Eglises byzantines (Athènes, Grèce)

Version française

Để có thể được đến gần Đức Chúa Trời, Constantin Đại đế La Mã  đã không trì hoãn trong việc xây dựng các nhà thờ sau khi ngài cải đạo sang Công giáo và sau khi ngài đánh bại  Maxence ở trận cầu Milvian năm 312 và quyết định dời trụ sở của đế chế La Mã  về  ở Byzance thường  được gọi là Constantinople (hay là thủ  đô Istanbul ngày nay). Đây là sự  ra đời của Đế chế Byzantin ở nơi mà Cơ đốc giáo được  trải qua một thời phát triển mới ở phương Đông với sự xuất hiện của các công trình kiến trúc linh thiêng được song hành với một tiến hóa chính trị, xã hội và nghệ thuật  đặc biệt ở  trên vùng lãnh thổ rộng lớn (từ bờ biển phía bắc Phi Châu đến vùng châu Á và từ vùng Balkan đến miền nam của Syria) mà đế chế đã chinh phục được  qua nhiều thế kỷ. Người ta không những tìm thấy được  niềm khao khát vĩnh cửu của con người trong các công  trình này mà còn đây là phương tiện rất phổ biến để con người  có  thể hiện được khát vọng của mình đối với các bậc thần thánh.

Sự  khác biệt ở các nhà thờ Byzantine là có sự hiện diện của một mái vòm nằm  ở trung tâm thường được ví với vòm trời lơ lửng ở trên mặt đất. Nhờ đó nó mang lại ánh sáng ban ngày qua các cửa sổ nhỏ soi sáng không nhiều những bức tranh khảm nhỏ, các biểu tượng, các bích họa có nhiều màu và trang trí bằng vàng và  tạo ra được một  bầu không khí huyền bí giúp tín đồ thoát khỏi nơi trần thế và giao tiếp với Đức Chúa Trời. Các thần thánh được thể hiện từ trên  cao. Mái vòm thường bao gồm hình ảnh của Pantocrator (Chúa Kitô Toàn Năng), ngài quan sát và phán xét từng hành động của các tín đồ. Bên dưới, thì có Đức Mẹ của  Thiên Chúa (Theotokos) và Hài nhi được đặt  cao  chót vót trên các vị thánh chính và bên dưới  nửa các vị thần  thánh khác. Tuy nhiên các bức tranh tường và biểu tượng Byzantine này đã tạo ra một cuộc khủng hoảng trầm trọng mang tính cách  bài trừ thánh tượng. Nó  được kéo dài hơn một trăm năm giữa những người muốn hủy bỏ  bằng mọi giá việc tôn thờ các hình ảnh bằng cách tìm thấy có sự lệch lạc đức tin với chủ đích tà  đạo và những tín đồ biện minh cho việc sử dụng chúng như một phương tiện để tôn trọng những nhân vật được kính trọng.

Cuộc khủng hoảng này làm mất đi  một phần lớn các tác phẩm của nghệ thuật Byzantine đầu tiên do sự phá hủy triệt để các biểu tượng được trưng bài trên tường. May thay, nhờ nữ hoàng  nhiếp chính Theodora mà việc tôn thờ các biểu tượng đã được khôi phục lại  vào năm 843 và được công nhận là một phần không thể thiếu  được từ  đây trong nghi lễ. Bất chấp sự mất mát này, hình tranh ở trên tường giờ đây đã trở thành phương tiện phổ biến  của nghệ thuật Byzantine và giáo lý công giáo phương Đông trong các nhà thờ của đế quốc Byzantin trong khi các thiết kế hoa văn và hình học thì dùng lấp đi những khoảng trống ở trong các nhà thờ. Do đó, các trang trí trên tường chiếm toàn bộ nhà thờ Byzantine. Mặt khác, không có một tác phẩm điêu khắc nào được trông thấy trong các nhà thờ Byzantine vì đó là cách để phân biệt các nhà thờ nầy với thời cổ đại ngoại  đạo.

 

 Galerie des images

Pour pouvoir  se rapprocher de Dieu, l’empereur romain Constantin 1er le Grand ne tarda pas  à construire ses églises lors de sa conversion au christianisme après sa victoire sur Maxence à la bataille du pont Milvius en 312 et sa décision de transférer le siège de son empire romain à Byzance connue sous le nom de Constantinople (ou Istanbul d’aujourd’hui). C’est ainsi qu’est né l’empire byzantin dont le christianisme connut un nouveau essor en Orient avec l’apparition des édifices sacrés allant de pair avec une évolution sociale, politique et artistique  particulière dans le vaste territoire (de la côte d’Afrique du Nord à l’Asie et des Balkans au sud de la Syrie)  qu’il avait réussi à conquérir au cours des siècles. On trouve non seulement le désir humain d’éternité dans ces constructions mais aussi le moyen très répandu pour l’homme d’exprimer son aspiration au divin.

Les églises byzantines se distinguent toujours par la présence d’une coupole centrale comparée à la voûte céleste suspendue au dessus de la terre. Cela  fait entrer la lumière du jour par la multitude de petites fenêtres éclairant peu ainsi les mosaïques, les icônes, les fresques multicolores rehaussées d’or et crée une ambiance mystique permettant au fidèle de s’évader du monde terrestre et d’être en communication avec Dieu. Les sujets célestes se donnent à voir en hauteur. La coupole comprend souvent une représentation de Pantocrator (le Christ tout puissant) qui observe et juge chaque action du fidèle. Au dessous, l’abside  abrite la mère de Dieu (Theotokos)  et l’Enfant dominant eux-mêmes les principaux saints et au dessous d’autres saints. Pourtant ces représentations murales et ces icônes byzantines créent une crise  iconoclaste ayant duré plus de cent ans entre les gens qui veulent  détruire à tout prix le culte des images en y trouvant la déviation de la foi à des fins de l’idolâtrie et du paganisme et les croyants qui  justifient leur emploi comme le moyen de respecter les personnages vénérés. Cette crise fait perdre une grande partie du premier art byzantin par la destruction de ces représentations murales.  Heureusement, c’est grâce à l’impératrice régente Théodora que le culte des icônes fut restauré en 843 et reconnu comme partie intégrante de la liturgie. Malgré cette perte, l’iconographie  murale devient désormais  le véhicule  de l’art byzantin et du dogme chrétien oriental  dans les églises de l’empire byzantin  tandis que  les dessins floraux et géométriques comblent leurs espaces vides.  Les décorations murales occupent  ainsi l’ensemble de l’église byzantine.  Par contre aucune sculpture n’est visible dans les églises byzantines car il s’agit d’une manière de se distinguer de l’antiquité païenne.  

 

Athènes , capitale de la Grèce (Thủ đô Hy Lạp)

Ses églises byzantines magnifiques

Version française

Athènes không những là thủ đô của đất nước Hy Lạp ngày nay mà còn là trung tâm văn hoá ở thế kỉ thứ V trước Công Nguyên. Trong thời kỳ hoàng kim, thế giới Hy Lạp gồm có nhiều thành bang thì Athènes được xem là thành bang quang trọng nhất và được giữ vai trò chủ đạo trong liên minh hợp nhất Delos  chống lại  đế chế  Ba Tư  qua các trận chiến hiển hách như MarathonSalamine nhưng sau đó vì tham vọng của Athènes dưới thời Périclès  nên dẩn đến  chiến tranh Péloponèse kéo dài gần 30 năm giữa Athènes và các thành bang khác được Sparte dẫn đầu khiến thành bang Athènes sau đó bị bại trận từ khi thành bang có dịch bệnh và  suy yếu khiến mất đi  về sau nền độc lập qua trận chiến  Chaeronea với vuơng quốc Macédoine của Philippe II ở phiá bắc Hy Lạp. Từ đó  quốc gia nầy trở thành bá chủ về sau với  Alexandre Đại Đế. Từ lâu nay, Athènes được coi là nơi khai sinh ra nền văn minh phương tây. Athènes thu hút hàng triệu du khách mỗi năm vì đây là thành phố có bề dày lịch sử  nhất là có một thời  kỳ bị các đế quốc Đông La Mã (Byzance) và Ottoman  cai trị  nên  rất có nhiều di tích và các nhà thờ byzantine tuyệt vời để tham quan. Du khách đến Athènes thường cư trú ở khu phố cổ Plaka tiện bề cho việc mua sắm vả lại giá cả khách sạn cũng phải chẳng. Bạn ở khu nầy thì ít mất thì giờ, có thể đi bộ  khi đi tham quan  và nếu bạn không  ở nhiều ngày ở Athènes. Khu náo nhiệt có nhiều quán ăn nhất là khu của quảng trường Monastiráki, nơi có một nhà tu viên nhỏ  được tọa lạc ở phiá bắc dưới chân đồi   của đền Acropole và nơi có trạm tàu điện ngầm cùng tên nếu bạn muốn đi métro.  Cũng dễ đi thôi chỉ có 3 tuyến đường mà thôi chớ không có thể lạc hướng như ở Paris. Ẩm thực Hy Lạp cũng quá tầm thường không có phong phú như ẩm thực Pháp hay Việt. Đời sống rẻ hơn ở Paris nhiều lắm, lương  tối thiểu là 7, 8 trăm euros một tháng theo lời  kể lại của một cháu sinh  viên phục vụ  ờ nhà hàng Hà Nội. Nhà hàng nầy  có những món ăn rất ngon và rẻ như phở, bánh cuốn hay gỏi cuốn và được đánh giá bởi Tripadvisor với số điểm 4,5  ở khu Syntagma. Khu nầy  có  quốc hội Hy Lạp nên  có cuộc diễu hành của các lính bộ binh evzone hằng ngày.  Người dân Hy Lạp cũng rất hiền hoà và hiếu khách. Ngược lại cũng như Paris ở các khu đông du khách thường có trò móc túi nên phải đề cao cảnh giác.

Version française

Athènes n’est pas non seulement  la capitale de la Grèce, mais aussi un centre culturel au Vème  siècle av. J.C.  A la période de l’âge d’or, le monde hellénistique était constitué de nombreuses cités-états parmi lesquelles  Athènes était considérée comme la cité-état la plus importante et jouait un rôle majeur  dans la ligue de  Délos contre l’empire perse à travers les batailles éclatantes ayant eu lieu à  Marathon et à Salamine, mais ensuite à cause des ambitions démesurées d’Athènes sous la gouvernance de Périclès, cela conduisait  à la guerre de  Péloponnèse durant  près de 30 ans entre Athènes et d’autres cités-états dirigées par Sparte. Étant affaiblie par l’épidémie  de  la peste détruisant ainsi un tiers de la population, Athènes dut accepter finalement  la reddition  et  perdit plus tard   son indépendance dans la bataille de Chaeronea contre le royaume de Macédoine de Philippe II dans le nord de la Grèce. Depuis lors, ce dernier ne tarda pas à imposer son hégémonie sur l’ensemble de la Grèce avec son fils  Alexandre le Grand. Athènes est considérée depuis longtemps  comme le berceau de la civilisation occidentale. Athènes attire des millions de visiteurs chaque année car c’est une ville chargée d’histoire. Il y a une  époque  où elle était annexée et  gouvernée par les empires byzantins (Byzance) et ottomans. C’est pourquoi il y a donc de nombreux vestiges historiques et des églises byzantines magnifiques à visiter.

De passage à Athènes, le touriste  peut se loger dans la vieille ville de Plaka. C’est très pratique  pour faire le shopping. Les prix des hôtels sont également raisonnables. Si vous restez dans ce quartier, cela vous prend moins de temps  avec la marche à pied pour visiter les sites historiques et si vous pensez surtout à ne pas rester longtemps à Athènes. Le quartier le plus animé et bondé de restaurants reste la  place Monastiráki, où on trouve non loin  un petit monastère situé au nord dans les contreforts du temple de l’Acropole. C’est aussi ici que vous trouvez la station de métro  portant le  même nom si vous voulez tenter de prendre le métro. C’est aussi facile de le  faire car il n’y a que 3 lignes ferroviaires. Il est difficile de s’y perdre comme à Paris. La cuisine grecque  n’est pas très fameuse. Elle n’est pas très copieuse comme la cuisine française ou vietnamienne. Le niveau de vie est beaucoup moins cher qu’à Paris.  Le salaire minimum est de 700 à 800 euros par mois, ce que m’a rapporté un jeune étudiant  travaillant  dans un restaurant vietnamien de nom Hanoï. Ce dernier nous propose des plats très  délicieux et à bon marché comme le phở, la crêpe vietnamienne  ou le rouleau de printemps.  Il est très apprécié  par Tripadvisor avec une note  de 4,5 à Syntagma. Celui-ci  abrite également le parlement grec devant lequel a lieu le défilé quotidien  des evzones. Les Grecs sont aussi très gentils et hospitaliers. En revanche, comme à Paris dans les zones touristiques surpeuplées, il faut se méfier des pickpockets et  faire preuve de prudence.

L’archipel de Santorin (Grèce)

Version française

Nằm  ở biển Égée, thuộc về quần đảo Cyclades cách xa lục địa Hy Lạp 186 cây số  về phía đông nam, quần đảo Santorini thực sự được tạo thành từ năm hòn đảo núi lửa, trong đó lớn nhất là đảo Santorini. Vào thế kỷ 13, người dân của thành quốc Venise  đặt cho hòn đảo này cái tên Santorini liên quan đến Thánh nữ Irene, tu nữ Irini đã tử vì đạo ở phương Đông dưới triều đại của Hoàng đế Diocletian vào đầu thế kỷ thứ 4, người mà các thủy thủ nước ngoài gọi là Santa Irini. Cái tên này đã  biến chuyển qua nhiều năm thành Santo Rini để trở thành ngày nay là Santorini. Sau khi quần đảo nầy được sáp nhập vào Hy Lạp vào năm 1840, nó mang tên cổ là Thera nhưng cái tên Santorini vẫn được nhiều người ưa thích. Sự ra đời của Santorini còn có nhiều bí ẩn về nó. Santorini có thể là vị trí được kể lại trong huyền  thoại về Atlantis, thành phố Hy Lạp đã biến mất dưới nước và lấy tên nó cho Đại Tây Dương. Do đó, viên ngọc  của quần đảo Cyclades có thể là Pompéi của biển Égée được kể lại trong các tác phẩm của nhà triết học Plato của Hy Lạp cổ đại.

Thành phố chính của đảo Santorini tên là Théra cao 300m so với mực nước biển, đảo nầy thực chất là một ngọn núi lửa cổ đại. Điều gây ấn tượng cho du khách đến Santorini là phong cách kiến ​​trúc của nó được nổi bật bởi tất cả những ngôi nhà màu trắng và xanh trên vách đá. Nhiều quán cà phê nằm trước biển.  Du khách có thể vừa nhâm nhi ly cốc-tay vừa ngắm hoàng hôn từ  thành phố  Théra hay tuyệt vời  hơn nữa là ở ngôi làng Oia duyên dáng.

Version française

Situé en mer Egée dans les Cyclades à 186 kilomètres au sud-est de la Grèce continentale, l’archipel de Santorin est constitué en fait de cinq îles volcaniques dont la plus grande est l’île Santorin. Au XIIIème siècle, les Vénitiens donnèrent à cette île le nom de Santorin en référence à Sainte Irène, la sœur  Irini martyrisée en Orient  sous le règne de l’empereur Dioclétien au début du  IVème siècle,  que les marins étrangers ont appelée Santa Irini. Ce nom a évolué au fil des années en  Santo Rini pour devenir  aujourd’hui Santorin. Après le rattachement de l’archipel à la Grèce en 1840, celui-ci reprend officiellement le nom antique de Théra mais le nom de Santorin est toujours largement  employé. La naissance de Santorin est entourée  encore d’un grand mystère. Santorin pourrait être l’endroit raconté dans le mythe de l’Atlantide, la ville grecque ayant eu disparu sous les eaux et donné son nom à l’océan Atlantique. La perle des Cyclades pourrait être  ainsi la  Pompéi de la mer Égée raconté dans les œuvres de Platon de la Grèce antique.

La principale ville Théra de l’île Santorin se trouve à 300m d’altitude. Cette île est en fait un ancien volcan. Ce qui frappe à Santorin c’est son style architectural qui se distingue  par toutes  ses maisons  blanches et bleues sur les falaises. De nombreux cafés se trouvent en face de  la mer. Le touriste peut  siroter un cocktail en regardant le coucher de soleil depuis la ville principale  Théra ou mieux encore au charmant village Oia.

Le complexe monumental d’Acropole d’Athènes

Version française

QUẦN THỂ ACROPOLE-PARTHÉNON

DEUXIÈME JOUR À ATHÈNES

Đến Hy Lạp mà không có đi tham quan quần thể Acropole và Parthénon ở  thủ đô Athènes  thì có thể xem như  là không biết lịch sử xứ nầy. Nơi nầy được  tọa lạc ở trên một cái đồi cao chừng một trăm thước và được bao xung quanh bởi một bức tường. Thưở ban ban đầu nguời Hy Lạp cổ dùng làm nơi ẩn náo khi có các cuộc tấn công của kẻ thù.  Sau đó nơi nầy trở thành nơi thờ phượng nhất là có một toà nhà dành riêng cho nữ thần Athéna, con gái của thần Zeus và nữ thần Métis. Đây là nữ thần bảo vệ thành Athènes. Chinh ở nơi nầy sau khi  đánh bại người Ba Tư cổ qua trận chiến hiển hách Salamine vào năm 480 trước Công nguyên, nhà chính trị gia đa tài Périclès mới nhờ kiến trúc sư Phidias xây dựng ở nơi nầy vào nửa sau của thế kỷ thứ 5, đền Parthénon. Cũng chính ở nầy Périclès thiết lập nền dân chủ dựa trên nguyên tắc bình đẳng chính tri giữa các công dân  loại trừ các thành phần trong xã hội  như  phụ nữ,  nô lệ và người ngoại quốc và  củng cố quyền lực bá chủ cuả  Athènes trên các thành quốc (cités-états) và các đảo khác của Hy Lạp  trong liên minh quân sự Devos từ 478 trước Công Nguyên. (ligue de Devos).

Muốn tham quan nơi nầy, du khách phải chịu nhiều thử thách. Phải gian nan đi bộ, phải trèo leo các dốc khá vất vả, phải nối đuôi xếp hàng mua vé ít nhất là một tiếng rưởi nếu không mua ở trên mạng dưới cái nóng ngột ngạt của mùa hè. Để tránh cái nắng hừng hực nầy tụi nầy phải mua vé ở trên mạng nhưng cũng phải biết mua ở trang nhà của cơ quan chính phủ Hy Lạp còn không sẽ  mua với giá cả rất cao và không có bớt  cho các thành phần như người cao tuổi và  trẻ em. Ở trang nhà của chính phủ thì trẻ em như cháu của mình dân  Pháp thuộc cộng đồng Âu Châu thì được xem miễn phí đến 26 tuổi.  Còn người cao tuổi như mình thì trả tiền nửa vé. Nói tóm lại vẫn rẻ hơn mua các trang nhà cũa các cơ quan tư nhân khác. Tụi nầy biết được điều nầy nhờ có sự chỉ dẫn của một anh tiếp tân  ở khách sạn mình cư trú. Đây là giai đọan đầu của cuộc tham quan quần thể Acropolis. Tụi nầy chọn đi sáng sớm vì thời tiết  còn mát mẻ nhất là quần thể nầy mở cửa lúc 8 giờ sáng. Có vé ở trên mạng, đến nơi cũng phải nối đuôi để được đi vào quần thể. Tụi nầy đi lúc 7 giờ sáng được vào tham quan lúc 8 giờ rưởi cũng mất một tiếng rưởi đấy. Tóm lại mua tại chổ, nối đuôi mua vé rồi nối đuôi để đi vào quần thể, phải mất ít nhất 3 tiếng. Đây là một thử thách mà mọi du khách đến đây phải chấp nhận mà cũng xứng đáng để tham quan được một lần trong đời người.

Version française

Sans visiter le complexe monumental de l’Acropole et du Parthénon dans la capitale Athènes,  la venue en Grèce peut être considérée  comme la méconnaissance  de l’histoire de ce pays. Ce lieu est situé sur une colline d’une centaine de mètres de haut et entouré d’un mur. Autrefois,  les anciens Grecs l’utilisaient  pour servir de refuge en  cas d’attaque des ennemis. Il devint plus tard un lieu de culte notamment avec un édifice dédié à la déesse Athéna, fille de Zeus et de la déesse Métis. C’était  la  protectrice de la ville d’Athènes. Après avoir vaincu les Perses lors de la glorieuse bataille de Salamine en 480 av. J.-C.,   l’homme politique talentueux Périclès demanda à l’architecte Phidias d’édifier à cet emplacement dans la seconde moitié du Vème  siècle, le Parthénon. Mais c’était également ici que Périclès établit une démocratie fondée sur le principe de l’égalité politique entre les citoyens, excluant certaines catégories de la classe sociale: les femmes, les esclaves et les étrangers et consolida ainsi  l’hégémonie d’Athènes sur  les autres cités-états et les îles grecques dans la ligue de Devos (une sorte d’alliance militaire) depuis 478 av. J.-C..

Pour visiter cet endroit, les touristes étrangers doivent faire face à de nombreux défis. Il faut marcher à pied, monter péniblement les pentes assez ardues, faire la queue durant une heure et demi au moins  pour l’achat des tickets sur place  dans la chaleur suffocante de l’été. Pour éviter ce soleil accablant, il vaut mieux acheter les billets en ligne mais il faut connaître  le site de l’agence gouvernementale grecque sinon on se retrouve avec des sites privés proposant le prix assez élevé et il n’y a aucune réduction. Sur le site du gouvernement grec, les enfants comme mon petit enfant  français appartenant à  la Communauté européenne peuvent visiter gratuitement tous les sites grecs jusqu’à 26 ans. Quant aux gens âgés, le billet est à moitié prix. Bref c’est plus intéressant pour l’achat des billets sur le site gouvernemental.  Nous connaissons cette information  grâce à l’indication d’un réceptionniste de l’hôtel. C’est la première étape pour  la visite de ce complexe monumental Acropolis. Nous préférons de le visiter le matin de bonne heure car il fait frais et ce lieu est ouvert à 8 heures. En achetant le billet sur Internet, il faut faire la queue quand même pour l’accès à Acropolis. Nous nous pointions  à 7 heures du matin devant l’entrée et nous pouvions y accéder seulement à 8h et demi. En résumé, en achetant les billets sur place, il faut compter 3 heures d’attente. C’est un défi que tout le monde doit accepter mais cela vaut le coup de visiter ce lieu une fois dans la vie.


 

 


Quelques informations utiles:

Site officiel du gouvernement grec
pour l’achat des tickets d’entrée pour les musées.
https://www.tap.gr/
Hôtel recommandé:  Athens Psiri Hotel
32 Sofokleous str., Athens, Greece
+30 210 52 34 329
info@athenspsirihotel.com
www. athenspsirihotel.com

 

Village médiéval Eze (le plus beau village de France)

 

Version vietnamienne

Perché sur un piton rocheux  de 429 mètres d’altitude entre le Ciel et la Mer avec ses ruelles pavées et sinueuses et ses maisons étagées bien fleuries  le faisant  passer pour un dédale, le village médiéval Eze est situé entre Nice et Menton et à 8km de la principauté de Monaco dans le département Alpes-Maritimes. Il est connu pour son église baroque Notre-Dame de l’Assomption et son jardin exotique aménagé sur les ruines de la forteresse médiévale. C’est ici qu’on voit  s’installer une véritable harmonie où les sculptures longilignes en terre cuite de l’artiste-sculpteur Jean-Philippe Richard côtoient les plantes succulentes des régions désertiques d’Amérique du Nord et du Mexique (cactus,  agaves, aloès, euphorbes etc.) et de la  Méditerranée. C’est aussi ici que le visiteur peut  contempler  un panorama magnifique  sur la Riviera française en contrebas. Le village est riche en histoire. À l’image de tous les villages de la région méditerranéenne, les Romains occupèrent ce lieu, dès le 3ème siècle après J.-C. en le faisant devenir un oppidum romain pour faire face à tous les envahisseurs. Puis c’est aussi  par une petite porte nommée  aujourd’hui « porte des Maures » que  les Sarrasins réussirent à prendre la cité en l’an 900 à l’époque où ils dévastaient la  Provence et la Ligurie  pendant plus de 70 ans jusqu’à sa  libération par le comte de Provence, Guillaume 1er. La cité  fut rattachée  ensuite en l’an 1388 à la couronne de Savoie qui apportait beaucoup de modifications à caractère défensif  dans la protection de la cité par une  double porte connue sous le nom « Poterne » avant d’être rattachée définitivement à la France  lors d’un vote à l’unanimité des Ézasques les 15 et 16 avril 1860.

Jardin exotique
Vue panoramique sur la Riviera 

Version vietnamienne

Nằm trên một đỉnh núi đá cao 429 mét so với mực nước giữa Trời và Biển với những con đường lát đá và quằn quèo  cùng những ngôi nhà nhiều tầng nở  đầy hoa khiến nơi đây trông giống như một mê cung, ngôi làng thời trung cổ Eze được tọa lạc cách xa công quốc Monaco 8 cây số giữa hai thành phố Nice và Menton và ở trong  địa phận Alpes-Maritimes . Làng nầy  được biết đến với nhà thờ Notre-Dame de l’Assomption kiểu phong cách baroque và khu vườn nhiệt đới  được hoàn tất trên phế tích của một pháo đài ở thời trung cổ. Chính tại đây, được thấy  có sự hài hòa của các tác phẩm điêu khắc bằng đất nung thanh mảnh  của nhà điêu khắc Jean-Philippe Richard được dựng bên cạnh các loài thực vật mọng nước  đến từ các vùng sa mạc của Bắc Mỹ và Mexico (như  xương rồng, cây thùa, lô hội, euphorbias, vân vân) và Địa Trung Hải. Cũng tại đây, du khách có thể nhìn xem  một phong cảnh tuyệt vời của vùng duyên hải Pháp ở phía dưới. Ngôi làng nầy rất giàu về lịch sử. Giống như các làng ở khu vực Địa Trung Hải, người La Mã đã chiếm đóng nơi này từ thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên bằng cách biến nó thành một thành lũy (oppidum) kiên cố để  chống lại quân xâm lược. Sau đó, nhờ thông qua một cánh cửa nhỏ nay gọi là  « cửa của người Moor », người Hồi giáo đã thành công  chiếm được thành vào năm 900 khi họ tàn phá Provence và Liguria có hơn 70 năm cho đến khi được bá tước của Provence, Guillaume đệ nhất giải phóng. Làng nầy được thuộc sau cùng về vương quốc Savoie vào năm 1388. Vương quốc  nầy thực hiện  nhiều sửa đổi mang tính chất phòng thủ trong việc củng cố  thành lũy  qua cánh cửa đôi được biết đến nay với cái tên « Poterne » trước khi  thành được trở về  vĩnh viễn dưới quyền cai trị của Pháp trong một cuộc bỏ phiếu nhất trí của người  dân ở Eze vào ngày 15 và 16 tháng 4 năm 1860.

 

Le dédale d’Eze (Mê cung Eze)

Bà Triệu (225 – 248 SCN)

Triệu Ẩu

Version française

Sau khi đế chế nhà Hán bị sụp đổ thì sau đó là thời kỳ Tam Quốc với ba nhân vật ai cũng được biết đó là Tào tháo, Lưu bị và Tôn Quyền. Trong thời kỳ nầy nước ta vẫn bị đô hộ bởi nước Ngô của Tôn Quyền. Đây cũng thời kỳ cũng có các vụ nổi loạn chống Tàu dành độc lập trong đó có một nữ anh hùng không thua chi hai bà Trưng thường được gọi bà Triệu (hay là Triệu thị Trinh). Từ thưở nhỏ, bà có chí khí hơn người và  giỏi võ nghệ.  Mùa xuân năm Mậu Thìn (248), thấy quan lại nhà Đông Ngô  tàn ác, dân khổ sở, bà  chiêu mộ được hơn một ngàn tráng sĩ cùng anh khởi binh chống lại quân Đông Ngô. Vua Ngô Tôn Quyền liền phái tướng Lục Dận, cháu của Lục Tốn sang làm thứ sử Giao Châu cùng 8000 quân đàn áp cuộc khởi nghĩa. Sau 6 tháng chống chọi, bà vì quân ít thế cô đành chạy về xã Bồ Điền vùng Thanh Hóa và tự tử lúc mới có 23 tuổi. Vua Nam đế  nhà Tiền Lý khen bà là người trung dũng lập miếu thờ bà. Đến nay chuyện Bà Triệu từ thế kỷ thứ II vẫn còn hằng in trong tâm thức mỗi người dân Việt với lòng ngưỡng mộ và niềm tự hào.

Đất Giao Châu đời bấy giờ cứ bị loạn lạc mãi, một phần do bị các quan lại từ nhà Ngô sang nhà Lương của thời kỳ Nam Bắc triều ở Trung Quốc  tham tàn vơ vét của dân một phần bị nước Lâm Ấp quấy nhiễu đánh phá không ngừng. Nước nầy được thành lập vào cuối đời nhà Hán  nhờ một cuộc nổi dậy ở huyện Tượng  Lâm vào năm 190 SCN do một người tự xưng là Khu Liên. Ông nầy giết thứ sử  Tàu Chu Phủ và nắm quyền tự trị trên một phần lãnh thổ cực nam của quận Nhật Nam. Nước Lâm Ấp được gọi sau nầy là Chiêm Thành bao gồm từ Quảng Bình cho đến lãnh thổ miền nam của núi Bạch Mã.

Người Lâm Ấp thuộc nòi giống Mã Lai và chịu nhiều ảnh hưởng Ấn Độ hơn Trung Quốc khiến về sau văn hóa nước nầy là văn hóa Ấn Độ, chữ Phạn là chữ họ dùng để trao đổi quốc thư với Trung Quốc.  Chính nhờ các thương nhân và các tu sĩ Ấn Độ mà người Lâm Ấp giao tiếp khiến các tôn giáo như Ấn Độ giáo và Phật giáo mới được truyền bá qua xứ nầy. Cũng nhờ đó mà Phật giáo mới du nhập vào Chiêm Thành qua đường biển rồi sau đó mới đến Giao Châu (Việtnam) qua đường bộ từ Lâm Ấp, chớ không phải đến từ Trung Hoa như c ác văn bản Trung Hoa thường  khẳng định. Bởi vậy mẹ của Tôn Quyền lúc còn sống thường mời các tu sĩ ở Luy Lâu (Bắc Ninh, Vietnam) đến thủ đô Kiến Nghiệp (Jiany) của nước Ngô, thuộc về thành phố Nam Kinh (Nankin) hiện nay, để nghe giảng kinh và bình luận về các sách kinh lễ Ấn Độ (sutra) của Phật giáo. Nước Giao Châu phải đợi cho đến cuối năm 541 mới có cuộc nổi dậy của  Lý Bí. Ông dành lại độc lập cho nước ta được 60 năm và đặt tên nước là Vạn xuân sau khi đánh bại nhà Lương  đang đô hộ nước ta.  Ông tự xưng là Nam Đế và đóng đô  ở Long Biên.

Dame  Triệu (225 – 248 après J.C.)

Après la chute de l’empire des Han, c’est la période des Trois Royaumes avec trois personnages bien connus  Cao Cao, Liu Be et Sun Quan. Durant cette période, notre pays était sous la domination du royaume Wu de Sun Quan. C’est aussi la période où il y avait des rébellions anti- chinoises réclamant l’indépendance parmi lesquelles  figurait une héroïne analogue aux sœurs Trưng et connue souvent sous le nom  Triệu Thi Trinh ou Dame Triệu. Dès son plus jeune âge, elle  ne manquait pas de caractère et était très douée en arts martiaux. Au printemps de l’année du dragon (248 après J.C.), en voyant la cruauté des  fonctionnaires de l’état Wu et la misère de ses compatriotes, elle n’hésita pas à recruter plus d’un millier de braves gens avec son frère pour déclencher une guerre  de libération contre l’armée des Wu. Le roi Wu Sun Quan  fut obligé d’envoyer immédiatement à Giao Châu le général Lu Dan, un neveu de  Lu Xun (Lục Tốn) pour réprimer le soulèvement  avec 8 000 soldats. Après 6 mois de combats, elle ne put plus tenir la résistance contre les agresseurs. Elle dut se réfugier à la commune Bồ Điền de la province Thanh Hóa à cause du manque d’appui et de partisans. Elle se suicida  à l’âge de 23 ans. Le roi  Lý Nam Đế  de la dynastie des Lý antérieurs l’a félicitée pour son courage et sa fidélité en construisant un temple dédié à sa mémoire. Jusqu’à présent, l’histoire de  Dame Triệu du IIème siècle est toujours imprégnée d’admiration et de fierté dans l’esprit de tous les Vietnamiens.

Giao Châu (l’ancien pays des Vietnamiens)  ne cessa pas  de connaître non seulement à cette époque la misère et la corruption des fonctionnaires nommés d’abord par le royaume des Wu (nhà Ngô) puis celui des Leang (nhà Lương) durant la période  dynasties du Nord et du Sud (420-580 après J.C.) en Chine mais aussi les troubles frontaliers provoqués incessamment par le royaume Lin Yi.  Ce pays limitrophe  prit naissance à la fin de la dynastie des Han grâce à un soulèvement mené dans le district de Tượng Lâm en 190 après J.C. par un brave nommé Khu Liên. Celui-ci a tué le gouverneur chinois Chu Phu et s’est  autoproclamé roi  sur une partie du territoire située le plus au sud du district de Nhật Nam. Le pays Linyi connu plus tard sous le nom de Chămpa  est constitué en fait  de la région Quảng Bình jusqu’au territoire sud de la montagne Bạch Mã.

Les habitants de Linyi étaient de la race malaise et se laissaient influencer par la culture indienne plus que   celle de la Chine. Ils adoptaient dès lors  la culture indienne comme la leur et se servaient plus tard  du sanskrit dans l’échange des lettres avec la Chine. C’est par l’intermédiaire des commerçants  et des moines indiens avec lesquels le peuple du Linyi  était en contact que l’hindouisme et le bouddhisme pouvaient s’implanter dans ce pays. Le bouddhisme a été introduit au Chămpa  par la voie maritime, puis il s’est  implanté ensuite à Giao Châu (Vietnam) par la voie terrestre prise à partir du Chămpa.

 En aucun cas, le bouddhisme vietnamien ne s’est pas  passé  par la Chine comme certains documents chinois l’ont prétendu. C’est pourquoi la mère de Sun Quan, une disciple fervente du bouddhisme eut l’occasion de  faire venir à cette époque les moines de Luy Lâu (Bắc Ninh)  à la capitale Jianye (Kiến Nghiệp) du royaume de Wu,  proche de la ville actuelle de Nankin pour leur demander de prêcher et commenter les sûtras du bouddhisme. Giao Châu dut attendre à la fin de l’année  541 pour  que l’insurrection menée par Lý Bí eût lieu. Il réussît à battre les Leang pour obtenir l’indépendance durant une soixantaine d’années,  donna à son royaume un nom prometteur de pérennité « Vạn Xuân » (ou  Dix Mille printemps).  Il se proclama  Nam Đế (Empereur du Sud) et  s’installa à Long Biên.  

 

Thục Phán (Royaume de An Dương Vương)

Le Royaume de An Dương Vương

Version française

Sự tham gia của người Thái cổ (hay người Tày) trong việc thành lập vương quốc Âu Lạc của Thục Phán (hay An Dương Vương) không thể chối cải được sau khi Thục Phán đã thành công đánh bại vua Hùng cuối cùng của nhà nước Văn Lang. Cái tên Âu Lạc phản ánh hiển nhiên sự liên kết chặt chẽ của hai dân tộc Việt, một nhánh Âu (Thái cổ) và một nhánh Lạc (Việt cổ). Hơn nửa, Thục Phán là một người Việt chi Thái, điều nầy cho thấy rỏ ràng sự đoàn kết và sứ mệnh lich sử chung của hai dân tộc Việt và Thái trước sự bành trướng của người Hoa.

Theo giáo sư Đào Duy Anh, Thục Phán thuộc gia đình qúi tộc nước Thục. Tất cả đều được mách lại trong các thư tịch Tàu (Kiao -tcheou wan-yu ki hay Kouang-tcheou ki) nhưng bị bác bỏ bởi một số sử gia Việt vì vương quốc Shu (Thục) ở quá xa vương quốc Văn Lang nhất là bị thôn tính quá sớm bởi Tần quốc từ 316 trước công nguyên (hơn nửa thế kỷ trước khi lập vương quốc Âu Lạc).

Nhưng theo nhà văn Bình Nguyên Lôc, Thục Phán bị mất nước , buộc lòng phải dung thân lúc còn trẻ với các bộ hạ ở môt nước nào mà thời đó phải có quan hệ sắc tộc (ngôn ngữ và văn hóa) cũng như họ có nghĩa là nước Tây Âu ở bên cạnh nhà nước Văn Lang của người dân Việt. Hơn nửa người Hoa không có lợi chi viết sai sử học khẳng định đây là một hoàng thân của nước Thục cai trị nước Âu Lạc. Việc tá túc của Thục Phán và bộ hạ ở Tây Âu cần có một thời gian trong cuộc di tản vì vậy cần có 60 năm sau đó mới có sự sáng lập vương quốc Âu Lạc qua sự giải thích. Nhưng gỉả thuyết nầy không vững vì nhất là thời đó có 3000 cây số phải vượt để đến Tây Âu. Vả lại Thục Phán cầm đầu một đạo binh có 3 vạn quân lính. Không thể nào một đạo quân như vậy có thể tàn hình và di chuyển mà ngưởi Hoa không biết được vì không những cần sự tiếp tế lương thực mà còn vượt qua bao nhiêu khu núi rừng quản trị bởi các bộ lạc thù địch hay thân Trung Hoa. Chắc chắn Thục Phán phải tìm được ở Tây Âu tất cả những gì cần thiết (quân bị, lương thực) trước khi thôn tính nước Văn Lang.

Theo giả thuyết gần đây đựơc xem có lý và nhất quán , Thục Phán là thổ lĩnh của một bộ lạc liên minh Tây Âu và con của Thục Chế, vua của nước Nam Cương thuộc về vùng Cao Bằng và nam Quảng Tây Trung Quốc ngày nay. Có sự trùng khớp thống nhất giữa những linh vật được mách đến trong truyền thuyết nỏ thần của người dân Việt và những tập tục trong truyền thống của người Tày (Thái cổ). Rùa vàng, gà trắng là những linh vật có ý nghĩa biểu tượng quan trọng.

An Dương Vương (Thục Phán)(Ngan-yang wang) là một nhân vật lịch sử có thật. Với sự khám phá các di tích ở Cổ Loa huyện Đông An, Hànội chúng ta có thể khẳng định là vương quốc Âu Lạc có thật và được dựng bởi Thục Phán khoảng chừng 3 thế kỷ trước Công Nguyên. Âu Lạc bị thôn tín về sau bởi Triệu Đà, một tướng lãnh của nhà Tần và người sáng lập ra nước Nam Việt. Hơn nửa được tìm thấy ở thành phố Quảng Châu thuộc nước Nam Việt một thẻ ngọc có hình dáng chữ nhật với bốn gốc thẻ có khắc bốn chữ An Dương hành bảo mà nhà nghiên cứu người Trung Hoa Dư Duy Cương ở thành phố Trường Sa, tỉnh Hồ Nam Trung Quốc cho rằng: ngọc bảo nầy là An Dương cổ đại của Việt Nam.

Le royaume de An Dương Vương (ou Thục Phán)

La contribution des Proto-Thaïs (người Tày) dans la fondation du royaume Âu Lạc des Proto-Vietnamiens de Thục Phán (An Dương Vương) n’est plus mise en doute après que ce dernier a réussi à éliminer le dernier roi Hùng du royaume Văn Lang car le nom « Âu Lạc » (ou Ngeou Lo) évoque évidemment l’union de deux ethnies Yue de branche Âu (Proto-Thaï) et de branche Lạc (Proto-Vietnamien). De plus, Thục Phán était un Yue de branche Âu, ce qui montre à tel point l’union et la mission historique commune de ces deux ethnies face à l’expansion chinoise.

Selon Đào Duy Anh, Thục Phán était un prince du royaume Shu. C’est ce qui a été rapporté dans les écrits historiques chinois (Kiao -tcheou wai-yu ki ou Kouang-tcheou ki) , mais il a été réfuté catégoriquement par certains historiens vietnamiens car le royaume Shu était, à cette époque, trop loin du royaume Văn Lang . Il fut annexé très tôt (plus d’un demi siècle avant la fondation du royaume Âu Lạc) par les Tsin. (nhà Tần)

Mais pour l’écrivain vietnamien Bình Nguyên Lôc, Thục Phán ayant perdu sa patrie, dut se réfugier très jeune en compagnie de ses fidèles à cette époque dans un pays ayant la même affinité ethnique (culture, langue) que lui càd le royaume Si Ngeou (Tây Âu) situé à côté du royaume de Văn Lang des Vietnamiens. De plus, les Chinois n’ont aucun intérêt de falsifier l’histoire en rapportant que c’était un prince de Shu dirigeant le royaume de Âu Lạc. L’asile de ce dernier et de ses fidèles dans le royaume de Si Ngeou dut prendre un certain temps, ce qui explique au moins un demi-siècle dans cet exode avant la fondation de son royaume Âu Lạc. Cette hypothèse ne semble pas très convaincante car il y avait 3000 km à marcher. De plus, il était à la tête d’une armée de 30.000 soldats. C’est impossible pour lui d’assurer la logistique et de rendre son armée invisible durant l’exode en traversant des zones montagneuses de Yunnan administrées par d’autres ethnies ennemies ou pro-chinoises. Il est probable qu’il dut trouver auprès des Si Ngeou (ou des Proto-Thaïs) tout (armement et effectif militaire, provisions) ce qu’il fallait avant sa conquête.

Il y a récemment une autre hypothèse qui paraît plus cohérente et plus plausible. Thục Phán était le leader d’une tribu alliée de la confédération Si Ngeou et le fils de Thục Chế, roi d’un royaume Nam Cương localisé dans la région de Cao Bằng et non loin de Kouang Si de la Chine d’aujourd’hui. Il y a une concordance totale entre tout ce qui est rapporté dans la légende de l’arbalète magique des Vietnamiens et les rites trouvés dans la tradition des Tày (Proto-Thaïs). C’est le cas de la tortue d’or ou du coq blanc ayant chacun une signification symbolique importante. An Dương Vương (Ngan-yang wang) était un personnage historique. La découverte des vestiges de sa capitale (Cổ Loa, district Đông An, Hànội ) ne met plus en doute l’existence de ce royaume établi à peu près trois siècles avant J.C. Celui-ci fut annexé plus tard par Zhao Tuo (Triệu Đà), un général chinois de la dynastie des Tsin et fondateur du royaume de Nan Yue.

De plus, on a découvert à Canton une tablette de jade ayant la forme rectangulaire et dont les quatre coins portant les quatre mots suivants « An Dương hành bảo ». Le chercheur chinois Dư Duy Cương à Chang Sa (Province Hunan, Chine) a été amené à donner les conclusions suivantes: cette tablette de jade (ngọc giản) appartenait au royaume antique An Dương du Vietnam.

 

 

Paris au crépuscule (Paris lúc chiều tàn)

Các tia nắng ở cuối ngày cùng dòng nước óng ánh lên sắc cam rực rỡ của sông Seine  tạo ra một quan cảnh tuyệt vời khi thành phố bắt đầu lên đèn. Bạn sẽ ngẩn ngơ và cảm nhận thích thú rạo rực trong lòng ít nhiều  khi có được những khoảnh khắc kỳ diệu nầy. Đây cũng là những kỷ niệm khó quên khi bạn có dịp đến với kinh đô ánh sáng Ba Lê. 

Les derniers rayons du soleil couchant et les eaux  irisées de la Seine vous offrent un spectacle merveilleux lorsque la ville commence à s’illuminer. Vous serez abasourdi et vous sentirez une légère excitation dans votre cœur lorsque vous aurez des moments magiques. Ce sont des souvenirs inoubliables lors que vous avez l’opportunité de visiter la ville lumière qu’est Paris.

The last rays of the setting sun and the iridescent waters of the Seine offer you a marvelous spectacle when the city starts to light up. You will be stunned and feel a slight excitement in your heart when you have these magical moments. These are unforgettable memories when you have the opportunity to visit the city of light that is Paris.

Hồ Chí Minh ville (Saïgon)

Saïgon  (Hồ Chí Minh ville)

Saïgon hai tiếng nhớ nhung
Ra đi luyến tiếc nghìn trùng cách xa

Version française

Đối với một số người dân Việt, thành phố này mãi mãi là Sàigòn. Còn  với những người khác, đấy thực sự là thành phố Hồ Chí Minh. Dù thành phố nầy có mang tên chi nữa, nó vẫn tiếp tục là trung tâm kinh tế  đối với các doanh nhân nước ngoài. Chính ở nơi đây quá cảnh hàng triệu tấn thóc gạo và cá của  đồng bằng sông Cửu Long  để được xuất khẩu. Mặc dù được đổi tên vào năm 1975, Saïgon vẫn tiếp tục giữ những thói quen cũ, những thay đổi thất thường và những nghịch lý. Thành phố vẫn luôn náo nhiệt ồn ào với những đêm không ngủ. Quang cảnh hay thường được trông thấy  ở  các đường phố hay qua đêm trong những căn phòng rộng lớn sàn gỗ với các cô gái trẻ học nhảy điệu valse và tango. Saigon vẫn sống rất linh động với 10 triệu cư dân hiện nay. Saïgon lúc nào cũng có sức sống mãnh liệt  với một tinh thần tháo vát  tuyệt vời. Thành phố vẫn phóng đãng, thích phiêu lưu và quá phấn khởi. Nó tiếp tục phát triển với những khách sạn sang trọng hàng nghìn phòng ở giữa các khu dân nghèo. Đây là thành phố đông dân nhất ở Việt Nam với mật độ dân số trung bình hơn 4.500 người trên mỗi kilomet vuông, còn  cao hơn cả Thượng Hải (Trung Quốc).

Các điểm tham quan

Nó hiện có tổng diện tích 2061 km2 và được chia thành 19 quận và 5 huyện. Trong quá khứ, thành phố gồm có 12 quận và 6 huyện trên diện tích là  2029 kilomet vuông. Saigon đã từng là Hòn Ngọc Viễn Đông trong thời kỳ Pháp thuộc  và sau đó là thủ đô của miền Nam Việt Nam từ năm 1956 đến năm 1975. Ngày nay, nhờ dự án phát triển đô thị bán đảo Thủ Thiêm và sự  gia nhập của quận Thủ Đức gần đây, thành phố  đã thành công, theo nhà nghiên cứu  người Việt Trần Khắc Minh của đại học Québec ở Montréal, trong việc mở rộng khu vực đô thị và tăng trưởng dân số một cách nhanh chóng nhờ quá trình đô thị hóa nhưng điều nầy  không ngăn cản được sự phân đọan của kết cấu đô thị ngày càng tăng  và làm nổi bật thêm  khoảng cách giàu nghèo nhất là trong việc tìm nhà cư ngụ.

Từ đầu công nguyên cho đến thế kỷ 17, Sàigon lần lượt thuộc về  vương quốc Phù Nam, rồi  đến Chân Lạp,  sau đó Chămpa và Cao Miên. Tên của nó chỉ được nhắc đến lần đầu tiên trong một  tài liệu của Việt Nam vào năm 1776, kể  lại cuộc chinh phục thành phố  nầy bởi các chúa Nguyễn vào năm 1672.  Đối với người Khơ Me (hoặc người Cao Miên), Sàigòn chỉ là tên biến dạng của từ  Prey Nokor (« thành phố trong rừng ») mà người Khơ Me  gán cho thành phố này. Sài Gòn là một vùng đầm lầy đầy cá sấu và có nhiều  khí lam chướng vào cuối thế kỷ 17. Việc những người Việt đầu tiên định cư chọn Sàigòn làm nơi tha hương không phải là một chuyện bình thường. Vì thế có một ca dao phổ biến mà người  dân Việt được biết để  nói đến vùng đất dữ, có nhiều khí lam chướng.

Chèo ghe sợ sấu cắn chân
Xuống sông sợ đĩa, lên rừng sợ ma.

Mặc dầu có nhiều khuyết điểm, Saigòn vẫn tiếp tục là tĩnh mạch trọng yếu của Việt Nam. Chính Saigon đã dạy người dân Việt biết đến chính sách Đổi Mới  từ năm 1996 đẩy mạnh không những  công nghiệp hóa và  hiện đại hóa mà còn giúp họ ưa thích  chủ nghĩa tư bản và phiêu lưu trong việc bỏ vốn đầu tư mạo hiểm. Cũng như các thành phố khác, Sàigòn có một lịch sử lâu dài trước khi bị đô hộ, sau đó bị Mỹ hóa và sau cùng  lấy tên thành phố Hồ Chí Minh sau biến cố  năm 1975.

Đối với những người quan tâm đến thành phố này, lịch sử và sự phát triển của nó thì nên đọc những cuốn sách sau đây:

  • Saigon, le chantier des utopies de Didier Lauras, Editions Autrement, Collections Monde, 1997, no 95 HS.
  • Saigon, 1925-1945 , de la belle Colonie à l’éclosion révolutionnaire de Philippe Franchini, Editions Autrement, Collections Monde, no17, 1992.

 

 

 

 

Depuis quand, Paris devient-elle la ville lumière?

Từ bao giờ Paris trở thành kinh đô ánh sáng?
Depuis quand, Paris devient-elle la ville lumière?

Version française

Được xem là kinh đô ánh sáng của Âu Châu, Paris đã có nét đẹp lung linh nầy từ bao giờ nhỉ? Qua nhiêu thế kỷ, Paris cũng như các thành phố Âu Châu đều chìm lặn trong bóng tối một khi màn đêm buông xuống khiến làm người qua đường áy náy lo sợ vì thiếu an ninh nhất là với một mùa đông lạnh buốt. Bởi vậy nhà thi sỹ Boileau có nhắc đến vấn đề nầy trong quyển sách ông viết có tựa đề : Les Embarras de Paris vào năm 1666. Chính vì vậy mới có các nhóm người tuần tra đi khắp nẽo đường Paris với các bó đuốc nhưng khó mà kiểm soát được Paris nhất là ở thế kỷ 17 có đến 500.000 cư dân. Thời đó, muốn đi đêm phải có đuốc hay đèn lồng. Các người giàu có thì có người nô bộc dẫn đường với chiếc đèn lồng. Sau đó ở giữa thế kỷ 17 có những người chuyên môn sinh sống với nghề cầm đuốc dẫn đường, họ đón khách ở những nơi có nhà hát hay vũ trường. Mãi cho đến đầu thế kỷ 19 nghề nầy vẫn còn thấy ở Paris. Tuy nhiên những người giàu có hay ngưởi buôn bán vẫn sợ sệt vì đường không được sáng tỏ chi cho lắm. Trong lúc đó ở Âu Châu thì các thành phố đã có hệ thống đèn đường công cộng với các lồng đèn đốt trước nhà. Dựa trên chỉ dụ của vua mặt trời của Pháp, Louis XIV thì trung tướng cảnh sát La Reynie mới ra chỉ thị bắt buộc các chủ nhà đặt đèn trước nhà khiến nhờ vậy có hơn 2700 đèn lồng được đặt ở 900 đường của thành phố. Đèn nầy được đốt từ tháng mười cho đến tháng ba, từ 6 giờ chiều đến 12 giờ đêm. Từ đó hệ thống đèn đường làm người du khách ngoại quốc đến Paris đều thán phục và say mê nhưng loại đèn lồng nầy dễ bị gió làm tắt ngọn lửa của lồng đèn. Sau đó được thay thế bằng cột đèn đường (réverbère) được sáng tạo bởi người thợ đồng hồ xứ Bourgogne tên là Bourgeois de Châteaublanc để tránh được nạn gió và soi sáng đường xá tỏ hơn đèn lồng. Hiện nay còn thấy các cột đèn nầy ở nhiều nơi sang trọng của Paris như ờ quảng trường Vendôme chẳng hạn hay dọc theo các cầu sông Seine. Chính nhờ vậy một khi hoàng hôn phủ xuống thành phố, thì các đèn đường được đốt lên thưở đầu bằng khí đốt nay thì bằng điện cả khiến Paris đẹp lung linh về đêm.

« de 13 »

Version française

Étant connue comme la capitale européenne de la lumière, Paris a-t-elle eu depuis quand cette beauté chatoyante? Au fil des siècles, Paris comme tant d’autres villes européennes ont été plongées dans l’obscurité une fois la nuit tombée. Cela faisait peur surtout aux passants en raison du manque de sécurité avec un hiver froid et rude. Le poète Boileau eut l’occasion d’évoquer ce problème dans son livre intitulé « Les Embarras de Paris » en 1666. C’était pourquoi il y avait des groupes de patrouilleurs constitués parcourant les rues de Paris avec des torches ou des lanternes mais malheureusement c’était difficile de contrôler Paris au 17ème siècle avec plus de 500 000 habitants. À cette époque, si on voulait sortir la nuit, il fallait avoir des torches ou des lanternes. Les riches étaient précédés dans leurs pas par un serviteur avec une lanterne. Puis au milieu du XVIIème siècle, il y avait des porteurs de flambeau vivant avec le métier de guide d’éclairage. Ils se postaient devant les lieux connus comme les théâtres et les salles de bal à la recherche des clients. Jusqu’au début du XIXème siècle, ce métier exista encore à Paris. Cependant, les riches ou les commerçants avaient encore peur car les rues n’étaient pas bien éclairées. Pendant ce temps en Europe, les villes avaient déjà possédé un système d’éclairage public avec des lanternes installées devant les maisons.

En se basant sur le décret du Roi Soleil de France, Louis XIV, le lieutenant général de police La Reynie a émis une directive ordonnant aux propriétaires de mettre en place les lanternes sur les façades de leurs maisons. Plus de 2 700 lanternes étaient installées ainsi dans les 900 rues de la ville. Cette lanterne devait être allumée, de 18h jusqu’à minuit, depuis le mois d’octobre jusqu’au mois de mars. Depuis, le système d’éclairage public commença à émerveiller les touristes étrangers lors de leur passage à Paris mais la lanterne s’éteignit facilement au gré du vent. Elle fut remplacée ensuite par le réverbère inventé par un horloger bourguignon de nom Bourgeois de Châteaublanc et ayant pour but d’éviter le vent et d’éclairer mieux encore la rue. Aujourd’hui, ce type de réverbère est encore visible dans de nombreux endroits luxueux à Paris, comme par exemple à la place Vendôme ou le long des ponts traversant la Seine. C’est pourquoi dès le coucher de soleil, les réverbères d’abord allumés autrefois au gaz et maintenant à l’électricité rendent Paris plus chatoyante toute la nuit.

Références bibliographiques:

Alain Cabantous: Histoire de la nuit. XVème-XV IIIème siècle Editeur Fayard, 2009.
Alfonso Lopez : Eclairage public : une lueur dans les villes.
Revue mensuelle: Histoire N°76. Octobre 2021