
Parlons ensemble des histoires du Cheval
Ngựa là loại động vật mà không biết từ lúc nào bị loài người chinh phục được, nuôi dưởng và thuần hóa nó khiến nó trở thành từ đó một gia súc có lợi trong mọi cộng tác xê dịch, vận tải và chiến chinh. Nó là con vật không chỉ có sức mạnh, dẻo dai mà còn lại rất trung thành với chủ khiến nó đựợc xem một vũ khí lợi hại trong binh mã. Những chiến công hiển hách ở đất nước ta đều có sự tham gia của nó. Người với ngựa như hình với bóng trong thời chinh chíến, chia sẻ gian truân cùng chung số phận. Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đã nhắc lại sự việc nầy trong « Chinh Phụ Ngâm như sau:
Hơi gió lạnh người rầu mặt dạn
Dòng nước sâu ngựa nản chân bon
Ôm yên gối trống đã chồn
Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh
Trong truyền thuyết nước ta có hai lần nhắc đến con ngựa. Lần đầu ở trong truyền thánh Gióng tức là Phù Đổng Thiên Vương. Dưới thời ngự trị của vua Hùng Vương thứ VI thì có giặc Ân ở Trung Hoa rất hùng mạnh xâm chiếm nước ta.Vua buộc lòng đi rao khắp nơi để kiếm người tài năng để ra giúp nước diệt giặc. Lúc bấy giờ ở làng Phù Đổng tỉnh Bắc Ninh có một đứa trẻ còn nằm nôi, nghe sứ giả đi mộ khắp dân gian xem có ai phá được giặc thì ban cho tước lộc. Bé dậy hỏi mẹ, mẹ mới bảo rõ ràng như vậy, Thánh Gióng nói: « Thế thì mẹ đem nhiều cơm đến đây cho con ăn » theo lời kể trong Việt điện u linh tập. Ngài mới ăn vài chén cơm. Thế mấy tháng sau ngài cao lớn, rồi tự ra ứng mộ. Sứ giả thấy lạ mới đem ngài về kinh sư. Theo lời thỉnh cầu của ngài, vua mới cho đúc một con ngựa sắt và một chiếc roi dài cũng bằng sắt. Sau khi ăn mấy nong cơm mới thổi xong, ngài mới vươn vai một cái thì ngài cao lớn hơn 10 thước rồi ngài nhảy lên lưng ngựa, cầm côn sắt mà hét lớn « Ta là thiên tướng đấy » rồi phi thẳng ra chiến trường. Ở nơi nầy, ngài thì hoa côn, ngựa phun lửa, giết vô số quân địch khiến nỗi làm côn gãy và buộc lòng nhổ tre mà đánh tiếp khiến quân Ân tẩu tán khắp nơi. Sau đó ngài phóng ngựa lên núi Sốc Sơn rồi biến mất. Vua Hùng nhớ ơn mới truyền lập đền thờ ở làng Phù Đổng thuộc huyện Gia Lâm ngoài thành Hà Nội. Năm nào cũng có lễ hội để tưởng nhớ ngài cả vào ngày mùng 8 tháng 4.
Chúng ta nên nhớ lại nước ta rất rộng lớn lúc bấy giờ tên là Văn Lang được giáp Nam Hải (Quảng Đông) ở phiá đông, về phía tây với Ba Thục (hay Tứ Xuyên), ở phía bắc thì tới Ðộng Ðình hồ (Hồ Nam) và về phía nam bởi vương quốc Hồ Tôn tức là Chiêm Thành (Chămpa). Dân tộc ta là nhóm dân Bách Việt còn sống ở vùng sông Dương Tử bên Tàu. Trong Kinh Dịch được dịch bởi giáo sư Bùi Văn Nguyên thì tác giả có nói đến một cuộc viễn chinh quân sự được thực hiện trong vòng ba năm bởi vua hiếu chiến của nhà Thương tên là Wuding (Vũ Định) ở lãnh thổ của Ðộng Ðình Hồ (Kinh Châu) chống lại các dân du mục, thường gọi là « Quỷ ». Dù biết là truyền thuyết nhưng với các cuộc khai quật gần đây, các cuộc thí nghiệm ADN, thì truyền thuyết nầy không phải chuyện hoang đường mà nó nói lên có sự xung đột giữa dân tộc ta với nhà Ân. Bởi vậy nước Văn Lang không có thiết lập bất kỳ mối quan hệ thương mại nào với nhà Ân-Thương cả.
Lần thứ nhì, ngựa được nhắc đến trong truyên Sơn Tinh Thủy Tinh. Trong truyền thuyết nầy, vua cha Hùng vương thứ 18 có một người con gái là Mị Nương, sắc đẹp lạ thường. Khi đến tuổi lấy chồng, tiếng tăm của nàng lại càng vang lên ở khắp bốn phương. Nhà vua quyết định chọn cho nàng một người chồng tài giỏi. Lúc đó có hai chàng trai, thông minh và tuấn tú, tình cờ đến cùng một lúc và xin cầu hôn Mị Nương. Một người được gọi là Sơn Tinh, chúa của các vùng núi non cao và các rừng sâu, còn người kia là Thủy Tinh, chúa các của các sông nòi và biển cả thăm thẳm.
Băn khoăn, vua cha không biết phải chọn người nào vì cả hai đều có tài năng vô song và quyền lực vô hạn nên mới bài ra thữ thách như sau: một trăm đĩa xôi, một con voi chín ngà, một con gà trống chín cựa, một con ngựa chín hồng mao. Người nào đem đến trước với sính lễ nầy được làm chồng của Mị Nương.
Ngày hôm sau, lúc rạng đông, Sơn Tinh đến trước với đầy đủ lễ vật và đưa người đẹp lên núi. Vừa hoang mang vừa tức giận, Thủy Tinh lao tới, dâng cao lên mực nước, quyết định vào núi bắt cóc Mị Nương. Sơn Tinh nâng núi cao hơn nữa. Thủy Tinh trổ tài năng của mình, đánh đuổi gió bão, sấm chớp làm rung chuyển cả núi rừng. Sơn Tinh giữ núi một cách vững vàng. Thủy Tinh nhờ đến thủy binh mà xông lên theo dòng nước, xông pha toàn lực. Sơn Tinh dùng các lưới sắt, cắt đường tiếp tế, lăn đá lấp hồn và đè bẹp các thủy quái trôi dạt vào bờ. Chuyện nầy được kể lại trong Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp dưới tên là Truyện núi Tản Viên. Cứ hàng năm cở tháng bảy tháng tám dân ở vùng chân núi nầy hay thường bị gió to nước lớn làm lúa má bị thiệt hại.
Trong sính lễ có một con ngựa chín hồng mao. Vậy nó phải là con ngựa phi thường, nó phải như thế nào mới được chọn trong sính lễ. Cho đến giờ thì người xưa có nhắc đến Ngựa Hạc (lông trắng toát), Ngựa Kim (lông trắng), Ngựa Hởi (lông trắng, bốn chân đen), Ngựa Hồng (lông màu nâu –hồng), Ngựa Tía (lông màu đỏ thắm) vân vân vậy con ngựa chín hồng mao tức là phải có chín cái lông màu hồng, nó phải có nên mới có ghi chú trong truyền thuyết nhưng chắc chắn nó phải hiếm hoi như ngựa hãn huyết ((đổ mồ đỏ như máu) (Hãn huyết bảo mã)) mà được mang về Trường An bởi Trương Kiên vào năm -114 trước Công nguyên. Kích thước, tốc độ và sức mạnh của các con ngựa nầy làm hài lòng vua Hán Vũ Đế vô cùng. Ngài không ngần ngại đặt cho những con ngựa này với cái tên là « thiên mã » (tianma) (thiên mã). (thiên mã= ngựa trời). Chính vì con ngựa nầy mà Hán Vũ Đế buộc lòng phải tổ chức cuộc thám hiểm quân sự tốn hao quá mức không chỉ về trang bị và ngựa mà còn nhân mạng nửa để có một kết quả không đáng với khoảng ba mươi con thiên mã và ba nghìn con ngựa giống và ngựa cái bình thường. Nói đúng ra Hán Vũ Đế cảm thấy bị sĩ nhục trước sự từ chối cung cấp các con ngựa nầy để đổi lấy quà tặng của nước Đại Uyên (Daiyuan), một tiểu vương quốc nằm ở trong thung lũng Ferghana. Con ngựa thiên mã nầy nó trở thành biểu tượng quyền lực của Hán Vũ Đế và cũng nhờ đó mới có sự ra đời của con đường tơ lụa.
Tuy là truyền thuyết nhưng chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh cũng nói lên một phần nào lũ lụt triên miên mà dân tộc ta phải cam chịu lúc còn lưu trú ở hạ lưu sông Dương Tử và cho đến ngày nay.
Nói đến ngựa chúng ta cũng không quên nhắc đến Trảm Mã Trà. Đây là một loại trà đước chế biến từ búp trà lên men trong bao tử ngựa khiến nó có hương vị đặc biệt, giảm độ chát. Cách chế biến nầy được xuất phát từ núi Vu Sơn ở Tứ Xuyên. Để lấy được trà này, người ta bỏ đói ngựa vài ngày trước. Khi đến chân núi Vu Sơn thì ngựa được người thả ra. Bị bỏ đói gặp được rừng trà xanh non thì ngựa vội vã ăn cho tới khi no bụng. Sau đó, người ta lại lùa con ngựa ra khe suối quanh núi. Suối ở đây có lá trà rụng xuống, nó bị nát mủn nên nước có màu đen và được gọi là suối Ô Long. Ngựa uống nước suối xong xuôi thì được đưa trở về điểm xuất phát. Với khoảng một ngày đường, lá trà trong bụng ngựa đã ngấm đều với nước suối Ô Long và lên men. Lúc nầy con ngựa mới bị giết để lấy trà trong bao tử mà làm thành một loại trà độc đáo dành bán cho giới qúi tộc. Cách chế biến nầy cũng không thua chi cách chế biến gan ngỗng ở Pháp quốc. Ngon thì có ngon nhưng cách biến chế nầy có phần cầu kỳ và kinh dị đấy.
Ai có đến Hà Nội thì sẽ có dịp đến viếng thăm đền Bạch Mã. Nó tọa lạc ở phố Hàng Buồm. Đây là một trong tứ trấn của thành Thăng Long xưa. Nó được xây dựng từ thế kỷ 9 để thờ thần Long Đỗ (Rốn Rồng). Khi vua Lý Thái Tổ dởi đô từ Hoa Lư về Thăng Long thì có ý đắp thành cho vững chắc nhưng lúc nào cũng bị sụp nên vua sai người đi cầu khẩn thần Long Đỗ ở đền thì thấy một con ngựa trắng ở trong đền đi ra. Nhờ theo vết chân của ngựa vua mới xây được thành vững chắc. Vua Lý Thái Tổ mới phong thần làm thành hoàng của kinh thành Thăng Long. Hà Nội ngày nay gồm bốn ngôi đền: Đền Quán Thánh (trấn giữ phía Bắc kinh thành); Đền Kim Liên (trấn giữ phía Nam kinh thành); Đền Voi Phục (trấn giữ phía Tây kinh thành) ; Đền Bạch Mã ((trấn giữ phía Đông).
