Chú ơi, chú muốn ngừng ở đâu chụp, cháu ngừng ở nơi đó dù đôi khi Minh tỏ ra mệt mỏi đau lưng vì quá chăm chỉ. Thật sự tôi có duyên với mọi người nhất là với mãnh đất nầy. Mới có dip nhìn thấu tận vẽ đep cực kỳ hùng vĩ đặc trưng của rừng Tây Bắc như một bức tranh thiên nhiên của tạo hóa, có dip đến tham quan làng cổ Đồng Văn, leo 384 bậc thang lên xem cột cờ Lũng Cú, đến nhìn thác Bản Giốc(Cao Bằng) hùng vĩ nay bị mất đi một phần ở mãnh đất đia đầu của Tổ Quốc được bao lần giữ gìn bởi ông cha chúng ta. Rất vui buồn lẫn lộn khi thấy hai đứa trẻ cở chừng 16, 18 tuổi chạy xe gắn máy từ Thái Nguyên ngủ bờ ngủ bụi đi phượt để trèo lên như mình qua 300 bậc thang để chụp hình cột cờ Lũng Cú rồi quay về Thái Nguyên, một niềm hảnh diện của tuổi trẻ làm mình chảy nước mắt vì tinh thần yêu nước của tui trẻ nầy vẫn còn nồng nàn, vẫn còn mãnh liệt trước hiểm họa của người phương bắc.
Hà Giang ngày 24/7/2018

The Bai Yue ( Bách Việt)

bachviet1

French version

Vietnamese version

The Bai yue were probably the heirs of  Hoà Bình culture, a discovery extremely important from French archeologist Madeleine Colani in the Hoa Bình province (Vietnam). They were a people of skilled farmers: They grew rice on burned land and flooded fields and raised buffaloes and pigs. At the time of the first contact with the nomad folks from the North of Turco-Mongolian origin,  ancestors of the Han (or Chinese) called them by the name of « Yue ». There are people having the habit of using the ax in rice cultivation and in the fighting. The ancestors of the Vietnamese (or the Luo Yue) were part of these Bai Yue, owners of the bronze drums.

The Bai Yue (or Bách Việt in Vietnamese) lived scattered in the south of the Blue River basin (or Dương Tử Giang), from Zhejiang (Triết Giang) until Jiaozhi ( Giao Chỉ )( the northern Việt-Nam today ). They were devoted to rice cultivation and distinguished themselves from Chinese people accustomed to cultivate millet and wheat. They drank infused water with the leaves of a plant known as « tea » they gathered in the forest. They liked dancing, working while singing and alternated their reply in the songs. They often disguised themselves in the dance with leaves and plants. They were found at that time in the current provinces of Southern China: Foujian (Phúc Kiến), Hunan(Hồ Nam), Guizhou (Qúi Châu), Guangdong (Quảng Ðông), Jiangxi, Guangxi ( Quảng Tây), Yunnan (Vân Nam) and in the northern Vietnam today.

Bronze drum shown in Guimet museum (Paris)

icon_tambour

Characteristic features of the Bai Yue

1°) The practice of cutting hair short and tattooing.
2°) The construction of houses on piles ( construction Ganlan ).
3) Dress in loincloth and turban.
4) Blackening or grinding front teeth ( canine teeth )
5) Eating clams and amphibians in diet.
6) Bronze casting and using bronze drums in rituals.
7) Foretelling future using bird bones
8) Totemic cult (birds, reptiles and amphibians)
9) Practice burying on cliffs
10°) Greater involvement by fathers in their son’ birth and education and the return of the woman in rice acitivities.
11°) A highly developed technology of weaving
12°) Intensive use of small boats and expertise in the art of maritime warfare.

 

Đại tộc Bách Việt

Bai Yue (Bách Việt)

bachviet1

English version
Vietnamese version

Les Bai Yue étaient probablement les héritiers de la culture Hoà Bình  (9000-5600 av J.C.), une découverte extrêmement importante de la part de l’archéologue française Madeleine Colani dans la province Hoà Bình du Vietnam. Ils étaient un peuple d’agriculteurs avertis: ils cultivaient le riz en brûlis  et en champs inondé  et élevaient buffles et porcs. Au moment du contact avec les gens nomades du Nord d’origine turco-mongole, les ancêtres des Hán (ou Chinois), ils étaient appelés par ces derniers, sous le nom « les Yue ». Ceux-ci   vivaient disséminés au sud du bassin du fleuve bleu (ou Dương Tử Giang), de Zhejiang (Triết Giang) jusqu’au Jiaozhi (Giao Chỉ)(le Nord du Việt-Nam d’aujourd’hui)  avant l’ère chrétienne et  avaient l’habitude de se servir de la hache dans la riziculture et dans les combats. Les ancêtres des Vietnamiens (ou les Luo Yue) faisaient partie de ces Bai Yue, les propriétaires des tambours de bronze icon_tambour

 

Tambour de bronze exposé au musée Branly (Paris)

Ils se consacraient à la riziculture et se distinguaient des Chinois habitués à cultiver le millet et le blé. Ils buvaient de l’eau infusée avec les feuilles  d’une  plante   connue sous le nom « théier (trà) » qu’ils cueillaient dans la forêt. Ils aimaient danser, travailler tout en chantant et alterner des répliques dans les chants. Ils se déguisaient souvent dans la danse avec les feuilles des plantes. On les retrouva à cette époque dans les provinces actuelles de la Chine du Sud: Foujian (Phúc Kiến), Hunan (Hồ Nam), Guizhou ( Qúi Châu), Guangdong  (Quảng Ðông), Jiangxi (Giang Tây) , Guangxi (Quảng Tây) et Yunnan (Vân Nam) ainsi que dans le nord du Vietnam actuel.

Caractéristiques des Bai Yue

1°) La pratique de couper court les cheveux et le tatouage.
2°) La construction des maisons sur pilotis.  (construction Ganlan).
3°) La tenue en pagne et turban.
4°) Le noircissement ou la mutilation des dents de devant (dents canines).
5°) L’utilisation des palourdes et des amphibiens  dans leur régime alimentaire.
6°) Le moulage et l’utilisation rituelle des tambours de bronze.
7°) La divinisation effectuée avec les os des oiseaux et des volailles en particulier.
8°) Le culte totémique ( oiseaux, reptiles, et amphibiens).
9°) La pratique des enterrements sur les falaises.
10°) La participation active du père  dans la naissance  et  l’éducation de l’enfant et le retour de la mère aux activités rizicoles.
11°)  L’utilisation  intensive des barques et l’expertise dans l’art de guerre  maritime.
12°) La technique de tissage hautement développée.

 Version vietnamienne

Đại tộc Bách Việt


Đại tộc  Bách Việt có lẽ họ là  nhóm bộ tộc  thừa kế của  nền văn hóa Hòa Bình (9000-5600 TCN), một khám phá cực kỳ quan trọng của bà Madeleine Colani ở tỉnh Hòa Bình (Việtnam) . Họ    chuyên sống  về  nông nghiệp:  họ thường đốt nương trồng lúa trên rẫy hay  trên nước và nuôi bò và lợn. Lúc họ tiếp xúc  với những bộ tộc du mục ở phương bắc  thuộc góc Thổ-Mông, tổ tiên người Hán (hay người Hoa) thì họ được gọi bỡi các nhóm người nầy với cái tên Yuê (hay Việt). Đó là tên ám chỉ những dân tộc sống  ở phía nam  sông xanh Dương Tử Giang,  từ Triết Giang đến Giao Chỉ (miền bắc của nước Việt Nam ngày nay) từ thời trước công nguyên    và    thường dùng loại rìu để canh tác và giao chiến. Bộ tộc Lạc Việt (hay Lo Yue), tổ tiên của người Việt, cũng  thuộc về đại tộc Bách Vịệt, chủ nhân của trống đồng.  

Khác hẳn với dân tộc Hoa trồng kê và lúa mì, họ thì sống chuyên  nghề trồng lúa. Họ thường uống nước đun với một loại lá cây họ hái ở trong rừng mà họ thường gọi là trà. Họ  thích nhảy múa,  thường cải trang với lá cây  và  hát  đối đáp trong lúc làm việc.   Thời đó, họ thường định cư ở các tỉnh hiện nay thuộc về miền nam của Trung Quốc: Phúc Kiến, Hồ Nam, Quảng Đông, Giang Tây, Vân Nam và miền Bắc của nước Việt Nam.

Đặc tính của đại tộc Bách Việt

  1. Tục cắt tóc ngắn và xăm mình.
  2. Xây nhà sàn.
  3. Trang phục đặc trưng  với quần ngắn hay váy quấn và đầu đội khăn xếp .
  4. Tục nhuộm răng và nhổ răng ( răng nanh hoặc răng cửa trên).
  5. Chế độ ăn nhiều sò hến và ếch.
  6. Đúc và sử dụng trống đồng trong các nghi lễ .
  7. Bói bằng xương chim, đặc biệt là xương gà.
  8. Thờ vật tổ, đặc biệt là chim, bò sát, và cóc hay ếch.
  9. Tục táng trên vách đá.
  10. Tục lệ người cha tham gia quá trình đỡ đẻ và chăm sóc con nhỏ sau đó để người mẹ trở lại với việc làm đồng.
  11. Sử dụng nhiều đến thuyền bè và điêu luyện về thủy chiến.
  12. Kỹ thuật dệt phát triển cao.