Chùa Chiền Việt Nam: Phần 2 (Version vietnamienne)

 

pagode2

Version française

Chúng ta tự gọi là « Thầy » vì chính tại đây, nhà sư Từ Đạo Hạnh đã sáng tạo và truyền dạy cho người dân địa phương một loại hình nghệ thuật độc đáo: múa rối nước. Ngoài ra còn có chùa Côn Sơn nằm trên ngọn núi cùng tên, cách Hànội 60km, thuộc tỉnh Hải Dương. Chùa gồm khoảng hai mươi tòa nhà, ẩn mình trong rừng thông, trên đỉnh một cầu thang dài vài trăm bậc. Chính tại đây, sau khi từ giã sự nghiệp chính trị, nhà nhân văn nổi tiếng Nguyễn Trãi đã để lại cho chúng ta một bài thơ khó quên mang tên « Côn Sơn Ca« , trong đó ông mô tả cảnh quan hùng vĩ của ngọn núi này và cố gắng tóm tắt cuộc đời của một người chỉ có thể sống tối đa một trăm năm và người mà mọi người đều tìm kiếm những gì mình mong muốn trước khi cuối cùng trở về với cỏ và bụi. Nhưng ngôi chùa được viếng thăm nhiều nhất vẫn là Chùa Hương. Trên thực tế, đây là một quần thể các công trình được xây dựng trên vách núi.

Nằm cách thủ đô 60 km về phía tây nam, đây là một trong những thánh địa quốc gia được hầu hết người Việt Nam lui tới, cùng với chùa Bà Chúa Xứ (Châu Đốc) gần biên giới Campuchia vào dịp Tết. Ở miền Trung Việt Nam, Chùa Thiên Mụ, nằm đối diện sông Hương, không hề kém phần quyến rũ, trong khi ở phía nam, tại tỉnh Tây Ninh, không xa Sài Gòn, nằm nép mình trên núi Bà Đen (núi Bà Đen), một ngôi chùa cùng tên.

Chỉ riêng tại thủ đô Hà Nội, đã có ít nhất 130 ngôi chùa ở khu vực lân cận. Số lượng chùa cũng nhiều như số làng. Thật khó để liệt kê hết. Tuy nhiên, do sự biến đổi của thời gian và sự tàn phá của chiến tranh, chỉ còn một số ít công trình vẫn giữ được nguyên vẹn phong cách kiến ​​trúc và điêu khắc có từ thời Lý, Trần và Lê.

Đôi khi sự tàn phá của con người là nguyên nhân dẫn đến sự phá hủy một số ngôi chùa nổi tiếng. Đây là trường hợp của chùa Báo Thiên, nơi mà địa điểm đã được nhượng lại cho chính quyền thực dân Pháp để xây dựng nhà thờ Thánh Giuse theo phong cách tân Gothic mà ngày nay có thể được nhìn thấy ở trung tâm thủ đô, không xa Hồ Hoàn Kiếm nổi tiếng (Hà Nội). Nhìn chung, hầu hết các ngôi chùa ngày nay vẫn còn lưu giữ rõ ràng dấu vết của việc trùng tu và tôn tạo dưới thời nhà Nguyễn. Mặt khác, các đồ vật tôn giáo, tượng đá và đồng của họ ít bị thay đổi và vẫn giữ được trạng thái ban đầu qua nhiều thế kỷ. Hơn nữa, khi chúng ta di chuyển vào miền Trung và miền Nam Việt Nam, chúng ta nhận thấy rằng ảnh hưởng của Chăm và Khmer không vắng mặt trong kiến ​​trúc của các ngôi chùa vì những lãnh thổ này trong quá khứ lần lượt thuộc về các vương quốc ChampaFunan.Mặc dù số lượng chùa chiền rất nhiều và quy mô đa dạng, nhưng cách sắp xếp các công trình kiến ​​trúc của chúng vẫn không thay đổi. Điều này dễ dàng nhận ra qua 6 chữ Hán nổi tiếng sau: Nhất, Nhị, Tam, Đinh, Công và Quốc (hay 一, 二, 三, 丁, 工trong tiếng Trung). Sự đơn giản thể hiện rõ qua mẫu hình được xác định bởi chữ đầu tiên Nhất, trong đó các công trình kiến ​​trúc nối tiếp nhau thành một hàng ngang duy nhất hướng ra hiên nhà (Tam Quan).

Đây là hình ảnh thường thấy ở hầu hết các ngôi chùa ở các làng quê không có trợ cấp nhà nước hoặc ở Đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam Việt Nam. Chữ thứ hai Nhị có nghĩa là « hai » gợi nhớ đến cách sắp xếp hai hàng ngang song song hướng ra hiên nhà. Ngôi chùa này có ưu điểm là có ít nhất ba cửa phụ và dẫn vào một khoảng sân nơi thảm thực vật tươi tốt và hiện diện khắp nơi nhờ những bụi cây rậm rạp và hoa trồng trong chậu. Đôi khi chúng ta thấy mình đang ở giữa một ao sen và súng, không khỏi gợi nhớ đến sự thanh bình hòa hợp với thiên nhiên. Với chữ Tam thứ ba, có ba hàng ngang song song thường được nối với nhau ở giữa bằng những cây cầu nhỏ hoặc một hành lang. Đây là trường hợp của chùa Kim Liên (Hà Nội) và chùa Tây Phương (Hà Tây). Hàng đầu tiên tương ứng với một nhóm các tòa nhà, tòa nhà đầu tiên thường được gọi là « tiền đường ». Đôi khi được gọi bằng tên tiếng Việt là « bái đường », tòa nhà này được sử dụng để tiếp đón tất cả các tín đồ. Nó được bảo vệ tại lối vào bởi các vị thần hộ mệnh (hoặc dvàrapalàs hoặc hộ pháp), những người, với những nét mặt đe dọa, mặc áo giáp và trưng bày vũ khí của họ (giáo, mũ sắt, v.v.). Đôi khi, mười vị vua của địa ngục (Thập điện diêm vương hoặc Yamas) ngồi trên ngai vàng bên cạnh phòng trước này, hoặc 18 vị La Hán (Phật La Hán) trong các tư thế khác nhau của họ trong hành lang. Đây là trường hợp của chùa (Chùa Keo), nơi 18 vị La Hán hiện diện trong phòng trước. Đôi khi còn có thần đất hoặc thần bảo vệ tài sản của chùa (Đức Ông).

Một trong những đặc điểm của chùa Việt Nam là sự hiện diện của mẫu thần Mẫu Hạnh (Liễu Hạnh Công Chúa), một trong bốn vị thần được người Việt Nam thờ phụng. Sự tôn kính của bà có thể thấy rõ ở gian trước của chùa Mía (Chùa Mía, Hà Tây). Sau đó, trong một tòa nhà thứ hai cao hơn một chút so với tòa nhà thứ nhất, có những lư hương cũng như tấm bia đá kể lại câu chuyện về ngôi chùa. Đây là lý do tại sao nó được gọi là « nhà thiêu hương ». Cũng ở phía sau của tòa nhà này có một bàn thờ, phía trước có các nhà sư tụng kinh cùng các tín đồ bằng cách đánh một chiếc chuông gỗ (mõ) và một chiếc chuông đồng úp ngược (chông). Đôi khi có thể tìm thấy chuông trong nhóm các tòa nhà này nếu vị trí của tháp chuông (gác chuông) không được quy hoạch bên cạnh (hoặc trên sàn) hiên nhà. Bất kể kích thước của ngôi chùa, phải có ít nhất ba tòa nhà cho hàng đầu tiên này.Sau đó, chúng ta thấy hàng quan trọng nhất của ngôi chùa tương ứng với phòng của các bàn thờ chính (thượng điện). Đây là nơi chúng ta có đền thờ phong phú và có thứ bậc. Nó được phân bổ trên ba bệ. Trên bệ cao nhất dựa vào bức tường phía sau, chúng ta thấy bàn thờ của các vị Phật của Ba Thời Đại (Tam Thế). Trên bàn thờ này, trong khái niệm Phật giáo Màhayàna (Phật Giáo Đại Thừa), xuất hiện ba bức tượng đại diện cho Quá khứ (Quá Khứ), Hiện tại (Hiện tại) và Tương lai (Vị Lai), mỗi bức tượng ngồi trên một tòa sen.

Trên bệ thứ hai, được đặt thấp hơn bệ thứ nhất một chút, là ba bức tượng được gọi là ba hiện hữu, với Đức Phật A Di Đà (Phật A Di Đà) ở giữa, Bồ Tát Quán Thế Âm ở bên trái (Bồ Tát Quan Âm) và Bồ Tát Đại Thế Chí ở bên phải (Bồ Tát Đại Thế Chí). Nhìn chung, Đức Phật A Di Đà có vóc dáng uy nghi hơn hai vị kia. Sự hiện diện của Ngài chứng minh tầm quan trọng của người Việt đối với sự tồn tại của Tịnh Độ trong Phật giáo. Niềm tin này rất phổ biến trong người Việt Nam vì theo họ, có cõi Tây Phương Cực Lạc (Sukhàvati hay Tây Phương Cực Lạc) do Đức Phật Vô Lượng Quang (Amitabha) chủ trì và là nơi dẫn dắt linh hồn người chết. Bằng cách gọi tên ngài, tín đồ có thể đến được cõi này nhờ lời cầu xin ân sủng từ Bồ Tát Quán Thế Âm làm người cầu thay. Theo nhà nghiên cứu Việt Nam Nguyễn Thế Anh, chính nhà sư Thảo Đường được vua Lý Thánh Tôn đưa về nước trong chuyến viễn chinh sang Chiêm Thành (Đồng Dương), người đã đề xuất quá trình giác ngộ này bằng trực giác và làm tê liệt tâm trí bằng cách niệm danh hiệu Đức Phật. Đây cũng là lý do tại sao Phật tử Việt Nam thường nói A Di Đà (Amitabha) thay vì từ « xin chào » khi gặp nhau. 

Sơ đồ bố trí nội thất của chùa chữ Công

pagode4

 Cuối cùng, trên bệ cuối cùng, thấp hơn và rộng hơn hai bệ kia, là tượng Phật Thích Ca Mâu Ni, Đức Phật của Hiện Tại, và hai vị đại đệ tử của ngài: Đại Ca Diếp (Kasyapa) và Tôn Giả A Nan (Ananda). Ở một số chùa, có bệ thứ tư mô tả Đức Phật của Tương Lai, Di Lặc, bên phải là Bồ Tát Phổ Hiền Bồ Tát, biểu tượng của sự thực hành, và bên trái là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, biểu tượng của trí tuệ. Số lượng tượng được trưng bày trên các bệ thờ khác nhau tùy thuộc vào danh tiếng của ngôi chùa. Phần lớn là nhờ vào sự cúng dường của các tín đồ. Đó là trường hợp chùa Mía có 287 bức tượng, chùa Trăm Gian (Hà Tây) có 153 bức tượng, v.v.Hàng cuối cùng của chùa (hay hậu đường) tương ứng với gian sau và có tính chất đa chức năng. Một số chùa dành nơi này làm nơi ở của người tu hành (tăng đường). Một số chùa khác lại dùng làm nơi thờ cúng các bậc hiền tài, anh hùng như Mạc Đĩnh Chi (chùa Dâu) hay Đặng Tiến Đông (chùa Trăm Gian, Hà Tây). Chính vì vậy mà chúng ta thường nói: tiền Phật hậu Thần (trước Phật, sau Thần). Đây là mô hình ngược lại mà chúng ta thường thấy ở đình chùa: Tiền Thần, Hậu Phật. (trước Phật, sau Phật). Đôi khi có gác chuông hoặc lầu Manes dành cho người đã khuất. 

Đôi khi, một căn phòng hoặc bàn thờ được dành riêng cho những người đã đầu tư nhiều tiền vào việc xây dựng hoặc bảo trì chùa. Hầu hết những người cúng dường là phụ nữ, những người có ảnh hưởng đáng kể đến các vấn đề của nhà nước. Đây là trường hợp của công chúa Mía, một trong những phi tần của Chúa Trịnh. Một bàn thờ gần với bàn thờ của Đức Phật đã được dành riêng cho bà tại chùa Mía. Trong chùa Bút Tháp, có một phòng dành riêng để tôn kính những người cúng dường nữ như hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Cúc, các công chúa Lê Thị Ngọc DuyênTrịnh Thị Ngọc Cơ. Đây là những người đã đóng góp tài chính cho việc xây dựng ngôi chùa này vào thế kỷ 17.

 Phía sau chùa, người ta có thể tìm thấy một khu vườn với các bảo tháp hoặc một ao súng. Đây là trường hợp của chùa Phát Tích, với sân sau có 32 bảo tháp với kích thước khác nhau trong vườn. Hình dạng của chữ Đinh () đôi khi được tìm thấy trong bố cục bên trong của chùa Việt Nam. Đây là dấu hiệu thứ tư của chu kỳ thập phân được sử dụng trong lịch Trung Quốc. Đây là trường hợp của chùa Nhất Trụ do vua Việt Nam Lê Đại Hành xây dựng tại Hoa Lư (Ninh Bình), cố đô của Việt Nam, và chùa Phúc Lâm (Tuyên Quang) được xây dựng dưới thời nhà Trần (thế kỷ 13-14).

Chữ mà hầu hết các ngôi chùa Việt Nam thường sử dụng trong thiết kế nội thất là chữ Công (). Bên cạnh các dãy chính được thiết kế tỉ mỉ bên trong chùa, còn có hai hành lang dài nối tiền đường với hậu đường. Điều này tạo thành một khung hình chữ nhật, bao quanh các dãy chính đã được đề cập trước đó trong chữ Tam. Cách sắp xếp này trông giống chữ Công bên trong chùa, nhưng nhìn từ bên ngoài lại giống chữ Quốc (), với khung được hoàn thiện bởi hai hành lang dài.

[RETURN]