essai

 

Sáu đặc điểm chính của văn hóa Lương Chử

Các yếu tố quyết định liệu văn hóa của một khu vực có bao gồm văn hóa Lương Chử hay không có thể được phân tích dựa trên sáu đặc điểm chính sau. Sáu đặc điểm này bao gồm: văn hóa gốm đất sét, canh tác lúa và các loại cây trồng liên quan, hệ thống giao thông đường thủy đô thị phát triển mạnh mẽ, sử dụng ngọc bích rộng rãi, truyền tải thông tin đồ họa và ưa chuộng đồ ăn cay.

 

Đặc điểm văn hóa chính đầu tiên là văn hóa gốm đất sét. Tại di chỉ hang động Tiên Nhân ở huyện Vạn Niên, tỉnh Giang Tây, người cổ đại đã phát minh ra nồi đất sét. Việc sử dụng nồi đất sét để nấu ăn cho phép người cổ đại có được những món ăn ngon hơn và tận hưởng chất lượng cuộc sống tốt hơn. Sau khi nồi đất sét được phát minh, tập tục này nhanh chóng lan rộng sang các khu vực lân cận, bao gồm Hồ Nam, Chiết Giang, Nhật Bản và các nơi khác. Ngược lại, ngay cả trong thời Trung cổ, những người du mục ở phía bắc chủ yếu ăn thịt sống hoặc thịt nướng.

Điều này phản ánh thực tế rằng việc sử dụng nồi đất không phải là điều tất yếu trong quá trình tồn tại của con người. Đặc điểm quan trọng thứ hai của văn hóa Lương Chử là trồng lúa. Giống lúa lâu đời nhất trên thế giới được thuần hóa tại di chỉ văn hóa Thượng Sơn thuộc vùng văn minh Lương Chử. Lúa gạo cũng đã trở thành nguồn lương thực quan trọng của con người hiện đại. Nghề trồng lúa trong văn hóa Lương Chử cũng rất phong phú. Nó không chỉ bao gồm việc chế biến gạo và nấu rượu sake tinh xảo, mà còn hình thành nên những mối quan hệ thấm nhuần toàn bộ nền văn hóa.Ở Trung Quốc cổ đại và Nhật Bản cổ đại, có rất nhiều bài thơ miêu tả vai trò quan trọng của lúa gạo và ruộng lúa trong mọi mặt của xã hội. Đặc điểm quan trọng thứ ba là hệ thống giao thông thủy lực được thiết lập tốt trong thành phố. Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của thành phố Lương Chử cổ đại là hệ thống kênh đào. Các kênh đào này bao gồm cả sông tự nhiên và một số lượng lớn các kênh đào nhân tạo. Các hệ thống kênh đào này được sử dụng để đáp ứng nhu cầu vận chuyển người và vật liệu đường dài trong thời kỳ đồ đá, trước khi ngựa, xe cộ, v.v. xuất hiện. Do đó, ở một số khu vực thuộc nền văn hóa Lương Chử, có thể thấy một số thành phố quan trọng được xây dựng dọc theo một con sông lớn. Đồng thời, ở một số trung tâm đô thị, sẽ có một kênh đào tự nhiên hoặc nhân tạo chạy qua thành phố để đảm bảo vật liệu có thể được vận chuyển hiệu quả dọc theo kênh chính này. Đặc điểm quan trọng thứ tư là văn hóa ngọc bích. Đây cũng là điểm khác biệt của văn hóa Lương Chử so với một số nền văn hóa khác. Trong nền văn minh Ai Cập và Lưỡng Hà cổ đại, các hiện vật ngọc bích ít phong phú hơn nhiều so với văn hóa Lương Chử. Một chức năng quan trọng của ngọc bích là được sử dụng làm tiền tệ. Là một loại tiền tệ thời kỳ đồ đá, nó có thể thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong văn hóa Lương Chử, từ đó thúc đẩy sự tiến bộ kinh tế và xã hội nhanh chóng trong khu vực văn hóa Lương Chử.
Đặc điểm quan trọng thứ năm là việc sử dụng các biểu tượng đồ họa trừu tượng để diễn đạt ý nghĩa. Đây cũng là một đặc điểm nổi bật của văn hóa Lương Chử. Có thể quan sát thấy tại nhiều địa điểm Lương Chử, người ta đã khai quật được nhiều đồ gốm và đồ chạm khắc ngọc bích đa dạng, và hình ảnh của chúng mang tính trừu tượng cao. Điều này rất khác so với các tác phẩm chạm khắc của nền văn minh Ai Cập cổ đại và Lưỡng Hà. Các tác phẩm chạm khắc của Ai Cập cổ đại và Lưỡng Hà mang tính tượng hình cao. Nói cách khác, trong những nền văn minh cổ đại này, chạm khắc chủ yếu được sử dụng như một hình thức nghệ thuật trực quan. Trong khu vực văn hóa Lương Chử, nhiều tác phẩm chạm khắc và tranh khắc sử dụng các biểu tượng trừu tượng, có thể được sử dụng để truyền tải và diễn đạt những ý nghĩa rất phong phú. Những biểu tượng đồ họa trừu tượng này cuối cùng đã phát triển thành toán học, vật lý và kỹ thuật hiện đại. Trên thực tế, ngay khi chúng ta trình bày một công thức toán học hoặc vẽ một sơ đồ, các nhà khoa học trên toàn thế giới, nói nhiều ngôn ngữ khác nhau, đều có thể hiểu được các nguyên lý khoa học mà nó chứa đựng. Do đó, đặc điểm quan trọng này mô tả bản chất khoa học của văn hóa Lương Chử.  Đặc điểm thứ sáu là sở thích ăn cay. Vào thời kỳ Hà Mỗ Độ, do việc thuần hóa lợn đã phổ biến, người Lương Chử cổ đại có thể tiêu thụ một nguồn protein và chất béo rất dồi dào. Tuy nhiên, điều này cũng mang đến một vấn đề rất nghiêm trọng: tích tụ mỡ trong cơ thể. Đặc biệt khi con người già đi, thể lực suy giảm, và những vấn đề này trở nên rất nghiêm trọng, thậm chí không thể phục hồi, có khả năng gây nguy hiểm đến tính mạng. Do đó, để đảm bảo chế độ dinh dưỡng đầy đủ, có thể loại bỏ mỡ thừa bằng nhiều cách khác nhau.Tuy nhiên, vì trà không phải là phát minh của nền văn hóa Lương Chử cổ đại, nên người ta tin rằng một cách hiệu quả để cư dân Lương Chử cổ đại, và thậm chí cả các vùng khác, giảm tích tụ mỡ là ăn đồ cay. Theo thời gian, thói quen thưởng thức hương vị cay nồng của người xưa vẫn được duy trì. Điều này cũng cung cấp bằng chứng quan trọng về sự truyền bá văn hóa ẩm thực giữa một số dân tộc cổ đại. Phương tiện truyền tải di sản văn hóa Lương ChửViệc truyền tải di sản văn hóa Lương Chử không dựa trên ngôn ngữ viết mà dựa trên các biểu tượng đồ họa (Xia & Zhu, 2022). Hiện nay, nhờ công nghệ máy tính, người ta có thể phân loại các hoa văn khắc trên ngọc Lương Chử (Zhu & Dong, 2013). Điều này cũng chứng minh rằng các hoa văn và biểu tượng khác nhau được sử dụng trong nền văn minh Lương Chử không phải là ngẫu nhiên, mà chứa đựng kết quả của sự phản ánh có chủ đích và có ý thức của con người cổ đại về nhiều vấn đề khác nhau. Điều này cũng giống như các hoạt động xã hội hiện tại của chúng ta, không chỉ sử dụng ngôn từ để truyền tải thông tin mà còn sử dụng hình ảnh, video và các phương tiện đa phương tiện khác để truyền tải thông tin. Khả năng truyền tải thông tin của đa phương tiện là không thể phủ nhận. Ngoài ra còn có nhiều lý thuyết về việc truyền tải thông tin thông qua các biểu tượng đồ họa. Hình nón trải nghiệm của Dale là một ví dụ rất điển hình về vai trò quan trọng của các biểu tượng hình ảnh trong trải nghiệm của con người (Lee & Reeves, 2017).Trong hình nón trải nghiệm của Dale, cả biểu tượng thị giác và biểu tượng ngôn từ đều nằm ở đỉnh hình nón. Cả hai đều thuộc về phạm vi trừu tượng của trải nghiệm biểu tượng. Mặt khác, biểu tượng thị giác nằm ngay dưới biểu tượng ngôn từ. Hiện tại, chúng ta có cả Twitter (X), chủ yếu dựa vào văn bản để truyền bá thông tin, và TikTok, chủ yếu dựa vào hình ảnh và video.Cũng có thể suy ra rằng đồ họa, hình ảnh, v.v. rất mạnh mẽ trong việc truyền tải thông tin. Do đó, không còn nghi ngờ gì nữa, kể từ khi hình thành nền văn hóa Lương Chử hơn 12.000 năm trước, miền Nam Trung Quốc đã dựa vào các biểu tượng của hình ảnh đồ họa này để truyền tải văn hóa, nhờ đó cho phép toàn bộ nền văn hóa Lương Chử tồn tại đến thời hiện đại.Hiện nay, khi nhìn vào các nền văn minh cổ đại khác trên thế giới, yếu tố quan trọng nhất trong quá trình truyền bá văn hóa chủ yếu là sự xuất hiện của hệ thống chữ viết. Ví dụ, nền văn minh Lưỡng Hà, nền văn minh Ai Cập cổ đại, v.v. Tuy nhiên, ngay cả với ngôn ngữ viết rất phát triển, một số nền văn hóa vẫn bị gián đoạn trong suốt lịch sử, chẳng hạn như Ai Cập cổ đại; nếu không có các cuộc khai quật khảo cổ về chữ viết Ai Cập cổ đại, nền văn hóa Ai Cập cổ đại cũng đã bị mất hoàn toàn. Mặc dù các nền văn hóa Lưỡng Hà cũng có văn bản viết, nhưng việc tái hiện chúng dựa trên các cuộc khai quật khảo cổ. Văn hóa Lương Chử thì khác, dựa vào hình ảnh đồ họa dễ hiểu để truyền tải thông tin, do đó cho phép nhiều người bình thường nắm bắt dễ dàng. Mặc dù có thể có một số khác biệt trong cách hiểu, nhưng hàng chục triệu người, thậm chí nhiều hơn, đã truyền lại nó và hiệu ứng thống kê cho phép dòng chảy chính của toàn bộ nền văn hóa tiếp tục được truyền bá và tạo ra những đổi mới to lớn.Ở Đông Á cũng đã xảy ra những cuộc chiến tranh với quy mô tương đương với châu Âu. Nhưng sau mỗi cuộc chiến, toàn bộ xã hội đều có thể ổn định và trở lại hệ thống văn minh xã hội mà văn hóa Trung Hoa chiếm ưu thế. Việc truyền tải thông tin độc đáo dưới dạng hình ảnh đồ họa từ văn hóa Lương Chử đã đóng một vai trò không thể xem nhẹ. Hơn nữa, thông tin đồ họa từ văn hóa Lương Chử cũng góp phần vào việc phát minh ra các bia ký giáp cốt trong thời nhà Thương (Demattè, 2010). Chữ giáp cốt là dạng chữ Hán cổ nhất. Do đó, chữ Hán thực sự bắt nguồn từ loại ký hiệu đồ họa này từ thời Lương Chử. Nhưng điều khiến nhiều người tò mò là chữ Hán tương đối khó học, vì vậy rất ít người trong mỗi triều đại có thể thành thạo chúng. Ngay cả vào năm 1942, tỷ lệ mù chữ ở Trung Quốc vẫn vượt quá 71% (UNESCO, 1957). Đây cũng là lý do khiến Phong trào Văn hóa Mới Trung Quốc bị chỉ trích (Hayford, 2017).Do đó, số ít người biết chữ này dường như không bị ảnh hưởng bởi những chữ Hán thống trị này mặc dù chúng rất phổ biến. Những di sản văn hóa đại chúng này dường như có hệ thống lưu thông và truyền tải thông tin rất bền bỉ. Do đó, mặc dù cách phát âm chữ Hán đã thay đổi đáng kể, nhưng nội hàm của văn hóa Trung Quốc nói chung dường như không thay đổi nhiều. Tất nhiên, những tiến bộ công nghệ đã xuất hiện, dẫn đến sự phát triển của các kỹ thuật tiên tiến hơn để tạo ra hình ảnh đồ họa. Hình ảnh đồ họa đang trở nên tượng hình hơn, ít trừu tượng hơn, và do đó dễ hiểu hơn đối với người bình thường. Sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội hiện đại, người ta cũng có thể nhận thấy rằng các họa tiết khắc trên công trình kiến ​​trúc và đồ nội thất có ý nghĩa quan trọng đối với việc truyền tải văn hóa. Tuy nhiên, hầu hết mọi người không hiểu ý nghĩa của những họa tiết này. Điều này cũng phản ánh thực tế rằng loại biểu tượng đồ họa này mang lại cho người nhận thông điệp sự linh hoạt đáng kể và cho phép họ có nhiều không gian hơn để suy ngẫm (Appiah-Kubi, Inkum & Wu, et al. 2021). Hơn nữa, nghiên cứu hiện đại cũng chỉ ra rằng các bản khắc đồ họa phức tạp, chẳng hạn như những bản khắc được tìm thấy trong kiến ​​trúc Hồi, thực sự có thể được truyền tải hiệu quả thông qua việc sử dụng đội ngũ nhân viên lành nghề như nghệ nhân (Cao & Mustafa, 2023).  Khía cạnh quan trọng nhất của văn hóa Lương Chử, vốn sử dụng hình ảnh đồ họa để truyền tải thông tin, chính là di sản khoa học và công nghệ. Bằng chứng khảo cổ học sớm nhất là một mô hình thuyền độc mộc được phát hiện tại Hà Mỗ Độ. Dưới thời nhà Hán, các mô hình vũ trụ vĩ mô hơn, chẳng hạn như thiên nghi, đã được thiết lập và phát triển hơn nữa dưới thời nhà Tống. Các biểu đồ sao từ thời nhà Tống mô tả vị trí của hơn 1.400 ngôi sao và thiên hà. Điều này phản ánh đầy đủ sự phong phú và tính khoa học chặt chẽ của di sản văn hóa đồ họa Lương Chử. Chúng ta có thể tạm chia quá trình phát triển thông tin đồ họa ở Lương Chử. Trong giai đoạn đầu, cư dân đầu tiên của Lương Chử đã sử dụng các họa tiết tuyến tính khắc trên đồ gốm và ngọc bích, cũng như một số ít các tác phẩm điêu khắc ngọc bích (Zhixin, Chúng ta có thể tạm chia quá trình phát triển thông tin đồ họa ở Lương Chử. Trong giai đoạn đầu, cư dân đầu tiên của Lương Chử đã sử dụng các họa tiết tuyến tính khắc trên đồ gốm và ngọc bích, cũng như một số ít các tác phẩm điêu khắc ngọc bích (Zhixin, 1993) (Xia & Zhu, 2022). Trong giai đoạn thứ hai, trong trận đại hồng thủy 4.300 năm trước, một số cá nhân có tay nghề cao từ thành cổ Lương Chử đã di cư dọc theo sông Dương Tử đến đồng bằng Thành Đô và định cư tại Tam Tinh Đôi. Vào thời điểm này, nhờ sự phát triển nhanh chóng của công nghệ chế tác đồ đồng, nhiều hình ảnh đã được khắc trên các đồ vật bằng đồng. Những họa tiết khắc này chi tiết và trực quan hơn.1993) (Xia & Zhu, 2022). Trong giai đoạn thứ hai, trong trận đại hồng thủy 4.300 năm trước, một số cá nhân có tay nghề cao từ thành cổ Lương Chử đã di cư dọc theo sông Dương Tử đến đồng bằng Thành Đô và định cư tại Tam Tinh Đôi. Vào thời điểm này, nhờ sự phát triển nhanh chóng của công nghệ chế tác đồ đồng, nhiều hình ảnh đã được khắc trên các đồ vật bằng đồng. Những họa tiết khắc này chi tiết và trực quan hơn. Đồng thời, một số lượng lớn hình dạng và hình vẽ được đúc trực tiếp thành các tác phẩm điêu khắc bằng đồng ba chiều. Những tác phẩm điêu khắc ba chiều này cũng làm cho biểu tượng đồ họa này dễ hiểu hơn (Xu. 2008) (Li. 2008, tháng 11). Trong giai đoạn thứ ba, loại hình biểu đạt thông tin đồ họa này đã phát triển lên một cấp độ khác trong thời kỳ tiền Tần của thời Chiến Quốc, và đồ họa khắc trở nên tinh xảo hơn. Ví dụ, trên một chiếc bình đồng được khai quật từ lăng mộ của vua Tây Hán ở Nam Việt, người ta có thể thấy hình khắc một tù nhân bị giết trên một chiến hạm để ăn mừng chiến thắng. Từ hình khắc này, chúng ta có thể hiểu rằng chắc hẳn đã có một trận hải chiến tương đối lớn vào thời điểm đó. Bên chiến thắng đã bắt được một số lượng lớn tù binh và sau đó sử dụng các thủ lĩnh bị bắt làm vật hiến tế Trong giai đoạn thứ tư, các mô hình và thiết bị khoa học bắt đầu được sản xuất, bao gồm thiên nghi, bản đồ sao, v.v. Trong giai đoạn thứ năm, sau thời nhà Tống, với sự phát triển của công nghệ chạm khắc gỗ, đã có những hình chạm khắc nhân vật và cảnh tượng mang tính trực quan cao trên nhiều công trình kiến ​​trúc và đồ nội thất bằng gỗ, chẳng hạn như « Thủy Hử », « Tam Quốc », v.v. Các hình chạm khắc trên kiến ​​trúc điển hình của người Hồi thậm chí còn đẹp hơn (Cao & Mustafa, 2023). Tất nhiên, vì các ghi chép lịch sử đã tồn tại vào thời điểm này, những hình chạm khắc này chỉ được sử dụng như một phương tiện ghi chép bổ sung. Tuy nhiên, đối với người dân thường, ngay cả khi không biết chữ, họ vẫn có thể hiểu được ý nghĩa của thông điệp được truyền tải qua những hình khắc này, và văn hóa sau đó được truyền tải dưới dạng phương ngữ địa phương. Cũng có một hướng truyền tải khả dĩ cho văn bản đồ họa này từ nền văn hóa Lương Chử, đó là đến châu Mỹ. Cái gọi là chữ khắc gỗ Rongorongo (Fischer, 1997) được tìm thấy trên Đảo Phục Sinh có thể được hiểu là một hình thức ghi chép văn hóa dưới dạng hình ảnh của thời kỳ Lương Chử, và chúng ta có thể thấy rằng những chữ khắc Rongorongo này thực sự có ý nghĩa dễ hiểu. Điều này cũng cho thấy rằng trong các nền văn hóa được truyền đến châu Mỹ sau thời nhà Tống, loại hình chữ viết đồ họa này đã trở thành hình thức di sản xã hội và văn hóa quan trọng nhất. Xét cho cùng, những người di cư đến các khu vực này vào thời điểm đó chủ yếu là những người đóng tàu lành nghề, và họ không biết chữ Hán.Do đó, không có gì ngạc nhiên khi di sản văn hóa của họ chủ yếu dựa trên các biểu tượng đồ họa. Điều thú vị là Đế chế Inca ở Nam Mỹ rất rộng lớn, với dân số hơn 10 triệu người. Tuy nhiên, các cuộc khai quật khảo cổ dường như không phát hiện ra các biểu tượng chính xác và có thể tái tạo (Niles, 1999). Tuy nhiên, trong số các di vật văn hóa được tìm thấy trong khảo cổ học, thực sự có rất nhiều hiện vật sống cũng có thể truyền tải thông tin về những di sản văn hóa này. Ví dụ, việc sử dụng quipu (một phương pháp ký hiệu bằng dây thắt nút), có thể bắt nguồn từ văn hóa dân gian Trung Quốc, để ghi lại các số lượng khác nhau (Urton, 2008), cũng như một số lượng lớn các bản khắc và tác phẩm điêu khắc. Các Giai Đoạn Phát Triển Của Văn Hóa Lương ChửNếu nhìn vào văn hóa Lương Chử trong 20.000 năm qua, chúng ta có thể chọn một số giai đoạn tương đối thịnh vượng làm chuẩn mực và tạm chia văn hóa Lương Chử thành năm giai đoạn. Giai đoạn 1: Hang Tiên Nhân ĐộngVăn hóa Lương Chử có niên đại từ cuối thời kỳ đồ đá, khoảng 20.000 năm trước. Những người tiền sử đầu tiên của nền văn minh Lương Chử sống trong tàn tích của Hang Tiên Nhân Động ở huyện Vạn Niên, tỉnh Giang Tây. Ở giai đoạn này, mặc dù trình độ sản xuất của những người tiền sử này còn thấp, họ đã phát minh ra « đồ gốm đất sét », đóng vai trò quan trọng nhất trong sự sinh tồn của con người (Wu, Zhang & Bar-Yosef, 2012). Sau khi có được đồ gốm đất sét, những người tiền sử này có thể làm những việc sau: (1) Đun sôi nước. Việc này có thể tiêu diệt vi khuẩn trong nước một cách hiệu quả, và người tiền sử có thể uống nước uống sạch và hợp vệ sinh. Điều này rất hữu ích trong việc giảm thiểu bệnh tật ở người tiền sử. (2) Nấu gạo lứt. Gạo lứt tương đối cứng và khó nhai. Tuy nhiên, bằng cách đun sôi với nước đến 100°C, gạo lứt có thể được nấu chín và biến thành cơm hoặc cháo. Gạo lứt cũng là một loại thực phẩm quan trọng đối với con người, bởi gạo đã trở thành một phần không thể thiếu của nhân loại. (3) Luộc tất cả các loại sợi thực vật. Điều này rất có lợi cho trẻ sơ sinh cũng như người trung niên và người cao tuổi.Ở thành cổ Lương Chử, cư dân có tay nghề cao, bao gồm cả nhân viên kỹ thuật chuyên đóng thuyền và các nghệ nhân chế tác ngọc bích. Ngay cả trong một ngành công nghiệp như chế tác ngọc bích, người ta cũng có thể phân chia các xưởng chế tác ngọc bích và các nguồn cung ứng khác nhau cho toàn bộ chuỗi công nghiệp (Li, Liao & Zhou, 2022). Sự tồn tại của rất nhiều nghệ nhân không trực tiếp trồng trọt lương thực cũng đồng nghĩa với việc sẽ có nhiều lao động hơn trong ngành dịch vụ ở thành cổ Lương Chử, tương ứng với ngành dịch vụ bậc ba.Có thể nói rằng trong thời kỳ Lương Chử, ngoài một số ít người làm nghề trồng lúa, còn có những nhóm rất lớn làm các ngành nghề khác ngoài nông nghiệp và các ngành nghề sơ cấp như lúa gạo, rau quả, đánh bắt cá và khai khoáng. Những người thợ thủ công tham gia sản xuất công nghiệp có thể sử dụng kỹ thuật riêng của mình để chế tạo các sản phẩm như gỗ, thuyền độc mộc, ngọc bích, v.v. và trao đổi những sản phẩm này để lấy lương thực. Do đó, thương mại là điều thiết yếu. Sự phát triển của thương mại dẫn đến sự xuất hiện của một số lượng lớn nhân viên phục vụ để phục vụ những người buôn bán này. Theo cách này, khu vực thứ ba cũng phát triển.  Dựa trên các ngôi mộ được khai quật ở thành phố cổ Lương Chử, rõ ràng là đồ tùy táng phổ biến nhất được làm bằng ngọc bích, và nhiều mảnh ngọc bích được chế tác thành những vật dụng dễ mang theo và trưng bày. Nói cách khác, những tác phẩm chạm khắc ngọc bích tinh xảo này đóng vai trò như những tác phẩm nghệ thuật trang trí và tô điểm cho cuộc sống trong thời kỳ văn hóa Lương Chử, đồng thời chúng cũng tượng trưng cho sự giàu có. Do đó, chúng ta có thể kết luận rằng trong thời kỳ văn hóa Lương Chử, ngọc bích thực sự đã trở thành một phương tiện trao đổi, đóng vai trò như tiền tệ. Và sự ra đời của tiền tệ là một chỉ báo quan trọng cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Xét theo định nghĩa của Marx về tiền tệ trong tác phẩm Tư bản (Kliman, Andrew. 2019) (Marx. 2007): khả năng lưu trữ tương đối thấp, khai thác tương đối khó khăn, và việc đúc và phân chia tương đối dễ dàng, ngọc bích Lương Chử sở hữu đầy đủ những đặc điểm quan trọng của tiền tệ mà Marx đã đề cập.Hơn nữa, các hiện vật ngọc bích được khai quật trong quá trình khai quật khảo cổ học ở Lương Chử rất dễ vận chuyển, chẳng hạn như vòng tay ngọc bích có thể đeo ở cổ tay, vòng cổ ngọc bích có thể đeo quanh cổ, và các vật phẩm ngọc bích dẹt, tròn dễ cất giữ. Do đó, chức năng của ngọc bích như một phương tiện trao đổi trong thời kỳ Lương Chử được củng cố mạnh mẽ bởi những lý do vật lý. Tất nhiên, ngọc bích vẫn tồn tại như một vật trang trí trong xã hội hiện đại, một mặt thể hiện ảnh hưởng của văn hóa Lương Chử, mặt khác, tất nhiên cũng biểu thị sự tồn tại của một hình thức tiền tệ vượt trội. Điều này tương tự như cách tiền giấy thay thế tiền kim loại và tiền kỹ thuật số thay thế tiền giấy (Bjerg, 2016). Sự xuất hiện của chức năng tiền tệ này cho thấy chủ nghĩa tư bản đã phát triển cao trong thời kỳ văn hóa Lương Chử. So với các nền văn minh cổ đại khác có hệ thống chữ viết, việc truyền bá văn hóa Lương Chử không đòi hỏi việc sử dụng chữ viết. Thực tế, không có nhiều hệ thống ký hiệu được tái sử dụng trong các hiện vật được phát hiện tại di chỉ văn hóa Lương Chử (Wang, Ye & Li, 2023).Có rất ít bằng chứng về hệ thống chữ viết của các hệ thống được sử dụng rộng rãi hơn như hệ thống sấm truyền, Ai Cập và Lưỡng Hà. Tuy nhiên, việc không có chữ viết không có nghĩa là tinh hoa của văn hóa Lương Chử không thể được truyền tải. Trên thực tế, có rất nhiều tác phẩm chạm khắc đồ họa và chạm khắc ngọc bích tinh xảo trong văn hóa Lương Chử. Những tác phẩm chạm khắc này đều có hình thức nhất định và ý nghĩa của chúng rất dễ hiểu. Về phần những tác phẩm chạm khắc này, chúng cũng rất chân thực và tinh xảo, đồng thời chứa đựng những thông tin văn hóa vô giá. Mặc dù người Lương Chử đã tạo ra một nền văn hóa thời kỳ đồ đá mới rực rỡ, nhưng nền văn hóa này cũng có những hạn chế. Điều này là do thành cổ Lương Chử nằm gần biển ở độ cao tương đối thấp. Do đó, 4.300 năm trước, một trận lụt lớn đã khiến nước biển tràn ngược vào khu vực Tam Hiệp, phá hủy hoàn toàn toàn bộ thành cổ Lương Chử (He, Lu & Lei, et al., 2018). Điều này đưa văn hóa miền Nam Trung Quốc lên giai đoạn thứ ba. Giai đoạn 4: Văn hóa Nhị Lý Đầu và Tam Tinh ĐôiTrong giai đoạn phát triển thứ ba của văn hóa Lương Chử, mặc dù thành cổ Lương Chử đã bị lũ lụt lớn phá hủy, nhưng vẫn có nhiều khu vực cao nguyên nằm sâu trong đất liền Trung Quốc đại lục rất thích hợp cho việc di cư dân cư trong bối cảnh mực nước biển dâng cao. Do đó, số người sống sót sau thảm họa này vẫn rất cao. Xét về địa hình sau khi nước biển xâm nhập, một bộ phận dân cư Lương Chử đã di cư lên phía bắc đến khu vực Nhị Lý Đầu. Vào thời điểm này, văn hóa Nhị Lý Đầu đã đạt đến một trình độ phát triển nhất định (Liu & Xu, 2007). Cuộc di cư lớn của người Lương Chử đã thúc đẩy sự phát triển của văn hóa Trung Nguyên và dẫn đến sự xuất hiện của các bia ký xương thần Ân Thương. Điều này đã định hình bối cảnh văn hóa chủ đạo ở Trung Quốc ngày nay. Một nhánh khác của văn hóa Lương Chử có thể đã lan rộng đến Giang Tây, Hồ Nam ngày nay, miền nam Hồ Bắc, đồng bằng Tứ Xuyên và các khu vực khác thông qua đường biển. Lý do chính cho điều này là người Lương Chử cổ đại đã di cư đến các vùng đất cao hơn bằng đường bộ, gần nhất là Giang Tây. Công nghệ đóng tàu của người Lương Chử cổ đại rất phát triển, cho phép nhiều người đến Hồ Nam, miền nam Hồ Bắc và thậm chí cả đồng bằng Tứ Xuyên bằng cách sử dụng xuồng dọc theo biển đảo. Điều này cần được xác nhận bởi các lý thuyết cơ học chất lưu hiện đại.Tất nhiên, những người có thể chèo thuyền xuôi xuống Tam Hiệp ở đồng bằng Thành Đô, với dòng sông được đắp cao, thường là những người đóng tàu, tương đương với nền văn minh Lương Chử hiện đại14những tài năng công nghệ cao, vì vậy sau khi những người này sinh sôi và phát triển ở đồng bằng Thành Đô, họ đã hình thành nên một nền văn hóa Tam Tinh Đôi rực rỡ (Hua, 2013).Hiện nay, từ các di vật văn hóa được khai quật tại di chỉ Tam Tinh Đôi, chúng ta có thể thấy rằng bức tượng đồng của họ rất giống với phong cách chạm khắc ngọc bích của văn hóa Lương Chử về mặt nghệ thuật, và thậm chí có thể nói rằng chúng thuộc cùng một dòng dõi. Phong cách nghệ thuật của các bức tượng đồng được khai quật tại các di chỉ Tam Tinh Đôi này rất khác so với các tác phẩm điêu khắc của Ai Cập cổ đại, của nền văn minh Các tác phẩm điêu khắc Lưỡng Hà và Hy Lạp cổ đại mang tính hiện thực hơn, trong khi các bức tượng đồng khai quật tại di chỉ Tam Tinh Đôi mang tính ấn tượng hơn. Nói cách khác, các bức tượng Tam Tinh Đôi mang tính biểu tượng hơn, được sử dụng để truyền tải thông tin văn hóa, tương tự như ngôn từ. Ngoài các bức tượng đồng khai quật tại Tam Tinh Đôi, còn có những tác phẩm chạm khắc đồ họa tinh xảo trên các đồ vật bằng đồng và ngọc bích. Những tác phẩm chạm khắc này gần gũi hơn với phong cách nghệ thuật chạm khắc đồ họa của văn hóa Lương Chử. Do đó, có thể kết luận rằng việc sử dụng độc đáo nghệ thuật chạm khắc đồ họa như một công cụ truyền tải thông tin là đặc trưng của văn hóa Lương Chử.Hơn nữa, chúng ta cũng có thể so sánh các bức tượng trên Đảo Phục Sinh, và có thể thấy rằng các bức tượng đá trên Đảo Phục Sinh rất giống với các bức tượng đồng ở Tam Tinh Đôi. Điều này dường như cũng là một ẩn dụ cho một mối liên hệ nào đó giữa các nền văn hóa cổ đại này. Tất nhiên, vì văn hóa Tam Tinh Đôi rất khép kín, nên hầu như không có dấu vết nào về sự tồn tại của nó trong hàng ngàn năm lịch Trung Quốc, « Biên niên sử của Đại Thư Ký », có phần tương đồng với văn hóa Lương Chử. Tuy nhiên, thành phố cổ Lương Chử có môi trường rất cởi mở, nên thương mại rất phát triển và chủ nghĩa tư bản phát triển rất nhanh chóng. Điều này có thể thấy rõ từ số lượng lớn các đồ tùy táng bằng ngọc bích trong các lăng mộ Lương Chử. Khi đến di chỉ Tam Tinh Đôi, chúng ta có thể thấy rằng có rất ít đồ tùy táng bằng ngọc bích như vậy.Điều này cho thấy ở cổ thành Tam Tinh Đôi, thương mại thực tế không phát triển lắm, và chủ nghĩa tư bản cũng không tiên tiến bằng cổ thành Lương Chử. Điều này tất yếu đã hạn chế sự phát triển kinh tế của Tam Tinh Đôi, khiến sự suy tàn của nó là điều không thể tránh khỏi. Giai đoạn 5: Hội nhập với văn hóa Trung NguyênSau văn hóa Tam Tinh Đôi, văn hóa Trung Nguyên ở Nhị Lý Đầu phát triển rất nhanh chóng. Đặc biệt là trong thời nhà Thương, nhà Chu, và thậm chí cả thời Xuân Thu và Chiến Quốc, năng suất của khu vực Trung Nguyên đã được cải thiện đáng kể, và thương mại trở nên rất sôi động. Ví dụ, các bằng chứng khảo cổ học hiện có cho thấy nguồn động vật thuần hóa ở lưu vực Hoàng Hà vào thời Tây Chu đã rất đa dạng.Chứng minh Chương 1. Văn hóa Lương Chử là gì?15Nhiều loài động vật thuần hóa này đến từ các vùng xa xôi thông qua thương mại (Wang, Roberts & Fernandes, et al. 2021). Ví dụ, dưới thời nhà Chu, vua Chu Văn Vương đã bắt đầu thưởng thức trà được mang đến từ vùng Tây Nam Trung Quốc ngày nay thông qua thương mại (Stockwell, 2002). Trong thời kỳ trước nhà Chu, Con đường Tơ lụa trên bộ nối liền Trung Quốc với Trung Đông và Châu Âu đã được hình thành (Tucker, 2015). Đến thời nhà Chu và thậm chí trong thời Chiến Quốc trước thời Tần ở Trung Quốc, các nước Bách Việt đã hình thành, và việc giao thương ngày càng trở nên thường xuyên hơn (Tucker, 2015). Nhờ công nghệ thuyền ván, những cư dân cổ xưa này ở miền Nam Trung Quốc có thể giao thương rất hiệu quả với Đông Nam Á ở nước ngoài. Do đó, người ta tin rằng với sự phát triển kinh tế nhanh chóng của vùng Đồng bằng Trung Bộ và miền Nam Trung Quốc, một lượng lớn thanh niên từ thành phố cổ Tam Tinh Đôi đã bị thu hút đến nơi khác làm việc.  ====================================== Từ văn hóa hang động Tiên Nhân Động đến thành cổ Lương ChửTheo những phát hiện khảo cổ học hiện nay, có thể sơ bộ xác nhậnnguồn gốc sớm nhất của văn hóa Lương Chử đến từ văn hóa hang động Tiên Nhân Động.Mặc dù người cổ đại thời kỳ này không có khả năng xây dựng những ngôi nhà lớn trên đồng bằng và chỉ có thể sống trong hang động, nhưng người cổ đại ở hang động Tiên Nhân Động đã phát minh ra nồi đất. Phát minh vĩ đại này đồng nghĩa với việc bình minh của nền văn minh nhân loạiđã đến!Sau khi khí hậu toàn cầu dần ấm lên, người cổ đại bắt đầu trưởng thành trong việcxây dựng nhà cửa, và họ đã có thể xây dựng những ngôi nhà phức tạp trên đồng bằngđể sinh sống. Vì vậy, cùng với sự gia tăng dân số, dọc theo Đường Cổ Giang, người cổ đại ở hang động Tiên Nhân Động đã đến cái gọi là di chỉ văn hóa Thượng Sơn (Vân Phi & Lê Bình, 2009). Di chỉ văn hóa Thượng Sơn nằm ở thành phố Kim Hoa, cách Hàng Châu khoảng 200 km. Đây là một thành phố không giáp biển. Ngoài ra, bằng chứng từ các cuộc thám hiểm địa chất biển cũng cho thấy sự thích nghi của người cổ đại với đại dương ở bờ biển phía tây Thái Bình Dương bắt đầu từ nền văn hóa Kinh Đầu Sơn ở khu vực Hà Mỗ Độ cách đây 8000 năm (He, Sun & Lu, et al. 2023). Do đó, từ nguồn gốc này, có thể xác định rằng văn hóa Lương Chử ban đầu không thuộc về văn hóa biển.Tuy nhiên, nếu chúng ta xem xét dòng chảy của sông Dương Tử cổ đại  Dòng sông có thể đã chảy qua thành phố Kim Hoa, nguồn nước dồi dào và

nước sông Dương Tử đã mang đất đai màu mỡ ngược dòng đến trung và

hạ lưu sông Dương Tử. Điều này cũng có thể xác định rằng nguồn gốc của

văn hóa Lương Chử có thể phần nào tương đồng với nguồn gốc của các nền văn minh cổ đại khác,

tất cả đều được hình thành từ nguồn nước của các con sông lớn. Nguồn dinh dưỡng dồi dào trong đất

đã dẫn đến việc người cổ đại định cư gần di chỉ văn hóa Thượng Sơn. Sau đó,

sau hàng ngàn năm phát triển, người cổ đại bắt đầu dần dần di chuyển

về phía bắc. Trước hết, họ đến khu vực Kuahuqiao và Hemudu, nơi con người

đã phát triển công nghệ đóng thuyền rất tiên tiến. Đặc biệt, việc phát hiện ra một

khu vực gò vỏ sò lớn tại di chỉ Tĩnh Đầu Sơn (Long. 2022) khẳng định rằng con người đã có thể kiếm thức ăn từ đại dương rất hiệu quả vào thời điểm này. Và theo cách này,

nền văn hóa hàng hải đã dần dần được hình thành. Sau hàng ngàn năm, loài người tiếp tục di chuyển về phía bắc, và dần dần hình thành nền văn hóa Mã Gia Bang, văn hóa Tùng Trạch, dọc theo khu vực vịnh Hàng Châu. Cuối cùng, họ định cư tại Hàng Châu và thành lập một thành phố rất lớn với hệ thống giao thông đường thủy vô cùng tiên tiến. Thành cổ Lương Chử này thực ra cũng tồn tại khoảng 1.000 năm, cho đến khi một trận đại hồng thủy buộc nền văn hóa Lương Chử phải lan rộng chủ yếu về phía tây.

Khám phá quan trọng nhất tại di chỉ văn hóa Thượng Sơn là việc thuần hóa vàtrồng lúa. Hiện tại, các mẫu vật cacbua lúa được khai quật tại di chỉ văn hóa Thượng Sơn đã tạo thành một chuỗi bằng chứng tương đối đầy đủ (Vân Phi & Lê Bình 2009), xác nhận rằng lúa hoang và lúa thuần hóa đã cùng tồn tại trong thời kỳ văn hóa Thượng Sơn. Nói cách khác, việc trồng lúa của con người về cơ bản có thể được xác định là thuộcthời kỳ văn hóa Thượng Sơn. Điều này có nghĩa là ngay từ hơn 11.400 năm trước,con người đã phát hiện ra lúa hoang và bắt đầu thuần hóa lúa hoang, và cuối cùng đã đạt đượcviệc thuần hóa lúa trong thời kỳ văn hóa Thượng Sơn, và việc canh tác trên quy mô lớnđã được thực hiện. Đây là lý do tại sao một di chỉ ruộng lúa rất lớnđược tìm thấy tại di chỉ Shi’ao ở khu vực Hemudu khoảng 8.000 năm trước.Tại di chỉ văn hóa Thượng Sơn, người Hominin đã thuần hóa lúa thành công và canh tác trên quy mô lớn. Sau hai hoặc ba nghìn năm, những người cổ đại sống tại khu vực di chỉ văn hóa Thượng Sơn nhận thấy rằng vùng đất gần cửa sông Dương Tử cổ đại màu mỡ hơn, giúp việc trồng lúa trở nên dễ dàng hơn và diện tích cũng lớn hơn. Tại khu vực di chỉ Hà Mỗ Độ, 900.000 mét vuông ruộng lúa đã xuất hiện tại di chỉ Thạch Áo, tỉnh Chiết Giang (Qiu & Rao. 2022). Đây là một vùng ruộng lúa quy mô rất lớn. Từ đó cũng có thể suy ra rằng quy mô dân số của khu vực Hà Mỗ Độ cũng khá lớn, và việc hỗ trợ thu hoạch lương thực trên một diện tích ruộng lúa rộng lớn như vậy là cần thiết. ( fin p42) Sau khi những người cổ đại tại di chỉ văn hóa Thượng Sơn di cư đến khu vực Hà Mỗ Độ, toàn bộ công nghệ nông nghiệp và thủ công nghiệp cũng phát triển nhanh chóng. Bên cạnh việc trồng lúa trên quy mô lớn hơn, những khám phá khảo cổ học tại di chỉ Hà Mỗ Độ khẳng định rằng người cổ đại đã có thể dệt nhiều loại sản phẩm dệt may trong thời kỳ Hà Mỗ Độ. Một số lượng lớn các công cụ sản xuất dệt may đã được khai quật tại di chỉ Hà Mỗ Độ (Cameron & Sun. 2022), thậm chí còn lan rộng sang các khu vực khác của Trung Quốc cũng như Đông Nam Á (Cameron. 2001). Do đó, các vật liệu dệt như vải lanh và lụa cũng đã được phát minh trong thời kỳ này (Vainker. 2004).Trong giai đoạn thứ hai của Hà Mỗ Độ, một số đồ trang trí có niên đại 7.000 năm trước đã được tìm thấy, trên đó có những hình chạm khắc rất trực quan và sinh động về những con tằm dâu dại(Jie. 2022). Điều này có thể khẳng định rằng khu vực Hà Mỗ Độ chính là nguồn gốc của lụa Trung Quốc.Xét đến đặc điểm văn hóa của vùng biển Hà Mỗ Độ, việc vận chuyển lụa bằng xuồng thuận tiện hơn nhiều so với đường bộ.Do đó, một số tác giả tin rằng Con đường Tơ lụa trên biển phải có trước Con đường Tơ lụa trên bộ (Wu. 2019). Tất nhiên, với những sản phẩm dệt và vải lụa này, người cổ đại thời kỳ đồ đá không còn cần phải mặc da thú và lá cây, và chất lượng cuộc sống đã được cải thiện đáng kể. Sự phát triển quan trọng thứ hai ở khu vực Hà Mỗ Độ là việc đóng thuyền độc mộc. Điều này có thể liên quan đến việc khu vực Hà Mỗ Độ nằm ở cửa sông Dương Tử cổ đại. Khi những khối gỗ rất lớn từ thượng nguồn trôi dạt xuống hạ lưu,dòng nước chảy vào vịnh Hàng Châu bắt đầu trở nên tương đối chậm, và vào thời điểm này,người cổ đại dễ dàng di chuyển những khối gỗ khổng lồ này vào bờ, sau đóphơi khô chúng trên bờ và chế biến gỗ. Một trong những sản phẩm đó là thuyền độc mộc. Một khi những chiếc thuyền độc mộc được đóng ra, điều đó có nghĩa là người cổ đại ở Hà Mỗ Độ đã có thể tự do di chuyển trên biển bằng những chiếc thuyền độc mộc này. Điều này đã thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động thương mại giữa khu vực Hà Mỗ Độ và toàn bộ vịnh Hàng Châu cùng các vùng ven biển khác. Tất nhiên, nó cũng thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ ngành công nghiệp. Các bè gỗ và tre, xác thuyền độc mộc, mái chèo gỗ còn nguyên vẹn và mỏ neo đá đã được khai quật tại di chỉ Hà Mỗ Độ (Chen.2002). Một trong những mẫu thuyền độc mộc được khai quật có lẽ đã được sử dụng làm tiêu chuẩn cho việc đóng thuyền độc mộc.

Từ những di tích gò vỏ sò được khai quật ở khu vực Hà Mỗ Độ, cũng có thể thấy

cấu trúc dinh dưỡng của người cổ đại ở khu vực Hà Mỗ Độ rất phong phú và toàn diện.

Nguồn thức ăn cũng rất phổ biến. Ngoài việc trồng lúa,

người Hà Mỗ Độ còn có thể ra biển đánh bắt các loại sò ốc, cá, v.v. Điều này

làm phong phú thêm nguồn dinh dưỡng của người cổ đại. Tất nhiên, xương của các loài động vật nuôi,

bao gồm lợn, chó, trâu, v.v., cũng đã được khai quật ở khu vực Hà Mỗ Độ.

(Guoping. 2013).

Những con người cổ đại này ở khu vực Hemudu có sự đảm bảo về sự ổn định  dinh dưỡng.Một chiếc xuồng 8.000 năm tuổi đã được tìm thấy tại di chỉ văn hóa Kuahuqiao, đây cũng làchiếc thuyền gỗ sớm nhất được khai quật ở Trung Quốc (Huisheng, Anni & Bednarik. 2016). Tất nhiên,hiện tại chúng ta không thể khẳng định liệu chiếc xuồng này được làm ở Kuahuqiao hay Hemudu. Tuy nhiên,vì xuồng là một công cụ định hướng, nó có thể di chuyển trên đường thủy, điều này cũng chứng minh mức độ phát triển của công nghệ đóng tàu ởkhu vực vịnh Hàng Châu. Những chiếc xuồng này được cho là một phương tiện giao thông rất phổ biến trên khắp vịnh Hàng Châu. Các hiện vật được khai quật cho đến nay cho thấy rằng tronggiai đoạn phát triển sau của văn hóa Hemudu, một chuỗi công nghiệp đóng tàu tương đối hoàn chỉnhđã được hình thành. Ví dụ, khi đóng xuồng, việc đánh bóng thân tàu đã nung lửa đòi hỏi phải sử dụng một công cụ gọi là rìu đá (Jiao, Guo & Zhang, et al.2011). Công cụ này đã được các thợ đóng tàu ở Đông Nam Á sử dụng liên tục trong hàng nghìn năm (Qu. 2023), chứng minh rằng nó được tạo ra bởi những người thợ đá chuyên nghiệp.Các thợ đóng tàu chỉ cần mua nó. Điều này phản ánh thực tế rằng việc sản xuất xuồng không thể chỉ do các thợ đóng tàu thực hiện.Sau khi có thuyền độc mộc, người cổ đại ở Hà Mỗ Độ bắt đầu di cư về phía bắc đến di chỉ văn hóa Mã Gia Bang và di chỉ văn hóa Tùng Trạch với sự hỗ trợ của các công cụ vận chuyển đường thủy tiên tiến hơn. Ngay cả những người thuộc nhóm người Hà Mỗ Độ này cũng có thể đã tiếp tục di chuyển về phía bắc đến di chỉ văn hóa Ngưỡng Thiều ở khu vực Hà Nam và Giang Tô. Người cổ đại trên các di chỉ văn hóa thời kỳ đồ đá mới phát triển quanh vịnh Hàng Châu dần dần tập trung tại cửa sông Dương Tử cổ (nay là cửa sông Tiền Đường), và cuối cùng đã hình thành nên thành cổ Lương Chử với giao thông thuận tiện và quy mô lớn cách đây 5.300 năm.Thuần hóa lúa gạoHiện nay, những hoạt động của con người cổ đại sớm nhất được tìm thấy trong khu vực văn hóa Lương Chửlà ở văn hóa Hang Tiên Nhân Động. Di chỉ Hang Tiên Nhân Động thuộc giai đoạn chuyển tiếptừ thời kỳ đồ đá cũ sang thời kỳ đồ đá mới. Thời kỳ sớm nhất của nó là 20.000 năm trước.Các công cụ để thu hoạch lúa hoang bằng vỏ trai đã được tìm thấy tại di chỉ Hang Tiên Nhân Động (Wan, Ma & Ge, et al. 2012). Điều này chứng minh rằng con người đã cố gắng sử dụngnguồn tài nguyên lúa hoang để bổ sung dinh dưỡng. Chỉ có điều, vào thời kỳ Hang Tiên Nhân Động, con người vẫn sống trong hang động. Có thể thấy rằng đặc điểm văn hóa biển của văn hóa Thượng Sơn tương đối yếu. Nói cách khác, người cổ đại hơn10.000 năm trước chủ yếu thích nghi với khí hậu và môi trường sống nội địa,điều này cũng phản ánh sự khởi đầu của người cổ đại sống trong hang động đến sống trên vùng đất bằng phẳng. Khi con người bắt đầu di chuyển từ hang động lên đồng bằng, nguồn thức ăn họ thu được chủ yếu là từ tự nhiên. Tuy nhiên, vào thời điểm này, công nghệ sinh tồn của người cổ đại đã phát triển vượt bậc. Theo các cuộc khai quật tại hang động Tiên Nhân Động và di chỉ Diaotonghuan, người cổ đại đã phát hiện ra lúa hoang cách đây khoảng 20.000-11.000 năm (Zhijun, 1998). Loại lúa này dễ bóc vỏ khi chín, và phần quả bên trong rất giàu tinh bột, có thể cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho người cổ đại. Để có được lượng lúa lớn hơn, người cổ đại tại di chỉ văn hóa Thượng Sơn đã bắt đầu thử nghiệm thuần hóa lúa từ 11.400 năm trước, và sau đó trồng lúa trên quy mô lớn trên những cánh đồng họ đã canh tác. Những điều này đã được chứng minh bằng một chuỗi bằng chứng rất rõ ràng. Trong số đó, trong quá trình khai quật di chỉ văn hóa Thượng Sơn, một loạigạo bị cacbon hóa đã được tìm thấy trong các địa tầng có niên đại 11.400 năm trước (Li, Field & Xing-can, et al.2010). Các mẫu gạo từ thời kỳ này, bao gồm cả mẫu này, thể hiện các đặc điểmcủa cả lúa hoang và lúa người trồng (Huan, Lu & Zhang, et al. 2021). Tuổi của nhữnggạo này cũng tương đối chính xác. Vì là thực vật, nên phép thử carbon-14 có thể xác địnhtuổi thu hoạch của nó với độ chính xác cao. Tất nhiên, chỉ có một loại lúa cacbua bán hoang dã, và bằng chứng dường nhưtương đối nhỏ, nhưng lượng lúa cacbon hóa được khai quật từ lớp đất ở giai đoạn saungày càng nhiều. Điều này phù hợp với quy luật thống kê của thực vật từ thuần hóađến phát triển trồng trọt trên quy mô lớn. Từ chuỗi bằng chứng này, chúng ta có thể thấyrằng sau khi con người thuần hóa lúa tại di chỉ văn hóa Thượng Sơn 11.400 năm trước, sau hàng ngàn năm, con người cổ đại bắt đầu dần dần canh tác lúa trênquy mô lớn. Cuối cùng, lúa đã trở thành nguồn lương thực cơ bản nhất cho toàn bộ khu vực văn hóa Lương Chử.Một số lượng lớn công cụ bằng đá và bằng trai dùng để thu hoạch và chế biến lúa đã đượctìm thấy tại di chỉ văn hóa Thượng Sơn và các di chỉ hang động Tiên Nhân Động trước đó (Li, Field &Xing-can, et al. 2010). (Wan, Ma & Ge, et al. 2012). Điều này chứng minh rằng văn hóa lúa đã trở thànhthành phần cốt lõi nhất của văn hóa Thượng Sơn. Một số công cụ bằng đá này được chế tác rất tinh xảo. Ví dụ, những công cụ xay đá với đầy đủ chức năng chế biến thực phẩm đã được tìm thấy tại di chỉ văn hóa Thượng Sơn (Chen & Yu. 2017). Những chiếc cối đá này nặng đến mức vẫn còn hoạt động tốt sau hàng ngàn năm. Chúng có thể được sử dụng để xay gạo và xát vỏ. Ngoài ra, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy tàn dư còn sót lại từ quá trình làm rượu trong nhiều mẫu vật nồi đất được khai quật trong nền văn hóa Thượng Sơn (Wang, Jiang & Sun. 2021). Điều này chứng minh đầy đủ rằng người cổ đại tại di chỉ văn hóa Thượng Sơn đã nắm vững công nghệ làm rượu tương đối tiên tiến. Nguyên liệu thô để làm rượu chủ yếu là gạo và các loại cây lương thực khác. Cũng có thể thấy rằng trong thời kỳ văn hóa Thượng Sơn,lúa gạo đã được con người canh tác dư thừa. Ngoài việc đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng chung của người xưa, những hạt gạo dư thừa này còn được sử dụng làmnguyên liệu để nấu rượu gạo. Đây là dấu hiệu của sự nâng cao tiêu dùng. Chiếc xuồng của người Hemudu cổ đạiHiện nay, xác một chiếc xuồng và nhiều mái chèo đã được tìm thấy tại di chỉ Hà Mỗ Độ, cũng như di chỉ Thạch Áo và Thiên Lạc Sơn gần đó (Viện Di tích Văn hóa và Khảo cổ học tỉnh Chiết Giang; Hội đồng Bảo tồn Di tích Văn hóa thành phố Dư Diêu; Bảo tàng Di chỉ Hà Mỗ Độ. 2008). Một số mái chèo này được bảo quản rất tốt. Đây là bằng chứng rất quan trọng cho việc nghiên cứu kỹ thuật đóng xuồng thời kỳ đồ đá.Những gì còn sót lại của chiếc xuồng được khai quật tại di chỉ Shi’ao có niên đại khoảng 5.000 năm(Thành phố Dư Diêu, 2021). Do được bảo quản kém, xác chiếc xuồng chỉ còn lạiphần thân xuồng. Tuy nhiên, chiều dài của xác tàu đắm lên tới 5,6 mét, và có thể thấychiều dài của toàn bộ chiếc xuồng phải lên tới hơn mười mét.Chiều rộng khoảng 40-80 cm. Nó được cho là một chiếc xuồng tương đối lớn, gần bằng kích thước của một sốthuyền ván hiện đại, nên đủ lớn để chở nhiều hàng hóa trên vịnh Hàng Châu vàsông Dương Tử cổ đại. Để so sánh, những chiếc xuồng được khai quật từ di chỉ Kuahuqiaocó niên đại sớm hơn những chiếc xuồng tại di chỉ Shi’ao khoảng 2.000 năm, chỉ dài gầnsáu mét. Điều này phản ánh rằng sau hơn 2.000 năm phát triển, đã có một bước phát triển mới trong công nghệ sản xuất xuồng ở khu vực Hemudu.

Người xưa có thể đã chế tạo ra những chiếc xuồng lớn hơn và an toàn hơn.

Điều thú vị là một mô hình xuồng dài 35 cm, rộng 12 cm và cao 6 cm cũng được

tìm thấy tại di chỉ Thiên Lạc Sơn gần tàn tích Hà Mỗ Độ (Tin tức buổi tối Tiền Giang, 2014).

(Chủ Nhật, 2014). (Tháng Ba, 2020). Mô hình này có niên đại hơn 7.000 năm. Vì một xưởng chế biến xuồng cũng được tìm thấy tại di chỉ Thiên Lạc Sơn (Wang & Li, 2023), nên rất có thể

mô hình này đã được sử dụng làm khuôn để chế tạo xuồng. Bằng cách mô phỏng theo mô hình của chiếc xuồng,

một chiếc xuồng lớn hơn có thể được chế tạo. Từ đây cũng có thể thấy rằng người Hà Mỗ Độ đã có

một bộ quy trình chế tạo xuồng rất chuẩn mực vào thời đó. Ngay cả khi không có

ghi chép bằng văn bản, vẫn có thể thống nhất các yêu cầu về quy trình chế tạo xuồng

thông qua nhiều mô hình hình ảnh khác nhau. Tất nhiên, điều này cũng cho thấy tần suất sử dụng xuồng rất cao, và xuồng đã trở thành một vật dụng thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày của người dân Hà Mỗ Độ. Từ đó, có thể suy ra rằng số lượng xuồng mà người dân Hà Mỗ Độ sở hữu cũng rất lớn. Tính đến năm 2014, hơn 30 mái chèo gỗ nguyên khối đã được khai quật chỉ riêng tại di chỉ Thiên Lạc Sơn (Tin tức buổi tối QianJiang, 2014). Đến năm 2023, Hơn 40 mái chèo gỗ nguyên khối đã được khai quật tại di chỉ Thiên Lạc Sơn (Wang & Li. 2023). Có thể hình dung rằng, xét đến những mái chèo gỗ không thể bảo quản đượcdo tuổi tác, 7.000 năm trước, đã có ít nhất hàng trăm chiếc xuồng thuộc sở hữu của người cổ đạiở những nơi như Hà Mỗ Độ. Điều này về cơ bản xác định rằng khu vực Hà Mỗ Độcó khả năng là trung tâm sản xuất xuồng của toàn bộ vịnh Hàng Châu vào thời điểm đó. Từ mô hình này, chúng ta cũng có thể thấy rằng kỹ năng đóng thuyền của người Hà Mỗ Độ cũng rất tinh vi. Xét về hình dáng, nó đã rất gần với cấu trúc thân thuyền của những chiếc thuyền ván sau này. Điều này chứng tỏ người dân Hà Mỗ Độ đã nhận thấy những ưu điểm của thuyền đáy phẳng. Hơn nữa, thân thuyền rất mỏng. Nhờ vậy, sức chứa của toàn bộ thuyền rất lớn, có thể chở được nhiều người, nhiều lương thực hơn, v.v. Từ những khối gỗ tương đối dày được giữ lại ở hai đầu thuyền, cũng có thể thấy rằng thiết kế chống va chạm của loại thuyền này cũng khá tiên tiến. Điều này cho thấy thuyền của người Hà Mỗ Độ rất phổ biến vào những năm đó, và điều kiện di chuyển tương đối khắc nghiệt. Điều này khiến người Hà Mỗ Độ coi trọng chức năng chống va chạm của thuyền.

 

Chiếc xuồng ở di chỉ Kuahuqiao Vào những năm 90 của thế kỷ trước, một trong những xác xuồng cổ nhất thế giới đã được khai quật6,5m dưới mực nước hồ Xianghu ở Tiêu Sơn, Hàng Châu. Theo phân tích khảo cổ học,người ta đã chứng minh rằng xác xuồng này có niên đại 8.000 năm, sớm hơn gần1.000 năm so với mẫu xuồng được tìm thấy ở Hemudu. (Huisheng, Anni & Bednarik.2016). Xác xuồng này là minh chứng cho kỹ năng đóng xuồng8.000 năm trước.Trước hết, xét theo kích thước của xác xuồng, xác xuồng cho thấy chiều dàicủa chiếc xuồng đạt 5,6 mét. Điều này chứng minh rằng 8.000 năm trước vào thời kỳ đồ đá,người Trung Quốc cổ đại đã có thể sử dụng nhiều loại công cụ bằng đá để chặt và chế tác những câyrất cao.Độ nhẵn của đáy thuyền cho thấy gỗ của thuyền cũng được xử lý rất tinh xảo, chất lượng không thua kém gì gỗ thời kỳ đồ sắt.Từ khâu chế tác cây cho đến đóng thuyền, quy trình đầu tiên phải là đốn cây bằng lửa, sau đó chặt bỏ thân chính theo cách tương tự, rồi dùng lửa loại bỏ phần thừa, rồi nướng, vân vân, và đào một cái thùng chứa trong thân cây.Tất nhiên, quá trình chế tác này phải thô sơ, để có thể đánh bóng đáy thuyền thành một bề mặt rất nhẵn. Vào thời đó, người xưa có thể dùng đá thô để đánh bóng đáy thuyền. Tất nhiên, đây là một quá trình đòi hỏi rất nhiềucông việc. Nó thường được thực hiện bằng nhiều quy trình khác nhau, điều này chứng tỏ rằng việc sản xuất và chế biến xuồng vào thời đó đòi hỏi sự phối hợp làm việc nhóm rất đa dạng, và mỗi nhóm có kỹ năng chế biến khác nhau.Có thể suy ra thêm rằng vào năm đó, tức là 8.000 năm trước, tại các vùng ven biển phía nam Trung Quốc, người cổ đại Lương Chử đã có sự phân công lao động rất chuyên nghiệp, điều này cũng có nghĩa là phải có một hệ thống trao đổi hàng hóa rất phức tạp, và trung gian trao đổi tất nhiên có thể phức tạp hơn. Ví dụ, người cổ đại có thể trực tiếp sử dụng thịt hoặc gạo để trao đổi, họ cũng có thể sử dụng vỏ sò, đá và các vật phẩm có giá trị khác làm vật trung gian để trao đổi. Cuối cùng, trong quá trình trao đổi hàng hóa như vậy, tiền tệ dần dần được hình thành. Ngoài ra, chiếc xuồng được khai quật từ di chỉ Kuahuqiao đã tìm thấy những cánh buồm có thể được làm bằng tre, cũng như những chiếc cọc gỗ có thể được sử dụng để cố định chúng. Điều này cho thấy chiếc xuồng 8.000 năm tuổi này rất có thể là một chiếc thuyền buồm sử dụng sức gió làm năng lượng (Wu & Wu. 2021). Điều này cũng có nghĩa là xuồng này phù hợp cho những chuyến đi dài trên biển. Vì không tìm thấy xưởng chế tác xuồng cổ nào ở khu vực Kuahuqiao, nên rất có thể xuồng được đóng ở Hemudu, sau đó thuận gió mà di chuyển tự do trong vịnh Hàng Châu và cuối cùng được chuyển đến khu vực Kuahuqiao. Tất nhiên, với việc khai quật thêmdi chỉ Kuahuqiao trong tương lai, cũng có thể xác nhận rằng Kuahuqiao cũng có thể là một khu vực cốt lõi của nghề đóng xuồng vào những năm đó. Người Hà Mỗ Độ làm thuyền độc mộc như thế nào?Người Hà Mỗ Độ sống trong thời kỳ đồ đá, và không có công cụ bằng đồng, vì vậy các công cụ bằng đá, chẳng hạn như rìu đá, hẳn đã được sử dụng để đốn gỗ. Tuy nhiên, nếu bạn đã từng đến bảo tàng, bạn cũng có thể nhận thấy rằng những chiếc rìu đá được trưng bày trong bảo tàng thực ra rất nhỏ, và những chiếc rìu đá này dường như chủ yếu được sử dụng để chặt rau, chuẩn bị và chế biến thức ăn.Vậy người thời kỳ đồ đá đã đào một cái lỗ trên một khúc gỗ như thế nào?Thực ra, theo suy nghĩ cố hữu của chúng ta, chỉ có kim loại mới có thể được đốn gỗ, nhưng hơn 1 triệu năm trước, vào thời kỳ vượn Bắc Kinh, người ta đã biết sử dụng lửa, vì vậy vào thời kỳ đồ đá, người Hà Mỗ Độ đã thành thạo hơn trong việc sử dụng lửa để chế biến các nhu yếu phẩm hàng ngày.Các bằng chứng khảo cổ học hiện tại cho thấy kỹ thuật sử dụng lửa hoặc nung lửa một cách có hệ thống để làm thuyền độc mộc đã được sử dụng rộng rãi ở Nhật Bản trong thời kỳ Jomon sớm (Habu, Anderson & Boyle. 2010). Trên mô hình thuyền độc mộc được khai quật ở Hemudu, người ta cũng tìm thấy dấu vết rõ ràng của việc nướng bằng lửa.Những khu rừng rậm rạp khắp nơi trong thời kỳ đồ đá, có cây cối ở cả hai bên Sông Dương Tử cổ xưa có đường kính khoảng hai hoặc ba mét, và loại gỗ này rất thích hợp để đóng thuyền độc mộc. Khi đốn cây, những người thợ đốn gỗ có thể thả trôi gỗ xuống vịnh Hàng Châu. Điều này cung cấp nguồn gỗ ổn định cho nhà máy chế biến thuyền độc mộc ở khu vực Hà Mộc Độ.Bây giờ câu hỏi đặt ra là làm thế nào để chặt những cây này. Vì con người thời kỳ đồ đá đã biết sử dụng lửa rất thành thạo, nên vấn đề này không khó giải quyết. Hãy tưởng tượng rằngvài người đốn gỗ sắp đốn một cái cây, và họ chỉ cần nhóm lửabên cạnh cây, sau đó họ có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, chẳng hạn như nhét rơm vào rễcây và đốt. Lúc này, chỉ cần tránh để ngọn lửachạy ngược lên trên, và việc đốt lửa có thể được thực hiện tại một vị trí cụ thểở gốc cây. Sau khi đốt xong, rễ cây được đánh bật ra bằng cáchdùng đá đập vào rễ, sau đó những phần cháy xém của cây có thể được đánh bật ra,và sau đó rơm được chất đống và đốt cho đến khi một số cành của toàn bộ cây bịcháy và một cây bị đốn hạ. Tất nhiên, có thể sử dụng một phương pháp khác, đó là đốt lửa bên cạnh cây, sau đó cho một lượng lớn đá vào lửa để đốt. Khi đá được đốt đến nhiệt độ vừa đủ, lấy đá ra theo cách thích hợp, sau đó dùng đá nóng này chà xát rễ cây, việc này cũng có thể carbon hóa rễ cây.Sau khi cây được vận chuyển đến nhà máy chế biến xuồng, chúng cần được chế biến thành xuồng. Quá trình này cũng là một ứng dụng mạnh mẽ của phương pháp dùng lửa. Đối với một người thợ đóng tàu lành nghề, họ có thể kiểm soát cường độ lửa ở nhiều vị trí khác nhau rất tốt, nhờ đó xuồng có thể được chế tạo để đáp ứng nhu cầu chở người, hàng hóa và di chuyển trên biển.Xét từ những mảnh vỡ xuồng được khai quật ở khu vực vịnh Hàng Châu,nhiều mảnh trong số đó có dấu vết cháy rất rõ ràng, điều này chứng tỏ những ý tưởng trên thực sự được người Hà Mộc Độ sử dụng thường xuyên.Có bao nhiêu xuồng ở miền Nam Trung Quốc 7.000 năm trước?7.000 năm trước, công nghệ đóng xuồng rất tiên tiến, điều này có thể được thấy qua các cuộc khai quật xuồng ở Hà Mỗ Độ và các thời kỳ trước đó. Vậy có bao nhiêu xuồng ở miền Nam Trung Quốc 7.000 năm trước? Chúng ta có thể ước tính sơ bộ.Trước hết, dữ liệu chính đến từ Hà Mỗ Độ, và hơn 40 mái chèo gỗ nguyên khốiđã được khai quật gần di chỉ Hà Mỗ Độ. Điều này cho thấy Hà Mỗ Độ lẽ ra phải cóít nhất 40 xuồng vào thời điểm đó. Ngoài ra, một mô hình xuồng đã được khai quật ở Hà Mỗ Độ.Có thể thấy rằng Hà Mỗ Độ vẫn là một nhà máy đóng tàu rất quan trọng vào thời điểm đó, với những người thợ đóng tàu rất chuyên nghiệp. Đây cũng là một bằng chứng tốt rằngSông Dương Tử cổ đại có đường kính khoảng hai hoặc ba mét, và loại gỗ này rất thích hợp để đóng thuyền độc mộc. Khi những người đốn gỗ đốn cây, họ có thể thả gỗ trôi theo dòng sông đến vịnh Hàng Châu. Điều này cung cấp nguồn cung cấp gỗ ổn định cho nhà máy chế biến thuyền độc mộc ở khu vực Hà Mỗ Độ. Vấn đề bây giờ là làm thế nào để đốn những cây này. Vì con người thời kỳ đồ đá đã biết sử dụng lửa rất thành thạo, nên vấn đề này không khó giải quyết. Hãy tưởng tượng rằng nhiều người đốn gỗ sắp đốn cây, và họ chỉ cần nhóm lửa bên cạnh cây, sau đó họ có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, chẳng hạn như lấp đầy rễ cây bằng rơm và đốt. Lúc này, chỉ cần tránh để ngọn lửa cháy lên trên, và việc đốt lửa có thể được thực hiện tại một vị trí cụ thể ở gốc cây. Sau khi quá trình đốt kết thúc, rễ cây sẽ bị đánh bật ra bằng cáchdùng đá đập vào rễ, sau đó các phần cháy xém của cây sẽ bị đánh bật ra,và sau đó rơm được chất đống và đốt cho đến khi một số cành của toàn bộ cây bịcháy và một cây bị chặt hạ. Tất nhiên, có thể sử dụng một phương pháp khác, đó là đốt lửa bên cạnh cây, sau đó cho một lượng lớn đá vào lửa để đốt. Khi đá được đốt đến nhiệt độ vừa đủ, lấy đá ra theo cách thích hợp, sau đó dùng đá nóng này chà xát rễ cây, việc này cũng có thể carbon hóa rễ cây.Sau khi cây được vận chuyển đến nhà máy chế biến xuồng, chúng cần được chế biến thành xuồng. Quá trình này cũng là một cách sử dụng lửa mạnh. Đối với một người thợ đóng tàu lành nghề, họ có thể kiểm soát cường độ lửa ở nhiều vị trí rất tốt, nhờ đó xuồng có thể được chế tạo để đáp ứng nhu cầu chở người, hàng hóa và di chuyển trên biển.Xét từ những mảnh vỡ xuồng được khai quật ở khu vực vịnh Hàng Châu,nhiều mảnh trong số đó có dấu vết cháy rất rõ ràng, điều này chứng tỏ những ý tưởng trên thực sự được người Hà Mộc Độ sử dụng thường xuyên. Ngoài ra, từ việc sử dụng rìu đá, một công cụ quan trọng để đóng thuyền độc mộc, một số lượng lớn các công cụ như vậy đã được khai quật ở vùng bờ biển Đông Nam Trung Quốc và Đông Nam Á, chứng tỏ việc sản xuất thuyền độc mộc tương đối phổ biến ở các vùng ven biển Đông Nam Trung Quốc. Trên thực tế, ở vùng ven biển Đông Nam Trung Quốc, có nhiều khu vực thích hợp cho việc sản xuất và vận chuyển thuyền độc mộc, chẳng hạn như Vịnh Hàng Châu, bao gồm Ôn Châu, Hạ Môn, Sán Đầu, Quảng Châu, v.v. Xét đến việc thuyền độc mộc cũng có thể được sản xuất ở những khu vực này, việc số lượng thuyền độc mộc được sản xuất ở khu vực Hà Mộc Độ tăng gấp năm lần sẽ cho phép ước tính rằng số lượng thuyền độc mộc ở toàn bộ vùng ven biển Trung Quốc có thể đã đạt hơn 5.000 chiếc vào cuối thời kỳ đồ đá mới. Trong số hơn 5.000 chiếc thuyền độc mộc, chỉ cần 1% số chủ sở hữu thuyền độc mộc ưa mạo hiểm, họ có thể đi được ít nhất một hoặc hai trăm km. Khoảng cách này cũng chính xác là khoảng cách giữa bờ biển phía nam Trung Quốc và eo biển Đông Nam Á và Nhật Bản.Tất nhiên, nếu kết hợp bè, xuồng nhiều thân và thuyền mẹ con, xuồng sẽ ổn định hơn, đảm bảo những chiếc xuồng này có thể di chuyển được quãng đường dài hơn.Sản xuất ngọc bích của văn hóa Mã Gia BangVăn hóa Mã Gia Bang là một nền văn hóa ra đời muộn hơn văn hóa Hà Mỗ Độ. Vị trí địa lý của nó nằm ở phía bắc vịnh Hàng Châu, ngay bên kia vịnh đối diện với Di tích Văn hóa Hà Mỗ Độ (Ming. 2001).Sự xuất hiện của văn hóa Mã Gia Bang có thể liên quan đến công nghệ sản xuất thuyền độc mộc ngày càng tiên tiến ở Hà Mỗ Độ. Khi công nghệ sản xuất thuyền độc mộc của Hà Mỗ Độ trở nên rất phát triển, và số lượng thuyền được sản xuất đã tăng lênCàng ngày, người cổ đại càng có thể sử dụng một số lượng lớn xuồng để tự do đi lại và đánh bắt cá trên khắp vịnh Hàng Châu. Việc một số lượng lớn người cổ đại đến khu vực Mã Gia Bang ở phía bên kia vịnh Hàng Châu là điều tự nhiên.Một di tích văn hóa quan trọng được khai quật tại di tích văn hóa Mã Gia Bang là ngọc bích. Một số lượng lớn hiện vật ngọc bích đã được khai quật tại di tích văn hóa Mã Gia Bang. Điều này cho thấytrong thời kỳ văn hóa này, con người đã chuyển từ chế tác công cụ bằng gỗ sang chế tác đá chuyên sâu. Quan trọng hơn, một ngành công nghiệp ngọc bích tương đối hoàn chỉnh đã được khai quật tại di tích Mã Gia Bang, và nguồn nguyên liệu ngọc bích ở Mã Gia Bang cũng rất phong phú (Zhixin, 1993). Tất nhiên, trong văn hóa Thượng Sơn hơn 10.000 năm trước, công nghệ chế tác công cụ bằng đá chắc chắn đã tồn tại, nếu không thì những công cụ bằng đá này đã không thể được sử dụng để chế biến gạo. Chỉ là công nghệ chế tác công cụ bằng đá của văn hóa Thượng Sơn vẫn chưa thể tinh chế được những loại đá cứng hơn. Tuy nhiên, sau khi đến văn hóa Mã Gia Bang, với sự phát triển của công nghệ chế tác công cụ bằng đá, người cổ đại đã bắt đầu tinh chế một loại công cụ bằng đá rất đặc biệt khác. Công cụ bằng đá này là công cụ bằng ngọc bích, được sử dụng rất phổ biến trong văn hóa Lương Chử. Việc sử dụng ngọc bích dần trở nên rất phổ biến sau văn hóa Mã Gia Bang.Xét theo các hiện vật ngọc được khai quật từ di chỉ văn hóa Mã Gia Bang, những hiện vật ngọc này chủ yếu được dùng làm đồ trang sức. Ví dụ, các hiện vật ngọc được khai quật trong một số ngôi mộ ở Mã Gia Bang chủ yếu là rìu đá đục lỗ, vòng tay ngọc, nhẫn ngọc, mặt dây chuyền ngọc, hoa tai, v.v. (Kaoguwang. 2020). Nói cách khác, trongthời kỳ này, ngọc bích có thể được mỗi gia đình sưu tầm như một vật trang trí để bảo quảnvà tăng giá trị. Xét cho cùng, thời đó chưa có kim loại quý như vàng, nên sau khi cả gia đình tích lũy đủ của cải, để bảo quản và trân trọng số của cải này, cách hiệu quả nhất là sử dụng loại ngọc bích đắt tiền và tương đối cứng này. Tất nhiên, vì những công cụ bằng đá này không dễ bị hư hỏng và có thểbảo quản lâu dài, nên những hiện vật ngọc bích này tự nhiên có thể trở thành vật trung giantrong việc trao đổi hàng hóa. Điều này có thể thấy rõ qua hình dáng của số lượng lớn các hiện vật ngọc bích di động được khai quật tại khu vực văn hóa Lương Chử, cũng như việc chúng tượng trưng cho sự giàu có của chủ nhân ngôi mộ như một vật phẩm tang lễ.Ví dụ, tại di tích văn hóa Tùng Trạch, một số đồ vật bằng ngọc đi kèm với chủ mộ rất giàu có (Li. 2012), cho thấy những đồ vật bằng ngọc này được sử dụng để tượng trưng cho sự giàu có của chủ mộ khi họ còn sống. Tất nhiên, rõ ràng biểu tượng giàu có này tương ứng với một chức năng quan trọng của tiền bạc trong xã hội hiện đại của chúng ta. Ngoài ra, trong cuộc sống hàng ngày, nếu người xưa muốn có được thực phẩm và nhu yếu phẩm hàng ngày mà họ không thể sản xuất được, ví dụ như một người nông dân trồng lúa muốn có được cá được ngư dân đánh bắt, sau đó họ có thể trực tiếp đổi gạo lấy những con cá này, và họ cũng có thể trực tiếp đổi lấy những món đồ trang sức bằng ngọc nhẹ hơn. Bằng cách này, những viên ngọc bích này tự nhiên có chức năng giao dịch tiền tệ.Nếu văn hóa Lương Chử có thể hình thành một quy mô xã hội lớn như vậy trong thời kỳ đồ đá mới, thì nó cũng cần đến thương mại quy mô lớn, và trung gian của hoạt động thương mại này tất nhiên là các loại đồ trang sức bằng ngọc bích. Do đó, chúng ta có thể chắc chắn rằng ngọc bích là đơn vị tiền tệ của nền văn minh Lương Chử cổ đại, điều này hoàn toàn hợp lý về mặt logic.Sự phát triển của loại ngọc bích này với chức năng tiền tệ bắt nguồn từ một số lượng lớnđồ trang sức bằng ngọc bích và các loại khác do nền văn hóa Mã Gia Bang chế tác hơn 6.000 năm trước.Trong hàng ngàn năm thực hành tiếp theo, chức năng tiền tệ của những đồ trang sức nàyđã được củng cố nhanh chóng, và chúng trở thành biểu tượng của sự tích lũy của cải trongxã hội Lương Chử cổ đại. Mỗi hộ gia đình đều sẽ sở hữu những đồ vật bằng ngọc bích này. Đểngọc bích có thể lưu thông với số lượng lớn và rộng rãi, cần phải có chế tác ngọc bích.Nó giống như một nhà máy in tiền hiện đại. Khi quặng ngọc bích từ xa hơnđược vận chuyển, nó có thể được chế tác và sản xuất thêm trongvăn hóa và xã hội Lương Chử.Điều này tương đương với quá trình in ấn và phát hành tiền tệ. Vàvới sự phát triển của nền văn minh cổ đại Lương Chử, của cải tích lũy càng nhiều,toàn bộ xã hội Lương Chử cần phải khai tháctừ bên ngoài, thậm chí có thể từ Tân Cương, cách xa hàng ngàn km (Wang.2018). Càng nhiều ngọc được chế tác, lạm phát càng gia tăng. Nhưng khi các mỏ ngọc càng xa, việc khai thác quặng càng trở nên khó khăn hơn, đồng nghĩa với việcgiá thành của những cổ vật ngọc bích này sẽ tiếp tục tăng. Hai yếu tố này triệt tiêu lẫn nhau,và cuối cùng giá trị của ngọc bích đã được ổn định, trở thành mặt hàng giao dịch hiệu quả nhất trong nền văn minh cổ đại Lương Chử.  Mộ của văn hóa SongzeVăn hóa Songze, kế thừa văn hóa Majiabang, đã đưa kỹ thuật chế tác ngọc lên một tầm cao mới (Childs-Johnson, 2020). Sự phát triển của kỹ thuật công cụ đá này đã thúc đẩy sự phát triển của văn hóa Songze lên một hình thức cao hơn. Tronghình thức xã hội mới này của văn hóa Songze, có sự phân hóa giàu nghèo, nhưng cũng cócơ chế quyền lực (Li, 2012). Nói cách khác, trong xã hội thời kỳ đồ đá này,đã có những thể chế quyền lực cấp cao tương đối. Sự tồn tại của một cấu trúc quyền lực cấp cao tương đối như vậy có nghĩa là các yếu tố khác nhau của toàn xã hội có thể đượctổ chức một cách hiệu quả và có trật tự hơn, để toàn xã hội có thể vận hànhmột cách hiệu quả hơn. Bằng cách này, nó đảm bảo cơ chếcho sự chuyển đổi cuối cùng của văn hóa Songze sang văn hóa của thành phố cổ Luong Chu.Do sự xuất hiện của các thể chế quyền lực và sự phân hóa giàu nghèo, một bộ phận dân số đã trở nên giàu có hơn. Những nhóm người giàu có hơn nhận thấy rằng họ có thể có quá nhiều của cải để sử dụng. Ngay cả khi được truyền lại cho các thế hệ tương lai, dường như vẫn còn rất nhiều của cải dư thừa. Do đó, sau khi những người quý tộc này qua đời, họ cũng sẽ muốn mang theo của cải này sang thế giới bên kia. Trong văn hóa Tống Trạch, có rất nhiều đồ tang lễ, và những ngôi mộ tương đối lớn đã xuất hiện. Đây là một sự khác biệt tương đối rõ ràng so với hình thức mộ táng của văn hóa Mã Gia Bang. Tất nhiên, khi dân số tăng lên, số người chết cũng tăng theo. Các nghĩa trang công cộng với sự phân biệt thứ bậc nghiêm ngặt bắt đầu xuất hiện trong thời kỳ văn hóa Tống Trạch. Ví dụ, nghĩa trang của người giàu và nghĩa trang của người nghèo được tách biệt (Wang. 2022). Điều này cũng phản ánh thực tế rằng trong thời kỳ Tống Trạch, những người cổ đại này tin rằng có thể có một thế giới khác chưa được biết đến sau khi con người chết.Hiện nay, trong số các di tích văn hóa Tống Trạch, hình dạng mộ phần bắt mắt hơn.Điều này khá khác biệt so với văn hóa Thương Sơn, văn hóa Hà Mỗ Độ và văn hóa Mã Gia Bangtrong giai đoạn đầu của văn hóa Lương Chử. Tất nhiên, mộ phần của văn hóa Tống Trạchvẫn tương đối đơn giản so với hình dạng mộ phần đồ sộ sau thời nhà Tầnvà nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Nhưng chúng ta đã có thể thấy sự khác biệtgiữa tầng lớp quý tộc và thường dân. Trong số hơn 100 ngôi mộtại di tích Tống Trạch đã được khai quật, bảy ngôi mộ lớn đã được phát hiện (Huyện.2002). Trong số bảy ngôi mộ lớn, có một ngôi mộ lớn nhất, với số lượng hiện vật được khai quật nhiều nhấtlên tới 56. Trong số 56 hiện vật tinh xảo đã được khai quậtcó một hình nón đá có thể đã từng được sử dụng làm dao găm của các thế hệ sau.Ngoài ra còn cónhững chiếc rìu đá có thể được sử dụng làm vũ khí. Chiếc rìu đá này cũng được tìm thấy vào đầu thời kỳ đồ đồng Anh (Roy. 2022). Tất nhiên, người ta tin rằng trong thời kỳ đồ đá của văn hóa Tống Trạch, những công cụ bằng đá như Yue (thuộc một loại rìu đá)không thể được sử dụng trong các cuộc chiến tranh và xung đột thông thường. Xét cho cùng, chi phí sản xuất Yue bằng đá này rất cao. Chiến trường chắc chắn rất hỗn loạn, vì vậy cần một cấu trúcvới vũ khí tương đối mạnh và đáng tin cậy. Nhưng Yue bằng đá này dễ vỡchỉ với một cú chạm nhẹ. Do đó, loại Yue bằng đá này có thể đã được sử dụng như mộtcông cụ thực thi pháp luật hoặc hiến tế bởi người nắm giữ quyền lực tối cao trong thời Tống Trạch.thời kỳ văn hóa này. Ví dụ, nó được dùng để giết mổ động vật và tế thần trời đất. Tất nhiên, nó cũng có thể được dùng để xử tử tội phạm, v.v. Tuy nhiên,xét theo mức độ hao mòn của những chiếc rìu đá được khai quật này, người ta ước tínhrằng chủ nhân của chúng hiếm khi sử dụng chúng trong suốt cuộc đời. Những viên đá nàychỉ nên được dùng làm đồ trang trí hoặc làm biểu tượng của quyền lực.Tất nhiên, chúng ta cũng có thể suy ra rằng văn hóa Lương Chử thời Tống Trạch đã hình thành mộthệ thống xã hội tương đối có thẩm quyền dưới sự chỉ huy của quyền lực tối cao.Theo cách này, các yếu tố khác nhau của toàn bộ hệ thống xã hội có thể được tổ chức hiệu quả.Điều này cũng tạo ra một sự đảm bảo đáng tin cậy cho việc xây dựng một số lượng lớn các công trình thủy lợi tại thành cổ Lương Chử khi nơi đây thịnh vượng, và tạo ramột sự đảm bảo đáng tin cậy cho nguồn nhân lực và vật lực. 

Tất nhiên, sự tồn tại của một cấu trúc quyền lực như vậy cũng đồng nghĩa với việc có một cơ chế thực thi pháp luật trong toàn bộ xã hội Lương Chử, và hành vi của người dân thường có thể bị hạn chế bởi các chuẩn mực đạo đức chung. Nhưng xét đến việc không có lực lượng thực thi pháp luật toàn thời gian như cảnh sát hiện tại của chúng ta vào thời điểm đó, việc thực thi pháp luật vào thời điểm đó chủ yếu được thực hiện bởi những người lớn tuổi giàu kinh nghiệm để quyết định ai đúng ai sai, sau đó khen thưởng và trừng phạt. Ngoài ra, xét theo các ngôi mộ được khai quật từ văn hóa Songze và văn hóa Majiabang, những ngôi mộ này về cơ bản áp dụng một phương pháp chôn cất không đánh dấu đất. Đây là điều mà con cháu mô tả là phương pháp chôn cất « mộ không bia mộ ».

Comm

Phương pháp chôn cất không bia mộ thường là đào một cái hố dưới đất, sau đóđặt thi hài và đồ tùy táng vào đó, rồi lấp đất lên. Cách này tạo ra một ngôi mộ,nhưng không có dấu vết bia mộ, cũng không xây dựng một cấu trúc quá phức tạpnhư các thế hệ sau. Do đó, không có bia mộ bên trongmột ngôi mộ. Vì vậy, chúng ta không thể biết tên chủ nhân của những ngôi mộ được khai quật này, v.v. Đây là mộthình thức chôn cất phổ biến trong thời kỳ văn hóa Lương Chử. Từ ghi chép của các thế hệ sau, đặc biệt là Khổng Tử, chúng ta có thể biết rằng vào thời tiền sử, người xưa đã sử dụngphương pháp “mộ không bia mộ” (Qian & Li. 2022).Đây cũng là một hình thức mai táng được Khổng Tử hết sức ngưỡng mộ. Dĩ nhiên, điều này cũng có nghĩa là sau các cuộc khai quật khảo cổ học hiện đại, bằng chứng đã được thu thập đầy đủ. Điều này chứng minh rằng độ tin cậy của nhiều ghi chép lịch sử ở Trung Quốc cổ đại thực sự tương đối cao. Điều này phản ánh sự tiếp nối của một nền văn hóa từ thời kỳ đồ đá mới đến Trung Quốc hiện đại.  Niên đại của nền văn minh Lương ChửBảng 1. Niên đại của nền văn minh Lương ChửTuổi (năm) Dấu hiệu của di tích hoặc triều đại20.000Di chỉ hang động Tiên Nhân Động ở Vạn Niên, Giang Tây. Nồi đất đượcphát minh. Lúa hoang bắt đầu trở thành lương thực chính.11.400 Văn hóa Thượng Sơn ở Kim Hoa, Chiết Giang. Thuần hóa lúa gạo.8.000Văn hóa Quách Hồ Kiều Hàng Châu và Dư Diêu Hạc Độ ở Chiết Giang.Ứng dụng công nghệ dệt may quy mô lớn.7.000Văn hóa Mã Gia Bang ở Thượng Hải. Rìu đá được sử dụng làmtrung gian trong trao đổi hàng hóa.6.000 Văn hóa Tùng Trạch, Hồng Sơn và Linh Gia Đàn. Chức năng tiền tệ của ngọc bích.5.300Văn hóa thành cổ Lương Chử và văn hóa Đại Văn Khẩu.Sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức.4.300 Thành cổ Lương Chử bị nhấn chìm, văn hóa Tam Tinh Đôi.3.000 Hòa nhập vào văn hóa Trung Nguyên thời nhà Thương2.000Các nước Bách Việt, Tần, Sở, Hán, Hung Nô, v.v. Lạc Hà Hồng phát minhthiên nghi cầu.1.500Tam Quốc, Tấn, Nam Bắc Triều, Tùy,Đường, v.v.1.000Bắc Tống và Nam Tống, Nguyên. Thẩm Quát phát hiệnchuyển động elip của các hành tinh.500Triều Minh, Thanh. Kepler công bố các định luật chuyển động của các hành tinh,và Newton đã phát hiện ra các định luật chuyển động của Newton.1.000 Trung Hoa Dân Quốc và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Commentaires