Tại sao Việt Nam ta không bị đồng hóa?

Tại sao Việt Nam ta không bị đồng hóa?

Version française 

Rất hiếm có trong lịch sử loài người  một nước như Việt Nam chúng ta bị thống trị bởi người Hoa có một ngàn năm mà không bị đồng hóa. Làm thế nào một dân tộc chỉ có  mãnh đất « Đồng Bằng Bắc Bộ » không bị chinh phục bởi một đế chế rộng lớn  “Trung Quốc” cai quản một lãnh thổ  ngày nay tương đương  với Âu Châu?  Chúng ta cần tìm hiểu những lý lẽ  nào ông cha ta đã thành công trong việc thoát khỏi sự thống trị và dành lại độc lập chớ theo nhà Hán học Christine Nguyen Tri  [1], giảng viên của trường INALCO (Paris)  thì Trung Quốc là một ma trận kì ảo: nó thu hút các lãnh thổ xung quanh và cư dân. Những người nầy từ lúc bước vào ma trận thì vĩnh viễn ở mãi mãi trong đó. 

Dù có xâm chiếm  và cai trị được Trung Hoa một thời như các dân tộc hiếu chiến  Nữ Chân (nhà Liêu), Mông Cổ (nhà Nguyên) hay Mãn Châu (nhà Thanh) rồi cũng bị đồng hóa bởi người Hán.  Còn ta có gì  để thoát khỏi được sự Hán hóa nhất là dân tộc ta thường được xem kém cỏi về dân số chỉ vỏn vẹn một triệu người so với dân số thời vua Hán Vũ Đế (50 triệu) chưa kể nói đến lễ nghĩa còn phải học với sách vở của Khổng Phu Tử, còn  lại không biết cày cấy cần nhờ các  thái thú  Cửu Chân thời nhà Tây Hán Tích Quan (Si Kouang) và Nhâm Diên (Ren Yan) dạy dân khai khẩn ruộng đất, hàng năm cày trồng để  cho trăm họ no đủ trong  Hậu Hán Thư.  Thời đó những bộ tộc sống bên ngoài nền văn minh Trung Quốc như Yi, Rong, Di, Man thì được viết với bộ thủ của một con vật để nói lên sự khinh khi và miệt thị. Như vậy những dân tộc Nữ Chân, Mông Cổ hay Mãn Châu dù có sức mạnh lúc đó  để thống trị nước Trung Hoa nhưng văn hóa họ kém nên bị đồng hóa.

Còn ta không bị đồng hóa tức là phải có  một văn hóa  tương đương với nền văn hoá của họ. Điều nầy đã được rõ từ khi có  các cuộc nghiên cứu di truyền trong thời gian qua.  Với nghiên cứu của Huang et al. 2020 [2] thì cho thấy  người Việt cổ là hậu duệ của văn hóa Đồng Sơn  vì các mẫu di truyền cổ của văn hóa Đông Sơn là của người Việt hiện đại trùng lặp với nhau. Đây cũng là  một  văn hoá độc lập cuối cùng trước khi nước ta mất  quyền tự chủ và bị rơi vào thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc. Chính nó là văn hóa thừa kế  từ văn hóa Phùng Nguyên và các văn hóa ở  vùng hạ và trung lưu của  sông Dương Tử  (Lương Chử và Thạch Gia Hà) tức là văn hóa trồng lúa nước mà nhà khảo cổ Pháp Madeleine Colani khám phá ra được ở  làng Hoà Bình (Việt Nam) vào năm 1922 và cho nó với cái tên Hòa Bình. Văn hóa nầy cách ngày nay 15.000 năm, kéo dài cho đến 2.000 năm trước Công Nguyên ở Đông Nam Á.

Theo tác giả Lang Linh[4] ý thức Việt có thể nói là cốt lõi của người Việt, đó chính là ý thức dân tộc, bắt đầu xuất hiện từ thời văn hóa Lương Chử ở  hạ lưu sông Dương Tử, tiếp tục được tộc Việt sử dụng và kế thừa  khoảng chừng 3000 năm  trước Công Nguyên và bị thất bại về sau  trong những cuộc chiến chống xâm lược của các triều đại Sở – Tần – Hán. Văn hóa Lương Chử  là văn hóa đầu tiên hình thành nên cộng đồng tộc Việt, mà trong đó, người Việt thuộc ngữ hệ Nam Á [5] ngày nay đóng một vai trò rất quan trọng. Tên Việt được hình thành từ hình chiếc rìu rồi sau đó đến  thủ lĩnh cầm rìu  với ý nghĩa đại diện tộc Việt trong  nghi lễ [6]. Đến thời kỳ văn hóa Thạch Gia Hà ở vùng trung lưu Dương Tử thì thấy hình ảnh thủ lĩnh đội mũ lông chim cầm rìu và sau đó hình ảnh thủ lĩnh cầm rìu xuất hiện rất phổ biến trên các trống đồng Đồng Sơn khoảng chừng 500 năm trước Công nguyên.

Văn hóa Thạch Gia Hà  nằm ở trong địa bàn của nước Sở. Qua sự mô tả địa lý trong truyền thuyết thì được biết nước Văn Lang thời đó đóng đô ở Phong Châu, có đất đai rộng lớn giáp ranh bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba Thục (Tứ Xuyên). Theo nhà Hán học Pháp Léonard Aurousseau, Văn Lang  nằm trong địa bàn của nước Sở gồm có hai tỉnh Hồ  Bắc (Hubei) và Hồ  Nam (Hunan)  thời Xuân Thu. Cư dân nước Sở thời đó có thói xăm  mình, ưa ở trong nước, cắt tóc để tựa  giống các cá sấu con tránh sự  tấn công của các con sấu lớn theo lời tường thuật của Tư Mã Thiên trong sử ký mà được  nhà khảo cổ Pháp Edouard Chavannes [7] dịch lại (ibid 216).

Hơn nữa theo Léonard Aurousseau, các lãnh tụ của người Việt cổ và nước Sở đều có tên thị tộc chung là Mị (hay tiếng dê  con kêu trong tiếng Hán-Nôm)  như vậy họ cùng chung  tổ tiên. Theo Léonard Aurousseau [8], ở thế kỷ IX trước Công Nguyên, một nhóm người của lãnh chúa phong kiến nước  Sở có tên thị tộc Mị  di cư dọc theo sông Dương tử và xâm  chiếm vùng đất phì nhiêu ở Chiết Giang lập nên một vương quốc Việt chỉ được nói đến  trong biên niên sử Trung Hoa ở  vào thế thế kỷ VI trước Công Nguyên (ibid 261).Tại sao có cuộc di cư diễn ra như vậy ? Điều nầy Léonard Aurousseau  không giải thích nhưng theo tác giả Lang Linh thì vua nước Sở không còn phải là ngưòi Việt mà là người Hoa được nhà Châu phong chức sau khi diệt được nhà Thương ở đất của đại tộc Bách Việt. Chính vì vậy có cuộc di cư dẫn đến sự thành hình nước Việt của Câu Tiễn ở cuối thời Xuân Thu  ở bắc Chiết Giang mà trước đó  không nghe nói đến trong sử Trung Hoa. Tại sao Léonard Aurousseau khẳng định tổ tiên của chúng ta cùng  một gốc với nguời Việt của vương quốc Câu Tiễn? Trong sử sách của ta lúc nào cũng dùng bộ thủ Việt để chỉ  định người Việt, nước Việt chúng ta còn trong sử ký Trung Hoa cũng dùng bộ thủ nầy để nói đến vương quốc của Câu Tiễn.

Cũng theo Léonnard Aurousseau thì  ngoài tên Lo Yue (Lạc Việt)  dưới thời  nhà Châu, Si ngeou (Tây Âu) hay Ngeou-Lo (Âu Lạc) dưới nhà Tần, tổ tiên của dân tộc ta cùng gốc với dân tộc Việt của Câu Tiễn  ở vùng Ôn Châu (Chiết Giang).  Trước  hết cả hai dân tộc đều có cùng một nhánh Ngeou  chung trong tộc Việt. Dân tộc ta thi được gọi là  Si Ngeou (tộc Việt ở phương Tây)  còn dân tộc ở Ôn Châu, Chiết Giang  (Wen-tcheou, Tchô-kiang) thì Tong Ngeou (tộc Việt ở phương Đông). Nhánh Ngeou trong tộc Việt rất quan trọng để nói lên mối họ hàng thân thiết, từ nhánh đó họ xuất thân. Sau đó ông còn chứng  minh rằng hai tộc Việt  nhánh Ngeou nầy có những tập tục giống nhau như cắt tóc, xăm mình, khoanh tay, gài vạt áo bên tay trái vân vân (ibid 248)  Tập tục khoanh tay hay thường thấy ở người Việt chúng ta để bày tỏ sự kính trọng chớ không có trong nghi lễ của người Hoa.

Dựa trên các luận điểm trên, Léonard Aurousseau khẳng định tổ tiên của ta cùng cư dân của vương quốc Việt của Câu Tiễn cùng chung một thị tộc. Nước Việt của Câu Tiển bị thôn tính bởi nước Sở vào  năm 333 TCN  (trước  Công Nguyên) và sau đó nước Tần diệt Sở,  thống nhất Trung Hoa thì có một cuộc di tản  trọng đại của các tộc Việt trong đó  có cả tổ  tiên  của chúng ta (người Kinh) quay trở  về  Đông Nam Á bằng cách đi vòng theo các ngọn núi ở  ven bờ biển Đông từ Thái Châu (Chiết Giang)  để  về cư trú ở  Quảng Đông,  Quảng Tây và châu thổ sông Hồng.

Theo sử ký thì có sự thành hình nhiều tiểu quốc tộc Việt dọc theo bờ biển Đông trong cuộc di tản nầy nên mới gọi là Bách Việt rồi từ từ các tiểu quốc nầy thôn tính lẫn nhau để thành hình các nước lớn trong đó có nước Mân Việt, Đông Âu, Tây Âu, Âu Lạc của An Dương Vương (Thục Phán) và Nam Việt của tướng Triệu Đà nhà Tần. Nói tóm lại chỉ có Quảng Đông, Quảng Tây và châu thổ sông Hồng  là  nơi mà các tộc Việt ngữ hệ Nam Á cùng gốc với tổ tiên  của chúng ta cư ngụ dựa theo  các tâp quán và các cuộc  khảo  cứu di truyền và ngôn ngữ  còn các  tộc  Việt khác bị Trung Quốc đồng  hóa. Bởi vậy khi có cuộc nổi dậy của hai Bà Trưng dưới thời nhà Tây Hán thì hai bà rất  thành công trong việc chiếm được khoảng thời gian đầu 65 thành trì từ Lưỡng Việt (Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay) đến Mũi nậy được 9 quận: Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô, Giao Chỉ,  Cửu Chân và Nhật Nam. Chính cũng các nơi nầy còn tìm thấy về sau các trống đồng mà  Trung quốc nói là thuộc về họ.

Sự việc nầy nói  lên các vùng nầy có một thời thuộc về tộc Việt chúng ta. Theo Leonard Aurousseau  thì cư dân ở châu thổ sông Hồng thời đó tức là thời Hùng Vương gồm có Việt tộc (người Kinh và người Mường), người Tày-Thái-Nùng và người  bản xứ gốc Nam Đảo. Chính nhóm gốc Nam Đảo nổi loạn về sau lập nước Lâm Ấp (Lin Yi) ở thế kỷ thứ 2 SCN  (sau Công Nguyên). Chính trong nhóm Tày-Thái –Nùng có một người Tày tên là Thục Phán (Cao Bằng)  lập ra nước Âu Lạc thay thế họ Hồng Bàng. Vương quốc của Thục Phán hay An Dương Vương chỉ có tồn tại 50 năm bị Triệu Đà tướng nhà Tần diệt lâp nên nước Nam Việt vào năm 207 TCN. Trong thời gian ông cai trị nước Nam Việt, ông dùng chính sách « hoà tập Bách Việt » nhằm thống nhất các bộ tộc Bách Việt và chính sách « Hoa – Việt dung hợp » nhằm đồng hoá  người Hoa ở Lĩnh Nam và ở lãnh thổ nước Nam Việt.

Chính sách nầy  làm các  tộc Việt qui thuận và được xem như là vua nước Việt trong sử sách Việt dưới thời phong kiến chớ ông không phải là đại diện tộc Việt với các sử gia hiện nay. Chính nhờ triều đại mà ông thành lâp có được gần một trăm năm, Việt tộc  của chúng ta  mới  có thời gian thuận lợi để định cư vĩnh viễn ở châu thổ sông Hồng. Họ không bị cuốn  hút bởi khối người Hán tộc và còn tồn tại lại sau mười một thế kỷ thống trị gần như không bị gián đoạn.

Dân tộc ta rất coi trọng việc trồng lúa nước. Từ ngàn xưa, dân ta  khai khẩn trồng lúa nhờ xem thủy triều lên xuống mà thu hoạch được hai lần một năm từ đất. Dân tộc ta rất gắn bó mật thiết với  Đất và Nước, hai nguyên liệu cần thiết trong việc trồng lúa. Vì vậy tổ tiên ta mới dùng hai chữ Đất Nước để ám chỉ Nước, nơi mà họ sinh ra và có liên kết tình cảm sâu sắc với làng mạt. Chính đây cũng là cái nôi của dân tộc Việt, nơi gìn giữ tất cả tập quán và truyền thuyết được phổ biến ở  các đền thờ cúng  tổ tiên mà cũng là nơi bất khả xâm phạm được dưới thời thống trị của người phương Bắc. Phần lớn các làng Việt là của nông dân nên đều có đình, nơi thờ các thành hoàng và những người có công với làng. Các làng Việt được có những đặc quyền bên cạnh quyền lực tuyệt đối của kẻ xâm lăng và có cấu kết cộng động rất chặt chẽ như một đại gia đình. Người nông dân có quyền nói tiếng mẹ đẻ không cần học viết chữ Hán vì đâu có tiếp cận thường ngày với  người Hán chỉ nhờ đến các hương chức ở trong làng. Còn nếu có học chữ Hán thì chỉ  có giới tinh hoa học cần  hiểu văn bản kinh thư tiếng Hán để thi cử còn nói thì vẫn dùng âm Hán Việt. Như vậy hoàn toàn không thể biến tiếng Việt thành một phương ngữ của Hán ngữ vì ta vẫn hoàn toàn nói và nghe bằng tiếng mẹ đẻ dù viết chữ Hán. Nhờ đó việc Hán hóa về ngôn ngữ trở thành vô dụng vì theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hải Hoành [7], tiếng ta còn thì nước ta còn. Ông cha ta  đã sớm nghĩ tới việc mượn thứ chữ này làm chữ viết cho dân tộc ta từ thời Sĩ Nhiếp. Mỗi chữ Hán đều  có một âm tiếng Hán, muốn học chữ Hán tất phải đọc được âm của nó. Mỗi chữ Hán đều được đặt cho một (hoặc vài) cái tên tiếng Việt xác định, gọi là từ Hán-Việt.Thứ chữ Hán đọc bằng âm Hán-Việt này được dân ta gọi là chữ Nho. Chỉ cần học mặt chữ, nghĩa chữ và cách viết văn chữ Hán mà không cần học phát âm cũng như học nghe/nói tiếng Hán.

Theo nhà nghiên cứu Pháp  Bernard Philippe Groslier (CNRS) [9], làng Việt  xem như là một tế bào được nuôi dưởng  trong mỗi lô đất của đồng bằng phù hợp với phương pháp canh tác mà nó còn là một hộ gia đình độc lập về chính trị và đồng nhất về mặt xã hội khiến nó trở thành một công cụ hiệu quả chống ngoại xâm và bành trướng lãnh thổ. Như vậy làng  ta  có sức sống mãnh liệt mà cũng là sức mạnh cho sự bành trướng không thể tưởng tượng trong cuộc hành trình về phương nam. (Chiêm Thành và Chân Lập).

Chính nhà Đông Phương học Pháp Paul Mus [10] cũng đã nhận thấy ra điều nầy nên ông  mới viết như sau: Việt Nam là xã  hội làng mạc. Làng là « yếu tố cơ bản » vì nó đã « xây dựng » quốc gia  Việt Nam (ibid.: 329). Làng là « thành trì của cuộc kháng chiến thắng lợi chống Trung Quốc » (ibid.: 279) và rộng hơn, nó là lò nung đốt  của « tính không phân nhường quốc gia » để chống lại « các  cuộc  chia rẻ và chinh phục » (ibid.: 19). Người Hán chỉ nắm quyền đến cấp huyện còn làng xã ta do người Việt đứng đầu quản lý. Có lẽ người Hán quá tự tin họ nhất là họ đồng hóa dễ dàng dân Bách Việt  phía Nam sông Dương Tử nên họ nghĩ có thể đồng hóa tổ tiên của chúng ta (Âu Lạc) như vậy. Chắc hẳn người Hán  dựa lên câu nói của nhà triết gia Mạnh Tử của họ  như sau: Tôi đã nghe nói về những người  sử dụng học thuyết của đất nước chúng ta để thay đổi những kẻ man rợ, nhưng tôi chưa bao giờ nghe nói về những người chúng ta bị những kẻ man rợ thay đổi. Chính vì họ không thấu hiểu người Việt chúng ta nên mới có  sự khinh khi miệt thị. Có một thời họ còn gọi dân ta là những người đi chân trần chớ đâu có biết rất tiện leo cây và suốt ngày tay lấm chân bùn trong nước cho việc trồng lúa. Họ quên rằng dân tộc ta xuất thân từ hạ lưu sông Dương Tử  với văn hóa Lương Chử, một văn hóa tương đương  với văn hóa họ có 3000 năm TCN di tản chịu nhiều  gian khổ để định cư cuối cùng ở đồng bằng sông Hồng  qua nhiều thế kỷ. Họ quên rằng dân tộc ta là dân tộc có sức sống mãnh liệt và một tộc còn lại duy nhất gồm tựu lại tất cả thành phần ưu tú của các tộc Việt trong đại tộc Bách Việt không bị họ Hán hóa và không  chịu qui phục trước bạo lực dù bị họ thống trị suốt một ngàn năm. Họ quên rằng dân tộc ta thà mất đất chớ lúc nào cũng muốn thoát  ảnh hưởng họ nên trong bộ thủ « Việt » của tự  điển Hán-Nôm về sau  có thêm ý  nghĩa « thoát » và dùng chử Hán để phổ biến tiếng nôm của ta một cách tuyệt vời. Họ quên rằng làng xã của dân ta là một thành trì kiên cố bất khả xâm phạm không những để chống họ mà còn là một công cụ bành trướng  hữu hiệu trong cuộc hành trình về phương nam.  Làm sao có thể không hiểu  thâm ý  của họ  một khi  thông hiểu  tường  tận binh thư Tôn Tử của họ trong suốt thời gian bị đô hộ.

Lấy lại câu nói kết luận của Léonard Aurousseau, sau hai mươi hai thế kỷ đấu tranh, người dân Việt  dừng lại, nhận thức  mình đã  tôn vinh  những nỗ lực ban đầu của tổ tiên từ bờ biển Đông và đã mãn nguyện có được môt quê hương dường như điều mong  muốn nó phù hợp với  trí tuệ của giống nòi.   

Il est très rare dans l’histoire de l’humanité qu’un pays comme le Vietnam ait été dominé par les Chinois pendant mille ans sans être assimilé. Comment une nation ne possédant qu’une portion de territoire appelée « Delta du Tonkin » aurait- elle pu ne pas être conquise par un vaste empire appelé  la « Chine » qui régnait sur un territoire aujourd’hui équivalent à l’Europe ? Il est nécessaire de comprendre les raisons qui ont poussé nos ancêtres à échapper à la domination et à retrouver leur indépendance, car selon la sinologue Christine Nguyen Tri [1], maître de conférences à l’INALCO (Paris), la Chine est une matrice magique : elle attire les territoires et leurs habitants. Ces derniers, dès leur entrée dans la matrice, y demeurent à jamais.

Bien qu’ils aient réussi à  envahir et gouverner  la Chine durant une période comparable à celle des guerriers Jurchen (dynastie Liao), des Mongols (dynastie Yuan) ou des Mandchous (dynastie Qing), ils étaient  néanmoins  assimilés  par les Han. Comment  pouvons-nous faire pour échapper à la sinisation, surtout quand notre peuple est souvent considéré comme inférieur, seulement un million d’habitants comparés à la population de l’empereur Wu Di des Han (50 millions) en termes de population, sans compter que nous devons encore apprendre les bonnes manières  dans les livres de Confucius, et que nous ne savons ni labourer ni cultiver les champs de riz? Nous avons donc besoin de l’aide des préfets de Cửu Chân sous la dynastie des Han occidentaux, Si Kouang et Ren Yan, qui ont appris à notre population à mettre en valeur  la terre, à la labourer et à la cultiver chaque année pour subvenir aux besoins de la population selon  le Livre des Han postérieurs. À cette époque, les tribus vivant en dehors de la civilisation chinoise, comme les Yi, Rong, Di et Man, étaient désignées par les Han à l’aide du radical d’un animal pour exprimer leur mépris et leur dédain. Ainsi, les Jurchens, les Mongols  et les  Mandchous, malgré leur pouvoir de dominer la Chine à cette époque, avaient une culture inférieure et ils étaient donc assimilés.

 Si nous ne sommes pas assimilés, nous devons avoir une culture équivalente à la leur. Cela est clairement apparu depuis des études génétiques récentes. Selon les recherches de Huang et al. 2020 [2], il est démontré que les anciens Vietnamiens sont les descendants de la culture Dong Son, car les anciens échantillons génétiques de cette culture sont ceux du peuple vietnamien moderne. Il s’agit également de la dernière culture indépendante avant que notre pays perde son autonomie et  tombe dans une période de 1 000 ans sous la domination chinoise. Il s’agit de la culture héritée de la culture de Phùng Nguyên et des cultures des cours inférieur et moyen du fleuve Yangtsé (Lianzhu et Shijiahé), c’est-à-dire la culture du riz inondé que l’archéologue française Madeleine Colani a découverte dans le village de Hoa Bình (Vietnam) en 1922 et lui a donné le même nom. Cette culture vieille de 15 000 ans a perduré jusqu’à 2 000 ans avant J.-C. en Asie du Sud-Est.

 Selon l’auteur Lang Linh [4], la conscience Yue (Việt)  peut être considérée comme le noyau du peuple Yue (Việt), c’est-à-dire la conscience nationale apparue à partir de la culture  de Liangzhu dans le cours inférieur du fleuve Yangtsé, a continué à être utilisée et héritée par le peuple Yue  (Việt)  environ 3000 ans avant J.-C. et a été vaincue plus tard dans les guerres contre l’invasion des dynasties Chu-Qin-Han. La culture de Liangzhu a été la première culture à former la communauté ethnique Yue (Việt), dans laquelle le Proto-Vietnamien appartenant à la famille linguistique sud-asiatique [5] jouait à cette époque un rôle très important. Le nom Yue (Việt) a été formé à partir de l’image d’une hache, puis celle d’un chef tenant la hache dans le but de représenter le peuple Yue (ou Việt)  dans les rituels [6]. Pendant la période de la culture Shijiahé dans le moyen fleuve Yangtsé, l’image du chef portant un chapeau de plumes tenant une hache était apparue  très couramment sur les tambours en bronze de Dong Son environ 500 ans.

La culture de Shijiahé était située sur le territoire de l’État de Chu. La description géographique de la légende indique que l’État de Văn Lang avait alors sa capitale à Phong Châu, avec une zone très vaste  bordant le lac Dongting au nord, Hồ Tôn (Champa) au sud, la mer de Chine méridionale à l’est et Ba Thục (Sichuan) à l’ouest. Selon le sinologue français Léonard Aurousseau, Văn Lang était située sur le territoire de l’État de Chu, comprenant en gros les deux provinces du Hubei et du Hunan pendant la période des Printemps et Automnes. Les habitants de l’État de Chu avaient alors l’habitude de se tatouer, de rester dans l’eau, et de se couper les cheveux pour ressembler à des petits crocodiles afin d’éviter les attaques des grands crocodiles, selon les archives historiques de Sima Qian, traduites par l’archéologue français Édouard Chavannes [7] (ibid. 216).

De plus, selon Léonard Aurousseau, les dirigeants de l’ancien Vietnam et de l’État Chu portaient tous le même nom de clan, Mị (ou le bêlement du mouton en sino-nôm), partageant ainsi les mêmes ancêtres. Selon Léonard Aurousseau [8], au IXème siècle avant J.-C., un groupe important de gens issus de l’État Chu portant le nom de clan Mị migra le long du fleuve Yangtze et envahit les terres fertiles du Zhejiang, établissant un royaume Yue (Việt) qui n’était mentionné dans les chroniques chinoises qu’au VIème siècle avant J.-C. (ibid. 261). Pourquoi cette migration a-t-elle eu lieu ? Léonard Aurousseau n’a pas donné l’explication mais d’après l’auteur Lang Linh, l’état Chu était gouverné désormais par un roi  chinois nommé par la dynastie des Chou (Nhà Châu)   sur le territoire des Bai Yue après avoir éliminé la dynastie des Shang, ce qui expliquait la naissance du royaume Yue de Goujian (Câu Tiễn)  à la fin de la période des Printemps et Automnes dans le nord du Zhejiang.  Ce royaume  n’avait jamais été mentionné auparavant dans l’histoire chinoise. Pourquoi Léonard Rousseau a-t-il affirmé que nos ancêtres avaient la même origine que le peuple Yue du royaume de Goujian (Câu Tiễn) ? Dans nos livres d’histoire, le radical Viet est toujours utilisé pour désigner le peuple vietnamien, notre pays Viet, et dans les livres d’histoire chinois, ce radical est également utilisé pour désigner le royaume de Goujian (Câu Tiễn).

Selon Léonard Aurousseau, outre le nom Lo Yue (Lạc Việt) sous la dynastie Zhou, Si ngeou (Tây Âu) ou Ngeou-Lo (Âu Lạc) sous la dynastie Qin, les ancêtres de notre peuple ont la même origine que le peuple Yue de Goujian (Câu Tiễn) dans la région de Wenzhou  (Ôn Châu)(Zhejiang). Tout d’abord, les deux peuples ont la même branche commune Ngeou au sein du peuple Yue(Việt). Notre peuple est appelé Si Ngeou (peuple Yue de l’Ouest) tandis que les habitants de Wenzhou, Zhejiang (Wen-tcheou, Tchô-kiang) sont appelés Tong Ngeou (peuple Yue  de l’Est). La branche Ngeou au sein du peuple Yue (Việt)  est très importante pour montrer la parenté étroite dont ils sont issus. Il a ensuite prouvé que les deux groupes ethniques Yue (Việt) de la branche Ngeou avaient des coutumes similaires telles que se couper les cheveux, se tatouer, croiser les bras, mettre le pan de chemise sur le bras gauche, etc. (ibid 248). La coutume de croiser les bras est souvent observée chez les Vietnamiens pour montrer du respect, mais elle ne se retrouve pas dans les rituels chinois.

En s’appuyant  sur ces arguments, Léonnard Aurousseau affirmait que nos ancêtres et les habitants du royaume Yue de  Goujian (Câu Tiễn) appartenaient au même clan. Le royaume Yue de Goujian (Câu Tiễn)  fut annexé par le royaume Chu (Sờ) en 333 av. J.-C. (avant notre ère), puis le royaume Qin détruisit Chu et unifia la Chine. Il y eut une importante migration des ethnies Yue, dont nos ancêtres (les Kinh), retournant en Asie du Sud-Est en contournant les montagnes de la côte est depuis Taizhou (Thái Châu (Zhejiang) pour s’installer dans le Guangdong, le Guangxi et le delta du fleuve Rouge.

Selon les archives historiques, de nombreuses petites nations Yue se formèrent le long de la côte de la mer de l’Est lors de cette migration, d’où leur nom de Bai Yue (Bách Việt). Ces petites nations s’annexèrent ensuite progressivement pour donner naissance à des royaumes, dont Man Yue, Đông Âu, Tây Âu, Âu Lạc d’An Dương Vương (Thục Phán) et Nam Việt (Nan Yue) du général Zhao To de la dynastie Qin. En résumé, seuls Guangdong,  Guangxi et le delta du fleuve Rouge abritaient des groupes ethniques Yue de même origine que nos ancêtres, d’après les coutumes et les recherches génétiques et linguistiques, tandis que d’autres groupes ethniques Yue étaient  assimilés par la Chine. Ainsi, lors du soulèvement des deux sœurs Trưng sous la dynastie des Han occidentaux, elles réussirent à s’emparer avec succès des 65 premières citadelles de Lưỡng Việt (aujourd’hui Guangdong et Guangxi) jusqu’à Mũi Này, conquérant ainsi 9 districts : Nam Hải, Uất Lâm, Thượng Ngô, Giao Chi, Cửu Chân et Nhật Nam. C’est également à ces endroits que furent découverts plus tard des tambours de bronze que les Chinois prétendaient leur appartenir. Ce fait prouve que ces zones appartenaient autrefois à notre peuple vietnamien.

Selon Léonard Aurousseau, les habitants du delta du fleuve Rouge comprenaient à l’époque du roi Hùng les Proto-Vietnamiens  (peuples Kinh et Mường), les peuples Tày-Thái-Nùng et les peuples autochtones d’origine austronésienne. Ce sont ces derniers  austronésiens  qui établirent plus tard le royaume de Lâm Ấp (Lin Yi) au IIème siècle après J.-C lors de leur révolte. C’est dans le groupe Tày-Thái-Nùng qu’il y avait un Tày nommé Thục Phán (Cao Bằng) qui réussit à fonder  le royaume Au Lac pour remplacer le royaume  Văn Lang de la dynastie des Hồng Bàng. Le royaume de Thục Phán (ou An Dương Vương) ne dura que 50 ans et il fut détruit par Triệu Đà (Zhao To), un général de la dynastie des Qin et le fondateur  du  royaume de Nan Yue  en 207 avant J.C. Durant son règne, il a adopté une  politique de réconciliation de toutes  les tribus Yue et il a mené en même temps une  autre politique de « fusion Han-Yue  » dans le but  d’assimiler tous les Han vivant à Lingnan et dans le  territoire de son royaume. Cette politique a réussi à obtenir  la soumission de tous les Yue et lui a permis d’être considéré comme le roi du Vietnam dans les livres d’histoire vietnamiens à l’époque féodale mais par contre  il n’était pas un représentant légal du peuple vietnamien pour les historiens actuels. C’est grâce à la dynastie qu’il a fondée durant près de cent ans que notre peuple vietnamien  a eu la durée propice à l’installation définitive dans le delta du fleuve Rouge. Il n’a pas été  absorbé par les  Han malgré leur nombre important  et a réussi à survivre durant onze siècles de domination presque ininterrompue.

Notre peuple attachait  une grande importance à la riziculture inondée. Depuis l’Antiquité, notre peuple cultivait le riz en observant le flux et le reflux des marées, ce qui lui permettait  de récolter deux fois par an. Il était profondément attaché à la Terre et à l’Eau, deux ingrédients essentiels à la riziculture. C’est pourquoi nos ancêtres utilisaient les deux mots « Terre » et « Eau » pour désigner leur pays, leur lieu de naissance et montrer le  profond attachement à leur village. Ce dernier était aussi le berceau du peuple vietnamien, où étaient préservées toutes les coutumes et les  légendes orales  dans les temples ancestraux et un lieu inviolable sous la domination des gens du Nord. La plupart des villages vietnamiens appartenaient  à des agriculteurs ; ils possédaient donc tous des maisons communales où étaient vénérés les génies tutélaires  et les gens  ayant eu le mérite de contribuer à leur développement. Les villages vietnamiens bénéficiaient  des privilèges particuliers, malgré le pouvoir absolu des envahisseurs, et possédaient  une structure communautaire très soudée comme  une grande famille.

Les agriculteurs avaient  le droit de parler leur langue maternelle sans apprendre à écrire les caractères chinois, car ils n’étaient  pas en  contact quotidien avec les Han et dépendaient  uniquement des responsables locaux du village.  L’étude des caractères chinois était réservée seulement  pour  l’élite qui avait  besoin de  comprendre les Classiques chinois pour les examens.  À part cela, on continuait à parler  et à écouter avec la langue vietnamienne. Il  est donc absolument impossible de transformer le vietnamien en dialecte chinois, car nous parlons et nous écoutons toujours dans notre langue maternelle, même si nous écrivons les caractères chinois. Par conséquent, la sinisation de la langue devient inutile, car selon le chercheur Nguyen Hai Hoanh [7], tant que notre langue continue à être parlée et écoutée, notre pays continue à  exister. Nos ancêtres avaient envisagé d’emprunter ce type d’écriture chinoise comme système d’écriture pour notre peuple depuis l’époque de Shi Xie. Chaque caractère chinois a une sonorité chinoise. Pour apprendre les caractères chinois, il faut savoir les lire. Chaque caractère chinois porte un ou plusieurs noms vietnamiens spécifiques, appelés des mots sino-vietnamiens. Ce type de caractère chinois lu avec une prononciation sino-vietnamienne est appelé « caractère Nho » par notre peuple.  Il suffit de mémoriser les caractères chinois, leur signification et savoir les écrire correctement  sans avoir besoin d’apprendre la prononciation en chinois.

Selon le chercheur français Bernard Philippe Groslier (CNRS) [9], le village vietnamien est considéré comme une cellule cultivée dans chaque parcelle du delta selon le mode d’agriculture, mais c’est aussi un foyer politiquement indépendant et socialement homogène, ce qui devient en fait un instrument  efficace contre l’invasion étrangère et l’expansion territoriale. Ainsi, notre village possède une forte vitalité et constitue également la force d’une expansion inimaginable lors de la migration vers le sud. (Champa et Chenla).

L’orientaliste français Paul Mus [10] l’a également compris, et il a écrit : « Le Vietnam est une société des villages. Le village est l’« élément fondamental » car il a « construit » la nation vietnamienne (ibid. : 329). Le village est « la citadelle de la résistance victorieuse contre la Chine » (ibid. : 279) et, plus largement, il est le creuset de « l’indivisibilité nationale » pour lutter contre « la division et la conquête » (ibid. : 19). Les Han ne détenaient le pouvoir qu’au niveau du district, tandis que nos villages étaient gérés par les Vietnamiens. Peut-être les Han étaient-ils trop confiants dans leur capacité d’assimiler facilement le peuple Bai Yue au sud du fleuve Yangtsé, et pensaient-ils à pouvoir assimiler ainsi nos ancêtres (Âu Lac)?

Les Han devaient se fier à la parole de leur philosophe Mencius : « J’ai entendu parler de ceux qui ont utilisé les doctrines de notre pays pour changer les barbares, mais je n’ai jamais entendu dire que notre peuple ait été changé par les barbares. C’est parce qu’ils ne nous comprennent pas, nous les Vietnamiens, qu’ils nous méprisent.» Il y avait  un temps où ils nous traitaient comme  des gens aux « pieds nus » car ils  ignoraient  qu’il était très pratique de grimper aux arbres et de passer toute la journée avec  les mains  sales et les pieds remplis de boue dans l’eau pour cultiver du riz. Ils ont oublié que notre peuple était originaire du cours inférieur du Yangtsé, avec la culture de Liangzhu, une culture équivalente à celle qu’ils avaient eue 3 000 ans avant J.-C. et migrait au travers de nombreuses épreuves pour s’installer finalement dans le delta du fleuve Rouge au fil des siècles. Ils ont oublié que notre peuple était un peuple doté d’une forte vitalité inébranlable, le seul peuple restant formé de toutes les élites des groupes ethniques de Bai Yue qui n’a pas été sinisé par eux et qui n’a pas cédé à la violence malgré leur domination millénaire. Ils ont oublié que notre peuple préférait de perdre ses terres et vouloir échapper à leur influence. C’est pourquoi, plus tard,  dans le radical « Việt » du dictionnaire Hán-Nôm  on voit apparaître le sens du mot« fuir (Thoát) ». Grâce  aux caractères chinois, notre langue Nôm  était diffusée de manière remarquable. Ils ont oublié que nos villages étaient une forteresse imprenable, non seulement pour les combattre, mais aussi un puissant instrument  d’expansion vers le sud. Comment ne pas comprendre leur mauvaise intention   après avoir parfaitement appris  le livre de guerre de Sun Tzu durant la période de leur domination ?

En reprenant la conclusion de Léonard Aurousseau, après vingt deux siècles de lutte, les Vietnamiens s’arrêtent et sont conscients d’avoir fait honneur aux premiers efforts de leurs ancêtres du littoral de la mer de l’Est et satisfaits d’avoir crée une patrie qui semblait faite à souhait pour le génie de leur race.

Paris ngày 7/5/2025

 

Tài liệu tham khào :     

[1] Christine Nguyễn Tri: La conquête de l’espace chinois sous les Qin et les Han 221 avant notre ère. Cahiers  CEHD, n°34

[2] Huang, X., Xia, Z., Bin, X., He, G., Guo, J., Lin, C., Yin, L., Zhao, J., Ma, Z., Ma, F., Li, Y., Hu, R., Wei, L., & Wang, C. (2020). Genomic Insights into the Demographic History of Southern Chinese. bioRxiv.

[3] Léonard Aurousseau : La première conquête chinoise des pays annamites (IIIe siècle avant notre ère), Bulletin de l’Ecole française  d’Extrême-Orient. Tome 23, 1923. pp. 136-264

 [4] Lang Linh: Người Việt có bị đồng hóa hay không ? Lược Sử Tộc Việt.

[5] Norman Jerry- Mei tsulin 1976 The Austro asiatic in south China : some lexical evidence, Monumenta Serica 32 :274-301

[6] Đổng Sở Bình 董楚平; “Phương Việt hội thi” “方钺会矢” – Một trong những diễn giải về các nhân vật Lương Chử 良渚文字释读之一[J];东南文化;2001年03期.

[7] Edouard Chavannes: Mémoires historiques. Tome 1

[8] Nguyễn Hải Hoành: Tiếng ta còn thì  nước ta còn.  Bản sắc  văn hóa Việt Nam.

[9] Bernard Philippe Groslier : Indochine. Carrefour .Editions Albin Michel. 1960.

[10] Paul Mus: Sociologie d’une guerre. Editions Seuil 1952.