Thời kỳ Hồng Bàng (Văn minh Văn Lang)

 

Version française

Thời kỳ Hồng Bàng

Người dân Việt hay thường nói: uống nước phải nhớ nguồn. Không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy họ tiếp tục ăn mừng linh đình mỗi năm ngày 10 tháng 3 âm lịch để tưởng niệm các vị vua Hùng của triều đại Hồng Bàng, những người cha sáng lập đất nước Việt Nam. Cho đến ngày nay, không có di tích khảo cổ nào được tìm thấy để xác nhận sự tồn tại của vương triều này ngoài những tàn tích của thành Cổ Loa có từ thời vua An Dương Vương và ngôi đền được xây dựng để vinh danh những vị vua Hùng ở Phong Châu thuộc tỉnh Phú Thọ.

Có rất nhiều dấu hiệu không thể phủ nhận được sự tồn tại này nếu chúng ta dựa vào những truyền thuyết được nói đến từ thời kỳ huyền thoại này và các biên niên sử của Việt Nam và Trung Hoa. Sự thống trị của Trung Hoa (từ thế kỷ thứ ba trước Công nguyên – 939 sau Công nguyên) có ảnh hưởng trọng đại đến sự phát triển của nền văn minh Việt Nam. Mọi thứ thuộc về người dân Việt đều trở thành sở hữu của người Trung Hoa cả và ngược lại trong giai đoạn này. Có một chính sách đồng hóa mà người Trung Hoa cố tình áp đặt. Điều này không để cho người dân Việt có khả năng duy trì nền văn hóa của họ được thừa kế từ một nền văn minh có hơn 4000 năm và được gọi là « nền văn minh Văn Lang » và buộc lòng họ phải dùng đến các lời truyền khẩu (tục ngữ, ca dao hoặc truyền thuyết).
Việc sử dụng các truyền thuyết với các lời nói bóng gió là một  phương cách hữu hiệu nhất để cho phép hậu thế tìm thấy được nguồn gốc bằng cách cung cấp các chỉ dẫn hữu ích bất chấp sự phá hủy triệt để  nền văn hóa của người dân Việt và sự đàn áp không thể chối cãi được của người Trung Hoa đối người  Việt. Đối với nhà nghiên cứu Paul Pozner, thuật chép sử Việt Nam đều dựa trên truyền thống lịch sử lâu dài và vĩnh cửu và được thể hiện bởi một truyền thống truyền miệng kéo dài từ nhiều thế kỷ của thiên niên kỷ đâu tiên trước công nguyên dưới hình thức các truyền thuyết lịch sử ở các đền thờ cúng tổ tiên (1).

Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.

Hai câu trong ca dao trên đây cũng biểu lộ một phần nào sự khôn khéo của người dân Việt trong việc bảo vệ nền văn hóa có từ thời đại Hồng Bàng.

Văn Lang là tên của một  nước  được giáp  Nam Hải  (Quảng Đông) ở phiá đông lúc bấy giờ, về phía tây với  Ba Thục (hay Tứ Xuyên), ở phía bắc thì tới Ðộng Ðình hồ (Hồ Nam) và về phía nam bởi vương quốc Hồ Tôn (Chămpa). Vương quốc này nằm ở lưu vực sông Dương Tữ và được đặt dưới quyền của một vị vua Hùng. Ông vua nầy được chọn làm vua vì lòng can đảm và các công trạng của mình. Ông chia nước thành 15 quận hay bộ,  giao phó cho các anh em mình cai trị thường được gọi là « Lạc Hầu ». Các đứa con trai của vua thì gọi  quan lang và các cô con gái vua thì gọi là Mỵ nương. Người dân của vương quốc nầy được gọi là « Lạc Việt ». Người dân thường có thói xăm hình trên cơ thể của họ. Tập tục « man rợ » này, thường được nói đến trong biên niên sử Trung Hoa, theo các văn bản tiếng Việt thì nhằm bảo vệ các người đàn ông trong các cuộc tấn công của con thuồng luồng (hay giao long). Đây có thể là lý do mà người Trung Hoa thường gọi họ là Qủi. Khố và búi tóc tạo thành trang phục thông thường được thấy ở dân tộc nầy với  các đồ trang trí bằng đồng. Người Lạc Việt hay nhuộm răng đen, nhai trầu và giã gạo bằng tay. Người nông dân thì trồng lúa trên những cánh đồng ngập nước. Họ sống ở vùng đồng bằng và vùng duyên hải trong khi đó ở các vùng núi Việt Bắc và trên một phần lãnh thổ của tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc, thì là nơi cư ngụ của người Tây Âu, tổ tiên của các dân tộc Tày, Nùng và Choang. Đến cuối thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, người đứng đầu bộ lạc Tây Âu đã đánh bại vị vua Hùng cuối cùng và thành công trong việc thống nhất dưới ngọn cờ của mình các lãnh thổ của Tây Âu và Lạc Việt để thành lập vương quốc Âu Lạc vào năm 258 TCN. Ông nầy lấy tên là An Dương Vương và dời đô về Cổ Loa nằm cách Hànội khoảng hai mươi cây số.

Vương quốc Văn Lang có phải là một trò bịa đặt được người Việt Nam bày ra nhầm để duy trì một huyền thoại hay là một vương quốc thực sự  có tồn tại và biến mất trong cơn lốc lịch sử?

Bản đồ của vương quốc Văn Lang

Theo truyền thuyết Việt Nam, đất nước của các người Việt cổ này được phân định ở miền Bắc vào thời Hùng Vương (triều đại đầu tiên của Việt Nam 2879 trước Công nguyên) bởi Động Đình Hồ nằm trong lãnh thổ của nước Sỡ. Một phần lãnh thổ của họ trở lại về nước Sỡ  sau này trong thời Chiến Quốc. Như vậy con cháu của họ sống trong phần lạnh thổ này có lẽ đã trở thành công dân của nước Sỡ. Rõ ràng có một mối quan hệ, một mật thiết giữa nước Sỡ này và người Việt cổ. Đây là một giả thuyết được đề xuất và nâng cao gần đây bởi một nhà văn người Việt Nguyên Nguyên (2). Theo ông, không có gì lạ khi trong các văn bản cổ đại, các chữ tượng hình được thay thế bằng các chữ tượng hình khác có cùng ngữ âm. Đây là trường hợp của danh hiệu Kinh Dương Vương, người cha đẻ của người dân Việt, tên là Lôc Tục. Bằng cách viết danh hiệu nầy theo tiếng Trung hoa , chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy tên của hai thành phố Kinh Châu (Jīngzhōu) (3) và Dương Châu (Yángzhōu) (4) nơi dân tộc Yue thuộc chi nhánh Thái (Si Ngeou) và chi nhánh Lạc (Ngeou Lo) sinh sống. Đây có ý gợi lên một cách thông minh bởi người kể chuyện về sự thiết lập và sự hợp nhất của các dân tộc Việt của chi nhánh Thái (Si Ngeou) và chi nhánh Lạc (Ngeou-lo) đến từ các cuộc di cư của hai thành phố này trong các cuộc chinh phạt và thôn tính của nứớc Sỡ. Mặt khác, chữ tượng hình 陽 (thái dương) được dịch là ánh sáng, trịnh trọng. Nó được sử dụng để tránh sử dụng nó như một tên gia đình. Sử dụng từ này, có thể dịch Kinh Dương Vương   ra vua Kinh trịnh trọng. Nhưng cũng có một từ Kinh  đồng nghĩa với từ Lạc ( ), biệt danh của người Việt. Nói tóm lại, Kinh Dương Vương có thể được dịch là Vua Viêt trịnh trọng. Còn về danh hiệu An Dương Vương  mà vua Âu Việt lấy, tác giả không có sư nghi ngờ nào cả về lời giải thích của ông: đó thực sự là việc bình định nước Việt  thuộc chi nhánh Lạc  bởi một người con trai Việt  thuộc chi nhánh Thái.

Việc này càng củng cố thêm quan điểm của Edouard ChavannesLéonard Aurousseau (5): các người Việt cổ và  các thần dân của  nước Sỡ có cùng chung tổ tiên. Ngoài ra, có một sự trùng hợp đáng kinh ngạc được tìm thấy trong tên gia tộc Mi (hoặc gấu trong tiếng Việt) được viết bằng ngôn ngữ nước Sỡ, được dịch sang Hùng (熊) trong tiếng Việt và được xem là tên của các vị vua Sỡ và các vị vua Việt. Dựa trên sử  ký  lịch sử của Tư Mã Thiên do E. Chavannes (6) dịch, chúng ta biết rằng vua của nước Sỡ  đến từ những kẻ man rợ ở miền Nam (hay Bách Vịệt). Hùng Cừ nói: Tôi là một kẻ man rợ và tôi không nhận chức tước và tên truy tặng của Trung Hoa cả.

Các nhà ngôn ngữ học người Mỹ  Mei TsulinNorman Jerry (6) đã xác định được một số từ mượn từ ngôn ngữ Nam Á của ngời Việt trong các văn bản Trung Quốc từ thời Hán. Đây là trường hợp của từ tiếng Trung Hoa  jiang 囝 (giang hoặc sông trong tiếng Việt) hoặc từ nỏ (ná trong tiếng Việt). Họ đã chứng minh khả năng cao về sự hiện diện của ngôn ngữ  Nam Á ở  miền nam Trung Quốc và kết luận rằng đã có sự liên hệ giữa ngôn ngữ Trung Quốc và ngôn ngữ Nam Á trong lãnh thổ của nước  Sỡ cổ đại  từ 1000 năm đến 500 năm trước Công nguyên.  Lý luận địa lý này chưa bao giờ được xem xét nghiêm túc trong quá khứ bởi một số sử học gia Việt Nam bởi vì đối với họ, triều đại này là một thời đại hoang đường. Ngoài ra, theo các nguồn tin của Trung Quốc, lãnh thổ của tổ tiên người dân Việt (Kiao-tche (Giao Chỉ) và Kieou-tchen (Cửu Chân)) đã bị giới hạn ở Bắc Kỳ ngày nay, khiến họ khó có chấp nhận được mà không giải thích hay biện minh cho việc lãnh thổ của triều đại Hồng Bàng có thể đến tới  hồ Động Đình (Dongting). Họ không nhận thấy trong truyền thuyết này, ý muốn của tổ tiên người Việt để  lộ ra nguồn gốc của họ, để hiển thị họ thuộc về đại tộc Bách Việt và sự kháng cự sắt son của họ đối với những kẻ chinh phục  Trung Quốc lợi hại nầy.

Trong biên niên sử Trung Quốc, có kể lại vào thời Xuân Thu, Việt vương Câu Tiễn (Ngô Việt) bắt đầu quan tâm đến việc liên minh mà ông muốn ký hợp đồng với  nước Văn Lang để duy trì quyền lực bá chủ đối với  các nước hùng mạnh ở trong khu vực. Có  thể nước Văn Lang này phải là một quốc gia giáp ranh với nước của Câu Tiễn. Nước nầy không có lý do nào để gia nhập liên minh này nếu nước Văn Lang bị giới hạn về mặt địa lý đối với nước Việt Nam ngày nay. Sự phát hiện gần đây thanh kiếm của Việt vương Câu Tiễn (trị vì 496-45 trước Công nguyên) trong ngôi mộ số 1 của Wanshan (Jianling) (Hồ Bắc) làm sáng tỏ thêm vị trí của  nước Văn Lang.

Như vậy Văn Lang có thể nằm ở tại khu vực Qúi Châu (hoặc GuiZhou). Nhưng Henri Masporo đã bác bỏ giả thuyết này trong tác phẩm của ông mang tên « Vương quốc Văn Lang » (BEFEO, tome XVIII, fac 3). Ông gán cho các nhà sử học Việt Nam lẫn lộn giữa nước Văn Lang với Ye Lang (hay Dạ Lang trong tiếng Việt) mà tên nầy được các nhà sử học Trung Quốc đã truyền cho các đồng nghiệp Việt Nam ở thời nhà Đường. Điều này không hoàn toàn chính xác bởi vì trong các truyền thuyết của người dân Việt, đặc biệt là trong truyền thuyết của Phù Đổng Thiên Vương (hay  thánh gióng của làng Phù Đổng) người ta nhận rằng nước  Văn Lang đã có một  cuộc xung đột vũ trang với triều đại Ân-Thương vào thời vua Hùng vương thứ 6 và nước nầy lớn hơn nước Dạ Lang được tìm thấy vào thời thống nhất của Trung Quốc bởi Tần Thủy Hoàng.
 
Trong  các biên niên sử Việt Nam, có  nói về thời kỳ trị vì của các vị vua Hùng (từ năm 2879 đến năm 258 trước Công nguyên). Những khám phá về  các đồ vật bằng đồng ở Ninh Hương (Hồ Nam) vào những năm 1960 làm người ta không còn nghi ngờ gì về sự tồn tại của các trung tâm  văn minh tương đương  cùng thời nhà Thương ở miền nam Trung Quốc  không được  nhắc đến trong các văn bản Trung Quốc. Đây là trường hợp văn hóa của Di Chỉ Tam Tinh Đôi ở Tứ Xuyên chẳng hạn. Chiếc bình rượu bằng đồng được trang trí với khuôn mặt hình người rõ ràng  minh chứng cho việc tiếp xúc được thiết lập bởi nhà Thương với những người thuộc chủng tộc Melanesian  vì chúng ta thấy   những mặt người tròn với cái mũi tẹt trên mặt của chiếc bình nầy. Việc đúc đồng chiếc bình này nó còn đòi hỏi phải có sự kết hợp của thiếc, điều mà miền bắc Trung Quốc không có vào thời điểm đó.

Liệu có sự liên lạc thực sự hay không, liệu có một cuộc xung đột vũ trang giữa nhà Thương và  nước Văn Lang hay không nếu chúng ta dựa vào truyền thuyết thánh Gióng của Phù Đổng? Chúng ta có thể  tin hay không tính xác thực của một sự kiện được thuật lại bởi một truyền thuyết Việt Nam? Nhiều nhà sử học phương Tây luôn xem thời kỳ văn minh Đồng Sơn là khởi đầu của sự  thành hình quốc gia Việt Nam (500-700 trước Công nguyên). Đây cũng là ý kiến ​​được chia sẻ và tìm thấy trong quyển sách lịch sử ẩn danh « Việt Sử Lược ».

Dưới   triều đại vua Trang Vương của nhà Châu (696-691 trước Công nguyên), ở huyện Gia Ninh, có một nhân vật kỳ lạ thành công thống trị tất cả các bộ lạc bằng phép thuật của mình, lấy tước hiệu Hùng Vương và thành lập thủ đô  ở tại Phong Châu. Với mối liên hệ cha truyền con nối,  dòng dõi của ông duy trì được quyền lực với 18 vị vua, tất cả đều mang tên Hùng cả.Trái lại trong các sách  lịch sử khác của Việt Nam, triều đại Hồng Bàng (từ năm 2879 đến năm 258 trước Công nguyên) đã được có một thời gian cai trị quá lâu dài với 2622 năm. Có vẻ không thể tin nổi được được nếu chúng ta bám vào con số 18. Đây là con số của các vị vua  cai trị trong thời kỳ này như vậy có nghĩa là mỗi ông vua Hùng trị vì trung bình 150 năm. Chúng ta chỉ có thể tìm thấy một câu trả lời thỏa đáng nếu chúng ta bám sát vào giả thuyết do Trần Huy Bá nêu ra trong bài trình bày được đăng trên báo Nguồn Sáng số 23 trong ngày tưởng niệm các vị vua Hùng Vương (Ngày giỗ tổ Hùng Vương) (1998). Đối với ông, có một cách giải thích sai lầm về từ đời được tìm thấy trong câu « 18 đời Hùng Vương ». Từ « Đời » nên được thay thế bằng từ « Thời » có nghĩa là « thời kỳ ».(7)

Với giả thuyết này, có 18 thời kỳ trị vì, mỗi thời kỳ tương ứng với một chi nhánh có thể bao gồm một hoặc nhiều vị vua trong gia phả gia đình của triều đại Hồng Bàng. Lập luận này được củng cố bởi thực tế là vua Hùng Vương được chọn vì lòng dũng cảm và công trạng nếu chúng ta đề cập đến truyền thống Việt Nam chọn người có giá trị cho chức vụ tối cao. Điều này đã được thấy trong truyền thuyết nổi tiếng về bánh chưng bánh dầy. Do đó, chúng ta có thể biện minh cho từ ngữ đời bằng nhánh hay từ chi.

Chúng ta được có một lời giải thích mạch lạc hơn cho  con số 2622 với 18 nhánh sau đây được tìm thấy trong cuốn sách « Văn hóa tâm linh – đất tổ Hùng Vương » của tác giả Hồng Tử Uyên:

Chi Càn Kinh Dương Vương húy Lộc Túc   
Chi Khảm Lạc Long Quân húy Sùng Lãm
Chi Cấn Hùng Quốc Vương húy Hùng Lân
Chi Chấn Hùng Hoa Vương húy Bửu Lang
Chi Tốn Hùng Hy Vương húy Bảo Lang
Chi Ly Hùng Hồn Vương húy Long Tiên Lang
Chi Khôn Hùng Chiêu Vương húy Quốc Lang
Chi Ðoài Hùng Vĩ Vương húy Vân Lang
Chi Giáp Hùng Ðịnh Vương húy Chân Nhân Lang
………….. manquant dans  le document historique …
Chi Bính Hùng Trinh Vương húy Hưng Ðức Lang
Chi Ðinh Hùng Vũ Vương húy Ðức Hiền Lang
Chi Mậu Hùng Việt Vương húy Tuấn Lang
Chi Kỷ Hùng Anh Vương húy Viên Lang
Chi Canh Hùng Triệu Vương húy Cảnh Chiêu Lang
Chi Tân Hùng Tạo Vương húy Ðức Quân Lang
Chi Nhâm Hùng Nghị Vương húy Bảo Quang Lang
Chi Qúy Hùng Duệ Vương

Điều này cũng cho phép chúng ta khám phá lại mấu chốt của lịch sử trong cuộc xung đột vũ trang của nước Văn Lang với nhà Thương thông qua truyền thuyết « Phù Đổng Thiên Vương ». Nếu cuộc xung đột này diễn ra, nó chỉ có thể ở vào đầu thời kỳ trị vì của vua nhà Thương vì một số lý do sau đây:

1) Không có tài liệu lịch sử Trung Quốc hay Việt Nam nào nói về quan hệ thương mại giữa vương quốc Văn Lang và nhà Thương cả. Mặt khác, chúng ta ghi nhận mối liên hệ được thiết lập sau đó giữa triều đại nhà Châu và vua Hùng Vương. Một con chim trĩ trắng được  biếu tặng cho vua nhà Châu theo tác phẩm Linh Nam Chích Quái.

2)  Triều đại nhà Thương chỉ trị vì từ năm 1766 đến 1122 trước Công nguyên sẽ có độ trễ xấp xỉ 300 năm nếu chúng ta cố gắng tạo ra trung bình con số của 18 thời kỳ trị vì của các vị vua Hùng: (2622/18) và tăng nó lên 12 lần để đưa ra một ngày gần đúng cho sự kết thúc của triều đại thứ sáu của Hùng Vương VI bằng cách  công thêm 258 năm sáp nhập vương quốc Văn Lang bởi vua An Dương Vương. Chúng ta dẫn đến khoảng năm 2006, năm kết thúc triều đại của nhánh thứ sáu Hùng Vương (Hùng Vương VI). Chúng ta có thể suy luận rằng cuộc xung đột nếu có, phải ở lúc đầu từ thời nhà Thương. Sự khác biệt này không hoàn toàn phi lý vì cho đến nay chúng ta có rất ít chi tiết lịch sử ngoài triều đại của vua Châu Lệ Vương (Zhou Li Wang) (850 trước Công nguyên) mà thôi.

3)  Có một cuộc viễn chinh  quân sự được thực hiện trong vòng ba năm bởi vua của nhà Thương tên là Wuding (Vũ Định) ở lãnh thổ của Ðộng Ðình Hồ chống lại dân du mục, thường gọi là « Quỷ », được báo cáo trong Kinh Dịch được dịch bởi Bùi Văn Nguyên (Khoa Học Hội Hà Nội 1997). Trong bài nói chuyện được đăng trên báo Nguồn Sáng số 23, Trần Huy Bá đã nghĩ nhiều hơn về vua Woding (Ốc Ðinh), một trong những vị vua đầu tiên của nhà Thương. Với giả định này, không còn  sự nghi ngờ và mơ hồ nào nữa bởi vì có một sự kết hợp hoàn hảo được báo cáo trong biên niên sử Trung Quốc và Việt Nam.  Chúng ta nên biết rằng vào thời vua An Dương Vương, chúng ta đã từng chỉ định đất nước Việt Thường dưới cái tên « Xích Qủi« . Thuật ngữ Xích dùng để chỉ  màu đỏ và ám chỉ phương nam. Còn Qủi, có nghĩa gợi lên ngôi sao  màu đỏ Yugui Qui,  rực rỡ nhất trong Nhị thập bát tú trên bầu trời. Ngôi sao này đến thành phố Kinh Châu (Jīngzhōu)  của người Việt vào lúc mà vua nhà Thương đang bố trí quân đội ở nơi nầy. Đây cũng là ý kiến ​​được chia sẻ với tác giả Việt Nam Vũ Quỳnh trong cuốn sách  Tân Đại Linh Nam Chích Quái.

Ở đây có bộ tộc Thi La Quỷ thời Hùng Vương thứ VI vào đánh nước ta nhân danh nhà Ân Thương.

Cuộc xung đột này có thể giải thích lý do chính tại sao vương quốc Văn Lang không thiết lập bất kỳ mối quan hệ thương mại nào với nhà Thương. Những khám phá về  các đồ vật bằng đồng ở Ninh Hương (Hồ Nam) vào những năm 1960 đã dẫn chứng rằng có thể đây là các chiến lợi phẩm được mang về trong cuộc viễn chinh ở phía nam Trung Quốc vì không có sự  giải thích nào cho sư hiên diên  bình rượu bằng đồng được trang trí với khuôn mặt hình người Melanesian cả. 

Trong truyền thuyết Việt Nam « Phù Đổng Thiên Vương », người ta ghi nhận  sự tẩu thoát và sự đánh bật quân đội của nhà Thương ở huyện Vũ Ninh cùng lúc với sự biến mất ngay lập tức của vị anh hùng ở trên trời của làng Phù Đổng. Cũng được  biết ở thời điểm cuộc xâm lược của nhà Thương có  sự xuất hiện tự phát mà không có sự chuẩn bị nào trước. Điều này cho thấy rõ rằng vị anh hùng nầy có mặt ở  đây khi lúc  nước bị xâm chiếm. Các vùng lãnh thổ bị nhà Thương chinh phục không thể được chiếm giữ lại hoàn toàn bởi người Lạc Việt bởi vì nếu không thì có thể nói rằng chúng bị đuổi khỏi ra lãnh thổ Văn Lang trong truyền thuyết. Đây là sự không có hoàn toàn bởi vì chúng ta lưu ý rằng với sự ra đời của nhà Châu, thì  thấy  trên một phần đất cũ của lãnh thổ Văn Lang, có xuất hiện các quốc gia chư hầu như nước Việt của Câu Tiển (Wu Yue) (Ngô Việt),  nước Sỡ vân vân…

Người ta  không biết vì lý do gì mà vương quốc Văn Lang  bị thu hẹp và do đó bị giới hạn ở miền Bắc Việt Nam ngày nay bằng cách nhìn lại các bản đồ địa lý được tìm thấy vào thời điểm Xuân Thu và Tần Thủy Hoàng. Tại sao Việt vương Câu Tiển quan tâm đến việc liên minh với  Văn Lang nếu  vương quốc nầy  bị giới hạn ở miền bắc Việt Nam ngày nay? Chúng ta có thể đưa ra lời giải thích về việc này như sau:

Vào thời điểm xâm lược Ân-Thương, một số bộ lạc trong số 15 bộ lạc của người Lạc Việt đã thành công trong việc đánh bại quân đội nhà Thương và tiếp tục thể hiện sự gắn bó và trung thành với vương quốc Văn Lang. Điều này không ngăn cản họ giữ quyền tự chủ và duy trì mức độ khá cao trong việc phát triển văn hóa và  xã hội . Điều này có thể đưa ra lời giải thích sau đó về sự xuất hiện của những  quốc gia độc lập nằm trên bản đồ địa lý ở thời nhà Tần (TầnThủy Hoàng) như Dạ Lang (Ye Lang), Ðiền Việt (Dian), Tây Âu (Si Ngeou) và sự thu hẹp lại đáng kể của vương quốc Văn Lang dẫn đến  tình trạng hiện tại (ở phía bắc Việt Nam).

Có thể Văn Lang bị thu hẹp  tái cấu trúc lại theo cách giống hệt với hình ảnh của nước Văn Lang được tìm thấy khi bắt đầu thành hình bởi vị vua cuối cùng Hùng Vương để nhắc nhở người dân Việt  về sự vĩ đại của vương quốc mình. Do đó, nhà vua đã giữ tên của 15 bộ lạc cổ xưa và đặt cho lãnh thổ bị thu hẹp nầy tên là Vũ Ninh để kỷ niệm sự thành công  hiển hách mà người Lạc Việt đạt được dưới triều đại Hùng Vương VI. Việt Trì có lẽ  là thủ đô cuối cùng của vương quốc Văn Lang. Chúng ta  ghi nhận một phần nào của sự hiện thực lịch sử trong truyền thuyết Việt Nam này bởi vì gần đây chúng ta phát hiện ra việc sử dụng sắt trong thời đại  nhà Thương. Sắt này có thể được thay thế bằng một kim loại khác như đồng mà không làm mất đi ý nghĩa thực sự trong nội dung của truyền thuyết. Nó chỉ được sử dụng để phản ánh sự can đảm và lòng dũng cảm mà chúng ta thích gán cho người anh hùng trên trời. Nếu được trích dẫn thì  không còn sự nghi ngờ nào nữa về việc phát hiện ra sắt và việc sử dụng nó rất sớm ở nước Văn Lang. Điều này cũng biện minh cho sự hợp nhất của truyền thuyết này với cuộc xung đột chống lại của vương quốc Văn Lang với nhà Thương. 

[Thời đại Hồng Bàng: Phần 2]


Tài liệu tham khảo

(1) Paul Pozner : Le problème  des chroniques vietnamiennes., origines et influences étrangères.  BEFO, année 1980, vol 67, no 67,  p 275-302
(2) Nguyên Nguyên: Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương 
(3)Jīngzhōu (Kinh Châu) : la capitale de vingt rois de Chu, au cours de la période  des Printemps et Automnes (Xuân Thu) (-771 — ~-481) 
(4) Yángzhōu (Dương Châu) 
(5) Léonard Rousseau: La première conquête chinoise des pays annamites (IIIe siècle avant notre ère). BEFO, année 1923, Vol 23, no 1.
(5) Edouard Chavannes :Mémoires historiques de Se-Ma Tsien de Chavannes, tome quatrième, page 170).
(6) Norman Jerry- Mei tsulin 1976 The Austro asiatic in south China : some lexical evidence, Monumenta Serica 32 :274-301
(7) Nguyễn Vũ Tuấn Anh: Thời Hùng vương qua truyền thuyết và huyền thoại. Nhà xuất bản văn hóa Thông Tin 1999

 

Văn Lang kingdom (Văn Lang)

French version

 

 

 In fact, Văn Lang referres the semi-legendary epoch of the eighteen Hùng kings or Lạc Vương (2879-257 B.C.) or 2622 years. It was the legend and the myth of the Dragon and the Immortal of whom Vietnamese are issue. This kingdom was located in the Yang Tse river basin (Sông Dương Tử) and was placed under the authority of a Hùng king . This one had been elected for his courage and his values. He had divided his kingdom into districts entrusted to his brothers known under the name « Lạc hầu » ( marquis ). His male children have the title of Quan Lang and his daughters that of Mỵ nương. His people was known under the name « Lạc Việt ». His men had a habit of tattooing their body. This « barbarian » practice, often revealed in the Chinese annals, was intended to protect men from the attacks of  water dragons (con thuồng luồng) if one believes the Vietnamese texts. It is perhaps the reason why the Chinese often designated them under the name « Qủi (daemons) ».

Loincloth and chignon constituted the usual costume of these people to which were added bronze ornaments. The Lac Viet lacquered their teeth in black, chewed betel nuts and crushed rice with their hand. The farmers practiced the cultivation of rice in flooded field. They lived in plains and coastal areas while,  in the mountainous areas of the current Việt Bắc and on part of the territory of the current Chinese province of Kuang Si,  lived the Tây Âu,  ancestors of the ethnic groups Tày, Nùng and Choang currently disseminated in the North Vietnam and in the South of China. At that epoch, the Vietnamese people lived on fishing and cultivation. They already knew how to use tree bark to make clothes, prepare rice alcohol, practice slash and burn agriculture, eat ordinary rice or sweet rice, live in houses on stilts to avoid wild animals etc… Many Vietnamese popular tales (the story of the Sweet Rice Cake, that of the Betel Quid and that of the Mountain and River Gods etc…) came  from these customs.

There is a part of reality in the history of this kingdom. The ruines of the Cổ Loa citadel (Spiral citadel) located  about 18km in the district Đồng Ánh from  Hànội and the temples of Hùng kings testifies to these indisputable vestiges with historians viewpoint.

 

Le mythe de Táo Quân (Chuyện ông Táo)

tao_quan

Version vietnamienne

Le mythe de Táo Quân

Le mythe des génies du foyer repose sur la tragique histoire d’un bûcheron et de sa femme. Il prend sa source dans le taoïsme. Ce couple modeste vivait heureux jusqu’au jour où  il découvrit qu’il ne pouvait pas avoir d’enfants. L’infortuné mari se mit à boire et à maltraiter sa femme. Celle-ci ne pouvant en supporter davantage le quitta et épousa un chasseur d’un village voisin. Mais un jour, fou de solitude et plein de remords, le bûcheron décida de rendre visite à sa femme pour lui présenter ses excuses.

Sur ces entrefaites, le chasseur rentra chez lui. Afin d’éviter tout malentendu, la jeune femme cacha son premier mari dans une étable au toit de chaume, située près de la cuisine où le chasseur était en train de fumer son gibier. Par malheur, une braise s’échappa du foyer et mit le feu à l’étable.

Affolée, la jeune femme s’élança vers l’étable en flammes pour sauver son ex-époux. Le chasseur la suivit pour lui porter secours et tous trois périrent dans le brasier. L’empereur de Jade (Ngọc hoàng), du haut de son trône céleste, profondément touché par ce triste sort, divinisa les trois malheureux et les chargea de veiller au bien-être des Vietnamiens  à l’emplacement avantageux de la cuisine. C’est ainsi qu’ils devinrent  dès lors les génies du Foyer.

Pendant la semaine où les génies sont au ciel, les Vietnamiens craignent que leur maison soit sans protection. Afin de prévenir toute incursion des mauvais esprits dans leur maison, ils érigent devant chez eux une  haute perche de bambou (cây nêu) sur laquelle sont suspendues des plaques en argile (ou khánh en vietnamien) vibrant avec sonorité au gré du vent pour éloigner les esprits. Au sommet de cette perche, flotte un morceau de tissu jaune marqué par l’emblème bouddhique.

Cette coutume trouve ses origines dans une légende bouddhique  intitulée « Le Tết du bûcheron » selon laquelle les  Vietnamiens doivent affronter des esprits maléfiques.

C’est toujours le vingt-troisième jour du dernier mois lunaire que chacun des  Vietnamiens organise une cérémonie de départ du génie de foyer  pour le ciel. On trouve non seulement sur son autel des fruits, des mets délicieux, des fleurs mais aussi un équipement de voyage approprié (3 paires de bottes, 3 chapeaux, vêtements, des papiers votifs) et des trois carpes mises dans une petite cuvette. À la fin de la cérémonie, on brûle les papiers votifs et on libère les carpes dans un étang ou dans une rivière afin que le génie puisse s’en servir pour s’envoler au ciel. Celui-ci doit rapporter tout ce qu’il a vu sur terre à l’empereur de jade, en particulier dans le foyer de chaque Vietnamien. Son séjour dure ainsi  six jours au ciel. Il doit retourner au foyer dans la nuit du réveillon jusqu’au moment où  débute la nouvelle année.

(*) cây nêu: C’est un arbre cosmique reliant la terre au ciel  en raison des croyances des peuples anciens adorant le soleil, y compris les Proto-Vietnamiens mais il  est employé également  pour délimiter leur territoire.

Version vietnamienne

Truyền thuyết về các Táo quân được  dựa trên câu chuyện bi thảm của một người thợ rừng và vợ của ông ta. Nó có nguồn gốc từ Lão giáo. Cặp vợ chồng khiêm tốn này được sống hạnh phúc cho đến khi họ phát hiện ra rằng họ không thể có con. Người chồng bất hạnh nầy mới  bắt đầu rượu chè và ngược đãi  bà vợ. Bà nầy không thể chịu đựng được nữa và rời bỏ ông ta và kết hôn với một người thợ săn ở làng bên cạnh. Nhưng một ngày nọ, cô đơn và hối hận, người thợ rừng quyết định đến thăm vợ để xin tạ lỗi.

Giữa lúc đó, người thợ săn trở về nhà. Để tránh mọi sự hiểu lầm, người phụ nữ trẻ buộc lòng giấu người chồng cũ của mình ở trong một chuồng gia súc có mái nhà bằng tranh, nằm gần nhà bếp nơi mà người thợ săn đang hun khói thịt rừng. Thật không may, một đóm lửa  than hồng thoát ra khỏi lò và đốt cháy chuồng.

Cùng quẫn, người phụ nữ trẻ lao mình về phía chuồng  đang bốc cháy để cứu chồng cũ. Người thợ săn chạy theo cô để giúp cô và cả ba đã chết trong ngọn lửa. Ngọc Hoàng, từ trên cao nhìn xuống, cảm động vô cùng trước số phận đau buồn này, phong thần cho ba người  và buộc họ phải trông chừng từ đây hạnh phúc của người dân Việt ở vị trí thuận lợi của nhà bếp. Bởi vậy họ trở thành các thần bếp núc từ đây của các gia đình người Việt.

Trong tuần lễ  các táo quân ở trên trời, người Việt lo sợ ngôi nhà của họ sẽ không được bảo vệ. Để ngăn chặn sự xâm nhập của tà ma vào nhà, họ dựng trước cửa nhà một cây nêu có treo những khánh đất phát tiếng động khi có gió rung. Trên đỉnh cột này  có treo một mảnh vải màu vàng có biểu tượng của Phật giáo.

Phong tục này bắt nguồn từ một truyền thuyết Phật giáo mang tên « Tết của người thợ rừng », theo đó người dân việt phải đối mặt với những linh hồn ma quỷ.

Cứ đến ngày hai mươi ba tháng Giêng âm lịch, mỗi người  dân Việt lại tổ chức lễ tiễn Táo quân  về trời. Không chỉ có  trái cây, thức ăn ngon, các bông hoa trên bàn thờ của Táo quân mà còn có đồ dùng cho cuộc hành trình thích hợp (3 đôi giầy, 3 cái mũ, 3  bộ đồ quần áo, vàng mã) và ba con cá chép được đặt trong một chiếc thau nhỏ. Sau khi kết thúc lễ cúng thì đốt vàng mã và thả cá chép xuống ao hay sông để Táo quân mượn cá chép bay về trời.  Táo quân phải báo cáo lại với Ngọc Hoàng tất cả những gì Táo quân được nhìn thấy ở trần gian, nhất là ở trong nhà của mỗi gia đình của người dân Việt. Thời gian lưu trú của Táo quân được  kéo dài là sáu ngày ở trên trời. Táo quân phải trở về nhà vào đêm giao thừa đúng lúc khi năm mới vừa bắt đầu.

(*) cây nêu:  cây vũ trụ nối liền đất với trời, do tín ngưỡng thờ thần mặt trời của các dân tộc cổ mà trong đó có người Việt cổ mà còn hàm chứa ý thức về lãnh thổ cư trú của họ.

The story of the mosquito (Chuyện con muỗi)

moustique

 

French version

Once upon a time in a faraway region of Vietnam, there was a young, brave and generous farmer of the name Ngọc Tâm. He had a wife of the name Nhan Diệp She was gracious and charming. Contrary to her husband who was thrifty and hard working, she was lazy and loved luxury. In spite of that, Ngoc Tâm loved his wife and forgave her for anything. Unfortunately, this union lasted only for a short time because his wife died brutally on a beautiful morning. Sinking into distress, Ngọc Tâm did not want to stay away from the corpse of his wife and opposed to her burial. After having sold all his assets, he embarked in a sampan with the casket and drifted with the current without having in mind any precise destination. One day, his sampan took him to the foot of a green and scented hill. Landing on ground, he discovered a landscape imprinted with the beauty of rare flowers and trees bearing varied fruits. During the time he continued his exploration, he suddenly met an old man with his long hair as white as his goatie beard.

From the old man emanated a great serenity and a surprising compassion, which allowed him to understand he had in front of him a God of Places. He threw himself down to the old man’s feet, then implore him to give back life to his wife. Feeling sorry for him, the God said: « I am going to grant your wish because your love and grief are sincere. But could you not regret it later on! ». Then he asked the peasant to open the casket, and cut the end of his finger and let three drops of blood fall on the body of his wife Nhan Diep. Right away, the latter opened her eyes as if she got out of a long lethargy.

Her forces returned very fast. Before leaving, the God told the woman: « Don’t forget your duties of a wife. Think of the love your husband brought to you and of his devotion. Be happy both of you. »

Hurrying to go back home, the peasant Ngọc Tâm tried to row days and nights. One evening, he had to land to buy groceries. During his absence, a big boat of a wealthy merchant drew up alonside his.

Hurrying to go back home, the peasant Ngọc Tâm tried to row days and nights. One evening, he had to land to buy groceries. During his absence, a big boat of a wealthy merchant drew up alonside his.

Caught by the beauty of Nhan Diệp, the merchant got into a conversation with her, ended up seducing her and taking her with him to a new destination. Upon his return, furious Ngọc Tâm decided to launch himself into the pursuit of the rich merchant. He succeeded in finding the latter after long months of search. He found his wife and proposed her to go back to him. Used to easy life, the latter refused to the proposal. Right then, the peasant recovered from his craze and told his wife:  » You are free to leave me. But you have to give back my three drops of blood that I poured on your body to revive you ».

Happy for getting rid of her stupid husband at a good deal, Nhan Diệp hurried to prick her finger. But at the time the blood began to flow, she tumbled down dead. This frivolous and light-hearted woman could not be resigned to leave this world definitively. She came back by transforming herself into a minuscule insect relentlessly pursuing Ngọc Tâm to steal from him the three drops of blood that brought her to human life.

This tiny creature is known later as the mosquito.

L’histoire de la moustique (Chuyện con muỗi)

moustique

English version

Il était une fois dans une région lointaine du Viêt-Nam un jeune paysan, brave et généreux de nom Ngọc Tâm. Il avait une femme de nom « Nhan Diệp ». Celle-ci était gracieuse et charmante. Contrairement à son mari qui était économe et laborieux, elle était paresseuse et aimait bien le luxe. Malgré cela, Ngọc Tâm aimait toujours  sa femme et lui pardonnait tout. Malheureusement, cette union ne fut que de courte durée car sa femme mourut brutalement un beau matin. Sombrant dans la détresse, Ngọc Tâm ne voulut pas se séparer du corps de sa femme et s’opposa à son ensevelissement. Après avoir vendu ses biens, il s’embarqua dans un sampan avec le cercueil et erra au gré du courant, n’ayant en tête aucune destination précise.

Un jour, son sampan l’amena au pied d’une colline verdoyante et parfumée. Descendu sur terre, il découvrit un paysage empreint de beauté avec des fleurs rares, des arbres chargés des fruits variés. Au moment où il continua son exploration, il rencontra soudain un vieillard aux longs cheveux blancs tout comme sa barbiche. Il se dégagea du vieil homme une grande sérénité et une miséricorde étonnante, ce qui lui permit de comprendre qu’il avait devant lui un génie des Lieux. Il se jeta à ses pieds, puis il l’implora de rendre la vie à sa femme.

Pris de pitié pour lui, le génie lui dit:  » Je vais exaucer tes vœux car ton amour et ta douleur sont sincères. Mais puissiez-vous ne pas trop le regretter plus tard ! ». Puis il demanda au paysan d’ouvrir le cercueil, de se couper le bout du doigt et de laisser tomber trois gouttes de sang sur le corps de sa femme Nhan Diệp. Aussitôt, celle-ci ouvrit les yeux comme si elle sortait d’une longue léthargie.

Ses forces revinrent très vite. Avant la séparation, le Génie s’adressa à sa femme: « N’oubliez pas vos devoirs d’épouse. Pensez à l’amour que votre époux vous porte et à son dévouement. Soyez heureux tous les deux. » Pressé de rentrer chez lui, le paysan Ngọc Tâm essaya de ramer des jours et des nuits. Un soir, il dut débarquer pour acheter des provisions. Durant son absence, le grand bateau d’un riche commerçant vint se placer à côté du sien. Séduit par la beauté de Nhan Diệp, le marchand engagea la conversation avec elle, finit par la séduire et l’emmena avec lui vers une nouvelle destination.

A son retour, Ngọc Tâm, furieux décida de se lancer à la poursuite du riche marchand. Il parvint à retrouver ce dernier après de longs mois de recherche. Il retrouva sa femme et proposa à cette dernière de le rejoindre. Habituée à la vie facile, celle-ci refusa cette proposition. Du coup le paysan fut guéri de son amour et dit à sa femme: << Tu es libre de me quitter. Mais tu dois me rendre les trois gouttes de sang que j’ai versées sur ton corps pour te ranimer >>.
Heureuse de se débarrasser à si bon compte de son stupide mari, Nhan Diệp s’empressa de se piquer le doigt. Mais au moment où le sang commença à couler, elle s’écroula morte. Cette femme frivole et légère ne put pas se résigner à quitter définitivement ce monde. Elle y revint en se transformant en moustique  (con muỗi) poursuivant sans relâche Ngọc Tâm pour lui voler les trois gouttes de sang permettant de la ramener à la vie humaine.

Cette bestiole est connue plus tard sous le nom de moustique. 

Vietnamese mother day (Lễ Vu Lan)

muckienlien

French version

Like the Europeans, Vietnamese people celebrate Mothers’ Day too. It is the Vu Lan festival on the 15th day of the 7th month of the lunar calendar.

Once upon a time there was a naughty lady of the name Thanh Ðề. She was without pity toward the poor and above all the beggars. She never gave alms and chased any beggars who showed up at the gate of her house. She did not hesitate to trample on the rice grains picked up by the poor peasants toiling all year long on their land. She made fun at buddhist priests and nuns by trying to disturb their quietness. She blasphemed Buddha, was in contempt of spirits and offered to pagodas foods mixed with meat ingredients.

Despite the advice of her son Mục Kiền Liên who was a bonze of high virtue, she hardly listened to him. At her death, she joined the Kingdom of the Deaths and had to pay for the faults she had committed in the living world: sitting on a nail studded bed, carrying on her head a bucket full of blood, staying hungry and thirsty as any food that was brought to her mouth melted into blood and turned into flame.

When Mục Kiền Liên became enlightened, he could go down to the Kingdom of the Deaths to see his mother. He witnessed the punishments she suffered. He could not do anything to change the course of justice by the heavenly decree nor could he substitute for his mother. He had to go and see Buddha and request grace from the latter. Buddha ordered him to arrange the Vu Lan ceremony on the 15th day of the 7th month of the lunar calendar, during which he could solicit the withdrawing of sentence for his mother with prayers and alms.

Vietnamese Mother day

Upon coming back to earth, really austere and fervent Mục Kiền Liên, when came the day, set up an altar in honor of Buddha while giving alms and ferforming ceremony. In the Kingdom of the Deaths, Thanh Ðề understood the sufferings as she had gone through hunger and thirst. The hardships that she encountered brought her little by little from her naughty nature to the knowledge of remorse.

Mục Kiền Liên’s piety reached the gate of Heaven. The Holy Father reviewed Thanh Ðề’s case, found that she had been able to repent and acqitted her. Muc Kien Lien was allowed to go down to hell to bring his mother back to life. From then on, Thanh Ðề honored Buddha with all her heart, respected buddhist priests, helped the poor. Inspired by this example, pious children according to Vietnamese customs, on the 15th day of the 7th month of the lunar calendar, set up an altar in memory of the dead and give alms to the poor.

L’histoire de Mục Kiền Liên (Lễ Vu Lan)

muckienlien

 

English version

Comme les Européens, les Vietnamiens ont aussi la fête des Mères. C’est la fête du Vu Lan au 15è jour du 7ème mois lunaire.
Il était une fois une dame méchante au nom de Thanh Ðề. Elle était impitoyable envers les pauvres et surtout envers les mendiants. Elle ne faisait jamais aumône et chassait tout mendiant qui se présentait au portail de sa maison. Elle n’hésitait pas à piétiner des grains de riz, recueillis par les pauvres paysans s’échinant à longueur d’année sur leurs terres. Elle se moquait des bonzes et des bonzesses en cherchant à rompre leur quiétude. Elle blasphémait Bouddha, méprisait les esprits et offrait à la pagode des victuailles de jeûne auxquelles elle avait mêlé des aliments carnés.
Malgré les conseils de son fils Mục Kiền Liên qui fut un bonze de haute vertu, elle ne l’écoutait guère. A sa mort, elle rejoignit le Royaume des Morts et dut payer ses fautes commises dans le monde des vivants: s’asseoir sur un lit à clous, porter sur la tête un seau rempli de sang, rester affamée et assoiffée car tout aliment qu’on lui mettait dans sa bouche se fondait en sang et se muait en flamme.

Lễ Vu Lan

Mục Kiền Liên, une fois l’illumination atteinte, put descendre dans le Royaume des Morts pour voir sa mère. Il fut témoin des châtiments qu’elle encourut. Il ne put rien pour changer le cours justicier du décret céleste et ne put pas non plus se substituer à sa mère. Il fut obligé d’aller voir Bouddha et demanda grâce à ce dernier. Celui-ci lui ordonna d’organiser au 15ème jour du 7ème mois lunaire, la cérémonie de Vu Lan, au cours de laquelle il pourrait solliciter la remise de peine pour sa mère avec les prières et l’aumône.

De retour sur terre, Mục Kiền Liên, le jour venu, dressa un autel en hommage à Bouddha tout en faisant aumône et cérémonie bien austère et fervente. Thanh Ðề, dans le Royaume des Morts, prit conscience de la souffrance comme elle fut sensible à la faim et à la soif. Les difficultés qu’elle rencontrait l’amenaient à se départir au fur et à mesure de sa nature méchante et à connaître le remords. La piété de Mục Kiền Liên remua la porte du Ciel. Le père céleste réexamina le cas de Thanh Ðề, constata qu’elle avait pu se repentir et l’acquitta. Il fut permis à Mục Kiền Liên de descendre dans l’enfer ramener sa mère à la vie.

Depuis lors, Thanh Ðề, de tout cœur, honora Bouddha, respecta les bonzes, secourut les pauvres.  En s’inspirant de cet exemple, les enfants pieux, selon la coutume vietnamienne, au 15ème jour du 7ème mois lunaire, érigent un autel à la mémoire des défunts et font aumône aux pauvres.

The mistake (Thiếu phụ Nam Xương)

French version

thieu_phu_nam_xuong

Long time ago, there was a couple who lived in perfect happiness. They just had a baby when the war broke out. The husband was drafted and sent to combat at the frontiers. Days and nights, his wife was waiting for the return of her husband by pulling all her energy in the presence of her child. The child grew and began to speak. On an evening, a violent storm broke out. The thunder was rumbling so deafeningly shaking windows and doors. Seized by panic, the child started screaming. To calm him, his mother told him his father was there to protect him. She had the idea of showing her shadow on the wall and told him: « Don’t be afraid, your father is there. » The child look at the shadow and said to it: « Good evening, Daddy ». Reassured, the child went to sleep. From that day on, the child had the habit of claiming his father and said « Good evening » to him before going to bed, which required the woman to lean every night before the lamp to create her shadow.

Finally the war ended. The husband came home. The man discovered with tenderness and emotion the child he had left when he was still a baby. Instead of hugging his father, the child pushed him out with virulence: « Leave me alone, you’re not my father. My Dad only comes at night ». The husband, overwhelmed with grief and hurt in his pride, thought that his wife deceived him for another man and decided not to inquire further. From then on he kept a very frigid and distant attitude without taking care of either the child or his wife who continued to show him their love. The misunderstanding incited the man to depart one day without leaving any address.cierge

Time passed, the worried wife asked herself questions on the attitude of her husband and continued to wait for his return. Unfortunately, sorrow and despair took over the young woman on a beautiful day. She decided to put an end to her days by drowning herself in the river after having entrusted her child to the care of his kins.

Having learned of the death of his wife and taken by remorse, the man went back home. In the evening, when he lit the lamp, his son happy to see his shadow appear on the wall, yelled: There, my Daddy ». The man then knew his terrible misunderstanding. The next day, he took his son to the riverside to implore forgiveness from his wife. The man promised to himself to stay single until the end of his life to take care of the child and that no other women would replace her in his heart.

Thiếu phụ Nam Xương

La méprise (Thiếu phụ Nam Xương)

Version vietnamienne

thieu_phu_nam_xuong

 

cierge

Autrefois, il y avait un couple vivant dans un bonheur parfait. Il venait d’avoir un bébé lorsque la guerre éclata contre le Champa. Le mari fût enrôlé et envoyé combattre aux frontières. Jour et nuit, elle attendait le retour de son mari en puisant toute sa force dans l’occupation  de son enfant. Celui-ci grandissait et commençait à parler. Un soir, un violent orage éclata. Le tonnerre était tellement assourdissant et faisait trembler les fenêtres et les portes. Pris de panique, l’enfant se mit à hurler. Pour le calmer, sa mère lui dit que son père était là et le protégeait. Elle eut l’idée de montrer son ombre sur le mur en lui disant: « N’aie pas peur, voilà ton père ». L’enfant regarda l’ombre et lui dit  » Bonsoir, papa ». Rassuré, l’enfant s’endormit. Depuis ce jour, l’enfant eut l’habitude de réclamer son père et de dire à ce dernier  » Bonsoir  » avant son coucher, ce qui obligea la femme à se pencher tous les soirs devant la lampe pour créer son ombre.

La guerre se termina enfin. Le mari revint à la maison. L’homme découvrit avec tendresse et émotion l’enfant qu’il avait quitté quand il était encore bébé. Au lieu d’embrasser son père, l’enfant le repoussa avec virulence: « Laissez-moi tranquille, vous n’êtes pas mon père. Celui-ci ne vient que la nuit. Le mari, assommé de douleur et blessé dans son amour propre, crut que sa femme le trompait avec un autre homme et décida de ne pas l’interroger. Il se montra dès lors très froid et distant sans se préoccuper ni de l’enfant ni de sa femme qui continuait à lui témoigner son amour. L’incompréhension incita l’homme à s’en aller un beau jour sans laisser aucune adresse.

Les jours passèrent, la femme inquiète, se posait des questions sur l’attitude de son mari et continuait à attendre son retour. Malheureusement, la tristesse et le désespoir s’emparèrent un beau jour de cette jeune femme. Elle décida de mettre fin à ses jours en se noyant dans la rivière après avoir confié son enfant à ses proches.

Ayant appris la mort de sa femme et pris de remords, l’homme revint à la maison. Le soir, lorsqu’il alluma la lampe, son fils content de voir apparaître son ombre sur le mur, s’écria: « Voilà mon papa ». L’homme comprit alors sa terrible méprise. Le lendemain, il emmena son fils au bord de la rivière pour implorer le pardon de sa femme. L’homme lui promit de rester seul jusqu’à la fin de sa vie pour s’occuper de l’enfant et qu’aucune autre femme ne la remplacerait dans son cœur. 

Cette histoire est le seizième conte du vaste recueil de légendes merveilleuses de l’écrivain Nguyễn Dữ qui vécut au XVIème siècle dans une période assez troublée de l’histoire du Vietnam. C’est l’histoire de la femme connue sous le nom de Vũ Nương vivant à Nam Xư ơng dans la province de Hà Nam au nord du Vietnam.

Nguời thiếu phụ Nam Xương

Ngày xưa, có một cặp vợ chồng sống trong hạnh phúc viên mãn. Họ mới  vừa có một đứa con sinh ra khi chiến tranh bùng nổ với Chiêm Thành. Người chồng  phải nhập ngũ và được gửi đi chiến đấu ở nơi biên thùy. Ngày đêm, người vợ chờ đợi sự trở về của chồng, dốc hết sức lực  nuôi con. Cháu bé nầy đã lớn dần và bắt đầu biết nói. Một buổi tối, một cơn giông  tố dữ dội đã xảy ra. Sấm sét vang lên ầm ỹ chói tai và làm cho các cửa sổ và cửa nhà rung chuyển. Hoảng sợ, đứa trẻ bắt đầu la hét. Để trấn an con, người mẹ mới bảo con rằng cha của nó đã có ở đó và bảo vệ nó. Nàng  có ý tưởng chỉ bóng của mình lên tường nói: « Đừng sợ, bố của con đây ». Đứa trẻ nhìn vào cái bóng và nói « Chào bố ». Yên tâm, đứa trẻ ngủ thiếp đi. Kể từ ngày đó, đứa trẻ có thói quen đòi bố và nói  « Chào bố » trước khi đi ngủ, việc này buộc người phụ nữ phải nghiêng mình trước ngọn đèn mỗi tối để tạo bóng của mình cho con.

Cuộc chiến cuối cùng cũng được kết thúc. Người chồng trở về. Anh nầy  khám phá ra con và xúc động với sự dịu dàng mà anh ta đã bỏ ra đi khi nó còn bé. Thay vì ôm cha, đứa trẻ đẩy anh ra một cách mãnh liệt: « Để con yên, bố không phải là bố của con. Người này chỉ đến với con vào buổi tối. Người chồng choáng váng đau đớn và tổn thương ở bản thân, tưởng vợ lừa dối mình với một người đàn ông khác và nhất quyết không hỏi han về chuyện nầy. Từ đó  anh ta rất cư xử lạnh lùng, xa cách không lo lắng cho vợ con mặc dù nàng vẫn tiếp tục thể hiện tình yêu của mình với chồng. Sự  hiểu lầm nầy khiến anh ra đi một hôm  mà không để lại địa chỉ nào cả.

Ngày tháng trôi qua, người phụ nữ lo lắng thắc mắc về thái độ của chồng và tiếp tục chờ ngày trở về của chồng. Thật không may, nỗi buồn và tuyệt vọng đã đến với người phụ nữ trẻ này một hôm. Nàng quyết định tự kết liễu đời mình bằng cách trầm mình xuống sông sau khi giao con cho người thân giữ dùm.

Sau khi biết tin vợ qua đời và cảm thấy hối hận, người đàn ông này đã trở về nhà. Buổi tối lại, khi anh thắp đèn lên, cậu con trai vui mừng kêu lên khi thấy bóng của anh hiện lên trên tường: “Bố ơi, con đây rồi”. Người đàn ông sau đó mới hiểu ra sự sai lầm khủng khiếp của mình. Ngày hôm sau, anh ta đưa con trai ra bờ sông để cầu xin vợ tha thứ. Anh ta hứa sẽ ở một mình đến cuối đời để chăm sóc con và sẽ không có người phụ nữ nào khác thay thế nàng trong trái tim của anh ta.

Chuyện người con gái Nam Xương nầy nằm trong thiên thứ 16 của tác phẩm Truyền kì mạn lục, được sáng tác bởi nhà văn Nguyễn Dữ sống ở thế kỷ 16 trong thời kỳ khó khăn của đất nước. Chuyện kể về cuộc đời của nhân vật Vũ Nương. Vũ Nương tên thật là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, tỉnh Hà Nam, miền bắc  Việt Nam.

 

The Waiting Rock (Hòn Vọng Phu)

honvongphu

 

French version

This mountain, known as  » Núi Vọng Phu » (The Mountain of the Woman who is waiting for her husband) is located not far from Lạng Sơn, quite close to the Sino-Vietnamese border. At the top of the mountain is a rock bearing the shape of a standing woman holding her child in her arms. This resemblance is striking when the sun sets on the horizon. The tale of this mountain is so touching it becomes thus one of the legends preferred by Vietnamese and gives so much inspiration to Vietnamese poets, in particular composer Lê Thương through his three songs Hòn Vọng Phu I, II and III presented here in format mp3.

 

Long time ago, in a village on the highland region, lived two orphans, one was a young man about twenty years old, the other was his seven years old sister. Because they were alone in this world, they were all one for the other. On a beautiful day, a traveling astrologer told the young man when he consulted him on their future:

<< If I’m not mistaken, you will fatally marry your sister with all your days and hours of your births. Nothing could turn the course of your destiny >>.
Tormented by this terrible prediction, he decided to kill his sister on a beautiful morning when he suggested to take her to the forest to cut wood. Taking advantage of his sister’s inattention, he felled her with a stroke of ax and fled. He decided to change his name and resettled in Lang Son. Many years went by. On a beautiful day he married a merchant’s daughter who gave him a son and made him happy.

On a beautiful morning, he found his wife sitting in the back yard drying her long black hair under the sunshine. At the time when she glided the comb on her hair that she lifted with her other hand, he discovered a long scar above the back of her neck. Surprised, he asked her for its cause. Hesitating, she began to tell the story crying:

<< I am only the adoptive daughter of the merchant. Orphaned, I lived with my brother who, fifteen years ago for unknown reasons, injured me with a blow of an ax and abandoned me in the forest. I was rescued by the robbers who sold me to this merchant who had just lost his daughter and who was sorry for my situation. I don’t know what happened to my brother and it is hard for me to explain his insensitive act. However we love each other so much.>>

The husband overcame his emotion and asked his wife for information concerning her father’s and brother’s names and her native village. Taken by remorse while keeping for himself the frightening secret, he was ashamed and horrified himself. He tries to stay away from his wife and his son by taking advantage of the military draft to enroll in the army and hoping to find the delivery on the battleground.

From the day of his departure, in ignorance of the truth, his wife waited for him with patience and resignation. Every evening, she took her son in her arms and climbed up the mountain looking out for the return of her husband. She made the same gesture for entire years.

On a beautiful day, reaching the top of the mountain, exhausted and stayed standing, her eyes fixed to the horizon, she was changed into rock and immobile in her eternal wait.