Version française
Version anglaise
Cho đến ngày nay chưa có tài liệu lịch sử nào xác định rõ ràng thời gian nào cái nón lá được ra đời nhưng chỉ thấy dạng thức thô sơ tiền thân của nó (mũ lông chim) được khắc trên các cổ vật Đồng Sơn (như trống đồng Ngọc Lữ hay thạp đồng Đào Thịnh) cách đây 2500-3000 năm trước Công Nguyên. Từ ngàn xưa, để chống nắng và che mưa nhất là sống trong khu vực khí hậu nhiệt đới, nắng lắm mưa nhiều nên ông cha ta đã nghĩ ra để tận dụng những nguyên liệu dễ kiếm từ thiên nhiên (như lá cọ, lá buông, lá hồ, lá cối, lá dừa, lá dứa rơm vân vân) và sáng chế ra chiếc nón lá. Rồi nó trở thành từ đó vật dụng cần thiết trong cuộc sống bình dị thường ngày của người dân Việt. Ở khắp mọi miền đất nước, đâu đâu cũng có hình dáng của nó. Trên đê dưới ruộng, trên bờ dưới sông, lúc nào nó cũng dãi nắng dầm mưa cùng người nông dân. Đôi khi nó còn trở thành dụng cụ tạo gió cho người nông dân giữa lúc hè nóng oi bức. Nó cũng theo chân gót của người bán hàng rong ở khắp nẽo đường thành phố. Nón lá đã từ lâu trở thành một biểu tượng đặc trưng trong nền văn hóa Việt. Nó còn tô thêm nét đẹp duyên dáng cho người phụ nữ Việt dịu dàng với chiếc áo dài hay chiếc áo bà ba.
Dựa trên các nguồn sử liệu thì nguời đầu tiên đề cập chiếc nón Việt là Chu Khứ Phi thời Nam Tống trong cuốn: Lĩnh Ngoại Đại Đáp (嶺外代答序) viết về phong tục nhà Lý của chúng ta vào khoảng năm 1178. Nguời Giao Chỉ đầu đội nón trôn ốc [nguyên văn là 螺笠 cái loa lạp, cái nón có hình như trôn ốc]. Sau đó, dựa theo Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Chu Khứ Phi, sử gia nhà Nguyên Mã Đoan Lâm có miêu tả lại trong “Văn hiến thông khảo” vào năm 1307 như sau: nón hình xoắn ốc, hình dáng của nó giống như những con ốc… được làm rất khéo từ lạt tre mỏng. […] Hình ảnh sớm nhất về nón lá của người Việt được ghi nhận là trong bức họa “Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ” của Trần Giám Như vào khoảng năm 1363. Trong bức họa này, được thấy rõ có hai người đàn ông đội nón có hình dáng khác nhau. Người thứ nhất đội chiếc nón vành xòe rộng, bên trên lại có cái chũm nhô cao. Còn người kia cũng đội chiếc nón cũng rộng vành nhưng chớp nhọn. Như vậy thời đó nón đã dành cho nhiều tầng lớp người khác nhau, từ giàu sang đến kẻ nghèo, từ quan trên đến người hầu hạ rồi. Dưới thời nhà Trần, ở làng Ma Lôi (Hải Dương ngày nay) đã sản xuất chiếc nón lá. Lúc đầu nón Ma Lôi chỉ lưu hành ở trong dân gian nhưng về sau vua Trần trông thấy đẹp mắt nên cải tiến một loại nón để cung tần mỹ nữ dùng trong hoàng cung và được gọi là nón thượng. Nón Ma Lôi được dùng sau đó trong lực lựợng thủy quân do tướng Trần Khánh Dư chỉ huy nhầm để phân biệt với quân lính phương Bắc.
Qua bức họa trên “Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ” của Trần Giám Như cho ta thấy rõ rệt thứ nhất là thân phận, giai cấp của mỗi người đội nón thứ hai là nón nó có một hành trình biến đổi qua nhiều thế kỷ với nhiều kiểu dáng khác nhau và mang đậm về sau dấu ấn văn hoá điạ phương (như nón ba tầm hay nón quai thao ở miền bắc Việt Nam, nón Huế, nón Bình Định, nón Quảng Nam vân vân) để rồi ngày nay cái nón lá lại trở thành vật dụng thân thiết và bình dị của mọi tầng lớp nhân dân, một bạn đồng hành thường ngày của người dân Việt. Không chỉ trong đời sống hằng ngày, hình ảnh của nón lá còn được phổ biến trên các sàn diển thời trang và trở thành nguồn cảm hứng thiết kế hiện nay cho các nhà mốt. Nó còn là món quà lưu niệm mà được các du khách nước ngoài hay thường mua khi trở về nước.
Jusqu’à ce jour, il n’existe pas de documents historiques précisant clairement la période de la création du chapeau conique. Par contre seule sa forme primitive (chapeau de plumes) a été vue gravée sur les artefacts de la culture de Đồng Sơn (comme le tambour de bronze Ngoc Lũ ou la situle de bronze Đào Thịnh) il y a 2500 à 3000 ans avant J.-C.
Depuis l’Antiquité, pour vivre et se protéger du soleil et de la pluie dans un climat tropical, nos ancêtres ont pensé à utiliser des matériaux facilement trouvables dans la nature comme les feuilles de certaines plantes (pandan, cocotier, buông, hồ, cối) et de la paille et ont réussi à inventer le chapeau conique. Ce dernier est devenu dès lors un élément indispensable à la vie quotidienne des Vietnamiens. On le voit partout dans tous les recoins du pays. Il devient inséparable du paysan, de la digue jusqu’à la rizière ou du rivage jusqu’au fleuve. Parfois le paysan s’en sert comme un éventail pour se détendre sous un soleil accablant. On le voit suivre souvent le marchand ambulant dans les rues de la ville. Il devient depuis longtemps un symbole caractéristique de la culture vietnamienne. Il ajoute une touche d’élégance à la femme vietnamienne à travers sa tunique ou à son veste à amples manches.
D’après des sources historiques, la première personne à mentionner le chapeau conique vietnamien était Zhou Qunfei (Chu Khu Phi) de la dynastie des Song du Sud dans son livre intitulé :Lĩnh Ngoại Đại Đáp (嶺外代答序), retraçant les coutumes de notre dynastie Lý en 1178. Les habitants de Giao Chi portaient des chapeaux coniques [le texte original est 螺笠 le loa lap, un chapeau en forme de coquille conique]. Plus tard, en se basant sur le livre Zhou Qunfei, l’historien de la dynastie des Yuan Ma Duanlin (Mã Đoan Lâm) le décrit dans «Văn hiến thông khảo » en 1307 comme suit: le chapeau ressemblant à la forme de l’escargot etc. est fabriqué d’une manière très méticuleuse à partir de fines bandes de bambou. […] La plus ancienne image des chapeaux coniques vietnamiens se trouve dans le tableau «Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ évoquant le retour du roi moine Trần Nhân Tôn à la vie royale, illustré par le moine dessinateur chinois Trần Giám Như en 1363. Dans ce tableau, on voit apparaître deux hommes portant des chapeaux de formes différentes. La première personne portait un chapeau à large bord au milieu duquel on fait ressortir sa portion saillante. L’autre personne portait également un chapeau à large bord très pointu. À cette époque, les chapeaux étaient destinés à de nombreuses catégories de personnes différentes, des riches aux pauvres, des fonctionnaires aux domestiques. Sous la dynastie des Trần, le village de Ma Lôi (aujourd’hui Hải Dương) fabriquait des chapeaux coniques. Au début, ceux-ci étaient populaires et connus seulement par le peuple, mais plus tard, le roi des Trần a trouvé qu’ils étaient tellement beaux. Il n’a pas tardé à apporter des améliorations à ces chapeaux en vue de leur usage par les concubines dans le palais royal. Dès lors ces chapeaux étaient connus sous le nom « nón thượng ». Le chapeau de Ma Lôi était utilisé plus tard dans la marine nationale commandée par le général Trần Khánh Dư pour se différencier de celui porté par les soldats venant du Nord.
À travers le tableau ci-dessus «Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ» de Trần Giám Như, on peut repérer premièrement le statut social de chaque personne portant le chapeau. Puis deuxièmement le chapeau a connu un long parcours de transformation au cours de nombreux siècles avec de nombreux modèles différents portés chacun par la culture locale (comme le chapeau Ba Tầm ou Quai Thao dans le nord du Vietnam, le chapeau Huế, le chapeau Bình Định, le chapeau Quảng Nam, etc.) de sorte qu’aujourd’hui le chapeau conique est devenu un objet familier et simple de toutes les classes de la société, un compagnon inséparable du peuple vietnamien. Étant connue non seulement dans la vie quotidienne, l’image du chapeau conique est également exhibée lors des défilés de mode et est devenue aujourd’hui une source d’inspiration pour les maisons de mode. C’est aussi un objet de souvenir que les touristes étrangers aiment acheter souvent lors du retour dans leur pays.
En portant la tunique vietnamienne avec son chapeau conique, Miss Isabelle Menin
honore la beauté de la culture traditionnelle lors du concours de
Miss Grand International 2023 au Vietnam