Đi tìm nguồn gốc dân tộc Việt (À la recherche de l’origine du peuple vietnamien)

 

Đi tìm nguồn gốc dân tộc Việt

Version française

English version

Việc phát hiện ra di chỉ Hemudu (Chiết Giang) vào năm 1973 là một sự kiện trọng đại đối với các nhà khảo cổ học Trung Quốc vì di chỉ này, có niên đại hơn 5.000 năm, là bằng chứng cho nền văn minh lúa nước lâu đời nhất được tìm thấy cho đến nay trên thế giới. Người ta cũng tìm thấy tàn tích của một ngôi nhà sàn bằng gỗ ven hồ, một kiểu kiến ​​trúc rất khác so với nhà đất ở miền Bắc Trung Quốc. Dân số sống ở đó mang đặc điểm của cả người Mông Cổ và người Australo-Negroid. Vì Chiết Giang từ lâu đã là một trong những tỉnh đẹp nhất của miền Nam Trung Quốc, nên nền văn minh nổi tiếng này thường được cho là của người Trung Quốc, mặc dù người ta biết rằng cái nôi của nền văn minh này gắn liền với lưu vực sông Hoàng Hà, mà An Dương là trung tâm cổ xưa.

Ta không thể phủ nhận rằng nền văn minh của họ đã tìm thấy tinh hoa trong nền văn hóa thời kỳ đồ đá mới của Dương Thiệu (tỉnh Hà Nam) (5000 năm TCN) và Long Sơn (tỉnh Sơn Đông) (2500 năm TCN), lần lượt được nhà khảo cổ học người Thụy Điển Johan G. Andersson phát hiện vào năm 1921 và cha đẻ của ngành khảo cổ học Trung Quốc Li Ji phát hiện vài năm sau đó. Nhờ công trình phân tích phát sinh chủng loại của nhóm nghiên cứu Mỹ do Giáo sư J.Y. Chu thuộc Đại học Texas dẫn đầu, được công bố vào tháng 7 năm 1998 trên Tạp chí của Viện Hàn lâm Khoa học Hoa Kỳ, được tập hợp dưới tiêu đề « Mối quan hệ di truyền của dân số ở Trung Quốc » (1), chúng ta đã bắt đầu có được một ý niệm chính xác về nguồn gốc của người Trung Quốc. 

Hai điểm quan trọng đã được ghi nhận trong việc nghiên cứu này:

 1) Rõ ràng là bằng chứng di truyền không thể trợ lực sự độc lập ban đầu của người Homo sapiens ở Trung Quốc. Tổ tiên của các quần thể hiện đang sống ở miền đông Trung Quốc đến từ Đông Nam Á.

2) Giờ đây, có lẽ có thể sự kết luận một cách rõ ràng rằng người « hiện đại » gốc Phi chiếm một phần lớn trong vốn gen thường thấy ở Đông Á.

 Trong phần kết luận của mình, Giáo sư J.Y. Chu thừa nhận rằng rất có thể tổ tiên của những người nói tiếng Altaic (hay Hán) có nguồn gốc từ những người dân Đông Nam Á và những người đến từ Trung Á và Châu Âu. 

Sự  khám phá này không còn  nghi vấn câu hỏi về những gì đã được Giáo sư Nhân chủng học Wilhelm G. Solheim II của Đại học Hawaii đề xuất vài năm trước đó trong cuốn sách có tựa đề  « A New Light in a Forgotten Past ». (2) Đối với nhà nhân chủng học này, không còn nghi ngờ gì nữa rằng nền văn hóa Hòa Bình (15.000 năm trước Công nguyên) được nhà khảo cổ học người Pháp Madeleine Colani phát hiện vào năm 1922 tại một ngôi làng gần tỉnh Hòa Bình của Việt Nam chính là cơ sở cho sự ra đời và tiến hóa trong tương lai của các nền văn hóa thời kỳ đồ đá mới là Ngưỡng Thiều và Long Sơn được tìm thấy ở miền bắc Trung Quốc. Nhà vật lý người Anh Stephen Oppenheimer đã vượt ra ngoài những gì người ta từng nghĩ khi chứng minh theo cách tiếp cận khoa học và logic của ông rằng cái nôi của nền văn minh nhân loại nằm ở Đông Nam Á trong tác phẩm có tựa đề Eden in the East: The Drowned Continent of Southeast Asia (Địa đàng ở phương Đông: Lục địa chìm đắm của Đông Nam Á). 

 Ông kết luận rằng dựa trên bằng chứng địa chất tìm thấy ở đáy Biển Đông và các phương pháp xác định niên đại bằng C-14 trên thực phẩm (khoai lang, khoai môn, gạo, ngũ cốc vân vân..) được tìm thấy ở Đông Nam Á (Non Nok Tha, Sa Kai (Thái Lan), Phùng Nguyên, Đồng Ðậu (Việt Nam), Nam Dương), một trận lụt lớn đã xảy ra và buộc người dân ở khu vực này, trái ngược với những gì các nhà khảo cổ học phương Tây mô tả là những người sống bằng nghề đánh cá, săn bắn và hái lượm, là những người đầu tiên biết cách làm chủ hoàn toàn trong việc trồng lúa và nông nghiệp, phải di cư theo mọi hướng (hoặc về phía Nam ở Châu Đại Dương, hoặc về phía Đông ở Thái Bình Dương, hoặc về phía Tây ở Ấn Độ hoặc về phía Bắc ở Trung Quốc) để sinh tồn. Những người này đã trở thành những hạt giống của các nền văn minh vĩ đại và rực rỡ sau này được tìm thấy ở Ấn Độ, Lưỡng Hà, Ai Cập và Địa Trung Hải. 

Từ  sự quan sát khảo cổ học và khoa học này, chúng ta được dẫn dắt để đặt câu hỏi về mọi thứ đã được lịch sử báo cáo và làm sai lệch ở khu vực này của thế giới và cho đến nay những gì  được  dẫn dạy cho người Việt Nam. Chúng ta có thể bỏ qua những khám phá khoa học này lâu hơn nữa hay không? Chúng ta có thể tiếp tục tin vào các quyển sách của Trung Quốc (ví dụ như Hậu Hán Thư) trong đó các  nhà thái thú Tích Quang và Nhâm Diên của Trung Quốc được cho là các người đã dạy cho tổ tiên của người Việt cách ăn mặc và cách sử dụng cày, điều mà họ không hề  biết  đến vào thế kỷ đầu tiên của thời đại chúng ta? Làm thế nào mà các hậu duệ  chính đáng của vua Thần Nông (3) lại không biết trồng lúa, khi chúng ta biết rằng ngài là một chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp? Không ai dám chỉ ra việc mâu thuẫn này.

Shennong (Thần Nông)

 Chúng ta thậm chí còn không tự hỏi tại sao người phương Bắc lại đặt cho vị anh hùng thần thánh này  với biệt danh Viêm Đế (vua xứ nóng của Bạch Việt). Phải chăng đây là cách họ gọi vua phương Nam, bởi vì vào thời nà Châu, lãnh thổ của người Việt được gọi là Viêm Bang? Phải chăng người du mục phương Bắc có nguồn gốc Thổ-Mông, tổ tiên của người Hán, và người phương Nam, người Việt, có cùng tổ tiên? Đây có phải là một sự bịa đặt thuần túy được xây dựng để tôn vinh những kẻ chinh phục và nhằm mục đích hợp thức hóa chính sách đồng hóa của họ? Mọi dấu vết của các dân tộc khác, tức « người man di », đều bị xóa bỏ trong cuộc hành trình của họ. Cuộc chinh phạt lục địa Trung Hoa bắt đầu từ ranh giới của những vùng đất hoàng thổ và  đại đồng bằng, và được kéo dài có  gần bốn thiên niên kỷ.

Đây là điều mà học giả người Pháp René Grousset đã ghi nhận trong tác phẩm « Lịch sử Trung Quốc » khi nói về sự bành trướng của một chủng tộc tiên phong Trung Hoa thô bạo từ đại  đồng bằng. Trước nền văn minh rực rỡ của họ, rất ít người, kể cả người châu Âu khi đặt chân đến châu Á, dám đặt câu hỏi về những gì đã được ghi chép trong sử sách Trung Hoa và Việt Nam, và nghĩ về sự tồn tại của một nền văn minh khác mà những kẻ thống trị đã thành công trong việc độc chiếm và xóa sổ trên lãnh thổ bị chinh phục của người Bách Việt. Cái tên Đông Dương phần lớn đã phản ánh thái độ này, bởi vì đối với nhiều người, châu Á chỉ có hai nền văn minh đáng được nhắc đến: Ấn Độ và Trung Quốc. Thật đáng tiếc khi phải ghi nhận  việc sai lầm tương tự của một số sử gia Việt Nam, những người thấm nhuần văn hóa Trung Hoa, trong các tác phẩm lịch sử của họ. Do bị nhồi sọ bởi chính sách thực dân của người phương Bắc, một bộ phận người Việt Nam vẫn tiếp tục quên đi nguồn gốc của mình và ngày nay nghĩ rằng mình là hậu duệ của người Trung Quốc. Những người  nầy, họ không ngần ngại thực hiện chính sách đồng hóa và sáp nhập các vùng lãnh thổ mà họ đã chinh phục được kể từ khi họ  lập quốc. Sự thành công của sự  Hán hóa đã được thể hiện rõ qua nhiều thế kỷ trong quá trình họ tiếp xúc với các dân tộc « man di » khác. Quá trình này chắc hẳn cũng không khác gì quá trình đánh dấu sự xâm chiếm của họ vào « vùng đất cỏ Mông Cổ » ở thế kỷ 19 và vào rừng Mãn Châu ở thế kỷ 20. 

Chúng ta không phủ nhận nền văn minh rực rỡ của họ đã có tác động không thể phủ nhận đến sự phát triển của văn hóa Việt Nam trong thời gian dài họ đô hộ, nhưng chúng ta không thể quên thừa nhận rằng tổ tiên của người Việt, người Lạc Việt  đã có nền văn hóa riêng của họ, đó là  nền văn hóa Bách Việt. Họ là những người sống sót duy nhất của đại  tộc này không bị Hán hóa trong sự hỗn loạn của lịch sử. Họ là những người thừa kế chính đáng của người Bạch Việt và nền văn minh nông nghiệp của họ. Trống đồng Đồng Sơn đã chứng minh tính hợp pháp của họ bởi vì trên những đồ vật này, người ta tìm thấy các họa tiết trang trí mô phỏng các hoạt động nông nghiệp và hàng hải của họ trong thời kỳ rực rỡ này trước khi người Trung Quốc đặt chân đến lãnh thổ của họ (Giao Chỉ trong tiếng Việt). 

Ngày nay, người ta biết rằng nền văn minh nông nghiệp của Hà Mỗ Độ đã khai sinh ra nền văn hóa Bách Việt. Thuật ngữ Bách Việt, theo nghĩa đen có nghĩa là trăm  tộc Việt, được người Trung Quốc sử dụng để  ám chỉ tất cả các bộ lạc thuộc về một nhóm người Việt. Theo nhà văn xuất sắc  Bình Nguyên Lộc, công cụ thường được người Việt sử dụng là chiếc rìu được tìm thấy dưới nhiều hình dạng khác nhau và được làm bằng nhiều vật liệu khác nhau (đá, sắt hoặc đồng). Chính vì lý do này mà vào thời điểm tiếp xúc với những người du mục ở phía Bắc có nguồn gốc Thổ-Mông, tổ tiên của người Hán (hay người Trung Quốc), họ được người Trung Quốc gọi dưới cái tên « Yue », những người quen sử dụng rìu. Vào thời điểm đó, nó có hình thức  như  sau

 
và thể  hiện mô hình trong chữ viết Trung Quốc. Mô hình này tiếp tục xuất hiện đầy đủ trong từ Yue, mà bộ gốc mễ (米) hoặc gạo trong tiếng Việt cũng được thêm vào để chỉ những người trồng lúa vào thời Khổng Tử. Ngày nay, trong từ Yue, ngoài bộ gốc « Tẩu (走) trong tiếng Việt là vượt, chiếc rìu tiếp tục được biểu thị bằng tượng hình, đã liên tục sửa đổi qua nhiều năm. Từ Yue có lẽ bắt nguồn từ âm vị Yit mà người Mường dùng để chỉ chiếc rìu.Điều quan trọng cần nhớ là bộ tộc Mường có cùng nguồn gốc với bộ tộc Lạc Việt, tổ tiên của người Việt. (Các vị vua Việt Nam lừng lẫy là Lê Đại Hành, Lê Lợi  đều là người Mường). Gần đây, nhà khảo cổ học và nhà nghiên cứu của CNRS, Corinne Debaine-Francfort đã nói về việc người Trung Quốc sử dụng rìu nghi lễ của người Việt trong nghi lễ hiến tế người hoặc động vật, trong tác phẩm của bà có tựa đề « Sự khám phá lại Trung Quốc cổ đại » (NXB Gallimard, 1998). Nhà hiền triết Khổng Tử đã có cơ hội nói về người Bách Việt trong các cuộc nói chuyện với các học trò của mình như sau:

Người Bạch Việt sống ở phía nam sông Dương Tử có lối sống, ngôn ngữ, truyền thống, phong tục và ẩm thực riêng… Họ chuyên trồng lúa nước, khác với chúng ta, những người quen trồng kê và lúa mì. Họ uống nước từ một loại cây hái trong rừng gọi là « trà ». Họ thích nhảy múa, vừa làm việc vừa hát và xen kẽ các câu hát. Họ thường hóa trang thành lá cây trong điệu múa. Cần tránh bắt chước họ. (Xướng ca vô loại).

Ảnh hưởng của Nho giáo không phải không liên quan đến các thành kiến ​​mà các bậc cha mẹ Việt Nam vẫn duy trì  đến ngày nay khi con cái họ quá sa ngã vào các hoạt động âm nhạc hoặc sân khấu. Chính tinh thần Nho giáo này đã khiến họ bị nhìn một cách tiêu cực. Nhưng đó cũng chính là thái độ mà các quan lại Trung Quốc đã áp dụng khi cấm người Việt Nam biểu diễn âm nhạc trong các nghi lễ và lễ hội trong suốt thời kỳ đô hộ lâu dài của họ.

Sử gia Trung Quốc Tư Mã Thiên  đã có dịp nói về những người Việt này trong Sử Ký Tư Mã Thiên khi ông kể lại cuộc đời của vị vua lừng lẫy Câu Tiễn, một vị vua  nước Việt có lòng kiên nhẫn vô bờ bến của ngài trước kẻ thù là Phù Sai, vua nước Ngô trong thời kỳ Xuân Thu. Sau khi ngài mất, vương quốc của ngài đã bị nước Sở sáp nhập hoàn toàn vào năm 332 TCN, sau đó bị Tần Thủy Hoàng sáp nhập trong thời kỳ thống nhất Trung Hoa. Điều quan trọng cần lưu ý là địa điểm của Hemudu nằm ở vương quốc Việt của vua Câu Tiễn (Chiết Giang). 

Trong số các nhóm có chung nền văn hóa Bách Việt là có Yang Yue, Nan Yue (Nam Việt), Lu Yue, Xi Ou (Tây Âu), Ou Yue, Luo Yue (Lạc Việt), Gan Yue, Min Yue (Mân Việt), Yi Yue, Yue Shang, vân vân. Họ sống ở phía nam lưu vực sông Dương Tử, từ Chiết Giang  đến Giao Chỉ (miền bắc Việt Nam ngày nay). Khu vực phân bố này bao gồm các tỉnh miền Nam Trung Quốc ngày nay: Phúc Kiến, Hồ Nam, Quý Châu, Quảng Đông, Giang Tây, Quảng Tây  và Vân Nam.

Người Bách Việt có lẽ họ là hậu duệ của nền văn hóa Hòa Bình. Họ là những người nông dân khéo léo: họ canh tác lúa bằng phương pháp đốt nương rẫy, làm ruộng ngập nước và chăn nuôi trâu và lợn. Họ cũng sống bằng nghề săn bắn và đánh cá. Họ có tục xăm mình để bảo vệ bản thân khỏi sự tấn công của con thuồng luồng. Dựa trên Sử ký Tư Mã Thiên, học giả người Pháp Léonard Aurousseau đã đề cập đến tục lệ của tổ tiên của Câu Tiễn  là vẽ lên mình hình rồng hoặc các loài thủy thú khác giống như loài thường thấy ở những người Việt ở phía nam.

Họ búi tóc dài và được trợ lực bằng khăn xếp. Theo một số văn bản tiếng Việt, họ cắt tóc ngắn để thuận tiện cho việc đi lại trong rừng núi. Trang phục của họ được làm từ sợi thực vật. Nhà cửa của họ được xây cao để tránh thú dữ tấn công. Họ sử dụng trống đồng làm vật tế lễ trong các nghi lễ cầu mưa hoặc làm biểu tượng quyền lực, được sử dụng trong những lúc cần thiết để triệu tập chiến binh ra trận. Người Giao Chỉ sở hữu một nhạc cụ thiêng liêng: trống đồng. Nghe tiếng trống, họ rất hăng hái trong lúc ra trận », đây là những gì được tìm thấy trong tập đầu tiên của bộ sách « Hậu Hán Thư ». Các chiến binh của họ mặc khố giản dị và mang theo những cây giáo dài có gắn lông chim. Họ cũng là những nhà hàng hải táo bạo, trên những chiếc thuyền dài của mình, vượt qua cả Biển Đông và đi xa hơn một phần các vùng biển phía Nam. Mặc dù có trình độ kỹ thuật cao và thành thạo hoàn hảo trong nông nghiệp và trồng lúa, họ là một dân tộc rất ôn hòa. (Tiếp tục phần 2)

 


(1) Volume 95, issue 20, 1763-1768, 29 July , 1998
(2) National Geographic, Vol 139, no 3
(3) Kinh Dương Vương, étant le père de l’ancêtre des Vietnamiens, Lạc Long Quân et l’arrière petit-fils du roi Shen Nong.