Les Mayas (Nền văn minh Maya): Partie 2

Version française

Cho đến năm 1950, nhờ  nhà ngôn ngữ nga Yuri Knorosov mà  hệ thống chữ viết Maya được giãi mã.  Ông nầy đã  chứng minh  lối  viết của người Maya trong việc phiên âm là loại logo âm tiết (từ 900 đến 1200 dấu) so với lối viết của người Ai Cập (734 dấu). Rồi đến 1978, nhà nghiên cứu  văn khắc người Mỹ, ông J. Juteson của đại học Stanford đưa vào trong luận án dành về văn tự của người Maya, một ý niệm về việc bổ sung ngữ âm. Có luôn cả văn phạm của người Maya được cung cấp gần đây trong những năm 1980-1990 với các công việc của L. Schele (1982), B. Macleod (1983) và  V. Bricker (1986). Nhờ đó mà sự hiểu biết về lối viết của người Maya đuợc thông suốt từ đây. Ngày nay, có thể khẳng định là chữ viết của người Maya là loại logo âm tiết.  Nhờ sự tiến triển trong việc giãi mã và các cuộc khai quật mà  cái nhìn về người Maya cũng được thay đổi nhất là với những gì họ để lại trong kho tàng tượng hình gồm có hiện nay hơn mười ngàn  văn bản. Muốn hiểu một văn tự của người Maya, chúng ta phải đọc từ trái qua phải và từ trên xuống dưới.

Trước đây, chúng ta thường cho rằng người Maya là những người hiền hòa so với người Aztec hiếu chiến. Nhưng nhờ những khám phá khảo cổ gần đây về một số văn bản chữ tượng hình bao gồm các cột (hoặc tấm bia) kỷ niệm, bàn thờ, bản treo tường vân vân…  chúng ta mới  biết rằng họ cũng rất  ưa thích chiến tranh. Đế chế của họ không dựa trên một tổ chức tập trung như của người Inca ở dãy núi Andes. Tuy nhiên, giống như người Hy Lạp, họ sống tập trung ở các thành bang và liên tục chiến đấu với nhau để chiếm quyền  bá chủ. Họ đôi khi được gọi là người Hy Lạp của thế giới mới.

Trong mỗi thành phố, có một vị vua thần linh, người nầy được giao nhiệm vụ làm trung gian giữa  thần dân và thế giới thần linh, tựa như  pháp sư thời xưa. Ngoài việc cung cấp thực phẩm và dùng  sức  dành được  chiến thắng chống lại kẻ thù của mình, nhà vua cần phải bắt tù nhân  để hiến tế máu sau đó  và  mong có được ân huệ của các vị thần linh nhằm đảm bảo sự vĩnh cửu của thành phố của mình trước những thảm họa thiên nhiên (động đất, bão, biến đổi khí hậu vân vân). Người ta cũng thường thấy các chức sắc  cao cấp Maya thực hiện nghi lễ trích  máu với dao bằng bạch kim hoặc cái gai nhọn của con cá đuối. Mặc dù họ đã phải chịu đựng những hình thức đau đớn trên lưỡi và dương vật của họ, họ vẫn thấy rằng đây là  hành động tự nguyện của họ, một sự hy sinh cao cả, vì máu được coi là tài sản quý giá nhất của con người, được dùng để duy trì trật tự vũ trụ và lợi ích của triều đại.

Các lễ vật cúng  được thấy rất nhiều và đa dạng. Ngoài máu, họ còn có thể nuôi dưỡng các vị thần bằng mùi và vị. Đôi khi, theo truyền thống của họ, họ quen ném nạn nhân, đặc biệt là các cô gái và trẻ em còn trinh, xuống giếng (hoặc cenote). Đây là trường hợp của Giếng Hy sinh tại Chichen Itza, nơi xương người được tìm thấy (13 sọ của đàn ông, 21 trẻ em và 8 phụ nữ) nhờ quá trình thoát nước được thực hiện bởi các nhà khảo cổ học. Người cai tri (hay lãnh chúa) hay thường tổ chức việc thờ cúng các thần thánh này nên được họ bảo vệ và tôn trọng trong tư tưởng của người Maya. Chính vì thế khi qua đời, lãnh chúa  được đi theo con đường  gắn liền với  sự chuyển động vũ trụ của mặt trời hay mặt trăng để xâm nhập vào âm phủ (thế giới ngầm) và tái sinh ở thiên giới để trở thành một thần thánh nhờ sức mạnh siêu nhiên được ban cho bởi  các vị thần. Mặt khác, đối với một người Maya bình thường thì  người nầy phải chết trong địa ngục sau một hành trình gian nan đầy nguy hiểm nhưng có thể trở lại trần gian trong một số dịp nhất định với sự đồng ý của thần chết để tham gia vào các nghi lễ do con cháu người nầy thực hiện.

Sự tôn kính mà người Maya bày tỏ với các vị thần của họ thông qua việc hiến tế con người và sự hy sinh bản thân (sẹo và đâm xuyên qua da thịt) đã làm mờ  đáng kể cho hình ảnh của họ. Đây là lý do tại sao khi đến  lãnh thổ của họ, người Tây Ban Nha xem coi họ là người man rợ tại vì những phong tục nhất định nầy. Tuy nhiên, họ đã phát minh ra con số 0 hai thế kỷ trước khi người châu Âu mượn nó từ người Ả Rập sau các cuộc Thập tự chinh. Số 0 này thường được biểu thị bằng một cái vỏ, một bông hoa và đôi khi là một hình xoắn ốc. Họ quan tâm đến toán học và thiên văn học. Họ biết cách sử dụng riêng các số dương.

Dân tộc Maya là một trong số ít các dân tộc  bị thu hút bởi thời gian. Nhờ biết sử dụng hệ thống vigesimal (dựa trên hệ nhị thập phân), họ đã thiết lập nhiều lịch để dự đoán các sự kiện quan trọng (ví dụ như các lời tiên tri), xác định các ngày quan trọng trong lịch sử và chuẩn bị thời gian thuận lợi cho các nghi lễ để các lực siêu nhiên mang lại tích cực cho nông nghiệp và cuộc sống hàng ngày của họ bằng cách trở lại các mùa màng và thời kỳ màu mỡ của trái đất. Lịch của họ cũng chính xác như lịch của chúng ta. Họ đã có thể tính toán được các giai đoạn của sao Kim và thời gian đồng hành của sao Hỏa với độ chính xác đáng kinh ngạc 780 ngày mặc dù chúng ta biết rằng vào thời điểm đó, họ hoàn toàn không có các thiết bị quang học. Người ta có thể nghĩ rằng ngoài khả năng quan sát và kiên nhẫn của họ, họ còn có khả năng suy luận và kết luận rất xuất sắc. Đây là trường hợp của một trong những đài quan sát của người Maya ở Chichén Itzá, Yucatan, Caracol (hay con ốc sên trong tiếng Tây Ban Nha), nơi người ta có thể theo dõi nơi chân trời  các vị trí khác nhau của các thiên thể (mặt trời, mặt trăng hoặc sao Kim)  từ cửa sổ của tháp. Sự di chuyển của các thiên thể vẫn là một lĩnh vực đặc biệt đối với người Maya vì nó có liên quan chặt chẽ đến việc thờ phượng các vị thần linh. Những vị thần này có mặt ở khắp mọi nơi, ngay cả trong thế giới bên dưới, nơi có nhiều vị thần linh  và nhiều cấp độ (9 vị thần, 9 tầng dưới đất).

 

[ Trở về Người Maya : Phần 1]

mayas_photos

Malgré cela, une percée significative dans le déchiffrement de l’écriture maya eut lieu dans les années 1950 grâce aux travaux du linguiste russe Yuri Knorosov. Ce dernier parvint à prouver que l’écriture utilisée par les Mayas pour la transcription de leur langue, était de type logo-syllabique (de 900 à 1200 signes) comparable à l’égyptien classique (734 signes). Puis en 1978, l’épigraphiste américain de l’université Stanford, J. Justeson introduisit dans sa thèse consacrée à l’écriture maya, l’idée de compléments phonétiques. Même une grammaire se constitua récemment dans les années 1980-1990 avec les travaux de L. Schele (1982), B. Macleod (1983) et V. Bricker (1986). Cela facilite la meilleure compréhension de la tradition écrite par des Mayas.

Aujourd’hui, on peut dire que l’écriture maya est de type logo-phonétique. Grâce à cette avancée dans le décryptage et dans les fouilles archéologiques, on est obligé de modifier la vision qu’on a eue à l’égard des Mayas en saisissant tout ce qu’ils avaient laissé dans le corpus hiéroglyphique composé actuellement de plus de dix mille textes. Pour connaître le contenu d’un texte maya, il faut suivre l’ordre de lecture qui s’effectue de gauche à droite et de haut en bas.

Dans le passé, on avait l’habitude de présenter les Mayas comme pacifiques, comparés à des Aztèques belliqueux et guerriers. Mais grâce aux découvertes archéologiques récentes de plusieurs textes hiéroglyphiques couvrant les colonnes commémoratives (ou stèles), les autels, les panneaux muraux etc…, on sait qu’ils étaient aussi adeptes de la guerre.

Leur empire ne s’appuyait pas sur une organisation centralisée comme les Incas des Andes. Par contre, analogues aux Grecs, ils vivaient regroupés dans les cités-états et ils ne cessaient pas de guerroyer entre eux en quête d’hégémonie. On les appelle parfois sous le nom des Grecs du nouveau monde.

Dans chaque cité, il y a un roi d’essence divine, chargé d’être le médiateur entre ses sujets et le monde des dieux comme le chaman de jadis. Outre la procuration de la nourriture et la force de travail gratuite en cas des victoires contre ses ennemis, le monarque a besoin de faire des prisonniers destinés aux sacrifices de sang dans le but de s’attirer les grâces des dieux et d’assurer l’éternité de sa cité face aux calamités naturelles (séismes, ouragans, changements climatiques etc…). Il est fréquent de voir aussi l’acte rituel de la saignée effectuée par les hauts dignitaires mayas à l’aide d’un couteau en obsidienne ou d’un aiguillon de pastenague. Malgré les mortifications très douloureuses soit sur leur langue soit leur pénis, ces derniers trouvaient dans leur acte volontaire une sacrifice suprême car le sang qui était considéré comme le bien le plus précieux de l’homme, servait à maintenir l’ordre cosmique et les intérêts dynastique

Les offrandes étaient multiples et diverses. Outre le sang, ils pouvaient nourrir les dieux avec des odeurs et des saveurs. Parfois, dans leur tradition, ils étaient habitués à jeter dans le puits (ou cénote) des victimes, en particulier des jeunes filles vierges et des enfants. C’est le cas de la Cenote du Sacrifice à Chichen Itza où on a retrouvé des ossements humains ( 13 crânes d’hommes, 21 d’enfants et 8 de femmes) lors du drainage effectué par des archéologues. Le souverain qui célébrait ainsi ce culte divin était traité avec respect et protégé par les divinités dans la pensée maya. C’est pourquoi lors de sa mort, il emprunta le même chemin lié au mouvement cosmique du soleil ou de la lune pour pénétrer dans l’inframonde (milieu souterrain) et renaquit dans le monde céleste pour devenir une divinité grâce au pouvoir surnaturel accordé par les dieux. Par contre, pour un Maya ordinaire, il devait mourir au fond de l’inframonde après un long parcours périlleux mais il pouvait revenir sur terre en certaines occasions avec le consentement des dieux de la mort pour participer aux rites pratiqués par ses descendants. L’hommage que les Mayas avaient accordé à leurs dieux par les sacrifices humains et les autosacrifices (scarification et percement des chairs) porte un préjudice considérable à leurs images. C’est pourquoi, lors de l’arrivée des Espagnols sur leur territoire, ils étaient considérés comme des barbares à cause de certaines coutumes. Pourtant ils ont inventé le zéro deux siècles avant l’emprunt des Européens aux Arabes après les croisades. Ce chiffre 0 était représenté souvent par une coquille, une fleur et parfois une spirale. Ils étaient férus de mathématiques et d’astronomie. Ils savaient utiliser exclusivement des nombres positifs.

Les Mayas étaient l’un des rares peuples qui ont été fascinés par le temps. Grâce à leur système vigésimal (à base 20), ils établissaient plusieurs calendriers permettant de prédire d’importants évènements (les prophéties par exemple), de fixer les grandes dates de l’histoire et de préparer les moments propices aux cérémonies destinées à influencer positivement l’effort des forces surnaturelles sur leur agriculture et leur vie quotidienne par le retour des saisons et les époques de fertilité de la terre. Leur calendrier solaire était aussi précis que le nôtre. Ils ont réussi à calculer les phases de Vénus et la période synodique de Mars de 780 jours avec une précision stupéfiante bien qu’on sache qu’à cette époque, ils furent dépourvus entièrement des instruments d’optique. On est amené à penser qu’outre leur faculté d’observation et leur patience inouïe, ils avaient un sens de la logique et une déduction extrêmement remarquable. C’est le cas de l’un des observatoires mayas trouvés dans le Yucatan à Chichén Itzá, le Caracol (ou l’escargot en espagnol) où on peut suivre à l’horizon différentes positions des astres (soleil, lune ou Vénus) depuis les lucarnes de la tour. Le mouvement de ceux-ci restait un domaine privilégié pour les Mayas car il était lié étroitement au culte des dieux. Ces derniers foisonnaient partout même dans l’inframonde où il y avait autant de dieux que de niveaux. (9 dieux, 9 niveaux souterrains).

 

Retour à la page MAYA

Les Mayas (Nền văn minh Maya): Partie I

Version française 

Người Maya

Theo các nhà khảo cổ học, người Maya có nguồn gốc người Á với  nét mặt. Có thể nghĩ rằng ở trên đất hoang sơ  Châu Mỹ nầy, ông cha họ đến đây khi còn là những người đi săn đến từ Châu Á. Vi đeo đuổi các thú rừng nên họ vượt qua eo biển Béring trong thời kỳ cuối băng hà. 30.000 năm trước, sự lạnh đi hành tinh làm mực nước biển giảm xuống, khiến eo biển Béring hiện tại trở thành cầu nối tự nhiên giữa lục địa châu Á và châu Mỹ.  Lý  thuyết nầy có vẽ thuyết phục và hấp dẫn vì chúng ta nhận thấy ở nơi những người Maya nầy có những kỹ thuật thường được trông thấy ở Châu Á: gốm, việc xe sợi và dệt vải, những khái niệm mang tính chất tôn giáo (saman giáo) và vũ trụ cũng như sự kết hợp các màu và các thần thú ở bốn phương (Ngũ hành). Nhờ nhà thám hiểm người Mỹ, ông John Lloyd Stephens và bạn đồng hành họa sỹ Frederick Catherwood khám phá vào năm 1840, các công trình của thành phố Copán (Honduras) bị bao phủ bởi cây cối và chìm đắm trong sương mù của rừng nhiệt đới,  người ta mới bất đầu quan tâm lại nền văn minh của người Maya nhất là lối sống của họ, những kiến thức khoa học như thiên văn, toán học, kiến trúc, canh nông và nhất là chữ viết của họ. Lối viết nầy rất phức tạp không có dùng đến trong mậu dịch cũng như các văn tự cổ khác. Nó không dành cho giới hạ tầng cũa xã hội mà nó là một phương tiện cho giới qúi tộc và các ký lục để tiếp cận với các thần thánh và hợp pháp hóa quyền lực vua chúa  được xem như ngang hàng với các thần thánh. Chính vì vậy biết bao nhiêu nhà khảo cứu xem vặn tự của họ là một vấn đề nan giải nhất là khi đoàn viễn chinh Tây Ban Nha xâm nhập vào lãnh thổ của người Maya thì bao nhiêu sách vỡ (hay codex) ở Mani (Yucatan) đều bị giám mục Diego de Landa đốt cả. Qua những công thức nghi lễ được tìm thấy trong các codex với lối viết theo những họa tiết không thể hiểu nổi, ông cho rằng đây là một trở ngại rất lớn trong việc truyền bá đạo công giáo và nó  còn mang tính chất dị đoan mê tín. Có ít nhất 70 tấn tang chứng văn tự của người Maya bị tiêu hủy cùng 5000 thần tượng.

Tuy nhiên ông Diego de Landa là một trong những nhà thời luận xuất sắc về văn hóa Maya. Rất nhiều người không nghĩ rằng ở thời đó có những bộ tộc nghèo đói sống ở vùng đất hoang tàn Copán mà được John Lloyd StephensFrederick Catherwood khám phá là con cháu của những người xây dựng một nền văn minh Maya cổ. Tuy nhiên ở thời kỳ tiền Colombo, họ là một dân tộc duy nhất ở Trung Mỹ đã khảo sát tĩ mĩ một hệ thống chữ viết phức tạp để mang lại sự liên kết chặt chẽ và thống nhất cho nền văn hóa của họ nhất là nó rất phong phú và khác nhau từ vùng nầy qua vùng khác trên phương diện sắc tộc và vật chất. Mặc dầu có 30 thổ ngữ, người ta vẫn tìm thấy một loại chữ viết tượng hình như nhau ở khắp nơi vùng Trung Mỹ dù nơi đó là đồng bằng Yucatan hay là vùng cao nguyên của Guatemala hoặc là vùng đất có các con sông Usumacinta và Sarstoon. Cũng như người Ai Cập với giấy cói và nguời Trung Hoa với sợi dâu tằm, người Maya họ tìm ra việc chế tạo giấy với một loại sợi của cây vả (hay cây sung). Nhờ vậy họ ghi chép lại tất cả lễ nghi tôn giáo, các cuộc quan sát khoa học cùng các biên sử trong các codex dưới dạng các tấm giấy lớn được gấp dựng đứng lại như đàn phong cầm. Vì sự thiêu hủy sách vở do ông Diego de Landa đề xướng nên chỉ còn hiện nay 4 codex của người Maya: codex de Dresde, codex Tro Cortesianus (hay là bản thảo Madrid), codex Peresianus (hay là bản thảo Paris) thì thuộc về các  thư viện Dresde, Madrid và Paris còn  codex thứ tư được gọi là codex Grolier khám phá vào năm 1971 bởi Michael Coe, một nhà nghiên cứu Mỹ ở đại học Yale. [Tiếp theo trang 2]

Les Mayas

Qui sont ces mayas?

Selon certains archéologues, les Mayas ont leur origine asiatique avec leurs traits. On pourrait penser à l’arrivée de leurs ancêtres, des chasseurs venus d’Asie, à la poursuite du gibier sur le territoire vierge d’Amérique en franchissant le détroit de Béring au cours de la dernière période glaciaire. Il y a 30000 ans , le refroidissement de la planète fait baisser le niveau de mers, ce qui permet à l’actuel détroit de Béring de devenir le pont  naturel entre les continents asiatique et américain. Cette théorie reste séduisante et convaincante dans la mesure où on trouve chez les Mayas des techniques rencontrées en Asie: céramique, filage et tissage ainsi que certains concepts d’ordre religieux (chamanisme) et cosmique comme les associations de couleurs et d’animaux célestes aux quatre points cardinaux. (Ngũ hành). Grâce à la découverte des monuments de la ville Copán (Honduras) envahis par la végétation dans les vapeurs de la jungle tropicale par l’explorateur américain John Lloyd Stephens et son compagnon illustrateur Frederick Catherwood en 1840, on recommence à s’intéresser à leur civilisation, leur mode de vie, leurs connaissances scientifiques (astronomie, mathématiques, architecture, agriculture etc.) et surtout leur écriture glyptique. Celle-ci est un système d’écriture complexe et incompréhensible qui n’est pas conçu pour les transactions commerciales comme les autres écritures anciennes. Elle n’est pas destinée à la basse couche de la société maya mais elle est un moyen pour les nobles et les scribes de s’adresser aux dieux et de légitimer le pouvoir de leurs souverains considérés à l’égal des dieux. Cela décourage un grand nombre de savants et de chercheurs qui qualifiaient avec résignation dans le passé cette écriture maya de « problème insoluble ». Leur déchiffrement devient de plus en plus ardu car lors de l’arrivée des conquistadors espagnols sur le territoire des Mayas, la plupart de leurs manuscrits (ou codex) furent brûlés sur un bûcher par l’évêque Diego de Landa à Mani (Yucatan). Ce dernier trouva dans ces codex des formules de rituel avec une écriture glyptique incompréhensible, une entrave à sa mission de christianisation et un caractère de superstition et de mystification du démon. On estime qu’il fit détruire 70 tonnes de témoignages écrits par les Mayas ainsi que 5000 idoles.

Pourtant il fut l’un des meilleurs chroniqueurs de la civilisation maya. Beaucoup de gens eurent du mal à croire, à cette époque, que ces Indiens misérables vivant à côté des ruines mystérieuses de Copán découvertes par John Lloyd Stephens et Frederick Catherwood, étaient les descendants des bâtisseurs de cette civilisation. Pourtant ils furent, à l’époque précolombienne, le seul peuple d’Amérique centrale à avoir poussé aussi loin l’exploration d’un système complexe d’écriture dans le but de donner cohésion et unité à leur culture autant diverse que variée, d’une région à une autre, au niveau de la composition ethnique et matérielle. Malgré un grand nombre élevé de dialectes (une trentaine en tout), on a retrouvé les mêmes hiéroglyphes, la même écriture en divers points de l’Amérique centrale soit sur les basses terres de tout le Yucatan soit dans les hautes terres du Guatemala ou dans le territoire traversé par les rivières Usumacinta et Sarstoon. Analogues aux Égyptiens avec le papyrus et aux Chinois avec la fibre de mûrier, les Mayas ont réussi à fabriquer le papier avec les fibres d’une espèce de figuier. Cela leur permit d’enregistrer leurs rites religieux, leurs observations scientifiques et leurs annales dans des codex présentés sous la forme des grandes feuilles de papier plissées verticalement en accordéon. À cause de l’autodafé de livres mayas organisé par Diego de Landa, il ne reste aujourd’hui que 4 codex mayas dont les trois premiers sont: le Codex de Dresde (Codex Dresdensis), le Codex Tro Cortesianus (ou Manuscrit de Madrid), le Codex Peresianus (ou Manuscrit de Paris) dans les bibliothèques de Dresde, de Madrid et de Paris et le quatrième connu comme le Codex Grolier découvert en 1971 par Michael Coe, un chercheur américain de l’université Yale.[Suite: Partie 2]

 

À la recherche de l’origine du peuple vietnamien (Đi tìm nguồn gốc dân tộc Việt)

 

English version

La découverte du site Hemudu ( Zhejiang ) en 1973 fut un grand évènement pour les archéologues chinois car ce site datant plus de 7000 ans témoigne de la trace de la plus ancienne civilisation du riz trouvée jusque là dans le monde. On y a trouvé aussi les restes d’un habitat lacustre en bois monté sur pilotis, un type de construction bien différent des maisons en terre de la Chine du Nord. La population qui vivait là était caractérisée par des traits à la fois mongoloïdes et australo-négroïdes. Comme Zhejiang fait partie des plus belles provinces de la Chine du Sud depuis longtemps, on ne cesse pas d’attribuer aux Chinois cette fameuse civilisation bien qu’on sache que le berceau de leur civilisation est lié étroitement au bassin du fleuve Jaune (ou Huang He) (Hoàng Hà) dont Anyang est le coeur antique. On ne peut pas nier que leur civilisation a trouvé toute sa quintessence dans les cultures néolithiques de Yang-Shao (province de Henan) (5000 ans av J.C.) et Longshan ( province de Shandong ) ( 2500 ans av J.C. ) identifiées respectivement par le Suédois Johan G. Andersson en 1921 et par le père de l’archéologie chinoise Li Ji quelques années plus tard. Grâce aux travaux d’analyse phylogénétique de l’équipe américaine dirigée par le professeur J.Y. Chu de l’université de Texas publiés en Juillet 1998 dans la Revue de l’Académie des Sciences américaine et groupés sous le titre «  Genetic Relationship of Population in China » (1) , on a commencé à avoir une idée précise sur l’origine du peuple chinois. 

On a relevé deux points importants dans ces travaux:

  • 1°) Il est clair que l’évidence génétique ne peut pas soutenir une indépendance originale des Homo -sapiens en Chine. Les ancêtres des populations vivant actuellement dans l’Est de la Chine venaient de l’Asie du Sud Est.
  • 2°) Désormais, il est probablement sûr de conclure que les gens « modernes » originaires d’Afrique constituent en grande partie le capital génétique trouvé couramment dans l’Asie de l’Est.

Dans sa conclusion, le professeur J.Y. Chu a reconnu qu’il est probable que les ancêtres des populations parlant des langues altaïques ( ou des Hán ) étaient issus de la population de l’Asie du Sud Est et des peuplades venant de l’Asie centrale et de l’Europe.

Cette découverte n’a pas remis en cause ce qu’a proposé il y a quelques années auparavant le professeur d’anthropologie Wilhelm G. Solheim II de l’université Hawaii dans son ouvrage intitulé Une nouvelle lumière dans un passé oublié.(2) Pour cet anthropologue, il n’y avait pas de doute que la culture de Hòa Bình ( 15000 ans avant J.C. ) découverte en 1922 par l’archéologue français Madeleine Colani dans un village proche de la province Hòa Bình du Vietnam avait été la base de la naissance et de l’évolution future des cultures néolithiques de Yang-Shao (Ngưỡng Thiều)  et de Longshan (Long Sơn)  trouvées dans le Nord de la Chine. Le physicien britannique Stephen Oppenheimer était allé au delà de ce qui n’était pas pensé jusque-là en démontrant dans sa démarche logique et scientifique que le berceau de la civilisation de l’humanité était en Asie du Sud Est dans son ouvrage intitulé  Eden dans l’Est: le continent noyé de l’Asie du Sud Est. (3) Il y a conclu qu’en se basant sur les preuves géologiques trouvées au fond de la mer de l’Est (Biển Đông)  et sur les méthodes de datation effectuées avec C-14 sur la nourriture ( patate douce, taro, riz, céréales etc. ) retrouvée en Asie du Sud Est ( Non Nok Tha, Sa Kai ( Thailande ), Phùng Nguyên, Ðồng Ðậu (Vietnam), Indonésie ), un grand déluge avait eu lieu et avait obligé les gens de cette région qui, contrairement à ce que les archéologues occidentaux avaient décrit comme des gens vivant de pêche, de chasse et de cueillette, étaient les premiers sachant maîtriser parfaitement la riziculture et l’agriculture, à émigrer dans tous les azimuts ( soit vers le Sud en Océanie, soit vers l’Est dans le Pacifique , soit vers l’Ouest en Inde ou soit vers le Nord en Chine ) pour leur subsistance. Ces gens étaient devenus les semences des grandes et brillantes civilisations trouvées plus tard en Inde, en Mésopotamie, en Egypte et en Méditerranée.

De cette constatation archéologique et scientifique, on est amené à poser des questions sur tout ce qui a été rapporté et falsifié par l’histoire dans cette région du monde et enseigné jusque-là aux Vietnamiens. Peut-on ignorer encore longtemps ces découvertes scientifiques ? Peut-on continuer à croire encore aux écrits chinois (Hậu Hán Thư par exemple ) dans lesquels on a imputé aux préfets chinois Tích Quang (Si Kouang) et Nhâm Diên le soin d’apprendre aux ancêtres des Vietnamiens la façon de s’habiller et l’usage de la charrue qu’ils ne connaissent pas au premier siècle de notre ère? Comment ne connaissent-ils pas la riziculture, les descendants légitimes du roi Shennong (Thần Nông) (3), lorsqu’on sait que ce dernier était un spécialiste dans le domaine agraire? Personne n’ose relever cette contradiction.

Shennong (Thần Nông)

On ne se pose même pas des questions sur ce que les gens du Nord ont donné à ce héros divin comme surnom Yandi (Viêm Ðế) ( roi du pays chaud des Bai Yue ). S’agit -il de leur façon de se référer au roi de la région du Sud car à l’époque des Zhou, le territoire des Yue était connu sous le nom Viêm Bang? Est-il possible aux gens nomades du Nord d’origine turco-mongole, les ancêtres des Han et aux gens du Sud, les Yue d’avoir les mêmes ancêtres? S’agit-il encore d’une pure affabulation édifiée à la gloire des conquérants et destinée à légitimer leur politique d’assimilation? 

Toutes les traces des autres peuples, les « Barbares », ont été effacées lors de leur passage. La conquête du continent chinois a commencé aux confins du lœss et de la Grande Plaine et a exigé près de quatre millénaires. C’est ce qu’a noté l’érudit français René Grousset dans son ouvrage « Histoire de la Chine » en parlant de l’expansion d’une race de rudes pionniers chinois de la Grande Plaine .

Face à leur brillante civilisation, peu de gens y compris les Européens lors de leur arrivée en Asie ont osé mettre en doute ce qui a été dit jusque-là dans les annales chinoises et vietnamiennes et penser à l’existence même d’une autre civilisation que les dominateurs ont réussi à accaparer et à effacer sur le territoire soumis du peuple Bai Yue. Le nom de l’Indochine a déjà reflété en grande partie cette attitude car pour un grand nombre de gens, il n’y a que deux civilisations méritant d’être citées en Asie: celles de l’Inde et de la Chine. Il est regrettable de constater aussi la même méprise commise par certains historiens vietnamiens imprégnés par la culture chinoise dans leur ouvrage historique. A force d’être endoctrinés par la politique de colonisation des gens du Nord, un certain nombre de Vietnamiens continuent à oublier notre origine et à penser aujourd’hui que nous sommes issus des Chinois. Ceux-ci n’hésitaient pas à mettre en marche leur politique d’assimilation et d’annexion dans les territoires qu’ils avaient réussi à conquérir depuis la création de leur nation. Le succès de la sinisation des Hán était visible au fil des siècles lors de leur contact avec d’autres peuples « barbares » . Le processus ne dut pas être différent de celui qui a marqué leur empiétement au XIXème siècle sur  » la terre des herbes » mongole et au XXème sur la forêt mandchourienne. 

On ne réfute pas à leur brillante civilisation d’avoir un impact indéniable sur le développement de la culture vietnamienne durant leur longue domination mais on ne peut pas oublier de reconnaître que les ancêtres des Vietnamiens, les Luo Yue (ou Lạc Việt) ont eu leur propre culture, celle de Bai Yue. Ils étaient les seuls survivants de ce peuple à ne pas être sinisés dans les tourmentes de l’histoire. Ils étaient les héritiers légitimes du peuple Bai Yue et de sa civilisation agricole. Les tambours en bronze de Ðồng Sơn ont témoigné de leur légitimité car on a trouvé sur ces objets les motifs de décoration retraçant leurs activités agricoles et maritimes de cette brillante époque avant l’arrivée des Chinois sur leur territoire ( Kiao Tche ou Giao Chỉ en vietnamien ).

On sait maintenant que la civilisation agricole de Hemudu a donné naissance à la culture de Bai Yue (ou Bách Việt en vietnamien). Le terme Bai Yue signifiant littéralement les Cent Yue, a été employé par les Chinois pour désigner toutes les tribus croyant appartenir à un groupe, les Yue. Selon l’écrivain talentueux vietnamien Bình Nguyên Lộc, l’outil employé fréquemment par les Yue est la hache (cái rìu en vietnamien) trouvée sous diverses formes et fabriquée avec des matériaux différents (pierre, fer ou bronze). C’est pour cette raison qu’au moment du contact avec les gens nomades du Nord d’origine turco-mongole, les ancêtres des Hán (ou Chinois), ils étaient appelés par ces derniers, sous le nom « les Yue », les gens ayant l’habitude de se servir de la hache. Celle-ci prit à cette époque la forme suivante:

et servit de modèle de représentation dans l’écriture chinoise par le pictogramme. Celui-ci continua à figurer intégralement dans le mot Yue et  dans lequel on trouve aussi le radical ( mễ    riz ou gạo en vietnamien) pour désigner les  riziculteurs à l’époque de Confucius. De nos jours, dans le mot Yue  , outre le radical « Tẩu (  outrepasser ou en vietnamien vượt )« ,  la hache continue à être représentée par le pictogramme modifié incessamment au fil des années. Le mot Yue provient peut-être phonétiquement du phonème Yit employé par la tribu Mường pour désigner la hache. Il est important de rappeler que la tribu Mường est celle ayant les mêmes origines que la tribu Luo Yue (ou Lạc Việt) dont les Vietnamiens sont issus. (Les rois illustres vietnamiens Lê Ðại Hành , Lê Lợi étant des Mường). Récemment, l’archéologue et chercheuse du CNRS, Corinne Debaine-Francfort a parlé de l’utilisation des haches cérémonielles yue par les Chinois dans le sacrifice d’humains ou d’animaux, dans son ouvrage intitulé « La redécouverte de la Chine ancienne » (Editeur Gallimard, 1998). Le sage Confucius avait l’occasion de parler du peuple Bai Yue dans les entretiens qu’il a eus avec ses disciples. 

Le peuple Bai Yue vivant dans le sud du fleuve Yang Tsé (Dương Tử Giang) a un mode de vie, un langage, des traditions, des mœurs et une nourriture spécifique … Ils se consacrent à la riziculture et se distinguent des nôtres habitués à cultiver le millet et le blé. Ils boivent de l’eau provenant d’une sorte de plante cueillie dans la forêt et connue sous le nom « thé ». Ils aiment danser, travailler tout en chantant et alterner des répliques dans les chants. Ils se déguisent souvent dans la danse avec les feuilles des plantes. Il faut éviter de les imiter . (Xướng ca vô loại). © Đặng Anh Tuấn

L’influence confucianiste n’est pas étrangère au préjugé que les parents vietnamiens continuent à entretenir encore aujourd’hui lorsque leurs enfants s’adonnent un peu trop aux activités musicales ou théâtrales. C’est dans cet esprit confucéen qu’on les voit d’un mauvais oeil. Mais c’est aussi l’attitude adoptée par les gouverneurs chinois en interdisant aux Vietnamiens d’avoir des manifestations musicales dans les cérémonies et les festivités durant la période de leur longue domination.

L’historien chinois Si Ma Qian (Tư Mã Thiên) avait l’occasion de parler de ces Yue dans ses Mémoires historiques (Sử Ký Tư Mã Thiên) lorsqu’il a retracé la vie du seigneur illustre Gou Jian (Câu Tiễn), prince des Yue pour sa patience incommensurable face au seigneur ennemi Fu Chai (Phù Sai), roi de la principauté de Wu (Ngô) à l’époque des Printemps et Automnes. Après sa mort, son royaume fut absorbé complètement en 332 avant J.C. par le royaume de Chu (Sỡ Quốc) qui fut annexé à son tour plus tard par Qin Shi Huang Di (Tần Thủy Hoàng) lors de l’unification de la Chine. Il est important de souligner que le site de Hemudu se trouve dans le royaume Yue de Gou Jian.(Zhejiang).

Parmi les  groupes partageant la même culture de Bai Yue , on trouve les Yang Yue, les Nan Yue (Nam Việt), les Lu Yue, Les Xi Ou, Les Ou Yue, les Luo Yue (Lạc Việt , les Gan Yue, les Min Yue (Mân Việt), les Yi Yue, les Yue Shang etc … Ils vivaient au sud du bassin du fleuve bleu , de Zhejiang (Triết Giang) jusqu’au Jiaozhi (Giao Chỉ)(le Nord du Vietnam d’aujourd’hui). On retrouve dans cette aire de répartition les provinces actuelles de la Chine du Sud: Foujian (Phúc Kiến), Hunan (Hồ Nam), Guizhou (Qúi Châu), Guangdong (Quảng Ðông), Jiangxi, Guangxi (Quảng Tây) et Yunnan (Vân Nam).

Les Bai Yue étaient probablement les héritiers de la culture Hoà Bình . Ils étaient un peuple d’agriculteurs avertis: ils cultivaient le riz en brûlis et en champ inondé et élevaient buffles et porcs. Ils vivaient aussi de la chasse et de la pêche. Ils avaient coutume de se tatouer le corps pour se protéger contre les attaques des dragons d’eau (con thuồng luồng). En s’appuyant sur les Mémoires Historiques de Si Ma Qian, l’érudit français Léonard Aurousseau a évoqué la coutume des ancêtres de Goujian ( roi des Yue de l’Est) de peindre leurs corps de dragons ou d’autres bêtes aquatiques comme celle trouvée chez les Yue du Sud.

Ils portaient les cheveux longs en chignon et soutenus par un turban. D’après certains textes vietnamiens, ils avaient des cheveux courts pour faciliter leur marche dans les forêts des montagnes. Leurs vêtements étaient confectionnés avec les fibres végétales. Leurs maisons étaient surélevées pour éviter les attaques des bêtes sauvages. Ils se servaient de tambours en bronze comme d’objets rituels utilisés pour les cérémonies d’invocation à la pluie ou comme un emblème de pouvoir utilisé en cas de besoins pour appeler les guerriers au combat. « Les Giao Chỉ ont possédé un sacré instrument : le tambour en bronze. En écoutant la voix du tambour, ils étaient tellement enthousiastes au moment de la guerre … », c’est ce qu’on a trouvé dans le premier volume de l’écrit chinois « Hậu Hán Thư (L’écrit de Hán postérieur) . Leurs guerriers étaient vêtus d’un simple pagne et armés de longues lances ornées de plumes. Ils étaient aussi des hardis navigateurs qui, sur leurs longues pirogues, sillonnèrent toute la Mer de l’Est (Biển Đông)  et au delà une partie des mers australes. Malgré leur haute technicité et leur maîtrise parfaite en matière d’agriculture et de riziculture, ils étaient un peuple très pacifique. Lire la suite (2ème partie)


(1) Volume 95, issue 20, 1763-1768, 29 July , 1998
(2) National Geographic, Vol 139, no 3
(3) Kinh Dương Vương, étant le père de l’ancêtre des Vietnamiens, Lạc Long Quân et l’arrière petit-fils du roi Shen Nong.

 

Joyaux de la Nation (Bảo vật Quốc Gia)

English version

Etant la terre des civilisations, le Vietnam recèle au bout d’un siècle de fouilles archéologiques entamées d’abord par les archéologues français puis par ceux du Vietnam, un grand nombre de trouvailles dont certaines se distinguent par leur beauté incommensurable et par leur originalité exceptionnelle. Certains spécimens deviennent les joyaux de la nation et représentent l’une des trois civilisations découvertes au Vietnam. On peut les admirer dans les musées de l’histoire du Vietnam (Hànội, Đà Nẵng, Sàigon, An Giang). Parmi ces objets exhumés, on peut citer le célèbre tambour de bronze Ngọc Lũ, symbole de la civilisation dongsonienne. Il est suivi ensuite par

1°) Le lampadaire de la tombe n°3 de Lạch Trương, Đồng Sơn, Bronze, Hauteur: 0,33m. Musée de l’histoire de Hànội

2°) La situle Đào Thịnh de Yên Bái, Đồng Sơn, Bronze, Hauteur: 81cm. Musée de l’histoire de  Hànội. Cette situle évoque le culte de la fertilité. (Văn hóa phồn thực)

3°) Le vase en céramique (gốm) à décor de paysage peint en couleur « bleu et blanc » provenant de l’épave de l’île Cù Lao Chàm (Quảng Nam). On y trouve à travers le motif du cygne les traits de l’âme vietnamienne. Musée de l’histoire de Hànội.

4°) La statue de la bodhisattva Tara (culture chame), bronze incrusté d’or, d’argent et de pierres semi-précieuses. Hauteur: 1,15m. Style Đông Dương (Milieu du du IXème siècle). Musée de Đà Nẵng.

5°) Statue de bouddha, Đồng Dương, Quảng Nam (VIIIe-IXè siècle) . Bronze H:119cm, L:38cm. Cette statue en bronze, fondue à cire perdue a été retrouvée presque intacte au moment de sa découverte. Son style reste énigmatique. Musée de l’histoire (Saigon).

 6°) La statue du Bouddha assis dans la position de la prise de la terre à témoin (bắt ấn địa xúc) (bhūmisparśa-mudrā). Civilisation Óc Eo. Musée de An Giang.

Galerie des photos

Bảo vật Quốc Gia

English version

During a century of archaeological excavations initially started  by French archaeologists and then by those of Vietnam, the land of civizilations Vietnam holds   a large number of archeological finds, some of which are distinguished by their incommensurable beauty and their  exceptional originality. Some specimens become the jewels of the nation and represent one of the three civilizations discovered in Vietnam. One can admire them in the history museums of Vietnam (Hànội, Đà Nẵng, Sàigon, An Giang). Among these objects exhumed, one can cite the famous bronze drum Ngọc Lũ, symbol of Đồng Sơn civilization. It is followed by

1°) The floor lamp found in the tomb n°3 of Lạch Trương, Đồng Sơn, Bronze, Heigth: 0,33m. Museum of Hànội

2°) The situla Đào Thịnh of Yên Bái, Đồng Sơn, Bronze, Heigth: 81cm. Museum of Hànội. This situla evoke the cult of fertility. (Văn hóa phồn thực)

3°) The ceramic vase (gốm) with an attractive decoration of landscape painted in color « blue and white » . It was retrieved from the wreck of Cù Lao Chàm island (Quảng Nam). Thanks to the  swan motif, one discovers the traits of Vietnamese soul. History museum of Hànội.

4°) The statue of  Tara bodhisattva (Cham culture), in bronze overlaid with or, silver and semi-precious stones. Heigth: 1,15m. Đông Dương style (Middle of 9th century). Museum of Đà Nẵng.

5°) Buddha statue, Đồng Dương, Quảng Nam (8th-9th century) . Bronze H:119cm, L:38cm. This bronze statue in molten wax was found almost intact at the discovery  time. Its style remains enigmatic. History museum of Saigon.

6°) The statue of Buddha making the mudra of taking the earth as witness with the right hand (bắt ấn địa xúc) (bhūmisparśa-mudrā) . Óc Eo civilization. Museum of An Giang.

Funan kingdom (Vương quốc Phù Nam)

founan

French version

Funan kingdom

Until the dawn of the 20th century, the information was received about this old Hinduized kingdom in some Chinese texts. It was mentioned during the Three Warring States period of Chinese history (Tam Quốc )(220-265) in Chinese writings since the establisment of diplomatic relations between  the Wu state (Đông Ngô) and foreign countries. In this report, it is noted that the governor of Guandong and Tonkin provinces, Lu-Tai sent representatives (congshi) in the south of his kingdom. The kings, beyond the borders of his kingdom (Funan, LinYi (future Chămpa) and Tang Ming (country identified in the northern Tchenla at the time of Tang dynasty) sent each other an ambassador to pay him their tribute. Then Funan was also quoted in the dynastic annals from the Tsin dynasty (nhà Tấn) until the Tang dynasty (Nhà Ðường).

Even the name of Funan is the phonetic transcription of the old khmer word bhnam (mountain) in Chinese characters. It still gives rise to reservations and reluctances in the interpretation of Funan by « mountain » for some experts. These one find the justification of the name « Funan » in the best sense of « hillock » because, until quite recently, in the ethnographical studies [Martin 1991; Porée-Maspero 1962-69] , the Khmer were used to practising ceremonies around the artificial hillocks. Being affected by this custom that they did not know, the Chinese have made reference to this mode of practice for designating this kingdom. Thanks to archaeological excavations which took place in 1944 at Óc Eo with French Louis Malleret in An Giang province located into the south of present-day Vietnam, the existence and prosperity of this Indianised kingdom have not been in doubt. The results of these excavations had been written in his doctoral thesis, then published in an entitled work « Archaeology of the Mekong delta » representing 6 volumes.

© Đặng Anh Tuấn

This allows to confirm the Chinese informations and to make them a little more precise in the confinement and localization of this kingdom. Because of the abundance of  tin archaeological finds, French archaeologist Louis Malleret did not hesitate to borrow the name Óc Eo for designating this tin civilization. We begin to have now a deep light on this kingdom as well as its external relations during the resumption of excavations undertaken both by Vietnamese teams (Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải, Lê Xuân Diêm) and French-Vietnamese team led by Pierre-Yves Manguin between 1998 and 2002 in An Giang, Ðồng Tháp and Long An provinces where a large number of sites of Óc Eo culture are located.

We know that Óc Eo was a major port of this kingdom and was a transit hub in trade exhanges between the Malaysian peninsula and India on one hand and between the Mekong and China on other one. As the boats of the region could not cover long distances and had to follow the coast, Óc Eo thus became a mandatory stop and a important strategic step during the 7 centuries of blooming and prosperity for Funan kingdom.

Óc Eo civilization

Pictures gallery 

This one occupied a quadrangle included between the gulf of Thailand and Transbassac (western plains of Mekong delta or miền tây in Vietnamese) in the South of Vietnam. It was bounded in the northwest by the Cambodian border and in the southeast by Trà Vinh and Sóc Trăng cities. Aerial photos taken by the French people in the 1920s revealed that Funan was a maritime empire (or a thalassocracy).

The Chinese authors tell us that immense city states, encircled by successive lines of earthen ramparts and ditches formely filled by crocodiles, were divided into districts by the ramification of canals and arteries. We can imagine houses and stores on piles, bordered by ships as in Venice or in the Hanseatic cities. We discover in this surprising network constituted by stars of rectilinear canals arranged according to the northeast / southwest frame (from Bassac towards the sea) and all communicating with each other, its important role for evacuating Bassac floodwaters towards the sea. This allows to wash the soil with alum, repulse headways of brackish water during Bassac floods, favor the floating rice, ensure especially the provisioning inside the kingdom by cargoes of coastal navigation coming from China, Malaysia, India and even from Mediterranean circumference.

The discovery of gold coins bearing Antonin le Pieux (in 152 A.D.) or Marc Aurèle’s effigies and low-reliefs carvings of Persian kings testifies to the important role of this kingdom in trade exchanges at the beginning of the Christian era. There is even a grand canal allowing to connect the port city Óc Eo on one hand with the sea and on the other hand with the Mekong and the ancient city of Angkor Borei, located 90 km upstream in the Cambodian territory. This one would be presumably the capital of Funan in its decline.

For French archaeologist Georges Coedès, there is no question that the Angkor Borei site corresponds exactly to that of Na-fou-na, described in Chinese texts as the city where kings of Funan wildrew after their eviction from the ancient capital of Funan, Tö-mu, identified as the city Vyàdhapura located in the Bà Phnom region of the Cambodian territory by Georges Coedès [BEFEO, XXVIII, p. 127]. The wealth of this archeological site and the variety of archeological remains originating from it, confirm his affirmation.

Thanks to archeological finds that have been recovered during all series of excavations on the complex of Óc Eo sites, we can say that this kingdom knew three important periods during its existence:

The first period which extends from the 1st to about 3th century, distinguishes itself by terra-cottas (ceramic potteries, bricks, tiles), glassware (pearls and necklaces), silverware (rings, earrings), stones sculptures (seals, signet rings, cabochons), copper, iron, bronze and especially tin objects.

We attend the first human activity on hillocks in the Óc Eo plain and on low slopes of Ba Thê mountain. The habitat is on piles and wood. The common jar grave in the South-East Asia is still practised. The process of the Indianisation is not yet started by the absence of statuaries and religious relics. But there is, all the same, a regular contact between this kingdom and India.

The commercial exchange is strengthened by local alliances and Indian teachers arrival. These one, retained longer for their stays in this kingdom because of the season of monsoons, continued to practise their religions (Brahmanism, Buddhism). They began to make emulators among the natives and to help the latter in the implementation of a hydraulic network allowing to drain the flooded plain, until now, hostile and to make it « useful » for the habitat, cultivation and development of their kingdom. The Indians were known to realize advisedly the works of agricultural hydraulics and cultivation. It is what we have seen in the country of the Tamils during the Pallava period for example.

The floating rice cultivation is attested by the traces of use of this graminaceous plant as degreasing agent for pottery. For French researcher of CNRS, J.N. Népote, specialist of the Indo-Chinese peninsula, Funan kingdom received most of its revenues from the agricultural sector in the technique of floating rice.

It was not necessary to cultivate the soil nor to sow and even less to plant rice seedlings in this time when the coastal fringe of Funan was an flooded zone of polders. The rice grew alone at the same time as the water level, this one being able to reach three metres in height. The rice was later harvested by boats. For the floating rice, the only constraint to be required was the distribution and regulation of floods by the digging of canals in order to be better able to manage the irrigation water and facilitate the means of communication.

The second period of the Funan history (4th- 7th centuries) is marked by the discovery of a large number of Vishnouist and Buddhist religious monuments on the hillocks of Oc Eo plain and on the slopes of Mount Ba Thê. The emblematic figures of the Indian pantheon (Shiva, Vishnu, Brahma, Nanin, Ganesha and Buddha) were exposed. It is also the period when the piled wooden housing moves from hillocks towards flooded plain and low slopes of Ba Thê mountain.

The indianisation of the kingdom was underway when we saw around 357 an Indian of Chinese name Tchou Tchan-t’an, being perhaps of Scythian origin and Kanishka descent, to reign in Funan kingdom [Founan: Paul Pelliot, p 269], which could explain the success of the Surya cult and its iconography in the Funan art. Another Brahman of Chinese name (Kiao-Tchen-Jou) (or Kaundinga-Jayavarma) will succeed him and will reign in Funan kingdom between 478 and 514. It is the period quite known thanks to local inscriptions in sanskrit.

Even the myth of the kingdom’s foundation comes from India: a Brahman named Kaundinya, guided by a dream, get a magic bow in a temple and navigates towards these banks where he manages to beat the girl named Soma of the native sovereign presented as Naga king (a fabulous snake) then he marries her to govern this country. We can say that during this period, the Funan kingdom knew its peak and maintained close relations with China.

The magnitude of its trade was indisputable by the discovery of a large number of objects other than that of India found on Funan banks: fragments of bronze mirrors dating from the Han anterior period, Buddhist bronze statuettes attributed to Wei dynasty, a group of purely Roman objects, statuettes of Hellenistic style in particular a bronze representation of Poseidon. These objects were probably exchanged for goods because Funan people only knew the barter. For the purchase of valuable products, they used golden and silver ingots, pearls and perfumes. They were known as excellent jewelers. The gold was finely worked with numerous Brahmanic symbols. Jewels (golden earrings with the delicate clasp, admirable golden filigrees, glass pearls, intaglios etc.) exposed in the museums of Đồng Tháp, Long An and An Giang testifies not only of their know-how and their talent but also the admiration of the Chinese in their narratives during their contact with Funan people.

The last period corresponds to the decline and end of Funan kingdom. A important change was indicated during period tcheng-kouan (627-649) to Funan kingdom in the Chinese annals. The kingdom of Tchen-la (Chân Lập) (future Cambodia) situated in the southwest of Lin Yi ( uture Champa) and country vassal of Funan took over the latter and subjugated it. This fact was not only reported in the new history of Tang (618-907) of Chinese historian Ouyang Xiu but also on a new inscription of Sambor-Prei Kuk in which king of Tchen La, Içanavarman was congratulated for having increased the territory of his parents. One thus bear witness to the abandonment of habitat and religious sites in the plain Óc Eo because the centre of gravity of the new political formation coming from the North leaves the coast to gradually approach the site of the future capital of Khmer empire, Angkor.

For French researcher J. Népote, the Khmers come from the North by Laos appear as Germanic bands against the Roman empire, try to establish inside lands a unitarian kingdom under the name of Chen La. They have no interest to keep the technique of the floating rice because they live far from the coast. They try to combine their own mastery of water storage with the contributions of Indian hydraulic science (barays) to finalize through multiple experimentations an irrigation better adjusted to the hinterland ecology and local varieties of irrigated rice.

In spite of the recent discoveries confirming the existence of this kingdom, many questions have remained unanswered. We do not know who were the indigenous people populating this kingdom. One thing is for sure: they were not Vietnamese who had arrived only in the Mekong delta in the 17th century. Were they ancestors of the Khmers? Some had this conviction when Louis Malleret began excavations in the 1940s because the toponymy of the region was totally Khmer. At the time of Funan, it was yet not clear what this is. However, thanks to the study of osseous remains of Cent-Rues (in the peninsula of Cà Mau), we are dealing with a population very close to Indonesians (or Austro-Asiatic ) (Nam Á).

A Mon-Khmer contribution in the North of this kingdom can be possible to give to Funan the juxtaposition and the fusion of two strata which are not far away from each other before becoming the race of Funan people. In this hypothesis frequently accepted, the Funan people were the proto-Khmers or the cousins of the Khmers. The absorption of a city of Malaysian peninsula (known under the name Dunsun in the Chinese sources reporting this fact ) in the 3th century by Funan in an area where the Mon-Khmer influence is undeniable, is one of the determining elements in favour of this hypothesis.

In what conditions did Óc Eo disappear? Nevertheless Óc Eo played an economic role in commercial exchanges during seven first ones centuries of the Christian era. The archaeologists continue to look for the causes of the disappearance of this port city: flood, fire, deluge, epidemic etc. …

Is the Funan kingdom a state unified with a strong central power or is it a federation of centers of urbanized and sufficiently autonomous political power on the Indo-Chinese peninsula as on the Malaysian peninsula so that we qualify them as city-states?

P.Y.Manguin has already raised this question during a colloquium organized by Copenhagen Polis centers on the city-states of the coastal South-East Asia in December, 1998. Where is its capital if the central power is strongly emphasized many times by the Chinese in their texts? Angkor Borei, Bà Phnom are they really the former capitals of this kingdom like that has been identified by French Georges Coèdes? For the moment, what has been found does not bring answers but it only redoubles the envy and desire of archaeologists to find them in the coming years because they know that they have the feeling of dealing with brilliant civilization of the Mekong delta.

 


Bibliography references

Georges Coedès: Quelques précisions sur la fin du Founan, BEFEO Tome 43, 1943, pp1-8
Bernard Philippe Groslier: Indochine, Editions Albin Michel, Paris 
Lê Xuân Diêm, Ðào Linh Côn,Võ Sĩ Khai: Văn Hoá Oc eo , những khám phá mới (La culture de Óc Eo: Quelques découvertes récentes) , Hànôi: Viện Khoa Học Xã Hội, Hô Chí Minh Ville,1995 
Manguin,P.Y: Les Cités-Etats de l’Asie du Sud-Est Côtière. De l’ancienneté et la permanence des formes urbaines. 
Nepote J., Guillaume X.: Vietnam, Guides Olizane 
Pierre Rossion: le delta du Mékong, berceau de l’art khmer, Archeologia, 2005, no422, pp. 56-65.

Royaume du Founan (Vương quốc Phù Nam)

founan

English version

Vietnamese version

Jusqu’à l’aube du XXème siècle, on fut renseigné seulement  sur cet ancien royaume hindouisé  dans quelques écrits chinois. Il fut mentionné d’abord à l’époque des Trois Royaumes Combattants (220-265) dans un texte chinois lors de l’établissement des relations diplomatiques des Wu (Đông Ngô en vietnamien ) avec les pays étrangers. Dans ce rapport, on nota que le gouverneur du Guandong et du Tonkin, Lu-Tai envoya des représentants (congshi) au sud de son royaume. Les rois au-delà des frontières de son royaume (Founan, LinYi (futur Champa) et Tang Ming (pays identifié au nord du Tchenla à l’époque des Tang)) envoyèrent chacun un ambassadeur pour lui payer un tribut. Puis Founan était cité aussi dans les annales dynastiques des Tsin (nhà Tấn) jusqu’aux Tang (Nhà Đường).

De même, le nom du Founan est la transcription phonétique de l’ancien mot khmer bhnam (montagne) en caractères chinois. Cela suscite quand même des réserves et des réticences dans l’interprétation du mot « Founan » par « montagne » pour certains spécialistes. Ceux-ci trouvent mieux la justification du mot Founan dans le sens de « tertre » car jusqu’à une époque récente, dans les études ethnographiques [Martin 1991 ; Porée-Maspero 1962-69] les Khmers avaient l’habitude de pratiquer des cérémonies autour des tertres artificiels. Les Chinois frappés par cette coutume qu’ils ne connaissaient pas ont fait allusion à ce mode de pratique pour désigner ce royaume. C’est grâce aux fouilles archéologiques entamées par Louis Malleret en 1944 à Oc eo dans la province An Giang du sud du Vietnam actuel, que l’existence et la prospérité de ce royaume indianisé» ne furent plus mises en doute. Les résultats de ces fouilles étaient apparus dans sa thèse de doctorat, puis publiés dans un ouvrage intitulé « Archéologie du delta du Mékong » et composé de 6 tomes.

Cela permet de corroborer les données chinoises et de les rendre un peu plus précises dans le confinement et la localisation de ce royaume. En raison de l’abondance des trouvailles archéologiques en étain, l’archéologue français Louis Malleret n’hésitait pas à emprunter le nom Óc Eo pour désigner cette civilisation de l’étain. On commence à avoir désormais une vive lumière sur ce royaume ainsi que sur ses relations extérieures lors de la reprise des campagnes de fouilles menées tant par des équipes vietnamiennes( Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải, Lê Xuân Diêm ) que par l’équipe franco-vietnamienne dirigée par Pierre-Yves Manguin entre 1998 et 2002 dans les provinces An Giang, Đồng Tháp et Long An où se trouve un grand nombre de sites de culture Óc Eo. On sait que Óc Eo était un grand port de ce royaume et une plaque tournante dans les échanges commerciaux entre la péninsule malaisienne et l’Inde d’une part et entre le Mékong et la Chine d’autre part. Comme les bateaux de la région ne pouvaient pas couvrir de longues distances et devaient suivre la côte, Óc Eo devint ainsi un passage obligatoire et une étape stratégique durant les 7 siècles de floraison et de prospérité du royaume du Founan. Celui-ci occupait un quadrilatère compris entre le golfe de Thailande et le Transbassac (plaines occidentales du delta du Mékong ou miền tây en vietnamien) dans le sud du Vietnam. Il était délimité au nord-ouest par la frontière cambodgienne et au sud-est par les villes de Trà Vinh et de Sóc Trăng. Des photos aériennes prises par les Français dans les années 1920 révélaient que Founan était un empire maritime (ou une thalassocratie).

Ceinturées par des lignes successives de remparts de terre et de fossés remplis jadis par des crocodiles, d’immenses cités états étaient divisées en quartiers par la ramification des canaux et des artères, nous disaient les auteurs chinois. On peut imaginer les maisons et les magasins sur pilotis bordés de navires comme à Venise ou dans les villes hanséatiques. On découvre dans cet étonnant réseau constitué par les étoiles de canaux rectilignes disposées selon la trame nord-est/sud-ouest (du Bassac vers la mer) et communiquant toutes les unes avec les autres, le rôle important d’évacuation des crues de Bassac vers la mer, ce qui permet de laver les sols alunés, refouler les avancées des eaux saumâtres lors des crues du Bassac, favoriser la culture du riz flottant et assurer surtout le ravitaillement par l’acheminent, à l’intérieur du royaume, des cargaisons de cabotage venant de Chine, de Malaisie, de l’Inde et même du pourtour méditerranéen. La découverte des monnaies d’or à l’effigie d’Antonin le Pieux, datant de 152 ap. J.C. ou de Marc Aurèle  et des bas-reliefs des rois perses témoigne du rôle important de ce royaume dans les échanges commerciaux au début de l’ère chrétienne. Il y a même un grand canal permettant de relier sa ville portuaire Óc Eo d’une part à la mer et d’autre part au Mékong et à la ville ancienne d’Angkor Borei située à 90 km en amont dans le territoire cambodgien. Celle-ci serait vraisemblablement la capitale du Founan à son déclin.

Pour l’archéologue français Georges Coedès, il ne fait aucun doute que l’emplacement d’Angkor Borei correspond exactement à celui de Na-fou-na, décrit dans les textes chinois comme la ville où se retirèrent les rois fouanais après leur éviction de l’ancienne capitale du Founan, Tö-mu, identifiée comme la ville Vyàdhapura et localisée dans la région de Bà Phnom du territoire cambodgien par Georges Coedès [BEFEO, XXVIII, p.127]. La richesse de ce site archéologique et la variété des vestiges archéologiques qui en proviennent corroborent son affirmation.

Grâce à des objets mis au jour lors de toutes les campagnes de fouilles sur le complexe de sites de Óc Eo, on peut dire que ce royaume connut trois périodes importantes durant son existence :
La première période qui s’étend du Ier au III ème siècle environ se distingue par des terres cuites (poteries en céramique, briques, tuiles), la verrerie (perles et colliers), l’orfèvrerie en or (bagues, boucles d’oreilles), des pierres gravées (sceaux, bagues à chaton, cabochons), d’objets en cuivre, fer, bronze et surtout en étain. 

On assiste à la première occupation humaine sur des tertres dans la plaine de Óc Eo et sur les basses pentes du mont Ba Thê. L’habitat est sur pilotis et en bois. La sépulture en jarre, fréquente dans l’Asie du Sud est pratiquée encore. Le processus de l’indianisation n’est pas encore entamé par l’absence de statuaires et de reliques religieuses. Mais il y a quand même un contact régulier entre ce royaume et l’Inde.

L’échange commercial est renforcé par des alliances locales et l’arrivée des maîtres indiens. Ceux-ci, retenus plus longtemps pour leurs séjours dans ce royaume à cause de la saison des moussons, continuaient à pratiquer leurs religions (brahmanisme, bouddhisme). Ils commençaient à faire des émules parmi les indigènes et à aider ces derniers dans la mise en place d’un réseau hydraulique permettant de drainer la plaine jusqu’alors hostile et inondée et de la rendre « utile » pour l’habitat, la culture et l’aménagement de leur royaume. Les Indiens étaient connus pour réaliser à bon escient les travaux d’hydraulique agricole et de mise en culture. C’est ce qu’on a vu dans le pays tamoul sous les Pallava par exemple.

La culture du riz flottant est attestée par les traces d’utilisation de cette graminacée comme agent dégraissant pour les poteries. Pour le chercheur du CNRS J.Népote, spécialiste de la péninsule indochinoise, le royaume du Founan tirait l’essentiel de ses ressources agraires dans la technique du riz flottant.

Il n’était pas nécessaire de cultiver la terre ni de l’ensemencer et encore moins de repiquer les plants de riz à cette époque du fait que la frange côtière du Founan était une zone de polders inondable. Le riz poussait tout seul en même temps que le niveau de l’eau, celui-ci pouvant atteindre trois mètres de hauteur. Le riz était ensuite récolté par les barques. Pour la culture du riz flottant, la seule contrainte exigée était la diffusion et la régulation des inondations par le creusement des canaux afin de pouvoir mieux gérer l’eau d’irrigation et faciliter les moyens de communication.

Art du Fou-nan VIème siècle après J.C. 

Terre cuite, polychromie moderne

phunam_3

La deuxième période de l’histoire du Founan (IVème –VIIème siècles) est marquée par la découverte d’un grand nombre de monuments religieux vishnouites et bouddhiques sur les tertres de la plaine Oc Eo et sur les flancs du mont Ba Thê. Les figures emblématiques du panthéon indien (Shiva, Vishnu, Brahma, Nanin, Ganesha et Bouddha) ont été mises au jour. C’est aussi la période où l’habitat en bois sur pilotis se déplace des tertres vers la plaine inondable et vers les basses pentes du mont Ba Thê.

L’indianisation du royaume était en marche lorsqu’on vit vers 357, un Indien de nom chinois Tchou Tchan-t’an, peut être d’origine scythe et de souche même de Kanishka, régner au royaume du Founan [ Le Founan : Paul Pelliot, p 269], ce qui pourrait expliquer le succès du culte de Surya et de son iconographie dans l’art fouannais. Un autre brahmane de nom chinois (Kiao-Tchen-Jou) (ou Kaundinga-Jayavarma) lui succédera et régnera sur le Founan entre 478 et 514. C’est la période assez connue grâce à des inscriptions locales en sanskrit.

Même le mythe de la fondation du royaume vient des Indes: Un brahmane du nom de Kaundinya guidé par un songe procure un arc magique dans un temple et navigue vers ces rives où il réussit de battre la fille de nom Soma du souverain indigène présenté comme le roi naga (un serpent fabuleux) puis il l’épouse pour gouverner ce pays. On peut dire que durant cette période, le royaume du Founan connut son apogée et entretint des relations suivies avec la Chine.

L’ampleur de son commerce fut incontestable par la découverte d’un grand nombre d’objets autres qu’indiens trouvés sur les rives du Founan: fragments de miroirs en bronze datant de l’époque des Han antérieurs, statuettes bouddhiques en bronze attribuées aux Wei, un groupe d’objets purement romains, des statuettes de style hellénistique en particulier une représentation en bronze de Poséidon. Ces objets étaient échangés probablement contre des marchandises car les Founanais ne connaissaient que le troc. Pour l’achat des produits de valeur, ils se servaient des lingots d’or et d’argent, des perles et des parfums. Ils étaient connus comme d’excellents bijoutiers. L’or était finement travaillé avec de nombreux symboles brahmaniques. Les bijoux (boucles d’oreilles en or au fermoir délicat, admirables filigranes d’or, perles de verre, intailles etc… ) exposés dans les musées de Đồng Tháp, Long An et An Giang témoignent non seulement de leur savoir-faire et de leur talent mais aussi de l’admiration des Chinois dans leurs récits durant leur contact avec les Founanais.

La dernière période correspond à la décadence et à la fin du royaume du Founan. Un important changement a été signalé durant la période tcheng-kouan (627-649) au royaume du Founan dans les annales chinoises. Le royaume de Tchen-la (Chân Lạp)( futur Cambodge) situé au sud-ouest du Lin Yi ( futur Champa) et pays vassal de Founan s’empara de ce dernier et le soumit. Ce fait a été rapporté non seulement dans la nouvelle histoire des Tang (618-907) de l’historien chinois Ouyang Xiu mais aussi sur une inscription inédite de Sambor-Prei Kuk dans laquelle on félicita le roi du Tchen La Içanavarman d’avoir grandi le territoire de ses parents. On assiste alors à l’abandon des sites d’habitat et religieux de la plaine Óc Eo car le centre de gravité de la nouvelle formation politique venant du Nord s’éloigne de la côte pour s’approcher progressivement du site de la future capitale de l’empire khmer, Angkor. Pour le chercheur J. Népote, les Khmers venus du Nord par le Laos apparaissent comme des bandes germaniques vis-à-vis de l’empire romain, tentent de constituer à l’intérieur des terres un royaume unitaire connu sous le nom de Chen La. Ils ne trouvent aucun intérêt de garder la technique de la culture du riz flottant car ils vivent loin de la côte. Ils tentent de combiner leur propre maîtrise des retenues d’eau avec les apports de science hydraulique indienne (les barays) pour mettre au point à travers de multiples tâtonnements une irrigation mieux adaptée à l’écologie de l’arrière- pays et aux variétés locales du riz irrigué. 

founan_collier

Collier en perles de verre de la culture Óc Eo.

Malgré les découvertes récentes confirmant l’existence de ce royaume, de nombreuses questions sont restées sans réponse. On ne sait pas qui étaient les populations autochtones peuplant ce royaume. On est sûr d’une seule chose: ils n’étaient pas des Vietnamiens arrivés seulement dans le delta du Mékong au XVIIème siècle. Étaient-ils des ancêtres des Khmers ? Certains ont eu cette conviction à l’époque où Louis Malleret entama des fouilles dans les années 40 car la toponymie de la région était totalement khmère. Au temps de Founan, on ne savait pas encore très bien qui ils sont. Par contre grâce à l’étude des vestiges osseux des Cent-Rues (dans la presqu’île de Cà Mau), on a affaire à une population très proche des Indonésiens (ou Austro-asiatiques) (Nam Á).

Un apport môn-khmer dans le nord de ce royaume peut être envisageable pour donner à Founan la juxtaposition et la fusion de deux strates qui ne sont guère éloignées l’une de l’autre avant de devenir la race founanaise. Dans cette hypothèse fréquemment admise, les Founanais étaient les proto-Khmers ou les cousins des Khmers. L’absorption d’une cité de la péninsule Malaise (connue sous le nom Dunsun dans les sources chinoises qui rapportent ce fait) au IIIème siècle par Founan dans une zone où l’influence môn-khmère est indéniable, est l’un des éléments déterminants en faveur de cette hypothèse.

Dans quelles conditions Óc Eo a-t-elle disparue ? Pourtant Óc Eo joua un rôle économique important dans les échanges commerciaux durant les sept premiers siècles de l’ère chrétienne. Les archéologues continuent à rechercher les causes de la disparition de cette ville portuaire: inondation, incendie, déluge, épidémie etc…

Galerie des photos de la civilisation Óc Eo

 

 

Le royaume du Founan est–il un état unifié avec un pouvoir central fort ou est-il une fédération de centres de pouvoir politique urbanisés et suffisamment autonomes sur la péninsule indochinoise comme sur la péninsule malaise pour qu’on les qualifie de cités-états ?

P.Y.Manguin a déjà soulevé cette question lors d’un colloque organisé par le Copenhagen Polis centre sur les cités-états de l’Asie du Sud-Est côtière en décembre 1998. Où est sa capitale si le pouvoir central est fortement souligné maintes fois par les Chinois dans leurs textes? Angkor Borei, Bà Phnom sont –elles vraiment les anciennes capitales de ce royaume comme cela a été identifié par Georges Coèdes ? Pour le moment, ce qui a été trouvé n’apporte pas des réponses mais cela fait redoubler seulement l’envie et le désir des archéologues de les trouver dans les années à venir car ils ont le sentiment d’avoir affaire à une brillante civilisation du delta du Mékong.


Références bibliographiques

Georges Coedès: Quelques précisions sur la fin du Founan, BEFEO Tome 43, 1943, pp1-8
Bernard Philippe Groslier: Indochine, Editions Albin Michel, Paris 
Lê Xuân Diêm, Ðào Linh Côn,Võ Sĩ Khai: Văn Hoá Oc eo , những khám phá mới (La culture de Óc Eo: Quelques découvertes récentes) , Hànôi: Viện Khoa Học Xã Hội, Hô Chí Minh Ville,1995 
Manguin,P.Y: Les Cités-Etats de l’Asie du Sud-Est Côtière. De l’ancienneté et la permanence des formes urbaines. 
Nepote J., Guillaume X.: Vietnam, Guides Olizane 
Pierre Rossion: le delta du Mékong, berceau de l’art khmer, Archeologia, 2005, no422, pp. 56-65.