Argot vietnamien (Tiếng lái)

Nói lái

Version française

Không biết nói lái  nó có từ bao giờ ở  Việt Nam nhưng ở thời Pháp thuộc được  nhà nghiên cứu của trường học Pháp ở Viễn Đông  M.A. Chéon nhận định rằng  nói lái là một ngôn ngữ được sáng tạo « một cách máy móc (thuộc lòng) » và giã tạo từ việc hỗn hợp hoặc đảo ngược các yếu tố của hai hoặc ba đơn âm liên tiếp trong một câu. Nó được xem như một lối chơi chữ thực sự và có đặc điểm là trong cuộc  đàm thoại. Khi một người nói ra một đường thì  người  nghe phải hiểu một nẻo, một cách khác theo một qui ước ngầm chỉ có một giới nào trong nghề nghiệp hay bạn bè mới thấu hiểu mà thôi. Nay nó trở thành thông dụng của dân gian, mang tính đùa giỡn và bông lơn trong nhóm bàn bè thân thiết chẳng hạn như khoái ăn sang (sáng ăn khoai), chà đồ nhom (chôm đồ nhà), hạ cờ  tây (hạ cầy tơ) vân vân…

Từ những từ thanh nhã nó có thể trở thành những từ thô tục mang tính cách vô tư hay cố ý để trêu nghẹo hay chọc quê người khác  nhất là về tên tuổi mà cha mẹ đặt ra cho con rất đẹp  như Cảnh hu, Thu đạm, Thái đức  vân vân.Trong câu, đôi khi nó không  có nghĩa chi cả mà một khi đảo ngược lại thì nó có nghĩa  như  mán cài  trở thành  cái màn hay là ngược lại như đơi chi lại thành đi chơi.

Theo nhà nghiên cứu Pháp M.A. Chéon,  người Việt hay có thói quen tách ra một cách dễ dàng các yếu tố (phụ âm và nguyên âm) của các từ. Chính nhờ  dựa trên sự tách rời nầy cả qui tắc của nói lái  được thiết lập. Cái từ đầu tiên nó cho từ  sau mượn phần kết  và đổi lại nó lấy lại phần kết của từ sau.

Như vậy  đi chơi được chia thành đ+i và ch+ơi và trở thành đơi chi bằng cách đảo ngược. Đây là qui luật rất đơn giản nhưng nó  cũng có  qui luật rất phức tạp mà ta hay thường thấy trong cách nói lái với ba nguyên tắc dưới đây:

Cách thức thứ nhất:

1°) Hoán đổi (đảo ngược) khuôn âm, trước ra sau, sau ra trước.
2°) Giữ nguyên hai thanh (dấu) của hai âm gốc.

Thí dụ: cờ tây  thành cầy tơ. Cách thức  nầy nghe êm tai và thông dụng nhất. Cờ và cầy vẫn giữ hai dấu huyền (bằng)  của hai âm gốc  cũng như tây và tơ (không dấu).

Cách thứ nhì:

1°) Hoán đổi trọn âm tiết (syllabes).
2°) Giữ nguyên hai thanh (dấu) của hai âm gốc.

Thí dụ: đấu  tranh thành tránh đâu. Cách thức nầy không nghe êm tai và ít được sử dụng.

Cách thứ ba:

1°) Hoán đổi khuôn âm.
2°) Hoán đổi cả hai thanh (dấu)  của hai âm tiết.

Thí dụ: khó đi thành khi đó. Cách thức nầy gượng ép không xuôi tai và cũng ít được sử dụng.

Theo nhà văn Phụng Nghi, trong một từ có 3 hoặc 4 âm tiết, muốn nói lái ta giữ nguyên những âm nối kết (kết tự) hoăc những âm có nghĩa phụ. Những âm tiết có nghĩa chánh được hoán đổi theo ba cách thức ở trên.

Thí dụ: khoái ăn sang (sáng ăn khoai)
cái trâm em cài->  (cái trài em câm)-> (cái chai em cầm)
làm sương cho sáo->  (làm sao cho sướng)
cầu gia đạo  (cạo da đầu)

Nói lái thường dùng có  hữu ý phản ảnh một thực trạng của xã hội như:

Ban lãnh đạo (Bao lãnh đạn)

Thủ tục đầu tiên tức là  thủ tục tiền đâu (tức là hối lộ).

Chiều 30 Tết thầy giáo tháo giầy đi chợ, mồng một giáo chức (giức cháo) dứt  cháo  vui Xuân. Trong câu nầy thì có sự châm chước trong lỗi chính tả như hai chữ  giức và dứt.

Với đặc điểm « biến tục thành thanh », tiếng lái là một thủ pháp đi vào các loại văn chương bác học và  các câu đối dân gian.  Nó  còn châm biến  mĩa mai  như  bài thơ  kiếp tu hành của Hồ Xuân Hương:

Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Vị gì một chút tẻo tèo teo (quá nhỏ)
Thuyền từ muốn về Tây trúc
Trái gió phải nên phải lộn lèo

hay châm chước  các phát âm hỏi ngã  trong bài thơ «Hè đợi tình nhân» của Nguyễn Khoa Vy :

Nực cổi chỉ ra nỗi cực lòng
Dòng châu lai láng đĩa dầu chong
Khó đi tìm hiểu nhau khi đó
Công khó chờ ai biết có không

Ta cũng thường nghe  câu đố nói lái như sau :

-Chè gì không ngán chỉ ngán chè ghim (chìm nghe)

-Bằng ngón tay trên bàn Phật
 Tụng kinh rồi búng cánh bay xa (bánh cúng)

-Cái bông trên cành, cái trái cận mây (cây mận)

-Cục đo đỏ bỏ vô giường (Cục đường bỏ vô giỏ)

hay trong các câu đối dân gian:

Con mèo cái nằm mãi trên mái kèo
Con cá đối nằm trong cối đá
Con chim mỏ kiến đậu trên miếng cỏ

Có những  kiểu nói lái, lúc ban đầu người nghe tưởng tiếng tây, tiếng tàu gì đó  gây ra sự  khó hiểu, làm cho người nghe  ngớ ngẫn một hồi  trước khi  vỡ lẽ ra  bật  tức cười thú vị như

Quýt xơ măng bông sên (Quăng xơ mýt (mít) bên sông).

Chúng mình đập chuông nhé?->Chúng mình đuông chập nhé ? ->Chúng mình đuông chậm nhé ?-> ? Chúng mình đâm  chuột  nhé?-> Chúng mình đâm tí nhé ?-> Chúng mình đi tấm nhé?

On ne connait pas exactement la date d’apparition de la contrepèterie au Vietnam, mais durant la période coloniale française, elle a été découverte par un chercheur de l’École française d’Extrême-Orient, M.A. Chéon. Ce dernier  soutient qu’elle  est un langage de formation mécanique et artificielle  à partir du mélange ou de l’inversion d’éléments de deux ou trois monosyllabes consécutifs dans une phrase. Il est considéré comme un véritable gymnastique linguistique  et il est caractéristique dans la conversation.   Quand quelqu’un dit quelque  chose, celui qui lui écoute doit  savoir l’interpréter d’une autre manière  selon une convention tacite que seul un groupe restreint de gens  dans la profession ou  dans  le cercle d’amis peut comprendre. Aujourd’hui, il est devenu populaire parmi la population  et il est  utilisé  dans le but de plaisanter de manière ludique entre les amis proches, comme « khoái ăn sang  (éprouver le plaisir de manger dans l’abondance)» (sáng ăn khoai «manger des patates douces au petit-déjeuner »), (chà đồ nhom « frotter les objets en aluminium »)( chôm đồ  nhà « voler des choses à la maison »), (hạ cờ  tây «descendre le drapeau français ») (hạ cầy tơ « manger la viande du chien »)

Des mots d’une extrême élégance peuvent devenir des mots vulgaires dans l’insouciance ou dans l’intention de  taquiner quelqu’un  ou de se moquer des autres, en particulier des beaux noms que les parents ont donnés  à leurs enfants tels que Cảnh hu, Thu đạm, Thái Đức, etc. Parfois dans un énoncé, aucun sens n’est trouvé  mais lorsqu’on y inverse les mots, cela  lui donne  un sens  comme « man cái » devient cái màn (rideau)  ou vice versa comme đơi chi devient đi chơi (balader).

Selon le chercheur français M.A. Cheon, les Vietnamiens ont souvent l’habitude de séparer facilement les éléments (consonnes et voyelles) des mots. C’est sur cette séparation que s’établit toute la règle du jeu de mots. Le premier mot prête sa terminaison finale au mot suivant et en retour, il reprend la terminaison finale  du mot suivant.

Ainsi, đi chơi (balader)  est divisé en d+ i et devient đơi chi par inversion. C’est une règle très simple mais elle comporte aussi des règles très complexes que l’on retrouve souvent dans les jeux de mots avec les trois principes ci-dessous.

 Première méthode:

1°) Échanger (inverser) le motif sonore, d’avant en arrière et d’arrière en avant.

2°) Conserver les deux tons (accents) des deux sons d’origine.

Exemple : cờ  tây (drapeau français) devient  cầy tơ  (un jeune chien). Cette méthode s’avère harmonieuse et plus fréquemment rencontrée. Cờ et cầy conservent toujours les deux tons (bằng) des deux sons originaux comme tây et tơ.

Deuxième méthode.

1°) Échanger complètement des syllabes.

2°) Conserver les deux tons (accents) des deux sons d’origine.

Par exemple: đấu tranh (lutter) devient tránh đâu (éviter). Cette méthode ne semble pas agréable à l’écoute  et elle est rarement utilisée.

Troisième méthode.

1°) Inverser le motif sonore.

2°) Échanger les deux tons (accents) de deux syllabes.

Par exemple : khó đi (difficile d’aller) devient khi đó (à cet instant). Cette méthode n’est pas non plus agréable à l’écoute et son emploi est aussi rare.

Selon l’écrivain Phụng Nghi, dans un mot de 3 ou 4 syllabes, si on veut le dire « à l’envers », on doit  garder les sons de liaison (conjonctions) ou les sons à sens secondaire. Les syllabes ayant le sens correct sont échangées des trois manières ci-dessus.

Exemple:  khoái ăn sang (éprouver le plaisir de manger dans l’abondance)» (sáng ăn khoai «manger des patates douces au petit-déjeuner »)

 cái trâm em cài (la broche que je porte)->  (cái trài em câm)-> (cái chai em cầm « la bouteille que je tiens)

làm sương cho sáo (faire la rosée pour la flûte : aucun sens) ->(làm sao cho sướng “comment me rendre heureux »)

cầu gia đạo (prière en famille)-> (cạo da đầu « rasage du cuir chevelu »)

Ce jeu de mots est souvent utilisé dans l’intention de refléter une réalité sociale telle que

 Ban lãnh  đạo « équipe dirigeante »->Bao lãnh đạn (étui à cartouches »)

Thủ tục đầu tiên « la première procédure à prendre »->   (thủ tục tiền đâu« procédure monétaire (corruption)» ).

L’après-midi du 30 du Têt, les enseignants enlèvent leurs chaussures pour aller au marché. Le premier jour du Têt, les enseignants terminent leur potage et célèbrent le printemps. Dans cet énoncé, il y a une certaine tolérance dans les fautes d’orthographe telles que les deux mots « giức (aucun sens) » et «dứt (cesser)».

Avec la caractéristique de « transformer le « vulgaire » en « distingué », la contrepèterie  est une technique qui apparaît dans la littérature savante et les distiques populaires.  Elle est également satirique et ironique comme le poème intitulé  « La vie monastique » de Hồ Xuân Hương:

Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Vị gì một chút tẻo tèo teo (quá nhỏ)
Thuyền từ muốn về Tây trúc
Trái gió phải nên phải lộn lèo.

La vie monastique  est chargée  de fardeaux.
Quel  petit goût  (trop petit)?
Le bateau veut retourner vers l’Inde
Le vent  contraire nous oblige de nous retourner.

ou ne pas tenir en rigueur la prononciation des tons montants et descendants dans le poème « L’été attend l’amant » de Nguyễn Khoa Vy:

Nực cổi chỉ ra nỗi cực lòng
Dòng châu lai láng, đĩa dầu chong
Khó đi tìm hiểu nhau khi đó
Công khó chờ ai biết có không

Le débarras de la chaleur n’est que le désespoir
Les larmes coulent abondamment sur l’assiette de l’huile de la veilleuse.
Il est difficile de se connaître à cet instant
L’effort d’attendre quelqu’un, quiconque le sait ?

On est habitué à écouter les énigmes suivants:

Je ne me dégoûte pas  des compotes sauf chè ghim (chìm nghe « bateau coulé »)

-Juste à la taille d’un doigt sur l’autel de Bouddha

Une fois terminée la prière, le gâteau  qui lui est offert  s’envole très loin (búng cánh « bánh cúng »)

-Cái bông trên cành, cái trái cận mây (cây mận).

La fleur étant sur la branche, le fruit se trouve  tout proche du nuage (cận mây) càd sur le « cây mận (prunier)»)

-Le morceau de couleur rougeâtre est sur le lit (Cục đo đỏ bỏ vô giường)  (Cục đường bỏ vô giỏ « le morceau de sucre est dans le panier »)

ou  à retrouver la contrepèterie dans  les sentences parallèles suivantes:

Con mèo cái nằm mãi trên mái kèo
Con cá đối nằm trong cối đá
Con chim mỏ kiến đậu trên miếng cỏ.

La chatte repose éternellement sur la charpente du toit.
Le mulet repose dans le mortier de pierre.
Le pivert se perche sur une parcelle d’herbe.

Il existe certains jeux de mots de la contrepèterie auxquels  l’auditeur pense avoir affaire comme des mots occidentaux ou chinois lors de son écoute, ce qui  lui provoque d’abord une confusion et le laisse  abasourdi pendant un  moment avant de s’en rendre compte et d’éclater de rire. C’est le cas de l’exemple suivant:

Quýt xơ măng bông sên (Quăng xơ mýt (mít) bên sông « jeter les filaments du jacquier au bord du fleuve »).

Chúng mình đập chuông nhé?->Chúng mình đuông chập nhé ? ->Chúng mình đuông chậm nhé ?-> ? Chúng mình đâm  chuột  nhé?-> Chúng mình đâm tí (tý) nhé ?->( Chúng mình đi tắm nhé? « Nous allons nous baigner »)

 

Bibliographie:

 

Phụng nghi:100 năm phát triển tiếng Việt.NXB Văn Nghệ 1999.
Lê Trung Hoa, Hồ Lê : Thú chơi chữ. Nhà xuất bản xã hội.
A. Chéon : Argot annamite. EFEO,  année 1905, vol 5, no 1
Hoàng văn Hành : Tự điển tự lái tiếng Việt.NXB Văn hóa Sàigòn 2006