The God of Mountains and the God of Rivers (Sơn Tinh Thủy Tinh)

sontinh_thuytinh

French version

King Hùng Vương the 18th had a daughter called Mị Nương who was extraordinarily beautiful. When she reached the age of marriage, her reputation was even more exploding. The king decided to choose a talented husband for her. One day, two young men, brilliant in their intelligence and handsomeness unexpectedly arrived at the same time and requested to marry Mi Nuong. One called himself Sơn Tinh, the God of high Mountains and Profound Forests, the other, Thủy Tinh, the God of Rivers and Immense Seas. Embarrassed, the king did not know whom to choose because both of them had incomparable talents and infinite powers. After a moment of thinking, the king ordered a challenge: one hundred plates of sweet rice, one elephant with nine tusks, one rooster with nine cockcombs, one horse with nine red manes. Who would bring them in first would be the spouse of Mị Nương.

The following day, at dawn, Sơn Tinh arrived first with all the presents and took the belle to the mountains. Thuy Tinh showed up later, loaded with all the gifts but the princess had already gone. Confused and furious, Thủy Tinh lashed out, raising the water level, decided to penetrate the mountains to get Mi Nuong back. Sơn Tinh raised the the mountains even higher.

Thủy Tinh deployed his talent, called in winds, tempests, lightnings and storms, shaking all the mountains and forests. Sơn Tinh maintained the mountains unshakable. Thủy Tinh resorted to marine troops and lashed out with the current, mounted massive assaults. Sơn Tinh, with his iron nets, cut reinforcing routes, rolled down rocks to succumb spirits and crash marine monsters that floated at the derivation.

After three days and three nights, beaten more and more everyday, Thủy Tinh gave up and withdrew his troops and brought back the waves. To assure his tranquility Sơn Tinh did a miracle by raising the two mountains of the spouses higher than the places of the Gods. Later, people will call them Mountain of the Lord and Mountain of the Lady; at the foot of these mountains a temple was dedicated to Sơn Tinh and Mị Nương.
 

Le génie des montagnes et celui des fleuves (Sơn Tinh Thủy Tinh)

sontinh_thuytinh

English version

Vietnamese version

Nous ne connaissons pas de société sans légendes, 
tout comme il n’y a pas de civilisations sans histoires.

Le dix-huitième roi Hùng Vương avait une fille Mị Nương, d’une extraordinaire beauté. Quand elle arriva à l’âge de se marier, sa réputation éclata encore davantage partout. Le roi décida de lui choisir un mari talentueux. Un jour, deux jeunes hommes, brillants d’intelligence et de beauté arrivèrent fortuitement en même temps et demandèrent la main de Mị Nương. L’un s’appelait Sơn Tinh, génie des Hautes Montagnes et des Forêts Profondes, l’autre, Thủy Tinh , génie des Fleuves et des Mers Immenses. Le roi, embarrassé, ne sut pas choisir lequel car tous les deux avaient des talents incomparables et une puissance infinie. Après un moment de réflexion, le roi les plaça devant un défi: cent plateaux de riz gluant, un éléphant à neuf défenses, un coq à neuf ergots, un cheval à neuf crinières rouges. Celui qui apportait le tout en  premier sera  l’époux de Mị Nương.

Le lendemain, dès l’aube, Sơn Tinh arriva le premier avec tous les présents et emmena la belle dans les montagnes. Thủy Tinh se présenta après, muni de toutes les offrandes mais la princesse était déjà partie. Confus et furieux, Thủy Tinh s’élança, éleva ensuite le niveau des eaux, décida de pénétrer  dans les montagnes et tenta d’y enlever Mi Nương. Sơn Tinh éleva les monts encore plus haut. Thủy Tinh déploya son génie, battit le rappel des vents, des tempêtes, des éclairs et de la foudre et  ébranla toute la montagne et la forêt. Sơn Tinh maintint d’une manière inébranlable les monts. Thủy Tinh recourut aux troupes marines et s’élança avec le courant et  donna massivement l’assaut. Sơn Tinh, avec des filets de fer, coupa la route des renforts, roula des rochers pour combler les âmes et écrasa  les monstres marins qui flottèrent à la dérive.

Après trois jours et trois nuits,  Thủy Tinh  battu davantage chaque jour, fut obligé de retirer ses troupes et ramener les flots. Pour assurer sa tranquillité Sơn Tinh opéra le miracle d’élever les deux montagnes des époux au plus haut dans l’endroit  des demeures des Dieux. Plus tard, le peuple les appellera Montagne du Monsieur et Montagne de la Dame, au pied desquelles un temple fut dédié à Sơn Tinh et à Mị Nương. Cette légende a été rapportée dans l’ouvrage intitulé  » Lĩnh Nam Chích Quái (ou les contes étranges à Lĩnh Nam) » de Trần Thế Pháp sous  le nom du titre « Histoire de la montagne Tản Viên« . Tous les ans vers le mois de juillet ou Aôut, les habitants vivant au pied de cette montagne ont l’habitude de subir le vent puissant et violent et la grande inondation provoquant ainsi des dégâts imports au niveau de la récolte. C’est pourquoi on a l’habitude d’attribuer à cet évènement la compétition entre le génie des montagnes et celui des fleuves  pour avoir Mị Nương. L’académicien vietnamien Nguyễn Sĩ Cố de la dynastie des Trần, a laissé un poème suivant lors de son  passage dans ce coin:

Sơn tự thiên cao thần tối linh
Tâm huynh tài khấu dĩ văn thanh
Mỵ Nương diệc hữu hiển linh trứ
Thả vị thư sinh bảo thử hành.

Le génie sacré se trouve dans cette montagne aussi élevée que  le ciel.
On entend le bruit en venant frapper la porte de son cœur
Si Mị Nương existe, son don miraculeux se révèlera
Et protègera le voyage du jeune lettré.

Version vietnamienne

Sơn Tinh Thủy Tinh

Chúng ta không biết một xã hội  nào không có huyền thoại cũng như không có nền văn minh nào mà không có lịch sử.

Vua Hùng Vương thứ 18 có một người con gái là Mị Nương, sắc đẹp lạ thường. Khi đến tuổi lấy chồng, tiếng tăm của nàng lại càng vang lên ở khắp bốn phương. Nhà vua quyết định chọn cho nàng một người chồng tài giỏi. Một ngày nọ, có hai chàng trai, thông minh và tuấn tú, tình cờ đến cùng một lúc và xin cầu  hôn  Mị Nương. Một người được gọi là Sơn Tinh, chúa của các vùng núi non cao và các rừng sâu, còn người kia là Thủy Tinh, chúa các của các sông nòi và biển cả thăm thẳm. Nhà vua rất băn khoăn không biết phải chọn người nào vì cả hai đều có tài năng vô song và quyền lực vô hạn.

 Sau một lúc suy nghĩ, nhà vua đành đặt họ trước một thử thách: một trăm đĩa xôi, một con voi chín ngà, một con gà trống chín cựa, một con ngựa chín hồng mao. Người nào đem đến trước được  làm chồng của Mị Nương. Ngày hôm sau, lúc rạng đông, Sơn Tinh đến trước với đầy đủ lễ vật và đưa người đẹp lên núi. Thủy Tinh đến  trình diện sau đó, với đầy đủ lễ vật nhưng nàng công chúa đã đi rồi. Vừa hoang mang vừa tức giận, Thủy Tinh lao tới, dâng cao lên mực nước, quyết định vào núi bắt cóc Mị Nương. Sơn Tinh nâng núi cao hơn nữa. Thủy Tinh trổ tài năng của mình, đánh đuổi gió bão, sấm chớp làm rung chuyển cả núi rừng. Sơn Tinh giữ núi một cách vững vàng. Thủy Tinh nhờ đến thủy binh mà xông lên theo dòng nước, xông pha toàn lực. Sơn Tinh dùng các lưới sắt, cắt  đường tiếp tế,  lăn đá lấp hồn và đè bẹp  các thủy quái trôi dạt vào bờ.

Sau ba ngày ba đêm, mỗi ngày càng thêm thất  bại, Thủy Tinh đành cam chịu rút quân, mang sóng về. Để đảm bảo sự yên tĩnh của mình, Sơn Tinh làm phép lạ nâng cao hai ngọn núi của vợ chồng  lên cao nhất nơi ở của các thần. Sau này dân gian gọi là núi ông và núi bà, dưới chân núi lại có đền thờ Sơn Tinh và Mị Nương. Chuyện nầy được kể lại trong Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp dưới tên là Truyện núi Tản Viên.Cứ hàng năm cở tháng bảy tháng tám dân ở vùng chân núi nầy hay thường bị gió to nước lớn làm lúa má bị thiệt hại. Vì vậy người đời truyền rằng đó là  Sơn Tinh và Thủy Tinh tranh nhau để lấy Mị Nương. Quan hàn lâm học si triều nhà Trần Nguyễn Sĩ Cố có đi ngang qua và có bái yết nơi nầy với bài thơ như sau:

Sơn tự thiên cao thần tối linh
Tâm huynh tài khấu dĩ văn thanh
Mỵ Nương diệc hữu hiển linh trứ
Thả vị thư sinh bảo thử hành.

Núi cao như trời, thần rất thiêng.
Cửa lòng vừa gõ đã nghe tiếng.
Mỵ Nương nếu có, tài hiển linh,
Hãy phù hộ chuyến đi của kẻ thư sinh này.

Water melons island (Chuyện Dưa hấu)

dua_hau

French version

Under the reign of Hùng Vương the 18th, king Văn Lang, 3rd century B.C., An Tiêm, one of the best subjects of the king, being falsely accused, was condemned to exile on a desert island with his wife and son. Facing the hostility of nature, everyone cried except him because he was convinced as a Vietnamese proverb puts it, that water from a brook flows down to the sea but always ends up returning to the source. He began to investigate the environment and found what was needed for a survival: water, fruits, etc…

He even succeeded in making with his own hands a bow to hunt birds. In a beautiful morning, having shot down a bird, he discovered that the latter had been eating a certain fruit of which what was left were grains. This gave him an idea of seeding them. Thanks to the watering and cares provided by his wife and son, the fruits began to grow and took a certain round shape. An Tiêm called them « dưa hấu » in memory of his son’s name « Hấu ».

Several moons have gone by since their departure. He began to feel strangely nostalgic. That was why he decided to send a message to his friends by carving his name and the name of his family on the skin of the watermelons and thowing them in the sea. Those melons were fished out by fishermen who found them having an exquisite taste but also bearing the inscription of the An Tiêm family. They did not hesitate to offer some to the king. The king, tormented by remorse and the fidelity of the An Tiêm family, decided to pardon An Tiêm and his family.

As for the island, it was no longer a place of exile. People were allowed to resettle there. Their hard work made fruits other than « dưa hấu' » grow.

L’île aux pastèques (Chuyện Dưa hấu)

dua_hau

 English version

Sous le règne de Hùng Vương 18, roi de Văn Lang au 3è siècle avant J.C., An Tiêm, un des meilleurs sujets du roi, à cause des calomnies, a été condamné à s’exiler sur une île déserte avec sa femme et son fils. Devant l’hostilité de la nature, tout le monde a pleuré sauf lui car il a été convaincu que selon un proverbe du Viêt-Nam, l’eau du ruisseau rejoint la mer mais finit toujours par retourner à la source.

Il commençait à tâtonner l’environnement et à trouver tout ce qu’il fallait pour survivre: de l’eau, des fruits etc… Il arrivait même avec ses mains à fabriquer lui-même une arbalète pour chasser les oiseaux. Un beau matin, en abattant un oiseau, il découvrit que celui-ci était en train de manger un certain fruit dont il ne restait plus des graines, ce qui lui donnait l’idée de les semer. Grâce à l’arrosage et aux soins apportés par sa femme et son enfant, les fruits commençaient à grossir et à prendre une certaine rondeur. An Tiêm les a nommés « dưa hấu » en souvenir du nom de son fils « Hấu ».

Plusieurs lunes ont passé depuis leur départ. Cela commençait à provoquer en lui une étrange nostalgie. C’est pour cette raison qu’il décida d’envoyer à ses amis un message en gravant son nom ainsi que celui de sa famille sur l’écorce des pastèques et en jetant ces fruits à la mer. Ceux-ci ont été repêchés par les pêcheurs qui les trouvaient non seulement posséder un goût exquis mais porter aussi des inscriptions de la famille An Tiêm. Ils n’hésitèrent à en offrir quelques unes au roi. Celui-ci, rongé par le remords et par la fidélité de la famille d’An Tiêm, décida de gracier An Tiêm et sa famille.

Quant à l’île, elle n’était plus une terre d’exil. Les gens pouvaient s’y installer. Leur labeur faisait pousser les fruits autres que « dưa hấu ». 

The story of an impossible love (Trương Chi Mỵ Nương)

truongchi_minuong

 

French version

The story of an impossible love

Once upon a time there was a powerful lord having a sole daughter of the name Mỵ Nương. She was very beautiful. Like all the girls of her status, she was always kept in the palace. She devoted her time in painting, embroidery and poetry. She often came to the window to view the landscape and look at the river water that flowed underneath. 

On a beautiful day, she was attracted by a melodious and melancholic song that came up from the river. It was the voice of a fisherman who was pulling his net. She began to make a habit of listening to him. This voice is so captivating that she began to rock her soul into insensitivity. It was like an appointment she had with this fisherman.


 In one beautiful morning, that voice was quiet. Its silence rendered her ill. She was completely bedridden and no doctors could determine the cause of her illness. Then, one day, the voice rose again. The song was so melodious that My Nuong regained her forces and found her beauty back. She became happy at the greatest joy of her father. He began to know the cause of his daughter’s illness. Every time the voice was quiet, she plunged back into a desperate lethargy. Her father ended up looking for the fisherman and brought him to his sick daughter. This boy was so ugly that My Nuong was frightened of him at first sight. From that day on, the charm of the voice whose absence made her ill disappeared. She began to forget that habit and went back to her normal life.

However, life was turned up side down for the poor fisherman, Trương Chi. He had lived, up until then, a peaceful life and had nothing to worry about besides earning his daily bread. From that encounter, he fell in love with the gracious Mỵ Nương. He knew that his love was a desperate one. He began to neglect his work, fell ill one beautiful morning and ended up dying. His body was buried at the river bank, next to a tree.

 

One day, during a violent storm, the banks were ravaged by the river. His tomb was completely devastated. People found at that place a jade ball of magnificent purity. According to the people of that place, it was the body of this fisherman that was transformed into that ball.

Attracted by the splendor of the jade ball during a passage to that place , My Nuong’s father succeeded in buying it at the price of gold. He had it made in the form of a cup and gave it to his daughter as a birthday gift. When she poured tea in the cup, she saw appearing at the bottom of the cup the image of Trương Chi with his resonant melodious voice somewhere.

Moved and taken by pity, Mỵ Nương began to cry. Her tears dropped into the cup. With enchantment, the image disintegrated and disappeared. The fisherman’s soul was thus freed of his despair thanks to My Nuong’s compassion. And thus ended the story of an impossible love.


In the Vietnamese best-seller very known, this legend is evoked by two following verses:

Nợ tình chưa giã cho ai
Khối tình mang xuống tuyên đài chưa tan

As long as the love debt is not paid
Even in Hades, this stone of love cannot be melted.


 

 

L’histoire de la voix envoûtante ( Trương Chi Mị Nương )

English version

Vietnamese_version

L’histoire de la voix envoûtante.

Il était une fois un puissant seigneur ayant eu une fille unique s’appelant Mỵ Nương. Celle-ci était très belle. Comme toutes les autres filles de son rang, elle était toujours cloîtrée dans son palais. Elle consacrait tout son temps à la peinture, la broderie et  la poésie. Elle se mettait souvent à la fenêtre pour admirer le paysage et regarder l’eau du fleuve qui coulait jusqu’en contrebas. 

Un beau jour, elle fut séduite par un chant mélodieux et mélancolique qui montait du fleuve. C’est la voix d’un pêcheur qui était en train de chanter et  de tirer son filet. Elle commençait à prendre l’habitude de l’écouter. Cette voix était si envoûtante qu’elle commençait à bercer son cœur jusque-là insensible. C’était un rendez-vous habituel qu’elle ne pouvait pas manquer avec ce pêcheur.

Puis un jour, cette voix se tut. Ce silence la rendit malade. Elle fut complètement alitée et aucun médecin n’arriva à déterminer les causes de sa maladie. Puis, un autre jour, la voix s’éleva de nouveau. Ce chant était si mélodieux que Mỵ Nương reprit ses forces et retrouva sa beauté. Elle redevint heureuse à la grande joie de son père. Celui-ci commença à découvrir la cause de son mal. Elle fut replongée dans la léthargie désespérée chaque fois que cette voix se tut.  Son père finit par rechercher ce pêcheur qu’on amena auprès de sa fille malade. Ce pauvre garçon était tellement laid que cela effraya Mỵ Nương à sa première vue. De ce jour, le charme de la voix dont l’absence la rendait malade disparut. Elle commença à oublier cette habitude et reprit une vie normale.

Par contre, la vie fut bouleversée complètement pour ce pauvre pêcheur, Trương Chi. Celui-ci menait jusque-là une vie paisible et n’avait aucun souci autre que la procuration journalière de la nourriture. Il tomba amoureux de la gracieuse My Nương lors de cette rencontre. Il sut que cet amour était sans espoir. Il commença à négliger son travail, tomba malade un beau matin et finit par mourir. Son corps fut enterré au bord du fleuve. Un jour, lors d’une crue violente, les berges furent ravagées par le fleuve. Sa tombe fut complètement dévastée. On trouva à cet endroit une boule de jade d’une pureté magnifique. Selon les gens de ce coin, il s’agit bien du corps du pêcheur qui s’était transformé en cette boule.

Attiré par la splendeur et la beauté de cette boule lors de son passage dans ce coin, le père de Mỵ Nương réussit à l’acheter à prix d’or. Il fit tailler cette boule en forme de tasse et l’offrit à sa fille lors de son jour d’anniversaire. Quand celle-ci y versa du thé, elle vit apparaître au fond de cette tasse l’image de Trương Chi avec sa voix mélodieuse résonant quelque part.

Émue et prise de pitié, Mỵ Nương commença à pleurer. Ses larmes tombèrent dans la tasse. Par enchantement, celle-ci se désagrégea et disparut. Grâce à la compassion de Mỵ Nương, l’âme du pêcheur fut ainsi libérée de son désespoir. Ainsi se termina l’histoire d’un amour impossible.

Dans un chef-d’œuvre vietnamien bien connu, on fait allusion à cette légende à travers les deux vers suivants:

Nợ tình chưa giã cho ai
Khối tình mang xuống tuyên đài chưa tan

Tant que la dette d’amour demeure,
Au Pays des Sources, la pierre d’amour ne peut pas fondre.

Trương Chi-Mị Nương

Ngày xưa, có một vị lãnh chúa quyền thế có được một cô con gái duy nhất tên là Mỵ Nương. Nàng này rất đẹp. Tựa  như tất cả những cô gái khác cùng cấp bậc, nàng nầy luôn luôn ở trong cung điện của mình. Nàng dành tất cả thời gian cho hội họa, thêu thùa và làm thơ. Nàng hay thường đến bên cửa sổ để ngắm quan cảnh và nhìn dòng nước chảy xuống về phía dưới cuối sông. Một ngày nắng đẹp, nàng bị quyến rũ bởi một tiếng hát du dương và u sầu vang lên từ dòng sông. Đó là tiếng của một ngư dân vừa đang kéo lưới và vừa hát. Nàng bắt đầu có thói quen lắng nghe tiếng hát của anh chàng nầy. Giọng hát nó mê hoặc đến nỗi làm  rung chuyển trái tim vô cảm của nàng. Đây là một cuộc hẹn hò quen thuộc mà nàng có với anh chàng ngư dân này.

 Có một ngày, giọng hát đó lại im bặt  khiến làm nàng đâm ra lâm bệnh. Nàng nằm liệt giường và không thầy thuốc y nào có thể xác định được nguyên nhân khiến nàng bị mắc bệnh. Rồi bổng một ngày, giọng hát nầy cất lên lại. Bài hát nó quá du dương khiến Mỵ Nương hồi phục mau chóng sức khỏe và vẻ đẹp của mình. Nàng trở nên vui vẻ như thưở nào  khiến cha nàng vô cùng vui sướng. Cha nàng mới bắt đầu khám phá ra nguyên nhân của căn bệnh. Nàng  bị chìm vào trạng thái hôn mê tuyệt vọng mỗi khi giọng hát đó lại im bặt. Cha nàng quyết định tìm kiếm lại anh ngư dân này và mời đến cho cô con gái bị bệnh gặp mặt. Tội nghiệp cho anh chàng này quá xấu xí đến mức khiến Mỵ Nương khiếp sợ ngay qua cái nhìn lần đầu tiên. Kể từ ngày đó, sự thu hút của tiếng hát không còn làm nàng khốn đốn  lâm bệnh. Nàng bắt đầu quên dần  đi thói quen này và trở lại  sau đó với nếp sống bình thường. 

Trái lại, cuộc sống hoàn toàn bị  chao đảo đối với anh ngư dân nghèo Trương Chi này. Cho đến giờ, anh có một cuộc sống  bình yên và không phải lo lắng gì cả ngoài việc  sinh nhai hằng ngày. Chàng đem lòng yêu trộm Mỵ Nương trong cuộc gặp gỡ này. Anh cũng thừa biết tình yêu này là tuyệt vọng khiến làm anh  bắt đầu bê tha công việc của mình, đổ bệnh vào một hôm và qua đời sau đó. Thi thể của anh được chôn ở  bên cạnh bờ sông.Có một hôm, trong một trận lũ dữ dội, bờ sông bị phá vỡ. Phần mộ của anh cũng bị tàn phá hoàn toàn. Người ta tìm thấy ở nơi đó có quả ngọc bích tinh khiết tuyệt đẹp. Theo người dân sinh sống ở khu vực này, đó là thi thể  của Trương Chi  đã biến thành ra quả cầu này. Bị thu hút bởi vẻ đẹp lộng lẫy của quả cầu này khi đi qua ở nơi này, cha của Mị Nương mua lại viên ngọc bích nầy rồi nhờ một  nghệ nhân đẽo thành hình một cái chén và  đem tặng cho  Mỵ Nương nhân dịp ngày lễ sinh nhật của nàng. Khi Mị Mương  rót trà vào chén, nàng bổng thấy hình ảnh Trương Chi hiện ra dưới đáy chén cùng với tiếng hát du dương của chàng vang vọng ở đâu đó. Quá xúc động và thương hại chàng, Mỵ Nương bắt đầu rơi lệ.  Các giọt lệ của nàng rơi vào  cái chén khiến nó  bị tan rã  và biến mất. Nhờ sự đồng cảm của Mỵ Nương  mà hồn của Trương Chi được giải thoát từ sự tuyệt vọng. Đây cũng là sự kết thúc của một tình yêu bất khả thi. Trong một kiệt tác nổi tiếng của Việt Nam, truyền thuyết này được ám chỉ qua hai câu thơ như sau:

Nợ tình chưa giã cho ai
Khối tình mang xuống tuyên đài chưa tan.

 

The golden star fruit tree (Ăn Khế trả vàng)

an_khe_tra_vang

French version

Vietnamnese version

The golden star fruit tree

Once upon a time there were two brothers who divided an inheritance at the death of their parents. The elder, greedy and stingy, took all the wealth and left to his younger brother and his wife only a dilapidated hut and and a star fruit tree with juicy but stunted fruits. But the two younger spouses hardly complained and were contented with this meager share. They took care of their star fruit tree and watered it in such a way that the tree took back it vigor and bore lots of fruits. When the star fruits began to ripe, a extraordinarily large raven came every morning to eat them. No matter what they did, it was impossible for the couple to chase the bird away. Chargined, the wife lamented:  » Poor us. As poor as we are, the only thing we count much on was what that star fruit tree brings us; now look, this bird ravaged it all. We will probably know starvation ». Miracle! The raven upon hearing those lamentations, perched down and replied in a human voice:  » Star fruits I eat, with gold I pay, be ready with a three-foot bag and follow me to get it ».

Afraid the woman ran in the hut to look for her husband. They discussed and decided to sew the bag according to the indicated size, waiting for the return of the bird. A few days later, the bird came back, ate all the star fruits then got down from the tree to invite the husband to take a seat on its back with the bag. Then they disappeared together in the horizon. Frightened, the younger brother closed his eyes. The bird took him very far before landing on a deserted island, full of precious stones. He was free to take whatever he could.

He filled the bag and the raven took him back to his home. From then on, the couple knew opulence, lived in luxury places. They often gave help to the poor. On the occasion of the commemoration of his parents’ death, the couple invited the elder brother to come over. Full of despise of his younger brother, the elder look for a pretext to decline and aksed that the younger carpet the road with mats and adorn the gate with gold if he wanted to receive him. Respectful of his elder brother, the younger complied with the latter’s wish. The elder brother and his wife were surprised to see the younger couple’s opulence and wealth. Curious, the elder skillfully tried to penetrate the mystery. His younger brother, honest and frank, did not hesitate to tell him the story of the giant raven that took him to look for gold.

The elder couple proposed an exchange of their fortune for only the hut and the star fruit tree. The younger agreed. One day, the raven came back to eat the star fruits and gave the same recommendation: a three-foot bag to go looking for gold. The elder greedy and curious, brought with him two big six-foot bags and when on the spot, filled them with gold. On the way back, burdened by the overweight of of the two bags, the raven who could not hold any longer, swayed and sent the elder to the sea where he drowned. The elder was the object of much despise when people knew about his greed and stinginess. God always helps good people and always punishes naughty people.

The golden star fruit tree

L’histoire de la carambole d’or (Ăn Khế trả vàng)

an_khe_tra_vang

English version

Version vietnamienne

L’histoire de la carambole d’or.

Il était une fois deux frères qui se partagèrent un héritage, à la mort de leurs parents. L’aîné, cupide et avare, s’empara de tous les biens et laissa à son cadet et à sa femme seulement une paillote délabrée et un carambolier aux fruits juteux mais rabougris. Mais ces deux époux cadets ne s’en plaignirent guère et se contentèrent de ce maigre avoir. Ils prirent soin de leur carambolier et l’arrosèrent sans cesse de manière que l’arbre reprît vigueur et portât une quantité de fruits. Quand les caramboles commencèrent à mûrir, un oiseau d’une taille extraordinaire vint chaque matin en manger. Il était impossible pour ce couple de l’en chasser quoi qu’il fît. L’épouse navrée se lamenta: « Malheur à nous. Pauvres que nous sommes, nous comptons beaucoup sur ce que nous rapporte le carambolier et voilà que l’oiseau ravage tout. Nous connaîtrons probablement la faim ». Miracle! L’oiseau entendit les lamentations, se pencha et répliqua d’une voix d’homme: » Des caramboles je mange, de l’or je rends, munissez-vous d’un sac moyen et suivez-moi pour en chercher ».

Apeurée, la femme se précipita dans la chaumière pour chercher son mari. Ils se concertèrent et décidèrent de coudre le sac suivant la mesure indiquée, dans l’attente d’un éventuel retour de l’oiseau. Quelques jours plus tard, l’oiseau revint, mangea tout son saoul de caramboles puis descendit de l’arbre pour inviter l’époux à prendre place sur son dos avec le sac. Puis ils disparurent ensemble à l’horizon. Effrayé, le cadet ferma les yeux. L’oiseau le transporta très loin avant d’atterrir sur une île déserte, remplie de pierres précieuses. Il fut libre d’en prendre autant qu’il pût.

 

Il remplit son sac et l’oiseau le ramena chez lui. Depuis ce jour, le couple connut l’opulence. Il vivait dans des demeures luxueuses. Il venait en aide souvent aux pauvres. A l’occasion de la commémoration de la mort de ses parents, le couple invita l’aîné à venir chez lui. Plein de mépris pour le cadet, l’aîné chercha prétexte pour se dérober et exigea que le cadet tapissât le chemin de nattes et dorât le portail si ce dernier voulait le recevoir. Le cadet respectueux de son aîné, s’exécuta selon le vœu de ce dernier. Celui-ci et son épouse furent surpris devant l’opulence et la richesse du couple cadet. Curieux, l’aîné chercha habilement à connaître le mystère. Son cadet, honnête et franc, n’hésita à lui raconter l’histoire de l’oiseau géant qui l’avait emmené à chercher de l’or. Le couple aîné proposa d’échanger sa fortune contre seulement la paillote et le carambolier juteux. Les cadets obtempérèrent. Un jour, l’oiseau revint manger des caramboles et fit la même recommandation: un sac de trois livres pour aller chercher de l’or. L’aîné, cupide et curieux, emmena deux gros sacs  et une fois sur place les remplit avec de l’or. Sur le chemin de retour, plié sous le poids démesuré de ces deux sacs, l’oiseau qui n’en put plus, tangua et l’aîné fut balancé dans la mer et s’y noya. L’aîné fut l’objet de beaucoup de mépris quand on connut l’histoire de son avidité et de sa cupidité. Dieu vient toujours en aide aux bons et punit toujours les méchants. Dans le livre des proverbes vietnamiens, il y a l’expression suivante : « Tham thi thâm » ou « la cupidité donne une fin triste ».

 

Ăn khế trả vàng

Chúng ta không biết một xã hội  nào không có huyền thoại cũng như không có nền văn minh nào mà không có lịch sử.

Ngày xửa ngày xưa, có hai anh em được chia tài sản thừa kế khi cha mẹ họ mất. Người con cả, tham lam và keo kiệt, chiếm đoạt hết gia sản để lại cho vợ chồng đứa em trai nhỏ chỉ có một túp lều dột nát và một giàn khế ngọt nhưng còi cọc. Nhưng hai người chồng trẻ này không phàn nàn nhiều về điều đó và hài lòng với khối tài sản ít ỏi này. Họ chăm sóc cây khế và tưới nước liên tục để cây lấy lại sức sống và cho trái nhiều. Khi các quả khế bắt đầu chín, sáng nào cũng có một con chim có kích thước lớn đến ăn  các quả khế.

Vô phương cho đôi vợ chồng này không thể nào đuổi  được con chim đi được. Người vợ đau lòng than thở: “Thật khổ cho chúng ta.Chúng ta đã nghèo, chúng ta trông chờ rất nhiều vào những gì chúng ta có được từ cây khế và bây giờ con chim đang tàn phá mọi thứ. Chúng ta sẽ chết đói chắc chắn”. Phép màu! Con chim  nghe tiếng than vãn, cúi xuống và đáp giọng đàn ông: “Các quả khế ta ăn, vàng ta trả lại, lấy túi ba gang theo ta đi tìm”.

Quá hoảng sợ, người phụ nữ lao vào ngôi nhà tranh để tìm chồng. Họ đồng ý và quyết định may túi vải theo kích thước đã chỉ định, chờ chim quay lại. Mấy hôm sau, chim trở lại, ăn khế no nê say rồi từ trên cây bay xuống mời người chồng ngồi lên lưng với túi vải. Rồi họ cùng nhau biến mất ở phía chân trời.

Sợ hãi, người chồng nhắm mắt lại. Con chim đã chở anh nầy đi thật xa trước khi đáp xuống một hòn đảo hoang đầy đá quý. Anh nầy mà lấy được nhiều thì càng tốt.

Anh ta đổ đầy túi và con chim mang anh ta  trở về nhà. Kể từ ngày đó, hai vợ chồng có được sự xa hoa, sống trong những dinh thự sang trọng. Anh thường giúp đỡ người nghèo. Nhân ngày giỗ cha mẹ, hai vợ chồng anh  mời anh cả về nhà họ. Với lòng khinh bỉ đã có với đứ em, anh cả tìm cớ trốn tránh đi và yêu cầu đứa em mình phải trải chiếu và mạ vàng cổng nếu muốn anh sang. Người em trai, kính trọng người anh cả của mình, đã làm theo ý muốn của người anh. Vợ chồng người anh ngỡ ngàng trước sự giàu có, sang chảnh của đôi vợ chồng người em. Hiếu kỳ, người anh cả khéo léo tìm cách khám phá sự bí ẩn. Trung thực và thẳng thắn, người em trai, không ngần ngại kể cho anh c ả nghe câu chuyện về con chim khổng lồ đã đưa đi tìm vàng. Đôi vợ chồng người anh  đề nghị đổi của cải để lấy túp lều rơm và giàn khế ngon ngọt. Vợ chồng người em tuân theo. Một hôm, con chim quay lại ăn quả khế và đưa ra lời đề nghị tương tự: một túi ba gang để lấy vàng. Người anh, ngu si và tò mò,  lấy hai túi lớn mỗi túi ba gang và khi đến đó, làm đầy hai túi với vàng.

Trên đường trở về, dưới sức nặng quá lớn của hai chiếc túi vải, con chim không thể chịu đựng bay nổi được nữa và lảo đảo  ném người anh cả xuống biển khiến anh bị chết đuối. Anh nầy nầy bị khinh miệt khi lòng tham và ngu si của anh ta được biết đến.  Thượng đế luôn giúp đỡ người tốt và trừng phạt kẻ gian ác. Bởi vậy trong tục ngữ của chúng ta có câu nói « Tham thì thâm ».

La chique de bétel (Trầu Cau)

chique_de_betel

Version vietnamienne

La chique de bétel.

Jadis, sous le règne du roi Hùng IV, vivaient deux frères jumeaux, Cao Tân et Cao Lang (*). Ils se ressemblaient tellement qu’il était difficile de les distinguer. Leurs parents étaient décédés depuis longtemps. Ils suivaient les cours d’un vieux maître du village, Lưu Huyền ayant eu une fille unique de nom Liên  dont la beauté recueillait tous les hommages de tous les jeunes de la région.

Le vieux maître se prit d’affection pour les deux. Il désira accorder la main de sa fille à l’un d’eux, de préférence l’aîné car selon la coutume vietnamienne, l’aîné se maria le premier. Pour arriver à les distinguer, il dut recourir  à un petit subterfuge en les invitant à dîner chez lui. Le premier à prendre les baguettes était l’aîné. C’était ainsi que Cao Tân reçut la main de sa fille sans se douter que son cadet vouait aussi à cette dernière un ardent amour. Ils continuaient à vivre ensemble dans une harmonie complète et connaissaient un bonheur sans faille.

Cao Tân n’en continuait pas moins à aimer son cadet comme avant et faisait tout pour rendre ce dernier plus heureux. Mais celui-ci, malgré cela, n’arriva pas à refouler les peines de son cœur. Il décida de les quitter et trouva le soulagement dans l’aventure. Après tant de jours de marche, il finit par tomber d’épuisement sur la route et fut transformé en un bloc de calcaire d’un blanc immaculé.

Pris d’une inquiétude grandissante pour son frère, l’aîné  partit à sa recherche. Il suivit le même chemin pris par son cadet. Un beau matin, après tant de jours de marche, il arriva près du bloc calcaire, s’y assit et succomba d’inanition.  Il fut métamorphosé en un bel arbre (aréquier) haut avec des palmes vertes et des petits fruits oblongs. L’arbre commença à étendre sa ramure et son ombre au dessus du bloc calcaire  pour le protéger contre les intempéries.

Restée sans nouvelles de son mari, la jeune femme Liên, quitta à son tour, la maison et se mit en quête de son époux. Elle parcourut des champs et des prairies, traversa des villages et arriva enfin un jour tout près de l’aréquier. Fatiguée par la marche, elle s’adossa au pied de l’arbre, mourut à son tour et fut changée en une plante dont les lianes s’enroulaient autour du tronc de l’arbre avec de larges feuilles d’un vert intense en forme de cœur.

Un jour, de passage dans ce coin, le roi Hùng apprit cette histoire. Il essaya de mâcher du bétel et  d’arec  avec un peu de la chaux du bloc calcaire. Il constata que la salive obtenue était vermeille comme le sang et avait une saveur à la fois fraîche, acidulée et odorante.  Il ordonna désormais que le bétel et l’arec durent figurer au mariage comme une offrande rituelle. C’est l’une des coutumes vietnamiennes qu’il faut respecter lors de la fête de mariage. Il y a toujours des noix d’arec et des feuilles de bétel  d’un vert intense en forme de cœur faisant partie des cadeaux de mariage et symbolisant le gage d’amour conjugal et la fidélité.

Semblable à une cigarette, la chique de bétel facilite le début de la conversation dans la société vietnamienne d’autrefois. C’est pourquoi on a l’habitude de dire en vietnamien « Miếng trầu là đầu câu chuyện ». La chique de bétel sert à mesurer aussi le temps car en l’absence d’horloge à cette époque, une bouchée de bétel correspond à peu près trois ou quatre minutes,  ce qui permet d’avoir une idée sur la durée de la conversation.

La chique de bétel est une coutume très ancienne trouvée chez les populations vivant dans les régions s’étendant de l’Inde jusqu’au Japon méridional, recouvrant aussi l’Asie du Sud-Est et la Chine du Sud. Il paraît que la chique de bétel porte le même effet que le coca pour couper la faim. Malgré la disparition de cette coutume au fil des années, les feuilles de  bétel et les noix d’arec continuent à rester une offrande cultuelle et être visible au moment des fiançailles et du mariage des Vietnamiens ou à l’occasion des Tết. 

Chuyện trầu cau

Ngày xưa, dưới thời vua Hùng IV, có hai anh em sinh đôi là Cao TânCao Lang.Hai anh em trông giống nhau như đúc khó mà phân biệt được. Cha mẹ đã qua đời từ lâu. Hai anh em đến học chung cùng một thầy giáo tên là Lưu Huyền. Ông nầy  có một  đứa con gái tên Liên duy nhất rất xinh đẹp được tất cả thanh niên trong vùng trầm trồ ngưỡng mộ.

Ông giáo làng nầy rất qúi cả hai anh em. Ông muốn gã đứa con gái của mình cho  một trong hai người nầy, nhất là cho người anh cả, vì theo phong tục Việt Nam, người anh cả  phải lấy vợ trước. Để có thể phân biệt được giữa họ, ông  phải dùng đến một mẹo nhỏ bằng cách mời họ đến dùng cơm  tối tại nhà. Người đầu tiên cầm đũa là người anh cả. Chính  nhờ vậy mà Cao Tân  được  kết hôn với cô con gái  nhưng không biết  em trai của mình cũng yêu  thầm cô con gái nầy. Họ tiếp tục sống chung với nhau rất hòa thuận và tận hưởng niềm hạnh phúc chung. Cao Tân vẫn tiếp tục yêu thương em trai của mình như trước và làm mọi thứ để người em được  hạnh phúc hơn. Nhưng người  em trai không thể kìm nén nỗi đau trong lòng nên quyết định ra đi và tìm nguồn an ủi trong cuộc phiêu lưu. Sau bao nhiêu ngày đi bộ, anh ta cuối cùng  ngã  bệnh mà chết vì kiệt sức trên đường và biến thành một khối đá vôi trắng tinh.

Càng lo lắng cho em trai mình, người anh cả lên đường đi tìm em. Anh  đi theo con đường tương tự mà em trai của mình đã trải đi qua. Một buổi sáng đẹp trời, sau bao ngày đi bộ, anh ta đến nơi có khối đá vôi, ngồi tụt xuống đó rồi mõi mòn qua đời và được biến thành một cây cau xinh đẹp với những lá cọ xanh tươi và những quả nhỏ hình thuôn dài. Cây nầy bắt đầu vươn cành ra và tỏa bóng mát  lên trên khối đá vôi xem như để  bảo trợ nó chống lại những lúc có mưa gió.

Không có tin tức của chồng, Liên người phụ nữ trẻ lượt rời khỏi nhà và đi tìm chồng. Cô vượt qua những cánh đồng, những ngôi làng và cuối cùng có một ngày cô  lại đến  gần cây cau. Đi quá mệt mỏi, cô mới dựa lưng vào chân cây cau, lần lượt chết đi và được biến  thành một loài thực vật có dây leo quấn quanh thân cây cau  với những chiếc lá rộng màu xanh đậm hình trái tim.

Một hôm, khi đi ngang qua nơi nầy, vua Hùng mới biết được câu chuyện này. Ngài  mới lấy trầu và cau đưa lên miệng nhai  với một tí vôi từ khối đá nầy. Ngài nhận thấy nước bọt thu được có màu hồng như máu và có mùi vị thơm ngon. Bây giờ ngài mới ra lệnh rằng từ đây  trầu cau phải được đưa vào hôn lễ như một lễ vật. Đó là một trong những phong tục mà người dân Việt  cần phải  tôn trọng trong tiệc cưới. Quà cưới luôn luôn phải có các quả cau với những chiếc lá trầu xanh nồng nàn hình trái tim. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu thương vợ chồng và lòng chung thủy sắt son.

Tương tự như điếu thuốc lá, miếng trầu giúp ta dễ bắt nói chuyện hơn trong xã hội Việt Nam thưở  xưa. Đây là lý do tại sao chúng ta thường nói trong tiếng Việt « Miếng trầu là đầu câu chuyện« . Ăn trầu được sử dụng để đo thời gian vì thời đó không có đồng hồ, một miếng trầu chỉ cần nhai khoảng ba hoặc bốn phút, điều này gíúp  chúng ta biết khoảng thời gian của cuộc trò chuyện. Tục ăn trầu là một phong tục cổ xưa được tìm thấy trong các nhóm dân cư sống ở các khu vực trải dài từ Ấn Độ đến miền nam Nhật Bản, bao gồm luôn  cả Đông Nam Á và miền Nam Trung Quốc. Có vẻ như miếng trầu có tác dụng tương tự như nước coca để ngăn cơn đói. Mặc dù phong tục này đã biến mất theo ngày tháng, các lá trầu và các quả cau vẫn tiếp tục là một lễ vật tín ngưỡng và thường trông thấy ở  các lễ quan trọng như đính hôn, cưới hỏi hay   các Tết lớn nhỏ của người Việt Nam.


(*) Hai chữ Tân và Lang ghép lại thì thành Tân Lang có nghĩa là cây cau. L’association des deux  mots Tân et Lang désigne l’aréquier.