Lê Đại Hành (Nhà Tiền Lê)

 

Qui est Lê Đại Hành (ou Lê Hoàn)?
(941-1005) 

Version vietnamienne

Selon « l’histoire du Việt Nam » de l’historien Trần Trọng Kim, Lê Hoàn était était né au village BảoThái du district Thanh Liêm de la province Hà Nam.  Par contre,  dans « Đại Việt Sử Ký Toàn Thư  (Les Mémoires historiques du Grand Viet au complet)», il était issu de Ái Châu (Ninh Bình). Il était le généralissime de la dynastie des Đinh.  Lors de l’assassinat de l’empereur Đinh Tiên Hoàng et son fils aîné Đinh Liễn, il devint le vice roi faisant partie du conseil de régence avec la reine Dương Vân Nga pour aider le jeune roi Đinh Toàn (ou Đinh Phế Đế) âgé de six ans à gouverner le « Grand Việt » (ou Đại Cồ Việt). Face à la rébellion menée par les dignitaires de Đinh Tiên Hoàng (Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Pham Hạp), l’invasion imminente du Champa et l’intention de la Chine des Song de reconquérir le Viet Nam, il fut chargé par Dương Vân Nga de ramener la paix dans le pays. Il réussit à mater la rébellion sans difficultés. Par contre, avant d’engager la confrontation militaire chinoise, le général Phạm Cự Lạng  dut être rassuré d’avoir un roi capable de reconnaitre la valeur de ses soldats méritant d’être récompensés ou punis en cas de victoire ou défaite sur les  champs de bataille.  C’est pour cela qu’il demanda à la reine Dương Vân Nga de déposer son fils Đinh Toàn et d’introniser à sa place le généralissime Lê Hoàn avec ses soldats. Devant l’unanimité de ceux-ci, Dương Vân Nga décida de mettre sur le dos de Lê Hoàn l’habit de cérémonie de l’empereur.  Il devint ainsi le fondateur de la dynastie des Lê antérieurs en l’an 980  et  accorda le titre «Vệ vương (ou Chevalier de la Garde Royale) » au jeune roi Đinh Phế Đế.

 En portant le nom signifiant « Đại Hành (Grande expédition) », Lê Đại Hành était déjà considéré comme un roi guerrier par sa nature. Au début de son règne, il empêcha  l’invasion  des Song en anéantissant  d’abord l’infanterie  de Hầu Nhân Bảo à Chi Lăng (Lạng Sơn) en l’an 981 et en détruisant  ensuite  la flotte chinoise sur les fleuves Rouge et Bạch Đằng.  Il monta une expédition punitive au Champa  durant un an pour chasser les Chams  de la province  d’Amarâvatî (Quảng Ngãi). Il  détruisit  la capitale Indrapura et son sanctuaire en l’an 982 en tuant son roi Bề Mi Thuế (Paramec Varavarman) et en ramenant non seulement  au Vietnam les butins de guerre mais aussi une centaine de musiciens et danseuses chams ainsi qu’un moine indien (Thiên Trúc) qui était en train de séjourner dans le monastère de Đồng Dương. C’est pourquoi on constata plus tard de façon indiscutable dans la musique vietnamienne  l’influence musicale hindoue à partir de l’an 982. Un air vietnamien  fut crée  sur le mode Champa et intitulé « Chiêm Thành âm (ou résonances du Champa) » dans la cour impériale des  Lý.

 Pour montrer la force militaire du « Grand Việt (ou Đại Cồ Việt), il n’hésita pas à la montrer une fois à la Chine des Song en lui envoyant avec son ambassadeur les 93 prisonniers chams captifs lors de son expédition punitive  au Champa mais il accepta  en même temps sa soumission  en lui payant des tributs artisanaux et en lui présentant des excuses après sa confrontation  militaire avec la Chine des Song.  Il fut très doué dans la conduite de la guerre en connaissant parfaitement  le terrain et en choisissant à battre d’abord l’armée adverse  la plus faible et la moindre redoutable parmi ses envahisseurs. Il sut gérer le pays en s’appuyant à la fois sur une politique de souplesse  et  de décision aboutissant à relancer l’agriculture et l’artisanat par des initiatives personnelles. Selon Theo Đại Việt sử ký toàn thư, le roi Lê Đại Hành inaugura au printemps 987 avec solennité  la cérémonie agricole connue sous le nom « Lễ tịch điền »(ou labourage du sol effectué par le roi) et destinée  à inciter les gens à augmenter la production agricole. C’est aussi la première cérémonie  agricole retenue enregistrée dans notre livre d’histoire et devient ainsi la coutume adoptée tous les ans par les rois successeurs des dynasties suivantes.

Hoa Lư

C’est sous son règne que les moines jouèrent un rôle important dans la vie politique vietnamienne car ils étaient les seuls détenteurs du savoir. C’est le cas du moine Ngô Chấn Lưu chargé par le roi Lê Đại Hành de recevoir une délégation diplomatique chinoise de la dynastie des Song (Tống triều) conduite par l’ambassadeur Li Jiao (ou Lý Giác). Celui-ci, de retour en Chine, fut accompagné par un morceau de chant lyrique (ou từ en vietnamien) rédigé par le moine Khuông Việt lui-même (ou Ngô Chấn Lưu). Outre les documents officiels, ce morceau ayant pour titre vietnamien Ngọc Lang Quy (ou Vương Lang Quy) devint ainsi la première œuvre littéraire vietnamienne qu’on considère encore aujourd’hui comme un document précieux et important non seulement dans la relation sino-vietnamienne mais aussi dans la littérature vietnamienne. On n’oublie pas non plus l’échange verbal improvisé en sentences par le moine poète Đỗ Thuận, déguisé en sampanier avec Li Jiao.

En voyant deux oies sauvages jouer sur la crête des vagues, Li Jiao se mit à chanter:

Ngỗng ngỗng hai con ngỗng
Ngữa mặt nhìn trời xa
Des oies sauvages, voyez ces deux oies sauvages!
Elles dressent la tête et se tournent vers l’horizon!

Le moine Lạc Thuận n’hésita pas à achever le quatrain sur les mêmes rimes tout en continuant à ramer:

Nước biếc phô lông trắng
Chèo hồng sóng xanh khua
Leurs plumes blanches s’étalent sur les eaux glauques
Leurs pattes roses, telles des rames, fendent les flots bleus.

Le parallélisme des idées et des termes et surtout la rapidité de l’improvisation du moine Lạc Thuận frappèrent d’admiration l’ambassadeur chinois. Ce dernier n’hésita pas à adresser des compliments au roi Lê Đại Hành en le comparant à son roi dans un poème où il y avait le vers suivant: Ngoài trời lại có trời soi rạng (En dehors du ciel, il y a encore l’éclat lumineux du ciel). Cela veut dire qu’il eut du respect pour le roi Lê Đại Hành comme pour son empereur. C’est l’explication que le moine Khuông Việt donna au roi Lê Đại Hành.

Une fois, en recevant l’ambassadeur chinois,  Lê  Đại Hành refusa de s’agenouiller et recevoir l’ordre venant de l’empereur des Song selon le protocole établi entre l’empereur et son vassal. Il se servit du prétexte qu’il a eu une entorse au genou pour pouvoir le faire. Face à cette fermeté, l’ambassadeur   chinois dut abandonner ce protocole. Par contre Lê Đại Hành tenta de maintenir des relations pacifiques avec la dynastie des Song durant son règne. Il reçut en l’an 990 le titre « Đặc Tiến » un titre inférieur à celui des trois hauts dignitaires (Tam Công) de la Chine impériale,  réservé jusqu’alors aux rois vassaux méritants et accordé par l’empereur des Song, Song Tai Zong (Tống Thái Tông).  Il était non seulement  le premier empereur vietnamien ayant tendance à agrandir le Vietnam vers le sud mais aussi celui qui ramenait la paix dans toutes les régions occupées par les minorités ethniques. Il avait le mérite de construire beaucoup de palais à la capitale Hoa Lư et d’améliorer l’infrastructure nécessaire au transport des troupes  et  à la logistique en cas de guerre et à l’échange des produits agricoles en établissant un réseau fluvial à partir des canaux crées et des fleuves à travers tout le pays. Personne ne conteste ce que l’empereur Lê Đại Hành a fait pour le « Grand Việt (Đại Cồ Việt) ». C’est peut-être pour ses expéditions militaires et ses initiatives créatrices qu’il possédait durant ses 24 années de règne qu’il était considéré par tous les historiens vietnamiens comme un grand roi du Vietnam malgré quelques blâmes infimes à l’égard de son usurpation du trône.

Version vietnamienne

Theo « Việt Nam sử lược » của nhà sử học Trần Trọng Kim, Lê Hoàn sinh ra tại làng BảoThái, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Ngược lại, theo sách “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư”, ông  xuất thân từ Ái Châu (Ninh Bình). Ông là thập đạo tướng quân của  nhà  Đinh. Sau vụ ám sát Hoàng đế Đinh Tiên Hoàng và con trai cả là Đinh Liễn, ông trở thành phó vương trong hội đồng nhiếp chính cùng Thái hậu Dương Vân Nga để giúp vua trẻ Đinh Toàn (tức là Đinh Phế Đế) mới được 6 tuổi  để cai trị Đại Cồ Việt.

 Đối mặt với cuộc nổi dậy của  các công thần của Đinh Tiên Hoàng (Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp), cuộc xâm lược cận kề của Chiêm Thành và ý định của nhà Tống để tái chiếm lại Việt Nam, ông được Dương Vân giao nhiệm vụ mang lại hòa bình cho đất nước. Ông đã thành công trong việc dập tắt cuộc nổi loạn mà không gặp sự khó khăn nào cả. Mặt khác, trước khi bắt đầu cuộc đối đầu quân sự với Trung Quốc, đại tướng quân Phạm Cự Lạng  cùng với binh sĩ muốn được trấn an có được một vị vua có khả năng nhận ra được giá trị của mình để  xứng đáng được thưởng hoặc bị trừng phạt trong trường hợp chiến thắng hoặc thất bại. Đó là lý do tại sao ông ta cùng binh sĩ yêu cầu Thái hậu Dương Vân Nga phế truất con trai bà là Đinh Toàn và tôn Lê Hoàn lên làm hoàng đế thay thế. Trước sự nhất trí của quân sĩ, Dương Vân Nga đành khoác lên người  Lê Hoàn áo long cổn. Do đó, ông trở thành hoàng đế và người sáng lập ra triều đại nhà Tiền Lê vào năm 980 và phong cho Đinh Toàn làm « Vệ vương » .

Với cái tên có nghĩa là « Đại Hành (Grande Expédition) », Lê Hoàn đã được coi là một vị vua hiếu chiến với  bản chất của mình. Thời kỳ đầu trị vì, ông ngăn chặn cuộc xâm lược của nhà Tống bằng cách tiêu diệt trước hết  lục quân của Hầu Nhân Bảo vào  năm 981 ở Chi Lăng (Lạng Sơn) và làm tổn thất sau đó hải thuyền của họ ở sông Hồng và sông Bạch Đằng.

Ông còn tiến hành một cuộc viễn chinh trừng phạt Chiêm Thành trong vòng một năm để đánh đuổi người Chàm ra khỏi tỉnh Amaravati (Quảng Ngãi). Ông phá hủy thủ đô Indrapura và thánh địa  vào năm 982 bằng cách giết chết  vua chàm Bề Mi Thuế (Paramec Varavarman) và mang về Việt Nam không những các chiến lợi phẩm mà còn có cả trăm nhạc công và vũ công Chàm cũng  với một nhà sư Ấn Độ (Thiên Trúc), người  nầy đang ở trong thiền viện Đồng Dương. Đây là lý do tại sao sau này chúng ta nhận thấy được sau nầy trong âm nhạc Việt Nam có ảnh hưởng âm nhạc của Ấn Độ giáo từ năm 982. Một giai điệu Việt Nam được tạo ra theo phương thức Chiêm Thành và mang tên « Chiêm Thành âm (hay âm hưởng của Champa) » dưới các  triều đình kế tiếp.

Để thể hiện sức mạnh quân sự của « Đại Cồ Việt », ông  không ngần ngại làm điều nầy với nhà Tống bằng cách sai sứ giã đi một lần cùng 93 tù binh chàm mà ông giam cầm trong cuộc viễn chinh trừng phạt Chiêm Thành nhưng đồng thời ông tỏ ra phục tùng với  triều đình nhà Tống  qua  sự cống hiến các thổ sản và  dâng biểu tạ lỗi  sau khi đối đầu quân sự. Ông rất giỏi trong việc điều khiển chiến tranh. Ông  thông thạo hiểu rõ  địa hình và biết  lựa chọn đánh bại  nhóm kẻ thù yếu  và ít lợi hại nhất trong  các nhóm xâm lược của mình. Còn việc cai trị đất nước,  ông dựa  vào chính sách mềm dẽo và quyết định để dẫn đến sự phát triển lại nông nghiệp và công nghiệp thủ công qua những sáng kiến cá nhân.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, vào mùa xuân năm 987, vua Lê Đại Hành long trọng khánh thành nghi lễ nông nghiệp gọi là Lễ tịch điền (hay là lể vua đi cày) nhằm khuyến khích dân chúng tăng gia. sản xuất nông nghiệp. Đây cũng là nghi lễ nông nghiệp đầu tiên được ghi vào sử sách của nước ta và do đó trở thành phong tục được các vua kế vị của các triều sau áp dụng hàng năm.

Dưới triều đại Tiền Lê, các tu sĩ đóng giữ một vai trò quan trọng vì họ là những người có nhiều kiến thức. Đó là trường hợp của thiền sư Ngô Chấn Lưu. Ông được vua Lê Đại Hành giao giữ trách nhiệm đón tiếp sứ giã Lý Giác cùng đoàn tuỳ tùng Trung Hoa của Tống triều. Khi trở về nước, Lý Giác được tiễn đưa với một khúc nhạc (hay từ) tựa đề “Ngọc Lang Quy”. Ngoài các văn thư ngoại giao chính thức, khúc từ nầy được xem không những một văn phẩm qúi báo và quan trọng trong việc bang giao giữa Vietnam và Trung Hoa mà còn xem rất xưa trong văn học Vietnam. Người ta cũng không quên đến cuộc đối thoại ngôn ngữ ngẫu hứng của pháp sư Đỗ Thuận cải trang làm người chèo đò với sứ giã Lý Giác. Ông nầy đang thấy hai con ngỗng hoang dã đang chơi trên đỉnh sóng, Lý Giác mới bất đầu ngâm:

Ngỗng ngỗng hai con ngỗng
Ngữa mặt nhìn trời xa

Đỗ Thuận vừa chèo mà vẫn tiếp tục đối lại cùng vần:

Nước biếc phô long trắng
Chèo hồng sóng xanh khua

Ngoài sự song hành ở các ý tưởng cùng các ngôn từ, sự đối đáp nhanh chóng từ ngẫu hứng của pháp sư Đỗ Thuận khiến làm sứ giã Lý Giác thán phục. Vô cùng ngưỡng mộ, Lý giác không ngớt lời khen ngợi vua Lê Đại Hành bắng cách ví ông cùng vua nhà Tống trong một bài thơ lại có một câu như sau: Ngoài trời lại có trời soi rạng. Có nghĩa là sự tôn kính của ông với vua Lê Đại Hành cùng với vua nhà Tống như nhau. Đó là lời giải thích mà thiền sư Khuông Việt lập lại với vua Lê Đại hành.

Có một lần, khi tiếp sứ thần nhà Tống, Lê Đại Hành không chịu quỳ xuống mà nhận lệnh của vua Tống theo nghi thức đã lập giữa hoàng đế và các vua chư hầu. Ông ta lấy cớ rằng bị bong gân đầu gối  khó có thể làm như vậy được. Trước sự cứng rắn này,  sứ giã nhà Tống đành phải từ bỏ giao thức này. Mặt khác, Lê Đại Hành cố gắng duy trì quan hệ hòa bình với nhà Tống trong thời gian trị vì của ông. Vào năm 990, ông nhận được tước hiệu « Đặc Tiến », một tước hiệu không thua kém gì Tam Công  của nhà Tống mà chỉ  dành cho các vua chư hầu xứng đáng và được hoàng đế nhà Tống, Tống Thái Tông phong cho.

Ông không chỉ là một vị hoàng đế Việt Nam đầu tiên có công mở mang đất nước Việt Nam về phương Nam mà còn là người đem lại hòa bình cho mọi vùng bị các dân tộc thiểu số chiếm đóng. Ông có công xây dựng nhiều cung điện ở kinh đô Hoa Lư và cải thiện cơ sở hạ tầng cần thiết cho việc vận chuyển quân đội, hậu cần khi có chiến tranh và trao đổi nông sản bằng cách thiết lập  một mạng lưới sông ngòi từ kênh rạch được tạo ra với  các sông ngòi ở khắp cả nước. Không ai có thể chối cãi về những gì hoàng đế Lê Đại Hành đã làm cho nước « Đại Cồ Việt ».

Có lẽ nhờ các cuộc viễn chinh quân sự và những sáng kiến ​​sáng tạo mà ông có  trong suốt 24 năm trị vì mà ông được các sử gia Việt Nam xem ông là một  vị vua vĩ đại của Việt Nam mặc dù có vài  lời trách móc nhỏ nhoi đối với ông về việc  soán ngôi và việc lấy Dương Vân Nga làm hoàng hậu.

Bibliographie:    

Thái văn Kiểm: Panorama de la musique classique vietnamienne. Des origines à nos jours. Bulletin de la société des études indochinoises. Tome 39. N°1. Saigon. 1964.
Lê Văn Hưu: Đại Việt Sử ký Toàn thư.(Les Mémoires historiques du Grand Viet au complet).
Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược (Histoire du Việt Nam) Imprimerie Vĩnh et Thanh 1928.

Les Mường (Version française)

Les Mường

Version vietnamienne

Étant la troisième minorité du Vietnam d’aujourd’hui par le nombre (estimé à 1,4 millions de personnes), les Mường ont été établis de longue date dans les provinces Hoà Bình, Thanh Hoá, Phú Thọ, Sơn La, Ninh Bình etc …

Selon le digne successeur vietnamien de l’ethnologue française Jeanne Cuisinier, Trần Từ (ou Nguyễn Đức Từ Chi), le mot Mường est employé par les Vietnamiens (ou les Kinh ) pour désigner la région où il y a plusieurs villages mường. Les Vietnamiens profitent de cet usage pour nommer ce peuple. Celui-ci se désigne souvent par un nom lié à la région où il habite: mol, moan à Hoà Bình, mwanl à Thanh Hoá ou Mol, Monl à Thanh Sơn et signifie avec exactitude « người » (personne, individu).

En se plongeant dans le récit de leur mythe de création (Ngu Kơ et Lương Wong) et celui des Vietnamiens (Âu Cơ -Lạc Long Quân) , on s’aperçoit qu’ils pourraient être issus du même peuple que l’histoire et la géographie auraient scindé en deux groupes vers le IX-Xème siècles, le premier constitué des Vietnamiens descendus dans la plaine et subissant une forte influence chinoise, l’autre composé des Mường restés dans les coins les plus refoulés des régions montagneuses et recevant une forte influence de la part  des Thaï refoulés en masse au sud du territoire chinois. C’est pourquoi les Mường continuent à être plus proches des Vietnamiens par la langue. Ils sont dans le même groupe Việt-Mường de la langue austro-asiatique ( Ngữ hệ Nam Á ) à laquelle appartient aussi la sous-famille môn-khmer. C’est l’origine des tons du vietnamien (6 tons) qui permit au savant français A.G. Haudricourt d’affirmer dans ses travaux en 1954 l’appartenance du vietnamien aux langues austro-asiatiques, opinion communément partagée aujourd’hui par un grand nombre de chercheurs étrangers et de linguistes vietnamiens. L’ethnologue français Christine Hemmet du Musée de l’homme (Paris), a réitéré cette appartenance lors d’une conférence du 18 Mai 2000 sur la pluralité ethnique, multilinguisme et développement du Vietnam. Puis ce groupe việt-mường se divisa en deux langues indépendantes: le vietnamien et le mường du XIVème  au XVIème siècle. Avec les emprunts chinois et français, le premier réussît à connaître au début du XXème siècle un prodigieux développement avec son quốc ngữ dans le domaine de la littérature vietnamienne où il parvint à exprimer toutes les nuances de la pensée et du sentiment dans tous les aspects de la vie (1). Quant au second, il était à l’écart de l’influence étrangère et restait dans l’état où il devient ce qu’on a aujourd’hui. On trouve dans cette langue mường, celle des Vietnamiens d’autrefois (ou des Proto-Vietnamiens).

Pour les Mường, les Vietnamiens ( ou les Kinh) sont issus des parents communs et ont le même sang qu’eux. C’est pourquoi ils sont habitués à dire dans l’une de leurs chansons populaires les deux vers suivants:

Ta với mình tuy hai mà một
Mình với ta tuy một thành hai

Bien que moi et vous soyons DEUX êtres, nous ne faisons qu’UN.
Etant UN seul être, moi et vous pourrions être considérés toujours comme DEUX.

C’est aussi dans l’une des légendes mường (Đức Thánh Tản Viên) qu’on retrouve les luttes répétées des génies de l’eau et des montagnes évoquées par les Vietnamiens dans leur légende célèbre « Sơn Tinh Thủy Tinh« . Cela montre bien à tel point que les Vietnamiens et les Mường, malgré leurs destins différents, sont si proches que même leurs légendes ne soient pas tellement distinctes. Deux rois vietnamiens célèbres étaient issus des Mường (Lê Đại Hành et Lê Lợi). Par contre, au niveau d’organisation sociale et culturelle, les Mường sont plus proches aujourd’hui des Thái et des Tày.

Le territoire habité par les Mường est divisé en régions (ou mường) dont les chefs sont des seigneurs appelés « lang cun » et dont chacune a 20 ou 30 hameaux. Ceux-ci sont dirigés par des « lang đạo », des descendants des héros bâtisseurs de ces hameaux et sont appelés en fonction de leur situation topographique: Xóm Ðác ( hameau à côté d’une chute d’eau), Xóm Ðung ( hameau tout près de la forêt), Xóm Ðôn ( hameau sur une colline), Xóm Thung ( hameau sur une vallée ) ou ou en fonction du nom des arbres fruitiers et familiers: Xóm Trạch (hameau bambou), Xóm Mít (hameau jaquier) etc … ou en fonction des noms des animaux: Xóm Hò ( hameau Tortue), Xóm Oong (Hameau Abeille) etc.. ou en fonction des catégories de la société mường: Xóm Chiềng ( hameau où vit le lang cun (ou seigneur féodal)), Xóm Roong ( hameau appartenant à des cultivateurs ). On voit apparaître dans la société traditionnelle des Mường, l’établissement d’une oligarchie. Ce système qu’on appelle en vietnamien NHÀ LANG, est basé essentiellement sur le droit du premier occupant à posséder la terre, les bois, les rivières, à les fructifier et à les léguer toujours aux descendants aînés de la lignée mâle de génération en génération dans le respect de la tradition observée dans le culte des ancêtres des Mường. Cela permet à NHÀ LANG de contrôler pratiquement les trois quarts des terres qui sont cultivés et entretenus par des rotations périodiques d’équipes de villageois corvéables et d’accorder à ces derniers le droit d’exploiter en compensation le quart des terres restant. Malgré ces lacunes, on ne peut pas nier qu’il existe une relation assez démocratique entre NHÀ LANG et les Mường.

En comparaison avec le système foncier féodal vietnamien de cette époque, NHÀ LANG des Mường a des facteurs de progrès indiscutables car elle défend non seulement ses droits maix aussi ceux des Mường. Il doit aider les villageois mường en cas de sécheresse, de famine ou de mauvaises récoltes. Il doit rendre des comptes au cas où son lang cun a un comportement indigne de son rang. C’est le cas du fils de ce dernier commettant un acte déshonorable en violant par exemple une villageoise ou en se bagarrant dans la rue. On peut aller jusqu’à la destitution du lang cun si celui-ci n’assume pas correctement son autorité et ses devoirs. Dans ce cas, les villageois peuvent faire appel à NHÀ LANG pour son remplacement. C’est aussi le cas où le lang cun n’a pas d’héritiers mâles. Cela revient aussi à NHÀ LANG la charge d’organiser les festivités concernant les récoltes et les ripailles liées aux cultes des génies. Par contre il y a des règles que les villageois mường ne peuvent pas ignorer. Ils ne peuvent pas épouser une fille de NHÀ LANG car celle-ci ne peut que choisir les gens de son rang et issus de NHÀ LANG. De même une villageoise qui est choisie par hasard comme épouse par le lang cun et qui a des enfants avec ce dernier ne peut pas prétendre jouer un rôle important dans le NHÀ LANG.

Ses enfants ne peuvent pas devenir des lang cun car cette fonction est réservée uniquement pour les descendants aînés de la lignée mâle dont la mère doit être une fille issue de NHÀ LANG. Les membres de celui-ci sont respectés même s’ils sont jeunes. Quel que soit l’âge de l’enfant, un villageois doit l’appeler respectivement par « Chàng » ou « Nàng » lorsqu’il est un garçon ou une fille de NHÀ LANG. La hiérarchie est tellement respectée qu’il est possible de connaître l’appartenance de la personne en question. De plus, ce système permet d’attribuer aux lang cun le monopole de certains noms (Ðinh, Hà etc..). Il fut supprimé dans les années 50 par le gouvernement vietnamien lors de l’organisation des  coopératives agricoles. Malgré cela, ce système constitue l’un des traits originaux de la société traditionnelle des Mường et reste l’une des traditions qu’on ne peut pas ignorer quand on parle des Mường. Pour insinuer ce système, les Mường ont l’habitude de dire: Mường có lang, làng có tạo. (Les régions ont des lang comme les villages des tạo (ou Đạo en vietnamien)). On se sert de LANG ĐẠO pour désigner ce système.

Les Mừơng ont l’habitude de choisir les basses terres et les terrains accidentés pour construire leurs maisons. Celles-ci sont adossées d’une manière générale aux flancs des collines et des montagnes pour bénéficier de l’air pur et pour faciliter le déplacement au niveau de la chasse et la cueillette. Ces maisons possèdent chacune une toiture à 4 pans ressemblant à la carapace des tortues. Leur maison se dresse sur des pilotis très bas et est construite sur 3 niveaux. Cela correspond bien à la conception de création de l’univers des Mường: un monde céleste et terrestre ( thiên giới và trần giới ), un monde marin (thủy quốc) et un monde souterrain (âm phủ). Le premier niveau est réservé au stockage des aliments. Il est en quelque sorte le grenier. Le deuxième niveau correspond bien à l’endroit où les activités familiales prennent place et où on reçoit les visiteurs. Quant au dernier niveau situé au dessous du plancher, il est destiné à élever le bétail et à ranger les outils agraires.

La construction de leur maison doit répondre aux exigences matérielles aussi bien que spirituelles. Pour les Mường, la fenêtre de la pièce (voong tong) où est situé l’autel des ancêtres est très sacrée. Aucun n’a le droit de s’appuyer sur cette fenêtre ou de faire passer les objets à travers de celle-ci car selon les Mường, les ancêtres ne sont pas autant coupés des vivants. Ils continuent à participer avec eux aux grandes occasions de leur existence. De plus, les 2 escaliers de la maison ont chacun un nombre impair de marches. L’escalier principal, est tout proche de la pièce d’entrée (voong toong) et il est réservé uniquement pour les hommes. Quant aux femmes, elles sont obligées de prendre le second escalier qui n’est pas loin de leur pièce intérieure (voong khua). Les Mường improvisent d’ingénieux systèmes hydrauliques (roue, rigole etc … ) pour canaliser et faire monter de l’eau dans le but d’arroser les extraordinaires rizières en terrasses  sur les pentes des collines. Ils pratiquent aussi la culture sur brûlis, ce qui leur fournit le benjoin, la canne à sucre, le manioc, le maïs etc…

Comparés à d’autres minorités ethniques, les costumes mường sont tout à fait uniques. Les hommes sont très simples dans l’habillement. Ils portent un pantalon de couleur indigo. Par contre le vêtement des femmes mường est plus compliqué.

D’une manière générale, on trouve dans le costume traditionnel des femmes: un turban blanc ou bleu (mu) fait d’un carré d’étoffe de dimension 35cm x150 cm attaché par derrière au niveau de la nuque, une camisole (yếm ou ạo báng), une chemise courte (áo cánh ou ạo pắn en langue mường ), une jupe longue et noire (váy ou kloốc en langue  mường) descendant jusqu’à la cheville et une  large ceinture en soie ou en tissu.

Etant de couleur blanche, vert pâle ou rose, la chemise courte mường a 4 pans dont les deux situés à l’arrière sont très bien cousus et les deux situés en avant ont chacun un longue bordure allant du cou jusqu’à l’ourlet de la veste. Analogues aux Vietnamiennes, les femmes mường se servent des chemises courtes ayant un cou assez rond et mesurant à peu près 2,5 cm ou 3 cm et deux manches longues. Etant ouvertes sur le devant et souvent non boutonnées, ces chemises sont destinées à couvrir la camisole dont l’ourlet inférieur est rangé soigneusement derrière la large ceinture de la jupe (cạp váy) en soie ou en tissu rugueux illustrant bien le charme folklorique et la séduction. C’est la particularité majeure retenant l’attention  dans les  costumes féminins mường.

On trouve dans la constitution de cette large ceinture trois bandes rectangulaires à riches ornements appelées respectivement « dang trên », « dang cao » et  « dang dưới » qui sont cousues  solidement ensemble. La bande « dang dưới » se distingue des deux autres par la richesse des motifs représentant des animaux hiératiques (dragons, phénix, tortues etc..) ou familiers (serpents, grues, poissons etc ..). La tunique (ạo chụng) est préférée à la place de la veste lors des jours de fêtes. La couleur de la tenue change en fonction du statut de la femme mường. Pour son mariage, elle doit se vêtir d’une longue tunique de couleur verte tandis que la couleur blanche est réservée pour sa demoiselle d’honneur (dâu phụ). Les vêtements funéraires (đồ tem) sont confectionnés toujours à l’envers avec les ourlets inférieurs effrangés.

Parmi ceux-ci, il y a un bonnet de deuil, une jupe dépourvue de la large ceinture rectangulaire aux multiples couleurs, une chemise courte de couleur blanche et une ceinture en tissu rugueux. En cas de deuil des beaux-parents, la mariée mường doit porter usuellement une jupe noire, une camisole, une chemise courte et une veste  en brocart rouge. Les Mường ont l’habitude de dire: Diện như nàng dâu đi quạt (1) (S’embellir à  la manière de la bru au moment des funérailles). Le port de la tenue reste le même à l’exception de la chemise courte qui doit posséder la couleur blanche lorsque les parents de la mariée sont encore en vie.

Pour montrer leurs différences avec les Vietnamiens, les Mường ont un proverbe très connu:

Cơm đồ, nhà gác, nứớc vác, lợn thui, ngày lùi, tháng tới.
Rit cuit à la vapeur ou à l’étouffée, maisons sur pilotis, eau contenue dans le tube en bambou porté sur l’épaule, porc cuit à la broche, jour en retard et mois en avance.

Ce sont les coutumes caractéristiques des Mường qu’on ne trouve pas chez les Vietnamiens d’aujourd’hui. Les Mường préparent la plupart des aliments et des gâteaux à partir du riz: riz glutineux (lõ kẳm) (2) riz cuit à l’ordinaire (gạo tẻ). Il y a plusieurs types de gâteaux : gâteau de riz (bánh chưng) durant les fêtes du Têt, gâteau bánh bò ou bánh trâu en l’honneur du génie-buffle (vía trâu), gâteau uôi pour les funérailles, gâteau bắng pour le mariage, gâteau ống pour les fiançailles etc…

Pour le calcul des jours et des mois, les Mường s’appuyent sur le calendrier Ðoi qui est différent de celui des Vietnamiens. Ðoi est une étoile qui s’avance plus vite que la lune. En se basant sur le déplacement de cette étoile, leur calendrier Ðoi est en avance de 4 mois sur le calendrier lunaire des Vietnamiens.

Analogues aux Vietnamiens, les Mường ont une maison communale (đình) réservée pour le génie tutélaire (ou thành hoàng) dans chaque hameau ou village. Ils croient à l’existence d’un grand nombre d’esprits malfaisants qui hantent les forêts et qu’ils appellent ma-khũ (ou ma qũi en vietnamien). Ceux-ci sont des âmes désincarnées errant dans le monde des morts et celui des vivants et pouvant causer des soucis aux humains.

Pour les Mường, il y a dans un être humain plusieurs âmes qu’ils nomment wại. Celles-ci se divisent en deux catégories:  wại kang (les âmes fastueuses) et wại thặng (les âmes dures). Les premières sont supérieures et immortelles tandis que les secondes, attachées au corps, sont mauvaises. La mort n’est que la conséquence de l’évasion de ces âmes. Grâce au rite funéraire (ma chay), les âmes supérieures peuvent résider au ciel. Elles auront besoin d’être accompagnées par le concours et la sollicitude de la famille durant leur périlleuse migration. C’est ce qu’on trouve dans l’affection et l’attachement que Les Mường réservent particulièrement au défunt par un ensemble des règles d’habillement, de décoration et d’accompagnement du cercueil (un tronc de bois fendu en deux et évidé) . Grâce à l’accomplissement du dernier rite, les âmes reposeront en paix sinon les âmes dures pourront être néfastes et maléfiques en devenant ainsi des esprits flottants et dangereux (Ma). Ce rite funéraire (mo tang) peut durer plusieurs jours (12 jours au moins) et nécessite la présence d’un sorcier (ou mo en langue mường).

 Selon les Mường, le défunt possède une force surnaturelle qui empêche les vivants de lui communiquer et de l’aider matériellement ou spirituellement. C’est thầy mo (ou le sorcier) qui peut le faire seulement. C’est à lui la charge de guider, avant l’enterrement, l’âme du défunt dans toutes les démarches administratives auprès du seigneur céleste (Chạo Hẹ) pour obtenir un jugement. Celui-ci sera rendu dans un panier de cendres déposé à l’entrée de la porte de la maison, à l’endroit où le défunt devra rentrer chez lui. Il y a un procès car durant son existence, le trépassé a sacrifié beaucoup d’animaux pour sa consommation.

En fonction du verdict du jugement révélé grâce à l’interprétation  des signes ou à des empreintes par le sorcier, il pourra être condamné à se réincarner dans le corps d’un de ces animaux sacrifiés ou mener désormais une vie en paix. Le sorcier occupe une place importante dans le rite funéraire des Mường. C’est lui qui accompagne l’âme du défunt pour aller chercher de l’argent dans la maison du grand-père paternel (ta keo heng), emprunter ensuite les vêtements à la maison de Thiên mư, s’inscrire dans le registre des fantômes (sổ ma) pour faciliter le déplacement et procurer enfin des objets usuels indispensables dans le monde des fantômes. C’est aussi lui qui donne à l’âme du défunt le dernier repas et qui l’aide à déménager la nuit ses affaires dans la sépulture. On y trouve un grand nombre d’objets : bols, plats, jarres d’eau etc… et des tambours de bronze pour un lang cung (ou seigneur féodal). Puis c’est aux enfants de ce défunt d’organiser à la fin du troisième jour d’enterrement, une cérémonie célébrant le retour de son âme à la maison avant de pouvoir commencer son culte. Celui-ci permet au défunt d’être présent désormais dans toutes les grandes occasions et dans tous les festins animant le quotidien: mariages, fêtes du nouvel an, inauguration d’une maison etc… ). Analogues aux Vietnamiens, les Mường célèbrent l’anniversaire de la mort du défunt avec solennité et ils portent le deuil. Le défunt fait partie désormais des ancêtres qui ont été honorés sur l’autel familial jusqu’à la cinquième génération. Le culte des ancêtres est très important dans la vie spirituelle des Mường.

Ma Chay

Analogues aux autres minorités ethniques du Vietnam, les Mường sont des animistes. Ils pensent que toute chose possède une âme. C’est pourquoi on trouve dans leur culte un grand nombre de génies, de dieux et d’esprits malfaisants ou non. Même dans chaque famille mường, il existe un esprit bienveillant (ou bien le démon des ancêtres (ma tổ tiên)) censé de protéger la famille. C’est pourquoi il y a une tradition que les Mường doivent respecter après l’annonce du décès d’un de leurs proches. Le fils aîné du défunt doit frapper trois fois de suite la porte de la maison du trépassé avec un couteau pour blâmer l’attitude du démon familial de ne pas intervenir à temps dans la mort de son père. Avant d’abattre de gros arbres dans la forêt, les Mường présentent une offrande au génie des arbres (Thần cây) en même temps que la hache qui doit leur servir pour ce travail. Même en tuant une gibier à la chasse, ils sont obligés de rendre hommage au génie des fauves en lui offrant la tête et une épaule, une fois la bête dépecée. C’est en quelque sorte une amende honorable au protecteur des fauves, une coutume fréquemment rencontrée chez d’autres peuples chasseurs. Les Mường ont coutume de vénérer les roches, les citrouilles rouges au moment de leur installation dans la nouvelle maison (lễ tân gia), l’arbre cây si, les totems de famille, les sources d’eau, les génies du sol et de la cuisine etc..

Chez les Mường, la résurrection et la réincarnation de l’âme sont des sujets  tabous. Pour eux, l’âme est multiple, indestructible et immortelle, bonne ou mauvaise. Dans cette conception mường, la naissance d’un enfant est entourée de mystère. Ils se sont posé beaucoup de questions sur son identité: enfant, génie, esprit malfaisant ou mânes des ancêtres?

De plus, pour les Mường, la naissance du premier enfant, marque le début de maturité de jeunes parents. Ils comptent aussi sur leurs enfants afin de pouvoir avoir plus tard une paisible retraite. Le dicton mường suivant montre à tel point ce soutien souhaité:

Trẻ cậy cha, gìa cậy con
Les jeunes comptent sur leur père comme les vieux sur leurs enfants.

LA NAISSANCE

C’est pourquoi la naissance d’un enfant tient une place importante dans la vie des Mường. Pour parer à toute éventualité, les Mường prennent un grand nombre de précautions habituelles et rituelles liées à la grossesse et à la naissance. Au moment où la mère est enceinte, elle doit respecter certaines règles immuables depuis la nuit des temps: se protéger contre les esprits malfaisants avec une feuille d’arbre lors de son passage devant les cimetières et les temples, éviter les funérailles (un effet néfaste pour la mère et son futur enfant au niveau de la santé) et les mariages (un possible divorce pour les parents ), s’abstenir de marcher sur l’écorce de l’arbre utilisé dans la fabrication des cercueils (un possible avortement ), ne pas fuir devant le serpent pour empêcher le nouveau né d’avoir une langue allongée hors de sa bouche, éviter de manger des fruits « jumeaux » (une possible naissance multiple), faciliter l’accouchement en se réveillant de bonne heure le matin et en ouvrant toutes les portes de la maison, garder toujours la sérénité et la joie, éviter la colère etc…

De même, le mari doit connaître un grand nombre d’astreintes. Il lui est interdit de porter le cercueil, de remplacer la toiture de la maison, et de rénover la maison. A l’approche de son accouchement, la femme mường enceinte n’a pas l’intérêt de fréquenter la maison de ses parents car au cas où l’évènement aura lieu, elle sera obligée d’accoucher l’enfant sous le plancher à l’endroit où se trouve le bétail. Selon les Mường, la femme enceinte ne fait plus partie de leur famille (Con gái là con của người ta) mais elle est la fille de la famille de son mari. L’enfant né n’a pas le même sang de la famille (khác máu tanh lỏng). Cela pourra jeter plus tard un sort pour les gens de la maison. Pour une fille qui tombe enceinte sans mari, son accouchement ne pourra pas avoir lieu dans la maison. Il devra se tenir dans le jardin. La punition est la même pour la fille commettant la faute de tomber enceinte avant son mariage.

D’une manière générale, l’accouchement se déroule à la maison. L’heureux évènement de la naissance est annoncé par la présence d’un signe distinctif rangé toujours à gauche (s’il s’agit d’un garçon) et à droite (s’il s’agit d’une fille) à l’entrée de la maison. Ce signe sera enlevé à la fin du septième jour pour un garçon et neuvième jour pour une fille. Parfois, l’intervention du sorcier (thầy mo) est souhaitable au cas où on pense avoir affaire à des esprits malfaisants et à les tenir responsables de ces difficultés.

Il y a beaucoup d’astreintes pour la femme mais aussi pour le mari durant la grossesse.  Même après la naissance, l’enfant continue à être la cause des plus grands maux pour ses parents durant ses premières années de vie. Selon les Mường, l’âme attachée à son corps est tellement volage et vagabonde qu’elle peut s’évader de son corps à tout moment. C’est pour cela que l’enfant, avant de sortir de la maison, a besoin d’être protégé en lui accrochant à ses poignets ou à ses chevilles un bracelet d’argent (pwok wai) dont le rôle sert à empêcher son âme de sortir. Au cas où cette dernière quitterait son corps, ce bracelet lui permettrait d’y revenir et de prendre possession de l’enfant. De plus pour s’assurer que rien ne lui arrive durant ses premières années, ses parents mường organisent une cérémonie rituelle connue sous le nom cak wai pour lui permettre d’être désormais sous la protection des génies protecteurs Mẹ Mụ. Ceux-ci sont en quelque sorte les nourrices célestes de l’âme de l’enfant. Les Mu ont le droit d’avoir dans chaque maison mường, leur autel qui a été inauguré après la première naissance.

On ne peut pas ignorer la relation entre mari et femme chez les Mường car elle est l’un des traits saillants permettant à ces derniers d’acquérir des qualités louables et de fonder une société à la fois pacifique, humaniste, hospitalière et altruiste.

Etant basée essentiellement sur la fidélité, l’amour et le bonheur, cette relation permet de cimenter la société mường et lui permet de résister mieux à l’évolution des mœurs qu’a connue le Vietnam depuis sa réunification.

Malgré les facilités de pouvoir se parler, se fréquenter et se connaître avant le mariage, les jeunes ne peuvent pas outrepasser les principes et les exigences que la tradition mường a instaurées depuis la nuit des temps. Un homme doit être à la fois sérieux, fort, droit et gentil. Ce sont les qualités qu’on demande à un homme pour pouvoir se marier sinon il lui est difficile de trouver une femme dans la société mường. « Học ăn, học nói, học gói, học mở » (Apprendre à se comporter, à parler, à affronter et à dénouer les difficultés de la vie) c’est la devise qu’on aimerait appliquer dans la recherche d’un futur mari pour une fille mường. Un homme doit savoir construire la maison, tresser les panneaux de toiture en paille, élever le bétail etc … On est habitué à dire aussi dans un proverbe mường: Một đàn ông không dựng nổi nhà (un homme est incapable de construire la maison ) pour montrer à tel point leur attachement à cette opinion préconçue. Cette exigence est facile à comprendre car dans un environnement inhospitalier et dans une société à la fois solidaire et hiérarchique, un homme mường doit montrer sa capacité et être à la hauteur de cette exigence. Quant à la femme mường, elle n’est pas bien lotie non plus. On lui demande de posséder certaines qualités: avoir une bonne conduite, parler avec douceur, être courtoise, savoir se confectionner des habits etc…

MARIAGE

Hantés par le proverbe suivant  » Một đàn bà không cắt nổi gianh » (Une femme est incapable de couper le panneau en chaume), les Mường sont amenés à avoir un jugement plus clairvoyant sur leur future belle-fille et à déceler ses qualités et ses défauts avec lucidité. La devise « Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem họ » (Epouser une femme après avoir observé sa lignée, chercher un mari après avoir connu sa famille) n’est pas étrangère non plus à leur comportement et leur observation dans le mariage. Pour réussir ce dernier, ils ont besoin de l’aide d’une entremetteuse (bà mờ) (1) qui est en quelque sorte le pivot central dans cette affaire ardue. Elle est non seulement l’interface privilégiée de deux familles mais aussi la responsable et le témoin engagé des transactions émanant de ces deux familles. Elle doit être proche de la famille de la future mariée. Elle doit avoir du talent dans la communication pour convaincre les gens. Le proverbe mường suivant: » Thiếu gì nước trong giếng, thiếu gì tiếng trong mồm mà không nói ra cho vừa lòng nhau » (Il y a tellement de l’eau dans le puits comme des sons dans la bouche. Pourquoi n’arrive-t-on pas à trouver des mots pour se plaire ?) montre  l’attachement des Mường à tel point à la communication. Son respect est incontestable dans le village. Son profil répond à un grand nombre de critères que la tradition mường exige: avoir une vie irréprochable dans son couple et dans sa famille. Il est évident pour elle d’avoir comme enfants garçon et fille d’après un proverbe mường: có nếp, có tẻ ( il y a du riz gluant et du riz ordinaire ). Avant d’entamer sa démarche auprès de la famille de la femme, elle doit consulter le calendrier Đoi (2) car selon les calculs, il y a certainement des mois et des heures néfastes dans le jour (tháng thướm, giờ thướm ) qu’il faut éviter à tout prix pour le mariage. C’est aussi le cas des Vietnamiens avec le mois « Ngâu » qu’ils ont à proscrire pour cet évènement. Elle est censée de connaître la date de naissance de chacun des mariés afin d’éviter plus tard le problème d’incompatibilité et la mésentente du couple. En cas du divorce ou d’échec, c’est sur elle que seront tombés tous les griefs et les reproches de deux côtés. De plus, elle recevra le blâme du seigneur local (quan lang).

Après l’obtention de tous les éléments d’information et le feu vert de la famille du mari, l’entremetteuse peut commencer à fixer le premier rendez-vous (Thoỏng thiếng ou ướm tiếng ) avec la famille de la future mariée. Celle-ci doit aviser tous ses proches de cet heureux évènement et leur demander parfois des conseils. Lors de cette visite, elle a l’habitude de remettre à la famille de la fille une bouteille de vin qui va être accrochée tout de suite à l’intérieur de la maison à la colonne principale. Si cette bouteille de vin aura été servie après l’entretien, l’entremetteuse sera sûre de la réussite de sa mission. Dans le cas contraire, elle sera partie avec la bouteille de vin. Connue sous le nom en mường « Tì kháo thiếng », cette étape est suivie au moins 3 ou 4 fois par le va-et-vient (ou nòm en mường) de l’entremetteuse qui ne parvint pas à obtenir immédiatement l’accord pour la première fois. Il est dans l’intérêt de la famille de la future mariée de montrer à l’entremetteuse qu’il s’agit d’un fait important nécessitant une période de réflexion et de concertation avec la fille. Cela permet à approfondir les relations entre les deux familles et à les rendre plus intimes par le biais de l’entremetteuse.

Grâce aux va-et-vient (ou nòm), on s’assure de trouver en mari et femme toutes les qualités requises. C’est à la fin du dernier nòm, on commencera à choisir la date pour fêter le « nòm cả » (nòm principal). Connue sous le nom de « ăn hỏi ou tì nòm », cette cérémonie est célèbrée en grande pompe. On trouve dans les présents du futur mari un grand nombre d’objets symboliques parmi lesquels figurent un cochon, 20 tubes de liqueur de riz (rượu cần), 2 paires de bottes de canne à sucre, des feuilles de bétel, des gâteaux de riz gluant (bánh chưng) sans garniture (không nhân), une beauté morale et une convention tacite sur la virginité de la future mariée. Tous les cadeaux offerts doivent être en nombre pair. C’est lors de cette cérémonie que le futur mari sera présenté à la famille de la fille. Cette présentation est connue sous le nom mường: ti cháu ( lễ ra mắt chú rể). A la fin de cette cérémonie, la famille de la future mariée parlera de la dot aux parents du futur époux. Connue en mường sous le nom de « thách cưới (défier le mariage) », elle est acceptée avec facilité par ces derniers pour montrer qu’ils sont à la hauteur de cette exigence financière et pour ne pas perdre la face. C’est à l’entremetteuse le soin de marchander le coût de la dot, de le réduire ou de refuser carrément le mariage. Parfois, le futur époux sera assuré par la promesse de la famille de la fille de recevoir une part de l’héritage au cas où celle-ci n’a pas d’héritiers mâles.

Connue pour ses études sur les Mường, l’ethnologue française Jeanne Cuisinier a vu dans ce marchandage un acte d’achat pour les mariés. Rien ne permet de justifier entièrement cette interprétation car du côté de la famille de la fille, il y a bien un acte d’engagement, une caution morale pour ce mariage avec la participation de toute sa lignée et une sincérité de vouloir pérenniser la vie du couple par le biais de cette exigence financière ardue. En cas du divorce, la famille de l’épouse devra restituer intégralement toute la dot reçue au moment du mariage. C’est une contrainte supplémentaire permettant d’éviter la séparation et de mûrir bien la réflexion avant tout acte irréparable. C’est aussi l’un des facteurs qui permettent d’expliquer la cohésion familiale et sociale des Mường par rapport à d’autres ethnies, en particulier à des Kinh. De plus, pour le futur époux, il y a une promesse de lui céder une part de l’héritage et une habitude de l’adopter dans une famille n’ayant pas des héritiers mâles. Ce n’est pas vraiment la signification du terme d’achat trouvé dans sa définition car le futur époux recevra en compensation une dot quand même.

Selon la tradition mường, la cérémonie officielle aura lieu après 3 ans du nòm principal. C’est la période durant laquelle les futurs mariés devront se connaître, s’échanger des conversations et aplanir les divergences dans le but de faciliter plus tard la vie du couple. Cette fois, la cérémonie commence très tôt le matin car l’entremetteuse accompagnée par les proches du mari doit ramener un grand nombre d’objets et d’animaux répondant à l’exigence formulée au moment du nồm principal. (un buffle, deux cochons, 5 ou 6 paniers du riz gluant, un régime de noix d’arec, une centaine de feuilles de bétel, 20 tubes de liqueur de riz etc..). Le nombre de gens composant la suite doit être pair. Etant reçue par la famille de la mariée et participant avec les autres à une fête organisée en leur honneur, l’entremetteuse va demander aux parents de la mariée la permission de ramener leur fille à la maison de son mari à l’heure jugée convenable et portant la chance pour les mariés. Avant son départ, la mariée doit prier devant l’autel des ancêtres puis elle doit effectuer des lạy devant ses grand-parents ainsi que ses parents. Sur le chemin de retour, elle porte un chapeau conique et a toujours dans sa main un couteau pour éloigner les esprits malfaisants et protéger son « âme ». Il lui est interdit de retourner la tête en arrière. Cela prend du temps car dans la plupart des cas, les villages sont très éloignés les uns des autres. C’est pourquoi on est habitué à dire en mường: Làm rể vào buổi trưa, làm dâu vào buổi tối. (On devient le gendre  le matin, la bru le soir ).

Une fois arrivée sur place, elle est accueillie par la soeur du mari qui lui demande d’aller laver les pieds et de passer au dessus d’un fagot de bois avant de monter sur l’escalier de la maison. Elle est obligée d’aller prier tout de suite devant l’autel du génie de la cuisine avant d’effectuer le même geste devant l’autel des ancêtres et les parents du mari. Puis une cérémonie rituelle (lễ tơ hồng) a lieu au milieu de la maison en présence des mariés. Elle sera suivie ensuite par un festin en l’honneur du nouveau couple. Quelques jours après, celui-ci retournera à la maison de la mariée pour sa première visite ( lễ ra mặt). Dans le passé, il faut une période du défi (bù mà ruộng) avant de pouvoir entamer réellement la vie conjugale.

Pour les Vietnamiens, les Mường ne sont pas seulement une ethnie minoritaire mais aussi un peuple conservatoire d’une culture commune originelle. C’est pourquoi, il est dans l’intérêt des Vietnamiens de faire des études ethnographiques sur les Mường car grâce à eux, ils réussirent à comprendre mieux le genre de vie de leurs ancêtres ainsi que leur culture archaïque et millénaire. L’ethnologue vietnamien Nguyễn Từ Chi a eu l’occasion de rappeler les traits caractéristiques des Mường dans la culture Việt dans son livre « La cosmologie Mường ( Vũ trụ quan Mường ) ». Sans les Mường, on croit que la culture vietnamienne est celle des Chinois, une opinion largement fausse et erronée au fil des siècles. Ils méritent d’être pour toujours les cousins des Vietnamiens ou plutôt les frères jumeaux comme ils ont eu l’habitude de dire souvent dans l’une de leurs chansons populaires:

Ta với mình tuy hai mà một
Mình với ta tuy một thành hai

Bien que moi et vous soyons DEUX êtres, nous ne faisons qu’UN.
Etant UN seul être, moi et vous, nous pourrions être considérés toujours comme DEUX.

Les Mường sont plus que jamais les survivants de la culture antique des Vietnamiens. Ils sont là pour en témoigner et pour rappeler aux Vietnamiens qu’ils ont comme eux une culture propre qui leur permet de se différencier des Chinois et qui mérite d’être connue et préservée pour les futures générations face à l’évolution galopante de la société vietnamienne d’aujourd’hui.


(1) quạt: ce mot est utilisé pour désigner les funérailles (quạt ma).
(2): Le riz glutineux est une sorte de riz dont le grain est noir.
(1) Parfois c’est un entremetteur (ồng mờ).
(2): Calendrier Đoi: une caractéristique unique de la culture Mường. Ce calendrier est constitué de douze pièces en bambou et sculpté avec des lignes dans le but de faciliter l’indication des phénomènes et des changements climatiques.

Đinh Tiên Hoàng (Dynastie des Đinh)

Đinh Bộ Lĩnh

Version française

Sau khi Ngô Quyền qua đời, Dương Tam Kha phụ lời ủy ký cướp ngôi cháu, tự lập mình làm vua, xưng Dương Bình Vương khiến làm toàn dân phẫn nộ và dẫn đến sự sụp đổ của đất nước với sự xuất hiện của thập nhị sứ quân. Theo  Lê Văn Hưu viết trong « Đại Việt Sử ký Toàn thư » thì Dương Tam Kha đáng chê trách vì ông không noi gương Chu Công Đán phò tá Chu Thành vương mà làm việc của Vương Mãng nhưng theo một số  các nhà sử gia hiện nay như Trần Quốc Vượng thì cái loạn của thập nhị sứ quân nó có mầm móng từ lâu rồi  sau năm 905 ở thời nhà họ Khúc và  họ Dương cầm quyền.  Sau đó Ngô Quyền có công đánh bại nhà Nam Hán và giải phóng dân tộc khiến các thế lực phong kiến địa phương không dám cựa quậy ra mặt xưng hùng xưng bá một phương thôi.  Cái chết của Ngô Quyền tạo ra cho các thủ lĩnh địa phương có một cơ hội để chiếm cái khoảng trống quyền lực ở An Nam đô hộ phủ mà cũng cho thấy sự tiến bộ và sự khao khát  của người dân Việt muốn  được có một nền độc lập tự trị.

Tại sao Dương Tam Kha cướp ngôi của cháu Ngô Xương Ngập, con trưởng của Ngô Quyền mà lại không giết các con của Ngô Quyền? Tại sao lại nhận Ngô Xương Văn con thứ hai của Ngô Quyền làm con nuôi? Tại sao Ngô Xương Văn rước anh Ngô Xuân Ngập về cung coi việc nước chung sau khi truất phế được cậu Dương Tam Kha mà không giết  và đuổi ông về Nam Định?

Nhìn lại các sự kiện lịch sử thì thấy cái nhận xét của sử gia Lê Văn Hưu có phần không đúng chi cho mấy vì trước hết Dương Tam Kha tuy bị truất phế bởi Nam Tấn Vương  Ngô Xương Văn nhưng sau đó được ban cho vùng đất mới Giao Thủy ở Nam Định để hưởng nhàn và  khai khẩn. Như vậy Dương Tam Kha không phải  xem là là kẻ phản thần. Còn việc Ngô Xương Văn rước anh Ngô Xung Ngập về cung coi việc nước thì cho thấy Ngô Xuân Ngập không có tài năng và đạo đức như người em vì về sau Ngô Xuân Ngập có ý định giết em Ngô Xương Văn để làm vua một mình.

Có thể đây là lý do mà Dương Tam Kha có thái độ như vậy. Ông đã nhận thấy được  trước đó  Ngô Xương Ngập không có tài cán mà còn có thể hại ông khi lên ngôi vua nhất là ông không phải là cậu ruột vì Ngô Xương Ngập là con của vợ trước của Ngô Quyền dựa trên những tại liệu về ngày sinh của Ngô Chấn Lưu (Khuông Việt Đại Sư), con của Ngô Xuân Ngập và năm cưới của Ngô Quyền với con gái của Dương Diên Nghệ. Bởi  vậy ông mới hành sự như vậy. Có lẽ ông vẫn có ý trả ngôi về họ Ngô nếu không ông chỉ cần kiếm một người họ Dương, chớ cần chi nhận cháu ruột Ngô Xương Văn làm con nuôi nhất là ông không có con chi cả ở thời điểm đó. Còn có một điều mà gần đây được biết là theo sử gia như  Nguyễn Danh Phiệt thì Dương Vân Nga tên thật là  Dương Ngọc Vân là con gái của Dương Tam Kha trong cuốn sách « Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước » (trang 70).

Nếu đúng vậy thì cái nhìn của Dương Tam Kha quá sáng suốt ở thời điểm đó  vì ông nhận ra được người có thể dẹp lọan 12 sứ quân và cứu vãn đại cục  của đất nước bắng cách gả Dương Vân Nga cho Đinh Bộ Lĩnh chớ trong Đại Việt sử ký toàn thư chỉ cho biết bà vợ của Đinh Bộ lĩnh là họ Dương mà thôi. Cùng lúc đó, triều đình nhà Tống ở phương Bắc nhăm nhe dòm ngó muốn  đô hộ lại đất An Nam khi Triệu Khuông Dẫn thống nhất được Trung Hoa.

Vậy Đinh Bộ Lĩnh là ai ? Đinh Bộ Lĩnh sinh ra ở  thôn Kim Lư, làng Đại Hữu, tỉnh Ninh Bình. Ông con của  Đinh Công Trứ, một nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử  Hoan Châu ở vùng đất Nghệ An ngày nay (Hà Tĩnh). Cha ông mất sớm nên theo mẹ về quê ngọai ở Ninh Bình sống với chú. Hồi còn nhỏ, ông hay thường suốt ngày cùng các bạn chăn trâu lấy bông lau làm cờ bày trận đánh nhau và có năng khiếu tổ chức làm tướng lãnh đạo ra trận. Khi lớn lên, trong thời lọan lạc, ông cùng con tên Liễn sang ở Thái Bình với sứ quân Trần Minh Công .  Thấy ông dáng mạo khôi ngô lạ thường nên Trần Minh Công nhận làm con nuôi và sau đó khi Trần Minh Công qua đời, ông mới thay quyền và cùng  con đưa quân về Hoa Lư. Chính ở nơi nầy ông mới chiêu mộ binh lính và có được dưới trướng tất cả hào kiệt của xứ An Nam như Lê Hoàn, Đinh Điền, Nguyễn Bậc vân vân … Ông là người đứng lên dẹp loạn nhị thập sứ quân. Đối với cánh quân Trần Lãm, Phạm Bạch Hổ, Ngô Nhật Khánh, Ngô Xương Xí thì ông dùng chính sách liên kết và hàng phục còn với các thế lực khác như  Đỗ Cảnh Thạc, Nguyễn Siêu, Kiều Công Hãn, Nguyễn Thủ Tiệp, Kiều Thuận, Lý Khuê thì ông dùng vũ lực, sức mạnh quận sư để đánh dẹp. Sau hai năm ròng rã chiến tranh, ông thành công thống nhất đất nước và được gọi là Vạn thắng vương. Năm Mậu Thìn (968), Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, tức Đinh Tiên Hoàng đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt và cho định đô ở Hoa Lư. Qua việc đổi xưng hoàng đế, đổi tên nước thành Đại Cồ Việt và dời đô vê Hoa Lư, ông muốn khẳng định từ nay nước Việt Nam có sự độc lâp hẳn với phương Bắc thật sư mà cho đến giờ chưa có vua nào làm được như ông và mở ra một thời đại quân chủ phong kiến trong lịch sử Việt Nam sau một ngàn năm Bắc thuộc.

dinh_bo_linh

Hoa Lư (Ninh Bình)

Version française

Profitant de la mort de Ngô Quyền et rompant le  souhait de ce dernier de mettre sur le trône son fils aîné, son beau-frère Dương Tam Kha usurpa le pouvoir  et se déclara roi d’Annam. Cela mit immédiatement tout le peuple en colère et provoqua l’effondrement du pays avec l’émergence des douze seigneurs locaux. Selon l’historien Lê Văn Hưu dans « Les Mémoires historiques du Grand Viet au complet », Dương Tam Kha mérite d’être blâmé pour avoir manqué à ses promesses car il n’a pas suivi l’exemple du duc de Zhou Ji Dan (Chu Công Đán) d’aider Zhou Chengwang (Chu Thành Vương) à gouverner le pays, mais il  a  accompli l’œuvre de  Wang Mang (Vương Mãng) à l’époque des Han mais selon certains historiens vietnamiens d’aujourd’hui comme Trần Quốc Vượng, la  révolte armée des douze seigneurs de guerre locaux prit naissance depuis longtemps après l’an 905 à l’époque de la gouvernance des familles Khúc et Dương. Du fait que le généralissime Ngô Quyền a eu le mérite de vaincre ensuite  l’armée chinoise des Hans du Sud et de libérer la nation, les dirigeants locaux n’ont pas osé à montrer leur intention de se déclarer roi ou seigneur dans leur région. La mort de Ngô Quyền leur a donné a l’occasion d’occuper le vide laissé par le  pouvoir dans le territoire d’An Nam mais elle a montré également les progrès et la volonté réelle et ardente  du peuple vietnamien d’accéder à  l’autonomie et l’indépendance du pays.

Pourquoi Dương Tam Kha n’a-t-il tué les enfants de Ngô Quyền au moment de l’usurpation du trône?  Pourquoi a-t-il accepté d’adopter le second enfant Ngô Xương Văn de Ngô Quyền? Pourquoi Ngô Xương Văn a-t-il ramené son frère Ngô Xuân Ngập au palais pour gérer ensemble les affaires courantes du royaume après avoir déposé son oncle maternel Dương Tam Kha en lui laissant la vie sauve et en l’envoyant en exil à Nam Định?

En revenant sur les événements historiques, l’observation soulignée par  l’historien Lê Văn Hưu est un peu inexacte car d’abord  Dương Tam Kha a été déposé par son neveu  Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn mais celui-ci  lui a octroyé la nouvelle terre Giao Thủy (Nam Định) pour lui permettre de la mettre en valeur et y passer sa retraite. Ainsi Dương Tam Kha n’est pas vraiment un félon. Le fait que Ngô Xương Văn ait emmené  son frère aîné Ngô Xương Ngập au palais pour gérer ensemble les affaires courantes du royaume a montré que ce dernier n’avait pas le talent et la moralité comme son frère cadet. Il avait plus tard l’intention de tuer Ngô Xương Văn pour régner seul.

C’est peut-être la raison  qui explique  le comportement de Dương Tam Kha. Il s’est rendu compte tôt  de l’incompétence  de Ngô Xương Ngập. Celui-ci pourrait lui nuire aussi s’il était couronné roi. Duong Tam Kha n’était pas  vraiment son oncle maternel  parce que Ngô Xương Ngập était le fils de  l’épouse  précédente de Ngô Quyền  en s’appuyant sur les informations recueilles sur la date de naissance du fils Ngô Chấn Lưu (Khuông Việt Đại Sư) de Ngô Xương Ngập et celle de mariage de son père Ngô Quyền avec la fille de Dương Diên Nghệ. C’est pourquoi  Dương Tam Kha agit de cette manière. Peut-être il aurait  toujours l’intention de rendre un jour le trône à la famille Ngô sinon il pourrait trouver  quelqu’un d’autre dans sa famille Dương pour lui succéder depuis longtemps au lieu  de prendre Ngô Xương Văn comme son fils adoptif. En plus, il n’eut pas d’enfants à cette époque. Selon l’historien Nguyễn Danh Phiệt, Dương Vân Nga de son vrai nom Dương Ngọc Vân était  bien la fille de Dương Tam Kha dans son livre intitulé « L’élimination des rébellions et la fondation de la dynastie des Đinh » (page 70). Si tel est le cas, alors la vision de Dương Tam Kha est trop lucide car il trouve  en la personne de celui qui peut éliminer les douze  seigneurs de guerre et sauver la situation générale de son pays en donnant en mariage Dương Vân Nga à Đinh Bộ Lĩnh. Mais dans « Les Mémoires historiques du Grand Viet au complet » on sait que l’épouse de Đinh Bộ Lĩnh porte seulement le nom « Dương ». En même temps, la dynastie  Song dans le Nord commença à s’intéresser activement à cette époque au territoire d’An Nam lorsque Zhao Kuangyin (Triệu Khuông Dẫn) réussit à unifier la Chine.

Qui est Đinh Bộ Lĩnh? Celui-ci est né dans le village de Kim Lư de la province de Ninh Bình. Il était le fils de  Đinh Công Trứ, un officier subalterne du général  Dương Định Nghệ et responsable local  de Hoan Châu  dans la province Nghệ An d’aujourd’hui (Hà Tĩnh). Orphelin très jeune, il a suivi sa mère pour s’installer à Ninh Bình chez son oncle. Quand il était enfant, il aimait à passer sa journée avec ses amis gardiens de buffles pour s’amuser à faire la guerre en fabriquant des fanions avec des roseaux et en possédant déjà à cette époque les qualités d’un chef au combat. Quand il grandit dans une période de guerres et de troubles, lui et son fils Liễn durent se réfugier à Thái Binh et y vivre sous la protection du seigneur de guerre Trần Minh Công. En le trouvant avoir une apparence particulière et intelligente, celui-ci accepta de l’adopter. Lors du décès de son père spirituel, il prit la relève  et décida d’emmener son armée à Hoa Lư avec son fils.

C’est ici qu’il recruta les soldats et retrouva sous sa bannière tous les gens de talent d’An Nam comme Lê Hoàn, Đinh Điền, Nguyễn Bậc etc … C’est lui qui se leva seul avec son armée  pour éliminer les douze chefs de guerre. Pour les armées des seigneurs  Trần Lãm, Phạm Bạch Hổ, Ngô Nhật Khánh, Ngô Xương Xí, il tenta de les convaincre et les persuader tandis qu’avec d’autres forces rebelles  telles que celles de  Đỗ Cảnh Thạc, Nguyễn Siêu, Kiều Công Hãn, Nguyễn Thủ Tiệp, Kiều Thuận, Lý Khuê, il utilisa la force militaire pour les écraser entièrement. Après deux années de guerre, il réussit  à unifier le pays et à porter le nom « Vạn thắng vương (Roi vainqueur de  dix mille combats».

Dans l’année du dragon (968), Đinh Bộ  Lĩnh fut couronné et devint empereur Đinh Tiên Hoàng, donna au pays le nom « Đại Cồ Việt (ou le Grand Việt)  et s’installa à Hoa Lư. En changeant le titre d’empereur, en renommant le pays en Đai Cồ Việt et en déménageant la capitale à Hoa Lư, il voulut affirmer que désormais, le Vietnam avait  une indépendance totale vis-à-vis de l’empire du Nord qu’aucun roi ne pouvait le faire jusqu’à présent.  Il inaugura ainsi une ère de monarchie féodale dans l’histoire du Vietnam après mille ans de la domination chinoise.

Bibliographie 

Lê Văn Hưu: Đại Việt Sử ký Toàn thư.(Les Mémoires historiques du Grand Viet au complet)
Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược (Histoire du Việt Nam)  Imprimerie Vĩnh et Thanh 1928.
Nguyễn Danh Phiệt: Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước. Nhà xuất bản: Khoa Học Xã Hội Năm: 1990. 

Văn hóa Điền Quốc và Nam Chiếu (Royaume de Dian et Nanzhao)

Văn hóa Điền Quốc

Version française

Thời kỳ Bắc thuộc,  nước Giao Châu thường bị quấy nhiểu cướp bóc bởi nước Nam Chiếu 南诏 (Vân Nam)  nhất là cuối đời nhà Đường thời vua Huyền Tôn (Xuanzong). Nước nầy được thống nhất nhờ tù trưởng của chiếu Mông Xá,  Bi La Cáp (Piluoge) và gồm có sáu nước nhỏ  mà mỗi nước nầy được gọi là chiếu (zhao). Chiếu Mông Xá (Meng She) của  Bi La Cáp  nằm  ở  phiá nam vì vậy mới gọi là Nam chiếu. Vương quốc nầy ở gần hồ Nhĩ Hải (Erhai)  nằm ở tỉnh Vân Nam ngày nay và ở phiá tây của bắc bộ Việt Nam. Theo sử gia Trần Trọng Kim thì người Nam Chiếu phần đồng là người nòi thái mà có cả người Bạch và người Lô Lô thuộc về nhóm Tạng-Miến. Nhờ sự thống nhất nầy mà Nam Chiếu càng ngày càng mạnh đem quân đi đánh Thổ phồn (Tây Tạng)  rồi dời đô lên đóng ở thành Thái Hoà (thành Đại Lý ngày nay). Nam Chiếu cũng đã từng xâm chiếm An Nam (tên gọi khi đó của Việt Nam dưới thời nhà Đường ) từ những năm 858 tới năm 866. Hai lần nhà Đường gữi binh sang cứu Giao Châu cũng bị thất bại nên phải đợi đến năm ất dậu (865) vua nhà Đường sai tướng là Cao Biền mới bình được giặc quân Nam Chiếu. Có lần quân Nam Chiếu chiếm đoạt được thành giết dân  Giao Châu hơn 15 vạn. Đất Giao Châu bị Nam Chiếu phá hại gần mười năm trời.

Sở dĩ Nam Chiếu thường liên tục phát động các cuộc chiến tranh xâm lấn An Nam Đô hộ phủ  (Vietnam) hay Tây Xuyên (dải phía Tây Tứ Xuyên) là chủ yếu cướp bóc tài nguyên và nô lê.  Nước nầy thống trị dựa trên ba bộ phận mà mà bộ phận chính là nô lệ. Bậc trên  cao cả là  bậc thống trị gồm có các đại diện của qúy tộc chủ nô (vương thất, tướng tá, quan lớn nhỏ), bậc kế  đó có các bình dân và bậc sau cùng  là tù binh chiến tranh và dân thiểu số bị chinh phục và trở thành nô lệ.  Sau khi bị đuổi  bởi Cao Biền ra khỏi An Nam  thì Nam Chiếu bị suy dần vì chiến tranh triền miên. Năm 873, Nam chiếu bị đẩy ra khỏi Tứ Xuyên và phải lùi sau đó về Vân Nam. Khi Viêt nam được thoát ách thống trị Trung Hoa với Ngô Quyền thì nước Nam Chiếu bị tiêu diệt và được thay thế sau một thời gian ngắn  bởi  vương quốc  của Đoàn Tư Bình. Ông nầy lập ra nhà Đại Lý vào năm 937 và bị thôn tính bởi quân Mông Cổ vào năm 1253.

Sở dĩ Nam Chiếu nhất là Vân Nam được nhắc đến nhiều ở trong sử ta vì nơi nầy có một nền văn hoá Điền Quốc cùng thời với nền văn hoá Đồng Sơn của Việt Nam. Theo sự quan sát của nhà khảo cổ học Việt Nguyễn Việt, có thể nói vào thời đó, văn hóa Đồng Sơn đuợc phát triển trong bối cảnh cởi mở, đã trao đổi lẫn nhau những thông tin và sản phẩm với Điền quốc qua sông Hồng. Lấy nguổn nước ở Vân Nam, sông Hồng được xem thời đó như là đường tơ lụa sông.  Qua các cuộc khai quật khảo cổ, các  dữ liệu tích lũy hơn nửa thế kỷ đã chứng minh rằng các hiện vật kiếm được, từ vùng Đông Sơn và Vân Nam, thuộc hai nền văn hóa có liên quan trong lĩnh vực văn hóa dựa trên nền tảng văn hóa Việt ở tây nam Trung Quốc và bán đảo Đông Dương. Cả hai trung tâm khu vực đều là nơi mà những người tiêu dùng nhiều các trống đồng và các dụng cụ kim loại.  Người Điền thường  sử dụng trống đồng lớn nhằm để liên lạc trong chiến trận.  Cũng trông thấy trong các ngôi mộ của tầng lớp quý tộc người Điền có các trống đồng lớn chứa vỏ sò. Phần trên của trống thường được  thay thế bằng một nắp đúc từ đồng thiếc.  Trên nắp  được thấy nhiều cảnh vật khác nhau trong cuộc sống hằng ngày của người dân Điền qua các tượng hình nhỏ bé: săn bắn, trộng trọt hay dệt vải. Đôi khi còn có các cảnh êm đềm hơn nữa như khiêu vũ, đấu bò tót vân vân…

Người Điền là  những người có đầu óc sáng kiến khiến họ tạo ra nhiều hình dáng phưc tạp và tinh xảo. Họ  dùng  cả hai phương pháp khuôn sáp đã mất và phương pháp khuôn mảnh.  Phải làm thế nào để  sáng tỏ  hai nền văn hóa này tương tác với nhau trong bối cảnh luyện kim ở châu Á? Hiển nhiên  là ngoài ra mối quan hệ rõ ràng với văn hoá Đông Sơn, đồ đồng Vân Nam cũng thể hiện những đặc điểm nổi bật ở các khu vực phía bắc và phía tây của hồ Điền quốc  mà  được xem đó là  các nguồn có thể có cho sự  cảm hứng trong việc sáng tạo. (TzeiHuey Chiou-Peng).

Version française

La culture de Dian 

Durant la période de domination chinoise, la province Giao Châu était souvent envahie  et pillée par le royaume  de Nanzhao 南诏 (Yunnan), en particulier à la fin de la dynastie  des Tang sous le règne de l’empereur Huyền Tôn (Xuanzong). Ce pays était unifié par le  roi de Meng She, Piluoge (ou Bi La Cáp en vietnamien) et constitué de six petits royaumes, dont chacun était appelé un zhao (ou chi  ).  Le royaume  Meng She de  Piluoge était localisé  dans le sud. C’est pour cette raison qu’il était désigné  sous le nom Nan Zhao (ou pays au sud). Ce royaume était situé  près du lac Erhai dans l’actuelle province de Yunnan et à l’ouest du nord du Vietnam. Selon l’historien vietnamien  Trần Trọng Kim, le royaume de Nan Zhao était occupé en grande partie par la population Thaïe mais les Bai  et les Lo Lo appartenant au groupe tibéto-birman y étaient aussi présents. Grâce à cette unification,  le royaume Nan Zhao se renforça de jour en jour et envoya ses troupes pour combattre Thổ Phồn (ou Tibet) puis déplaça et installa  sa capitale à  la ville  Thái Hòa (capitale Dali d’aujourd’hui). Nan Zhao a également envahi An Nam (le nom donné au  Vietnam à l’époque de la dynastie des Tang) de l’an 858 jusqu’en   866. La dynastie Tang a tenté d’envoyer  deux fois des troupes pour sauver la  province Giao Châu de cette occupation mais  elle a échoué complètement.  Il faut attendre jusqu’en l’an 865, pour que l’empereur des Tang envoyât cette fois le général Kao Ping (Cao Biền) pour chasser définitivement les Nan Zhao et  pacifier la province Giao Châu. Une fois, l’armée de Nan Zhao réussit à occuper la province An Nam et tuer plus de 15 000 habitants. La province  Giao Châu  supporta incessamment le harcèlement des Nan Zhao durant presque dix ans.

La raison pour laquelle le royaume de Nan Zhao a lancé incessamment des guerres pour envahir An Nam (Vietnam) ou la bande occidentale du Sichuan était principalement le pillage des ressources et la capture des esclaves. Ce pays était fortement hiérarchisé  avec une structure à trois niveaux dont le plus important et le plus bas était basé essentiellement au système  d’esclavage. Le niveau le plus élevé revenait à la classe dirigeante  composée de représentants de la noblesse et des maîtres d’esclaves (famille royale, généraux, grands et petits fonctionnaires). Le niveau suivant comprenait les gens ordinaires et le dernier niveau était occupé par  les prisonniers de guerre et la minorité ethnique chargés d’entretenir le système d’esclavage. Après avoir été expulsé par Kao Ping hors d’An Nam,  le royaume de Nanzhao a progressivement décliné en raison de la guerre sempiternelle avec ses voisins. En 873, les Nan Zhao furent expulsés du Sichuan et  refoulés vers la région de Yunnan. Lors de la libération du Viêt Nam de la domination chinoise  avec Ngô Quyền, le royaume de Nan Zhao fut entièrement détruit et  remplacé peu de temps après par le royaume de Duan Siping ( Đoàn Tư Bình). Celui-ci fonda le royaume de Dali en  937 et disparut lors de la conquête mongole en 1253.

Le royaume de Nan Zhao ainsi que la province de Yunnan était mentionné souvent dans notre histoire car elle avait la culture de Dian à la même époque  de celle de  Đồng Sơn au Vietnam. Selon l’archéologue vietnamien Nguyễn Việt, on peut dire qu’à cette époque, la culture Đồng Sơn s’est développée dans un cadre très ouvert, a échangé réciproquement  les informations et les  objets avec  le royaume de Dian  au moyen du fleuve Rouge. Prenant la source au Yunnan, le fleuve Rouge était considéré à l’époque comme la route de la soie. Grâce à des fouilles archéologiques, les données recueillies durant  plus d’un demi-siècle ont prouvé que les artefacts comparables dans les régions de Đồng Sơn et de Yunnan, appartenaient à deux cultures apparentées dans la sphère culturelle des Yue du sud-ouest de la Chine et la péninsule indochinoise. Les deux centres régionaux abritaient de nombreux consommateurs de tambours de bronze et d’instruments métalliques. Les Dian utilisaient souvent de grands tambours en bronze pour faciliter la communication au combat. On voit également dans les tombes de l’aristocratie  de Dian de grands tambours en bronze contenant des coquillages. La partie supérieure du tambour est généralement remplacée par un couvercle en fonte de bronze. Sur le couvercle, on peut voir de nombreuses scènes différentes de la vie quotidienne des Dian à travers des figurines: chasse, agriculture ou tissage. Parfois, il y a des scènes encore plus paisibles  comme la danse, la tauromachie etc.

Les Dian étaient des gens créatifs qui leur permettaient de créer de nombreuses formes très complexes et sophistiquées. Ils utilisaient à la fois la méthode de moulage à la cire perdue et la méthode de moulage en plusieurs fragments. Comment ces deux cultures devraient-elles interagir dans le contexte de la métallurgie en Asie? Il est évident  qu’outre  leurs affinités évidentes avec la culture de Đồng Sơn, les bronzes de Yunnan présentent aussi les caractéristiques des régions nord et ouest du lac de Dian considérées comme les sources  possibles pour leur inspiration. (TzeiHuey Chiou-Peng).

Bibliographie:
TzeHuey Chiou-Peng: Dian bronze art : its source and formation.  IPPA 2008, n° 28, pp 34-43.
Trần Trọng Kim: Việt nam sử lược. Imprimerie Vĩnh Thanh, Hànôi 1928.
Chiêm Toàn Hữu: Văn hóa Nam Chiếu Đại Lý. Nhà xuất bản văn hóa thông tin Hànôi 2004.
 

Ngô Quyền (Libérateur de la nation vietnamienne)

 

Ngô Quyền

 

Version vietnamienne

Face à l’armée chinoise ayant l’habitude de recourir à  la force et la brutalité lors  de sa conquête et  sa domination envers les autres pays, il faut aux Vietnamiens de trouver l’ingéniosité de mettre l’accent sur la tactique souple et inventive adaptée essentiellement au champ de bataille  afin de réduire son élan et sa supériorité matérielle en homme et nombre. Il ne faut jamais se jeter à corps perdu dans cette confrontation car on cherche à opposer  dans ce cas la dureté  de l’œuf à celle de la pierre (lấy trứng chọi đá)  mais on doit combattre le long avec le court, tel est l’art militaire employé par le généralissime talentueux  Ngô Quyền. C’est pour cette raison qu’il dut choisir le lieu de l’affrontement à l’embouchure  du fleuve Bạch Đằng en anticipant l’intention des Han du Sud de vouloir l’emprunter avec leur flotte de guerre dirigée par le prince héritier Liu  Hung-Ts’ao (Hoằng Thao) ordonné par son père Liu Kung (Lưu Cung) comme roi du Jiaozhi  pour faciliter rapidement le débarquement dans le territoire vietnamien. Cette flotte céleste s’engagea dans cette embouchure comme prévu. Ngô Quyền  fit planter des pieux pointus recouverts  de fer dans le lit du fleuve et invisibles pendant les hautes eaux avant cette confrontation.  Il essaya d’attirer la flotte céleste au-delà  de ces  barrages de pieux pointus en la harcelant incessamment avec des bateaux à fonds plats. À marée basse, les navires chinois refluèrent en désordre face à des attaques des troupes vietnamiennes et ils étaient assaillis de tous les côtés et entravés désormais par le barrage des pieux émergés, ce qui provoqua non seulement l’anéantissement des navires et troupes chinoises mais aussi la mort de  Hung-Ts’ao.

Ngô Quyền était un fin stratège car il réussit à synchroniser parfaitement le mouvement des marées et l’apparition de la flotte céleste dans un laps de temps  nécessitant à  la fois la grande précision et la connaissance de ce lieu. Il sut retourner la supériorité de la force adverse à son avantage car l’armée des Han du Sud fut connue excellente en matière maritime et rendre toujours l’eau ou le fleuve Bạch Đằng comme  son allié dans la lutte contre ses adversaires. L’eau est  le principe vital pour la civilisation du riz inondé  des Vietnamiens mais elle est aussi le principe mortel car elle peut devenir une force incomparable dans leurs  combats.  C’est ce qu’a constaté plus tard un haut mandarin chinois Bao Chi dans un rapport confidentiel adressé à l’empereur des Song: les Vietnamiens sont des races bien douées pour le combat sur l’eau.  Si les Vietnamiens fuient vers la mer, comment les soldats de Song peuvent-ils les combattre car ces derniers ont peur du vent et de la vague (1). Ngô Quyền  sut faire référence aux trois facteurs clés: Thiên Thời, Địa Lợi, Nhân Hòa (être au courant des conditions météorologiques et propices, connaître bien le terrain et avoir l’adhésion populaire ou la concorde nationale) pour apporter la victoire à son peuple et pour  marquer un tournant majeur dans l’histoire du Vietnam. C’est ainsi que se termine la fin de la domination chinoise durant presque 1000 ans mais ce n’est pas la dernière domination car le Vietnam continue à rester un obstacle majeur à l’expansion chinoise vers le Sud.  La première figure du nationalisme vietnamien au début du XXème siècle  Phan Bội Châu l’a considéré  comme le premier libérateur de la nation vietnamienne (Tổ trùng hưng).

 

 Comment peut-il réussir à se  libérer du joug chinois lorsqu’on sut qu’à cette époque notre population s’éleva à peu près à un million d’habitants face à un mastodonte chinois estimé à plus de 56 millions  d’habitants.  Il faut qu’il ait du courage, de l’esprit inventif et du charisme pour arriver à se libérer de ce joug avec ses partisans.  Mais qui est cet homme que les Vietnamiens considèrent toujours aujourd’hui comme le premier dans la liste des héros vietnamiens?

Ngô Quyền est né en l’an 897 à au village Đường Lâm localisé à 4 kilomètres à l’ouest de la ville provinciale Sơn Tây. Il était le fils d’un administrateur local Ngô Mân. Quand il était jeune, il avait l’occasion de montrer  son caractère et sa volonté de servir le pays.  En 920, il fut au service de Dương Đình Nghệ, un général de la famille du gouverneur Khúc de la province Ái Châu (Thanh Hóa). Dương Đình Nghệ avait le mérite de battre les Han du Sud en leur prenant  la capitale Đại La (ancienne Hànội)  en 931 et se déclara désormais gouverneur de Jiaozhi. Il confia à Ngô Quyền le soin d’administrer la province Ái Châu. En trouvant en lui le grand talent et la détermination de servir le pays, il décida de lui accorder la main de sa fille. Durant ses 7 années de gouvernance (931-938), il fit preuve d’apporter la vie paisible à cette  contrée. En 937, son beau père Dương Đình Nghệ fut assassiné par son subalterne Kiều Công Tiễn pour prendre  le poste du gouverneur de Jiaozhi. Cet acte odieux provoqua la colère de toutes les couches de la population. Ngô Quyền décida de l’éliminer au nom de sa belle famille et de la nation car  Kiều Công Tiễn demanda de l’aide à l’empereur des Han du Sud, Liu Kung. Pour ce dernier c’était une occasion  en or de reconquérir le Jiaozhi.

Malheureusement pour Liu Kung,  cette opération militaire hasardeuse mit fin à une longue domination chinoise au Vietnam et permit à Ngô Quyền de fonder la première dynastie féodale au Vietnam.  En 939, il se proclama roi d’Annam et installa la capitale  à Cổ Loa (Phúc Yên). Son règne ne dura que 5 ans. Il mourut en 944. Son beau-frère Dương Tam Kha profita de sa mort pour s’emparer du pouvoir, ce qui provoqua la colère de toute  la population  et conduisit à l’éclatement du pays avec l’apparition de 12 seigneurs de guerre locaux (Thập nhị sứ quân). Ce chaos politique dura jusqu’en l’an 968 où un brave garçon de Ninh Bình, Đinh Bộ Lĩnh réussit à les éliminer un par un et unifier le pays sous sa bannière. Il fonda la dynastie des Đinh et fut connu sous le nom « Đinh Tiên Hoàng ». Il s’installa à Hoa Lư dans la région du fleuve Rouge  et le Vietnam de cette époque devint ainsi « Đại Cồ Việt  (ou le Grand Việt)».

Version vietnamienne 

Làng Đường Lâm

Đối mặt với quân Tàu thông  thường hay dùng vũ lực và hành sự tàn bạo trong các cuộc chinh phạt và thống trị các nước khác, người  dân Việt phải khéo léo tìm ra được  một chiến thuật linh hoạt và sáng tạo thích nghi cốt yếu ở chiến trường để  làm giảm bớt  động lực và tính ưu thế  của họ về số người và số lượng. Chúng ta đừng bao giờ lao đầu vào cuộc đối đầu này bởi vì chúng ta chỉ lấy trứng chọi đá  trong trường hợp này mà chúng ta nên phải  lấy cái ngắn chống cái dài, đấy mới  là nghệ thuật quân sự  của tướng tài ba Ngô Quyền. Chính vì lẽ đó mà ông phải chọn nơi để giao chiến ở cửa sông Bạch Đằng, ông đã đóán được ý đồ của quân Nam Hán. Họ muốn đem thuyền bè theo sông Bạch Đằng mà tiến vào mau để nhanh chóng đổ bộ trên lãnh thổ Việt Nam và được thái tử  Hoằng Thao  chỉ huy theo lệnh của cha là Lưu Cung. Ông được phong làm Giao vương. Thuyền bè của quân Nam Hán này tiến vào cửa miệng sông đúng theo kế hoạch. Ngô Quyền đã cắm cọc nhọn bằng sắt dưới lòng sông và không thể trông thấy khi  thủy triều dâng cao trước cuộc đương đầu này.  Quân ta cố gắng dụ thuyền bè quân Nam Hán vượt qua những cọc nhọn này bọc sắt  bằng cách quấy nhiễu không ngừng với những chiếc thuyền nhỏ. Khi thủy triều xuống, các thuyền bè bị hỗn loạn trước sự tấn công của quân ta và  bị bao vây từ mọi phía nhất là còn bị cản trở bởi hàng loạt cọc nổi lên, điều này không chỉ khiến tàu bè quân Nam Hán  bị tiêu diệt mà luôn  cả cái chết của Hoằng Thao. 

Ngô Quyền là một nhà chiến lược tài ba vì ông đã thành công trong việc kết hợp hoàn hảo sự chuyển động của thủy triều và sự xuất hiện các  tàu bè của quân Nam Hán trong khoảng thời gian đòi hỏi sự chính xác và kiến ​​thức về điạ hình. Ông biết cách trở ngược lại ưu thế lực lượng  của đối phương thành lợi thế cho mình vì quân lính Nam Hán  rất nổi tiếng giỏi về hàng hải và biết dùng sông Bạch Đằng làm thành đồng minh trong cuộc chiến chống lại kẻ thù của mình.

Nước là nguyên tắc sống của nền văn minh lúa nước của người dân Việt nhưng nó cũng là nguyên tắc gây chết người vì nó có thể trở thành một lực lượng vô song trong các cuộc đấu tranh của họ. Bởi thế có một viên quan cao cấp của Trung Quốc là Bảo Chi  gữi một bản báo cáo bí mật trong đó ông có nhận định như sau cho Hoàng đế nhà Tống: Người Việt Nam là một chủng tộc có năng khiếu chiến đấu trên mặt nước. Nếu người Việt chạy ra biển thì làm sao quân Tống đánh được vì họ sợ sóng gió (1). Ngô Quyền đã dựa vào 3 yếu tố then chốt: Thiên thời, địa lợi, nhân hòa để dành lại thắng lợi cho dân tộc mình và đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Đây là kết thúc sự thống trị của Trung Quốc gần có  một ngàn năm, nhưng nó không phải là sự thống trị cuối cùng khi Việt Nam  vẫn tiếp tục là một trở ngại lớn cho sự bành trướng của Trung Quốc về phía Nam. Là nhân vật đầu tiên của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam vào đầu thế kỷ 20, Phan Bội Châu đã coi ông là người khai phóng đầu tiên của dân tộc Việt Nam (Tổ trùng hưng).

Làm sao Ngô Quyền có thể thành công trong việc giải phóng dân tộc ra khỏi ách thống trị của Trung Quốc khi được biết rằng vào thời điểm đó dân số của chúng ta chỉ lên đến khoảng một triệu người  trong khi đó  nước Trung Quốc khổng lồ ước tính có hơn 56 triệu người. Cần phải có lòng can đảm, óc sáng tạo và sức thu hút để có thể mới  thoát khỏi ách thống trị này với những người ủng hộ ông. Nhưng ông là người thể nào mà được người dân Việt vẫn xem là người đứng đầu trong danh sách những nhân vật anh hùng  của đất Việt ?

Ông sinh năm 897 tại làng Đường Lâm, cách tỉnh lỵ Sơn Tây 4 cây số  về phía Tây. Ông là con trai của một hào trưởng địa phương tên là Ngô Mân. Khi còn trẻ, ông có cơ hội thể hiện bản lĩnh và có ý chí phục vụ đất nước. Năm 920, ông phục vụ cho Dương Đình Nghệ, một tướng của dòng họ của tổng đốc Khúc ở tỉnh Ái Châu (Thanh Hóa). Dương Đình Nghệ có công đánh đuổi quân Nam Hán, lấy lại kinh đô Đại La (Hànội cũ) vào năm 931 và từ đó tự xưng là thống đốc Giao Chỉ. Ông giao cho Ngô Quyền việc cai quản tỉnh Ái Châu. Nhận thấy ở Ngô Quyền có  tài năng lớn và lòng quyết tâm phụng sự đất nước, ông quyết định gả đứa con gái của mình. Trong 7 năm cai trị của mình (931-938), Ngô Quyền đã thể hiện được việc mang lại cuộc sống yên bình cho vùng đất này. Năm 937, cha vợ của ông là Dương Đình Nghệ bị thủ hạ là Kiều Công Tiễn ám sát để giành chức Tổng đốc Giao Chỉ. Hành động tàn ác này đã khiến làm quần chúng phẫn nộ. Ngô Quyền nhân danh gia đình bên vợ và đất nước  quyết định trừ diệt Kiều Công Tiễn nhất là Kiều Công Tiễn đã cầu cứu hoàng đế Nam Hán là Lưu Cung. Đây là cơ hội để Lưu Cung tái chiếm lại đất Giao Chỉ.

Làm sao Ngô Quyền có thể thành công trong việc giải phóng dân tộc ra khỏi ách thống trị của Trung Quốc khi được biết rằng vào thời điểm đó dân số của chúng ta chỉ lên đến khoảng một triệu người  trong khi đó  nước Trung Quốc khổng lồ ước tính có hơn 56 triệu người. Cần phải có lòng can đảm, óc sáng tạo và sức thu hút để có thể mới  thoát khỏi ách thống trị này với những người ủng hộ ông. Nhưng ông là người thể nào mà được người dân Việt vẫn xem là người đứng đầu trong danh sách những nhân vật anh hùng  của đất Việt?

Ông sinh năm 897 tại làng Đường Lâm, cách tỉnh lỵ Sơn Tây 4 cây số  về phía Tây. Ông là con trai của một hào trưởng địa phương tên là Ngô Mân. Khi còn trẻ, ông có cơ hội thể hiện bản lĩnh và có ý chí phục vụ đất nước. Năm 920, ông phục vụ cho Dương Đình Nghệ, một tướng của dòng tổng đốc Khúc ở tỉnh Ái Châu (Thanh Hóa). Dương Đình Nghệ có công đánh đuổi quân Nam Hán, lấy lại kinh đô Đại La (Hànội) vào năm 931 và từ đó tự xưng là thống đốc Giao Chỉ. Ông giao cho Ngô Quyền việc cai quản tỉnh Ái Châu. Nhận thấy ở Ngô Quyền có  tài năng lớn và lòng quyết tâm phụng sự đất nước, ông quyết định gả đứa con gái của mình. Trong 7 năm cai trị của mình (931-938), Ngô Quyền đã thể hiện được việc mang lại cuộc sống yên bình cho vùng đất này. Năm 937, cha vợ của ông là Dương Đình Nghệ bị thủ hạ là Kiều Công Tiễn ám sát để giành chức Tổng đốc Giao Chỉ. Hành động tàn ác này đã khiến làm quần chúng phẫn nộ. Ngô Quyền nhân danh gia đình bên vợ và đất nước  quyết định trừ diệt Kiều Công Tiễn nhất là Kiều Công Tiễn đã cầu cứu hoàng đế Nam Hán là Lưu Cung. Đây là cơ hội để Lưu Cung tái chiếm lại đất Giao Chỉ.

Thật không may cho Lưu Cung, sự thất bại của chiến dịch quân sự này chấm dứt sự thống trị lâu dài của Trung Quốc ở Việt Nam và cho phép Ngô Quyền thành lập triều đại phong kiến ​​đầu tiên ở Việt Nam. Năm 939, ông tự xưng làm vua An Nam và đóng đô ở Cổ Loa (Phúc Yên). Triều đại của ông chỉ kéo dài được 5 năm. Ông mất năm 944. Em vợ của ông là Dương Tam Kha lợi dụng cái chết của ông để nắm giữ binh quyền, khiến làm toàn dân phẫn nộ và dẫn đến sự sụp đổ của đất nước với sự xuất hiện của thập nhị sứ quân. Sự hỗn loạn chính trị này kéo dài cho đến năm 968 thì có một chàng trai dũng cảm người Ninh Bình tên là Đinh Bộ Lĩnh thành công đứng lên tiêu diệt từng người một và thống nhất đất nước dưới ngọn cờ của mình. Ông thành lập triều đại nhà Đinh và được gọi là “Đinh Tiên Hoàng. Ông định cư ở Hoa Lư thuộc vùng sông Hồng và Việt Nam thời bấy giờ mới được gọi là “Đại Cồ Việt”.

Bibliographie

Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Univisersité bouddhique de Vạn Hạnh Saigon 1966 p. 257
Lê Đình Thông: Stratégie et science du combat sur l’eau au Vietnam avant l’arrivée des Français. Institut de stratégie comparée.
Boudarel Georges. Essai sur la pensée militaire vietnamienne. In: L’Homme et la société, N. 7, 1968. numéro spécial. 150° anniversaire de la mort de Karl Marx. pp. 183-199.
 Trần Trọng Kim: Việtnam sử lược, Hànội, Imprimerie Vĩnh Thanh 1928

Lý Nam Đế (Royaume de la dynastie des Lý antérieurs)

Nhà Tiền Lý (544 – 602)

Version vietnamienne

Depuis la défaite des sœurs Trưng  par le général  Ma Yuan de la dynastie des Han, la Chine contrôlait les territoires des Yue jusqu’aux frontières du Lin Yi dans le centre du Vietnam actuel. Calquée sur le modèle des Han, l’administration de ces territoires était contrôlée au sommet par les hauts mandarins et les colons chinois tandis qu’au niveau villageois ou cantonal, on autorisait l’intégration d’une élite locale qui commençait à prendre des parts dans le système chinois et à former au fil du temps une nouvelle couche sociale. Celle-ci était formée à la chinoise et avait l’occasion d’être en contact régulier avec les mandarins chinois si bien que ces derniers furent imprégnés parfois de la culture locale.  C’est le cas Shi Xie (ou Sĩ Nhiếp)(187-226). Il était le fils d’un gouverneur chinois au Rinan (Nhật Nam). Il  était gouverneur du Jiaozhi durant quarante ans et il était honoré encore dans de nombreux temples du Vietnam.  Inversement il y a aussi des cas illustres venant des élites locales. C’est le cas de Lý Tiến qui fut nommé gouverneur de Jiaozhi sous le règne de l’empereur Ling Ti (Hán Linh Đế)(168-189 après J.C.).(Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, édition 1920,  p32) ou celui de Lý Bôn chargé d’assumer la fonction d’inspecteur militaire au service des Leang durant la période où le gouverneur de Jiaozhi était Siao Tseu (Tiêu Tư) en 541.

Étant idéologie officielle des fonctionnaires, le confucianisme dont le mode de sélection était  basé non pas sur la naissance et l’origine ethnique mais sur les compétences littéraires et administratives permit de consolider la position de l’élite locale à cette époque et  favoriser  son accès aux postes importants, ce qui traduit après cinq cents ans de maturation la mise en place de la nouvelle élite sino-vietnamienne dans l’administration sans aucune possibilité de distinction des appartenances communautaires ou  ethniques. Profitant d’un relâchement du contrôle chinois dû aux troubles qui agitaient l’empire durant la période des dynasties Nord –Sud, cette nouvelle élite sino-vietnamienne ne tarda pas à mener l’insurrection avec Lý Bôn.   

Étant descendant à la septième ou dix septième génération de Chinois émigrés (selon  les annales chinoises ou vietnamiennes)  en Jiaozhi à la suite des troubles de la fin des Han postérieurs, ce dernier était probablement  originaire de la province Thái Nguyên et se sentait vietnamien plus que jamais dans ses veines. Dans les annales chinoises, Lý Bôn était considéré toujours comme un Vietnamien de souche. Déçu ou révolté pour une raison inconnue, il abandonna la fonction d’inspecteur militaire et revint  à Thái Bình. Selon le chercheur français Maurice Durand, Lý Bôn était suffisamment cultivé et avait des qualités exceptionnelles permettant d’avoir la confiance auprès des chefs locaux et des gens de talent comme Trịệu Túc et son fils Triệu Quang Phục, Phạm Tu, Tinh Thiều, Tam Cô, Lý Công Tuấn  etc…  Profitant de la cruauté et des vexations du gouverneur Siao Tseu, Lý Bí rassembla ses partisans et déclencha l’insurrection qui aboutit à la fuite de Siao Tseu à Kouang Tcheou et à la prise du chef lieu Long Biên de Jiaozhi. Lý Bôn réussît à avorter la contre-offensive déclenchée par les Leang dirigés par Tseu Hiong et Souen Kiong mais il ne tarda pas à avoir une attaque du royaume de  Lin Yi sur la préfecture frontalière du Cửu Đức (Hà Tĩnh). Ce fut son général Phạm Tu qui battit le roi de Lin Yi et permit à Lý Bôn d’organiser le nouveau royaume indépendant du Sud et fonder la dynastie des Lý antérieurs.  Celle-ci dura seulement pour une soixantaine d’années. Devant les échecs répétés des Leang contre ce nouveau royaume du Sud, les Leang furent obligés de prendre des mesures importantes en envoyant à Jiaozhi  cette fois un corps d’expédition important en hommes et en matériel avec un  général de renom Trần Bá Tiên (ou Tchen Pa Sien) analogue à Ma Yuan à l’époque des sœurs Trưng.  Lý Nam Đế subit une série d’échecs et se retira de plus en plus dans la haute région de Khuất Liệu dans le but de reconstituer ses forces pour continuer la lutte.

Selon le chercheur français Maurice Durand, il ne dirigea plus l’opération de résistance contre les Leang et délégua ses pouvoirs à son lieutenant Triệu Quang Phục .  En constatant la force imposante de ses ennemis, il se retira dans la région marécageuse nommée  Marais de la Nuit  et localisée dans le Chu Điền. Il fut appelé seigneur du marais de la nuit (Dạ trạch vương). En avril de l’an 548 après J.C.,  Lý Nam Đế  mourut à la grotte de  Khuất Liêu. C’est à  l’année suivante 549 que Triệu Quang Phục  se déclara roi du Sud et réussit à reprendre Long Biên aux Leang.  Son règne ne dura jusqu’en l’an 571 où Lý Phật Tử, un membre de la famille Lý Bôn, réussit à le chasser et à le faire se suicider au fleuve (Đại Nha) dans la province Nam Định  et à réunifier encore le pays jusqu’en  602. 

Entre-temps, après quatre siècles de division, un puissant général Yang Jian (Dương Kiên) des Zhou du Nord (Bắc Chu)  arriva à réunifier la Chine en l’an 581, fonda la dynastie Sui (nhà Tùy) et imposa Daxing (Trường An) comme capitale. Il pensa à reprendre Jiaozhi au roi Lý Phật Tử. Face à l’armée imposante de 27000  hommes  dirigée par le général des Sui Lieu Fang (Lưu Phương), Lý Phật Tử accepta la reddition. Il fut emmené comme prisonnier et mourut en route.  C’est le début de la troisième domination et la fin de la dynastie  des Lý antérieurs.

Selon le chercheur français Pierre Papin, l’épopée des Lý antérieurs n’a rien de commun avec les révoltes qui l’ont précédée mais elle vise à « fonder un royaume » en partant de la logique de la fusion de la classe sino-vietnamienne et en tentant de donner l’acte de naissance politique mais non seulement culturel  à l’édification du temple de la fondation du royaume « Khai Quốc ».  Cette première tentative d’émancipation échoua dans la mesure où cette dynastie n’était pas prête pas à remplacer encore  les Chinois de défendre l’intégrité du territoire face aux incursions étrangères venant du Champa et de  Nanzhao (Nam Chiếu) (Yunnan), avoir la capacité à présider aux destinées du pays malgré la solidarité trouvée dans cette élite sino-vietnamienne et répondre à l’attente des  autres groupes sociaux de Jiaozhi exclus pour cette aventure.  Il faut attendre trois siècles encore avant que cette aventure devienne réalité avec le fameux général Ngô Quyền, fils d’un magistrat, gendre de l’un des puissants généraux de cette époque Dương Diên Nghệ.  Issu de la  région du mont Tản Viên, Ngô Quyền réussit à  écraser l’armée des Han méridionaux (Nam Hán) à  l’automne 938 dans le détroit du fleuve Bạch Đằng.

Version vietnamienne

Kể từ sau khi  hai bà Trưng bị đánh bại bởi tướng Mã Viện của nhà Đông Hán thì ​​Trung Hoa kiểm soát được các vùng lãnh thổ của người  dân Việt cho đến tận  biên giới của nước Lâm Ấp  ở miền trung Việt Nam ngày nay. Được sắp xếp theo mô hình của người Hán, việc quản lý các lãnh thổ này được kiểm soát bởi các quan lại cao cấp người Hoa và những người định cư đến từ Trung Quốc trong khi ở cấp làng hay xã thì tầng lớp ưu tú  ở địa phương có được quyền tham gia trong hệ thống Trung Quốc để hình thành một tầng lớp xã hội mới. Tầng lớp nầy được  đào tạo bài bản theo  thể thức của người Hoa và có cơ hội tiếp xúc thường xuyên với các quan lại người Hoa khiến làm họ cũng được thấm nhuần  đôi khi văn hóa bản địa. Đây là trường hợp của Sĩ Nhiếp (187-226). Ông là con trai của một thái thú người Hoa ở  quận Nhật Nam dưới thời Hán Hoàn Đế. Ông làm thái thú ở Giao Chỉ được bốn mươi năm và ông vẫn được tôn vinh trong nhiều ngôi chùa ở Việt Nam. Ngược lại, cũng có những trường hợp được biết  đến từ giới ưu tú địa phương. Đó là trường hợp của Lý Tiến, một người được bổ nhiệm làm thái thú ở Giao Chỉ dưới thời Hán Linh Đế (168-189 sau Công nguyên) (Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, ấn bản năm 1920, tr32 ) hoặc là trường hợp của Lý Bôn với chức vụ thanh tra quân đội phục vụ cho nước Lương ở thời kỳ mà thái thú Giao Chỉ là Tiêu Tư vào năm 541.

Là hệ tư tưởng chính thống của  giới công chức, Nho giáo, dựa trên kỹ năng văn học và hành chính chớ không dựa ở nơi xuất phát thân phận hay nguồn gốc dân tộc nên mới có thể củng cố vị trí của tầng lớp ưu tú địa phương lúc bấy giờ và thúc đẩy họ được  có  những vị trí quan trọng nên khiến sau năm trăm năm trưởng thành, không còn thấy sự phân biệt rõ ràng rõ ràng cộng đồng hay sắc tộc nào ở trong hành chánh. Lợi dụng sự buông lỏng kiểm soát của Trung Quốc do tình hình loạn lạc làm lũng đoạn cả đế chế  trong thời kỳ Nam Bắc triều, tầng lớp ưu tú người Hoa-Việt  mới này không trì hoãn cuộc khởi nghĩa cùng Lý Bôn.

Là hậu duệ của thế hệ thứ bảy hoặc mười bảy của những người di cư đến từ Trung Quốc (tùy theo văn bản của Trung Quốc hoặc Việt Nam) sau những biến loạn ở thời kỳ cuối nhà Hán, Lý Bôn có lẽ là người gốc ở Thái Nguyên và cảm thấy là người Việt  đơn thuần trong huyết quản. Trong biên niên sử của Trung Quốc, Lý Bôn vẫn được xem  coi là một  người dân Việt Nam. Thất vọng hay nổi dậy không rõ vì lý do nào khiến  ông từ bỏ chức vụ thanh tra ở trong quân đội và trở về Thái Bình. Theo nhà nghiên cứu người Pháp Maurice Durand, Lý Bôn có trình độ học thức thâm uyên, có những đặc tính cá biệt  khiến ông có được tín nhiệm  ở các nhà lãnh tụ địa phương hay những người có tài năng ở trong nước như Trịệu Túc và con trai Triệu Quang Phục, Phạm Tu, Tịnh Thiều, Tam Cô. , Lý Công Tuấn, vân vân  … Lợi dụng sự tàn ác và  cách hành sự của thái thú Tiêu tư, Lý Bôn tập hợp những người ủng hộ ông ta và bắt đầu cuộc nổi dậy, dẫn đến việc Tiêu Tư phải bỏ trốn sang Cửu Chân và chiếm được thủ phủ Long Biên của Giao Chỉ.  Lý Bôn đã thành công trong việc ngăn chặn được cuộc phản công của nhà Lương do  hai tướng Tseu HiongSouen Kiong chỉ huy nhưng sau đó lại có một cuộc tấn công của vương quốc Lâm Ấp ở biên giới tỉnh Cửu Đức (Hà Tĩnh). Chính tướng quân Phạm Tu đã đánh bại  được vua của  Lâm Ấp và giúp Lý Bôn dựng lên một vương quốc độc lập ở  phương Nam và lập ra vương triều của nhà  Tiền Lý. Điều này chỉ được kéo dài suốt sáu mươi năm. Đối mặt với những cuộc chiến  thất bại liên tục của nhà Lương  với vương quốc mới nầy ở phía nam này, nhà Lương buộc lòng  phải dùng các biện pháp  mạnh mẽ bằng cách gửi đến Giao Chỉ lần này một đoàn quân  hùng hậu  gồm cả người lẫn vũ khí cùng với một vị tướng lừng danh TrầnBá Tiên (hay Tchen Pa Sien) như Mã Viện ở thời  hai bà Trưng. Lý Nam Đế  phãi chịu  thất bại liên tiếp, buộc lòng phải  rút ​​quân ẩn náo ngày càng xa vào vùng thượng du Khuất Liệu nhằm  cố xây dựng lại lực lượng lại để tiếp tục cuộc đấu tranh.

Theo nhà nghiên cứu người Pháp Maurice Durand, Lý Nam Đế không còn tiếp tục kháng cự mà ông giao binh quyền lại cho tả tướng quân Triệu Quang Phục, người ở Châu Diên (Vĩnh Yên). Ông nầy buộc lòng rút quân về Dạ Trạch khi thấy thế địch còn mạnh quá. Ông được gọi thời bấy giờ với cái tên Dạ trạch vương vì Dạ trạch là chổ đồng lầy. Tháng tư năm 548 SCN, Lý Nam Đế bị bệnh qua đời ở động Khuất Liêu. Một năm sau đó, Triệu Quang Phục ở Dạ Trạch được tin ấy bèn xưng là Việt vương và thành công chiếm lại Long Biên. Ông chỉ làm vua cho đến năm 571 vì ông bị Lý Phật Tử, một người họ hàng của Lý Nam đế đánh bại ông và làm ông phải tự tận ở sông Đại Nha tỉnh Nam Định. Lý Phật Tử lấy được thành Long Biên lại  và xưng vua ở Nam Việt.

Trong khi đó, sau bốn thế kỷ phân chia, một tướng tàu tên là Yang Jian (Dương Kiên) của nước Bắc Chu đã thành công trong việc thống nhất Trung Quốc vào năm 581, thành lập triều đại nhà Tùy và lấy Trường An làm thủ đô. Ông nghĩ đến việc lấy lại Giao Chỉ từ vua Lý Phật Tử. Đối mặt với đội quân hùng hậu gồm 27 vạn người do tướng  nhà Tùy Lưu Phương chỉ huy, Lý Phật Tử đành chấp nhận đầu hàng. Ông bị bắt làm tù nhân và chết trên đường đi. Đây là sự khởi đầu của thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba và kết thúc triều đại của nhà Tiền Lý.

Theo nhà nghiên cứu người Pháp Pierre Papin, thời kỳ của nhà Tiền Lý không có điểm nào giống với các cuộc khởi nghĩa trước đó  cả mà nó nhắm “thành lập ra một vương quốc” bắt đầu từ lôgic của sự hợp nhất của  tầng lớp Hán-Việt và cố gắng lưu lại sự ra đời một văn bản chính trị chớ không phải chỉ  văn hóa không cho việc xây dựng chùa « khai quốc« . Nỗ lực giải phóng đầu tiên này đã thất bại vì triều đại này vẫn chưa sẵn sàng thay thế người Trung Quốc để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ trước sự xâm lược của  các nước từ bên ngoài đến như Lâm ẤpNam Chiếu (Vân Nam),  chưa có khả năng chủ trì vận mệnh đất nước mặc dầu có sự đoàn kết được tìm thấy ở tầng lớp ưu tú Hoa-Việt này và chưa  đáp ứng kỳ vọng của các nhóm xã hội khác ở Giao Chỉ mà bị loại trừ với cuộc khởi nghĩa này. Còn phải chờ ba thế kỷ sau nửa  để cuộc phiêu lưu này nó mới thành hiện thực với danh tướng Ngô Quyền, con trai của quan tư đồ và con rể của một trong những vị tướng hùng mạnh thời bấy giờ là Dương Diên Nghệ. Ngô Quyền sinh ra ở vùng núi Tản Viên  và  thành công tiêu diệt  được quân Nam Hán  vào mùa thu năm 938 tại eo biển sông Bạch Đằng. (Vịnh Hạ Long)

Bibliographie

Papin Philippe. Géographie et politique dans le Viêt-Nam ancien. In: Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient. Tome 87
N°2, 2000. pp. 609-628
Durand Maurice. La dynastie des Lý antérieurs d’après le Viêt điên u linh tâp. In: Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient. Tome 44 N°2, 1951. pp. 437-452
Trần Trọng Kim: Việt nam sử lược ( Histoire du Vietnam). Hanoi 1928

Dame Triệu (225 – 248 après J.C.)

Version française

Bà Triệu (225 – 248 SCN)

Sau khi đế chế nhà Hán bị sụp đổ thì sau đó là thời kỳ Tam Quốc với ba nhân vật ai cũng được biết đó là Tào tháo, Lưu BịTôn Quyền. Trong thời kỳ nầy nước ta vẫn bị đô hộ bởi nước Ngô của Tôn Quyền. Đây cũng thời kỳ cũng có các vụ nổi loạn chống Tàu dành độc lập trong đó có một nữ anh hùng không thua chi hai bà Trưng thường được gọi bà Triệu (hay là Triệu thị Trinh). Từ thưở nhỏ, bà có chí khí hơn người và  giỏi võ nghệ.  Mùa xuân năm Mậu Thìn (248), thấy quan lại nhà Đông Ngô  tàn ác, dân khổ sở, bà  chiêu mộ được hơn một ngàn tráng sĩ cùng anh khởi binh chống lại quân Đông Ngô. Vua Ngô Tôn Quyền liền phái tướng Lục Dận, cháu của Lục Tốn sang làm thứ sử Giao Châu cùng 8000 quân đàn áp cuộc khởi nghĩa. Sau 6 tháng chống chọi, bà vì quân ít thế cô đành chạy về xã Bồ Điền vùng Thanh Hóa và tự tử lúc mới có 23 tuổi. Vua Nam đế  nhà Tiền Lý khen bà là người trung dũng lập miếu thờ bà. Đến nay chuyện Bà Triệu từ thế kỷ thứ II vẫn còn hằng in trong tâm thức mỗi người dân Việt với lòng ngưỡng mộ và niềm tự hào.

Đất Giao Châu đời bấy giờ cứ bị loạn lạc mãi, một phần do bị các quan lại từ nhà Ngô sang nhà Lương của thời kỳ Nam Bắc triều ở Trung Quốc  tham tàn vơ vét của dân một phần bị nước Lâm Ấp quấy nhiễu đánh phá không ngừng. Nước nầy được thành lập vào cuối đời nhà Hán  nhờ một cuộc nổi dậy ở huyện Tượng  Lâm vào năm 190 SCN do một người tự xưng là Khu Liên. Ông nầy giết thứ sử  Tàu Chu Phủ và nắm quyền tự trị trên một phần lãnh thổ cực nam của quận Nhật Nam. Nước Lâm Ấp được gọi sau nầy là Chiêm Thành bao gồm từ Quảng Bình cho đến lãnh thổ miền nam của núi Bạch Mã.

Người Lâm Ấp thuộc nòi giống Mã Lai và chịu nhiều ảnh hưởng Ấn Độ hơn Trung Quốc khiến về sau văn hóa nước nầy là văn hóa Ấn Độ, chữ Phạn là chữ họ dùng để trao đổi quốc thư với Trung Quốc.  Chính nhờ các thương nhân và các tu sĩ Ấn Độ mà người Lâm Ấp giao tiếp khiến các tôn giáo như Ấn Độ giáo và Phật giáo mới được truyền bá qua xứ nầy. Cũng nhờ đó mà Phật giáo mới du nhập vào Chiêm Thành qua đường biển rồi sau đó mới đến Giao Châu (Việtnam) qua đường bộ  bởi các tu sĩ từ Lâm Ấp, chớ không phải họ đến từ Trung Hoa. Bởi vậy mẹ của Tôn Quyền lúc còn sống thường mời các tu sĩ ở Luy Lâu (Bắc Ninh, Vietnam) đến thủ đô Kiến Nghiệp (Jiany) của nước Ngô, thuộc về thành phố Nam Kinh (Nankin) hiện nay, để nghe giảng kinh và bình luận về các sách kinh lễ Ấn Độ (sutra) của Phật giáo. Nước Giao Châu phải đợi cho đến cuối năm 541 mới có cuộc nổi dậy của  Lý Bí. Ông dành lại độc lập cho nước ta được 60 năm và đặt tên nước là Vạn xuân sau khi đánh bại nhà Lương  đang đô hộ nước ta.  Ông tự xưng là Nam Đế và đóng đô  ở Long Biên.

Dame  Triệu (225 – 248 après J.C.)

Après la chute de l’empire des Han, c’est la période des Trois Royaumes avec trois personnages bien connus  Cao Cao, Liu Be et Sun Quan. Durant cette période, notre pays était sous la domination du royaume Wu de Sun Quan. C’est aussi la période où il y avait des rébellions anti- chinoises réclamant l’indépendance parmi lesquelles  figurait une héroïne analogue aux sœurs Trưng et connue souvent sous le nom  Triệu Thi Trinh ou Dame Triệu. Dès son plus jeune âge, elle  ne manquait pas de caractère et était très douée en arts martiaux. Au printemps de l’année du dragon (248 après J.C.), en voyant la cruauté des  fonctionnaires de l’état Wu et la misère de ses compatriotes, elle n’hésita pas à recruter plus d’un millier de braves gens avec son frère pour déclencher une guerre  de libération contre l’armée des Wu. Le roi Wu Sun Quan  fut obligé d’envoyer immédiatement à Giao Châu le général Lu Dan, un neveu de  Lu Xun (Lục Tốn) pour réprimer le soulèvement  avec 8 000 soldats. Après 6 mois de combats, elle ne put plus tenir la résistance contre les agresseurs. Elle dut se réfugier à la commune Bồ Điền de la province Thanh Hóa à cause du manque d’appui et de partisans. Elle se suicida  à l’âge de 23 ans. Le roi  Lý Nam Đế  de la dynastie des Lý antérieurs l’a félicitée pour son courage et sa fidélité en construisant un temple dédié à sa mémoire. Jusqu’à présent, l’histoire de  Dame Triệu du IIème siècle est toujours imprégnée d’admiration et de fierté dans l’esprit de tous les Vietnamiens.

Giao Châu (l’ancien pays des Vietnamiens)  ne cessa pas  de connaître non seulement à cette époque la misère et la corruption des fonctionnaires nommés d’abord par le royaume des Wu (nhà Ngô) puis celui des Leang (nhà Lương) durant la période  dynasties du Nord et du Sud (420-580 après J.C.) en Chine mais aussi les troubles frontaliers provoqués incessamment par le royaume de  Lin Yi.  Ce pays limitrophe  prit naissance à la fin de la dynastie des Han grâce à un soulèvement  dû à des taxations et mené dans le district de Tượng Lâm (Xianglin)  en 192 après J.C. par un brave nommé Khu Liên. Celui-ci a tué l’administrateur chinois Chu Phu et s’est  autoproclamé roi  sur une partie du territoire située le plus au sud du district de Nhật Nam. Le pays de Linyi connu plus tard sous le nom de Champa  est constitué en fait  de la région Quảng Bình jusqu’au territoire sud de la montagne Bạch Mã.(Thừa Thiên Huế).

Les habitants du Linyi étaient de la race malaise et se laissaient influencer par la culture indienne plus que   celle de la Chine. Ils adoptaient dès lors  la culture indienne comme la leur et se servaient plus tard  du sanskrit dans l’échange de communication avec la Chine. C’est par l’intermédiaire des commerçants  et des moines indiens avec lesquels le peuple du Linyi  était en contact que l’hindouisme et le bouddhisme pouvaient s’implanter dans ce pays. Le bouddhisme a été introduit au Champa  par la voie maritime, puis il s’est  implanté ensuite à Giao Châu (Vietnam) par la voie terrestre prise par les moines  à partir du Champa. En aucun cas, le bouddhisme vietnamien ne s’est pas  passé  par la Chine comme certains documents chinois l’ont prétendu. C’est pourquoi la mère de Sun Quan, une disciple fervente du bouddhisme eut l’occasion de  faire venir à cette époque les moines de Luy Lâu (Bắc Ninh)  à la capitale Jianye (Kiến Nghiệp) du royaume de Wu,  proche de la ville actuelle de Nankin pour leur demander de prêcher et commenter les sûtras du bouddhisme. Giao Châu dut attendre à la fin de l’année  541 pour  que l’insurrection menée par Lý Bí eût lieu. Il réussît à battre les Leang pour obtenir l’indépendance durant une soixantaine d’années,  donna à son royaume un nom prometteur de pérennité « Vạn Xuân » (ou  Dix Mille printemps).  Il se proclama  Nam Đế (Empereur du Sud) et  s’installa à Long Biên.  

 

Les deux sœurs Trưng Trắc Trưng Nhị (Deuxième domination chinoise)

Hai bà Trưng (40-43)

Version française

Ở các vùng lãnh thổ bị người Hán chinh phục, đặc biệt là ở miền nam Trung Quốc, công cuộc hán hóa vẫn tiếp tục diễn ra một cách mạnh mẽ. Đây là lý do khiến các cuộc nổi dậy khởi đầu liên tục tiếp nối nhau ở Điền quốc (86, 83 trước Công nguyên, từ năm 40 đến năm 45 sau Công nguyên) và bị trấn áp nghiêm khắc. Những cuộc nổi dậy này một phần lớn là do sự lạm dụng của các quan chức người Hán và hành vi của những người định cư Trung Hoa nhằm chiếm sỡ hữu những vùng đất màu mỡ và đẩy dân cư địa phương đến  những nơi xa xôi hẻo lánh ở trên lãnh thổ của họ. Ngoài ra, họ còn  phải chấp nhận dùng ngôn ngữ, phong tục và tín ngưỡng tôn giáo của người Hán.

 Năm 34, vua Quang Vũ sai Tô Định sang làm thái thú quận Giao Chỉ. Tô Định là ngược rất bạo ngược, chính trị rất tàn ác khiến một cuộc nổi loạn nghiêm trọng đã xảy ra vào năm 40, ở tỉnh Giao Châu  bao gồm lúc bấy giờ một phần lãnh thổ của Quảng Tây (Kouang Si) và Quảng Đông (Kouang Tong). Cuộc khởi nghỉa nầy được dẫn đầu bởi hai đứa con gái của một quan lạc tướng ở huyện Mê Linh, Trưng Trắc (Zheng Cè) và Trưng Nhị (Zheng Èr). Vì sự  phản đối chính sách đồng hóa bởi Thi Sách, chồng của Trưng Trắc mà thái thú nhà Hán Tô Định (Su Ding) thực hiện một cách tàn bạo khiến Tô Định không ngần ngại xử tử Thi Sách để noi gương  cho  quân nổi dậy, đặc biệt là người dân Việt.

Cuộc hành quyết gương mẫu này đã làm phẩn nộ hai bà Trưng và dấy lên phong trào nổi dậy ở toàn các vùng lãnh thổ của người Yue. Tô Định phải chạy trốn về Nam Hải. Hai bà Trưng đã thành công trong việc chiếm được 65 thành trì trong một khoảng thời gian ngắn.

Hai bà giải phóng độ  chừng 1,5 triệu người thoát khỏi ách thống trị của nhà Hán. Chuyện ầy nó rất phù hợp với phạm vi lãnh thổ của 65 thành trì mà được hai bà giải phóng bao gồm từ Lưỡng Việt (Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay) đến Mũi nậy được 9 quận: Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô, Giao Chỉ,  Cửu Chân và Nhật Nam.  Có thể nơi nầy  là địa bàn của vương quốc Văn Lang dưới thời Hồng Bàng khiến có sự hưởng ứng nhanh lẹ để chỉ định nước ta. Chính ở nơi nầy còn thấy  ngày nay có đến 200 đền thờ vua bà. (theo lời nghi nhận của bác sỹ Trần Đại Sỹ trong bài viết Nam Việt). Hai bà tự phong là nữ vương ở  trên các lãnh thổ được chinh phục và định cư ở  Mê Linh (Meiling). Hai bà làm vua được ba năm. Vào năm 41 sau Công Nguyên, hai bà bị đánh bại bởi  Phục Ba Tướng Quân Mã Viện vì quân của Trưng Vương là quân vì quân của Trưng Vương là quân ô hợp  khiến dễ tan rã theo sử gia Trần Trọng Kim (trang 31 trong « Việt Nam sử lược »). Hai bà tự sát để tránh  đầu hàng bằng cách tự deo mình xuống sông Hát vào năm 43. Vì vậy, hai bà trở thành biểu tượng của cuộc kháng chiến của người Việt Nam. Ngày nay, hai bà vẫn tiếp tục được thờ cúng không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều vùng thuộc lãnh thổ Việt của Trung Quốc (Quảng Tây và Quảng Đông). Mã Viện bắt đầu áp dụng chính sách khủng bố và cưỡng bức bằng cách đặt người Trung Quốc ở tất cả các cấp chính quyền địa phương và áp đặt tiếng Trung Hoa là ngôn ngữ chính thức trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

Dưới thời kỳ bắc thuộc, số lượng trống đồng còn lưu giữ rất ít ỏi vì nhà Hán cố tình phá hoại trống đồng của người Việt vì nó biểu tựơng quyền lực của thủ lĩnh.  Chính nhờ nó mà thủ lĩnh có thể  kêu gọi mọi người ở khắp nơi  tụ về để tham chiến. Chính Mã  Viện muốn diệt đi cái nhuệ khí của dân Việt.  Theo Hậu Hán Thư  mỗi lần nghe trống đòng đánh thì dân Giao Chỉ rất hăng say lúc ra trận. Chính vì vậy các trống đồng được chôn giấu từ đấy.  

Nhắc đến Mã Viện thì cũng không nên quên  nói đến cột đồng. Theo một số sử cũ thì có khắc sáu chữ Hán trên cây cột đồng lớn nầy: « Đồng trụ triệt, Giao chỉ diệt ». Có nghĩa là cột đồng nầy gãy thì Giao chỉ bị diệt nên người Việt đi qua dưới chân cột đồng nầy cứ lấy đá bồi đấp lên mãi thành gò đống cao để tránh đổ gẫy. Cột đồng nầy được làm từ các dụng cụ bằng đồng trong đó có trống đồng được xem thuộc về văn hóa Đồng Sơn mà được nhà khảo cứu Pháp Louis Pajot tìm thấy vào năm 1924  ở Đồng Sơn (Thanh Hóa).

 Như vậy cột đồng nầy có thật hay chỉ là lời truyền miệng. Nếu có  thì Mã Viện dựng ở nơi nào. Thông thường được thấy trong lịch sử Trung Hoa mỗi lần viễn chinh thành công thì có cái trò dựng cột để  ghi công của các tướng Tàu như Hà Lý Trinh, Trương Chu và Mã Tống thuộc đời nhà Đường. Chắc chắn là có vì Minh Tư Tông Chu Do Kiểm (tức hoàng đế Sùng Trinh) ngạo mạn ám chỉ cột đồng nầy để khinh khi người dân Việt khi tiếp sứ giã Giang Văn Minh qua câu đối: Đồng trụ chí kim đài dĩ lục (Cột đồng đến giờ đã rêu xanh) nhưng sau đó tức giận giết Giang Văn Minh vì câu vế đối lại quá hào khí dũng cảm: Ðằng giang tự cổ huyết do hồng  (Bạch Đằng từ xưa vẫn nhuộm  máu đỏ). Theo Đại Thanh nhất thống chí (tức là bộ điạ dư đời nhà Thanh) thì cột đồng được dựng ở núi Phân Mao ở động Cổ sâm cách Khảm Châu khoảng ba dặm về phiá tây. Ở đây có một thứ cỏ tranh do khí hầu nên cỏ nầy ngả theo hai hướng Bắc Nam.

Đây là bắc thuộc lần thứ hai từ  năm 43 cho đến Lý Bôn (hay Lý Nam Đế) có cơ hội mà nổi lên lập ra nhà Tiền Lý vào năm 544.

Version française

Dans les territoires conquis par les Han, notamment dans le Sud de la Chine, la sinisation continua à battre son plein. C’est pourquoi les révoltes se succédèrent d’abord dans le royaume de Dian (86, 83 av. J.C., de 40 à 45 apr. J.C.). Elles furent réprimées avec sévérité. Ces soulèvements étaient dus en grand partie aux exactions des fonctionnaires Han et aux comportements des colons chinois de prendre possession des sols fertiles et de refouler les populations locales dans les coins perdus de leur territoire. De plus, ces dernières devaient adopter la langue, les coutumes, les croyances religieuses des Han.

En l’an 40, une grave rébellion éclata dans la province Jiaozhou (ou Giao Châu en vietnamien) incluant à cette époque une partie du territoire de Kouang Si (Quảng Tây) et de Kouang Tong (Quảng Đông). Elle fut menée par les filles d’un préfet local, Trưng Trắc (Zheng Cè) l’aînée et Trưng Nhị (Zheng Èr) sa cadette. Comme le mari de l’aînée Shi Suo (Thi Sách) s’opposa à la politique d’assimilation chinoise menée brutalement par le proconsul chinois Tô Định (Su Ding), ce dernier n’hésita pas à l’exécuter pour faire un exemple contre les insurgés yue, notamment les Vietnamiens.

Cette exécution exemplaire révolta les sœurs Trưng et déclencha immédiatement le mouvement d’insurrection dans les territoires yue. Les deux sœurs Trưng réussirent à y enlever 65 citadelles dans un laps de temps très court. Elles réussirent à libérer à peu près 1,5 million de Yue sous le joug des Hans. Cela est en concordance avec la libération de 65 citadelles libérées comprenant, de Lưỡng Việt (Kouang Tong, Kouang Si d’aujourd’hui ) jusqu’à  Mũi nậy  (Phú Yên): Hai Nan (Nam Hải) , Yu-Lin (Uất Lâm), Ts’ang-wou (Thương Ngô), Giao Chỉ (Jiaozhi), Kieou-tchen  (Cửu Chân)  và Jenan (Nhật Nam).

C’est probablement le territoire de l’ancien royaume  Văn Lang durant la période des Hồng Bàng. C’est pour cela que l’adhésion populaire est tellement forte et prompte  à cette époque et on y trouve  aujourd’hui au moins de 200  sites où la vénération des sœurs Trưng est encore visible avec leurs autels.  (récit du docteur  Trần Đại Sỹ lors de sa visite au sud de la Chine durant les années  1979-1989). Elles se proclamèrent reines sur les territoires conquis et s’établirent à Meiling (ou Mê Linh). Elles réussirent à régner durant trois ans. En l’an 41, elles furent vaincues par le général Ma Yuan (Mã Viện, Phục Ba Tướng Quân) (Dompteur des flots)  car leur armée était disparate et susceptible d’être anéantie et dispersée  selon l’historien Trần Trọng Kim (page 31 dans son ouvrage intitulé  » l’histoire du Vietnam (Việt Nam sử lược »). Elles préférèrent se suicider au lieu de se rendre  en se jetant dans le fleuve Hát. Elles devinrent ainsi le symbole de la résistance des Vietnamiens. Elles continuent à être vénérées aujourd’hui non seulement au Vietnam mais aussi dans certains endroits des territoires Yue de la Chine (Kouangsi et Kouang Tong). Ma Yuan commença à appliquer une politique de terreur et de sinisation à marche forcée en plaçant à tous les échelons de l’administration, des hommes de confiance chinois et en imposant le chinois comme langue officielle dans tout le territoire des Vietnamiens.

Durant la période de domination chinoise, il reste seulement un nombre très limité de tambours de bronze car les Hans s’efforçaient de les détruire car ces tambours de bronze symbolisaient la puissance des seigneurs  locaux. C’est grâce à ces instruments que ces chefs pouvaient convoquer et mobiliser tous leurs sujets vivant dans leur territoire pour participer à la guerre. C’est Ma Yuan qui voulait anéantir le moral et l’ardeur de combattre l’ennemi chez les Viet. Selon le livre des Han postérieurs (Hậu Hán Thư), les gens de Jiaozhi étaient tellement excités et montraient leur ardeur au combat. Depuis lors, ils devaient cacher  leurs tambours de bronze pour éviter la destruction systématique imposée par les Han. 

En évoquant le nom de Ma Yuan, cela nous fait penser à l’histoire de sa colonne de bronze .  Selon un certain nombre des écrits anciens, il y a six caractères chinois gravés sur cette colonne de bronze « Đồng trụ triệt, Giao chỉ diệt (La colonne détruite, le Jiaochi disparu). C’est pour cela que selon la rumeur, les Vietnamiens  tentèrent de consolider à cette époque cette  colonne de bronze  et la rendirent à devenir un monticule avec un morceau de pierre déposé par chacun d’eux  lors de leur passage. Cette colonne  était fabriquée à partir du bronze recueilli lors de la destruction systématique des tambours de bronze appartenant à la civilisation de Đồng Sơn que l’archéologue français Louis Pajot découvrit en 1924 à Đồng Sơn (Thanh Hoá) lors de ses fouilles archéologiques.

La colonne de bronze de Ma Yuan existe-elle réellement ou s’agit-il d’une rumeur par voie orale? On est habitué à trouver dans l’histoire de la Chine l’acte d’édifier,  lors de la victoire de la conquête territoriale,   la colonne  pour délimiter la frontière  comme les généraux des Tang  Hà Lý Trinh, Trương Chu et  Mã Tống. La colonne de bronze devrait exister sûrement car le dernier empereur insolent  des Ming Zhu Youjian n’hésita pas à faire allusion à cette colonne de bronze de Ma Yuan pour humilier l’ambassadeur du Vietnam Giang Văn Minh dans son vers principal: Đồng trụ chí kim đài dĩ lục (La colonne de bronze continue à  verdir à cause de la mousse qui s’accumule au fil des ans). Mais il fut agacé et furieux en tuant immédiatement Giang Văn Minh à cause de son vers répliquant témoignant de la grandeur d’âme et du courage:  Ðằng giang tự cổ huyết do hồng  (le fleuve Bạch Đằng continue à se colorer en rouge à cause du sang des envahisseurs ). Selon Theo Đại Thanh nhất thống chí (ou l’ouvrage géographique de la dynastie des Qing), cette colonne fut édifiée à cette époque dans la montagne Phân Mao de la grotte Cổ Sâm distante de Khảm Châu à peu près  de 3 kilomètres dans la direction ouest. C’est ici qu’on trouve une sorte d’herbe vivace qui s’oriente  dans les directions Nord Sud en fonction du climat. C’est la deuxième domination chinoise durant depuis 43 après Jésus-Christ jusqu’à la rébellion de Lý Bôn. Ce dernier saisit l’occasion propice en l’an 544 après Jésus Christ pour fonder la dynastie des Lý antérieure en l’an 544.

Paris ngày 18/11/2020

Văn hóa dùng đũa (civilisation des baguettes)

Văn hóa dùng đũa

Version française

Trong văn hóa phương đông nhất là ở các nước như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc hay Trung Hoa thường thấy tục lệ hay dùng đũa khi ăn cơm. Vậy nguồn gốc của đôi đũa  nó có từ đâu. Theo một số tài liệu nghiêu cứu của phương tây thì chiếc đũa là dụng cụ thuộc về văn hoá Trung Hoa nhất là   được tìm thấy một cặp đũa kim loại dưới triều đại nhà Ân-Thương (khoảng năm 1600-1406 TCN) ở điạ điểm Ân Khư. Nhưng theo các sử gia và  học giả Trung Quốc như Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi, Quách Mạt Nhược, Đàm Gia Kiện thì  tổ tiên của người Hoa là người du mục đến từ Tây lưu vực sông Hoàng Hà mà được gọi là người Yi ăn bốc các thức ăn như thịt, bánh bao, bánh mì thì với văn hóa nông nghiệp khô (kê, lúa mạch)  cần chi đến đôi đũa. Dụng cụ nầy nó phải thuộc về các người nông dân trồng lúa nước mà thường được gọi là Miêu tộc  (tổ tiên cũa người Bách Việt và Lạc Việt) mà người Hoa Bắc vay mượn sau khi  đánh bại  Xi Vưu ở Trác Lộc trong cuộc hành trình thôn tính phương nam (lãnh thổ của dân Bách Việt).

Theo cố giáo sư  Trần Quốc Vượng, động tác gấp thức ăn là mô phỏng việc con chim lạc hay chim hồng dùng mỏ để mổ và nhặt hạt. Chính con chim lạc nầy mà chúng ta được thấy  trên trống đồng. Chắc chắn là một loại cò mà thường được thấy ở trên các cánh đồng Việt Nam ngày nay. Theo sử gia Trung Hoa Đạm Gia Kiện thì người Hoa Bắc vẫn còn ăn bốc . Chỉ dưới thờì nhà Tần Hán  khi nước Bách Việt bị thôn tính thì người Tàu mới bắt chước nguời Bách Việt mà dùng đũa để gấp các thức ăn cứng trong canh và cháo. Theo giáo sư Trần Ngọc Thêm, việc dùng đũa cụ thể hóa được tình thần tổng hợp và lý luận. Một đôi đũa có được nhiều chức năng như gắp thức ăn, quấy trộn, xé ra từ mảnh nhỏ, đẩy cơm vân vân… Khác hẵn với người Tây Phương, họ cần ít nhất ba dụng cụ: dao, thìa, nĩa, mỗi thứ có một chức năng rõ ràng.  

Người dân Việt biết dùng đũa rất sớm từ thời Hồng Bàng qua sử tích trầu cau. Để phân biệt hai anh em Cao Tân và Cao Lang, cô con gái của người thầy buộc lòng dùng một mẹo nhỏ bằng cách chỉ dọn một tô cháo để trên bàn cùng một đôi đũa. Tục lệ thời đó, em phải nhường cho anh trước. Nhờ vậy cô con gái mới biết Cao Tân là anh và Cao Lang là em vì Cao Lang nhường cho anh ăn. (trái ngược thời buổi bây giờ anh phải nhường cho em  thì cũng đúng thôi). Thời đó anh phải lập gia đình trước em. Vì vậy cô con gái mới chọn Cao Tân làm chồng. Nói tóm lại, các đôi đũa nầy chỉ làm ra được từ những vùng có nhiều tre.  Chỉ có vùng phía nam Trung Quốc và Đông Nam Á.  Đũa là công cụ thô sơ được chế biến theo hình giống mỏ chim để có thế bắt lấy dễ dàng hột gạo hay cá và tránh việc bẩn tay với các món ăn có nước (súp, cháo, nước  mắm vân vân…). Người ta tìm thấy ở nơi người dân Việt một triết lý giản dị và hóm hỉnh trong việc dùng đôi đũa.  Đôi đũa thường được xem như cặp vợ chồng:

Vợ chồng như đôi đũa có đôi
Bây giờ chồng thấp vợ cao như đôi đũa lệch so sao cho bằng.

Dưới thời nhà Lê, việc bẻ gãy đôi đũa đồng nghĩa với hai chữ ly dị.  Thà có một bà vợ ngây ngô hơn là có một cặp đũa cong vòng. Chính vì vậy ta thường nghe qua tục ngữ nầy như sau: Vợ dại không hại bằng đũa vênh

Ngoài tính cách nhanh nhẹn và linh hoạt trong việc dùng đũa, người ta không thể quên tính cách tập thể mà thuờng gán cho đũa. Thông thuờng người ta ám chỉ bó đũa để nhắc đến sự đoàn kết. Tục ngữ : « Vơ đũa cả nắm » phản ánh cái ý niệm nầy khi người ta muốn chỉ trích người nào hay gia đình của họ từ một cuộc tranh cãi hay thảo luận nào mà không cần biết đến tính cá biệt.

Cũng như các văn hóa khác ở châu Á, người Việt dùng đũa cũng có những qui tắc cần phải biết nếu không sẽ bị đánh giá là thiếu văn hóa. Bởi vậy phải thực tập từ thưở nhỏ. Có vụng về đến đâu đi nữa có một điều tối kị cần phải biết là không được cấm đũa thẳng đứng vào bát cơm vì  tương ứng như việc cắm nhang vào bát hương để cúng người qua đời. Đũa còn mang cả triết lý Âm Dương. Nó được chuốt từ tre, trúc hay cây với hai đầu, một tròn và một vuông để biểu tượng Trời tròn và Đất vuông. Khi cầm đôi đũa để gắp thức ăn, chiếc đũa nằm dưới ở thể tĩnh (âm), chiếc đũa nằm trên thì động để kẹp chặt miếng gắp (dương). Vì vậy mà đôi đũa được ví như cặp khí âm dương, như cặp vợ chồng (âm dương) gắn bó keo sơn:« vợ chồng như đũa có đôi ». Người ta  thường gọi là đôi đũa (Âm Dương) chớ không được nói là « hai chiếc đũa ». Đũa là một sản phẩm của người Bách Việt mà người Tàu cố tình làm sở hửu riêng tư cũng như triết lý Âm Dương Ngũ Hành, Kinh Dịch, trống đồng, con Rồng vân vân …Xuất phát từ nền văn hóa trồng lúa nước, đôi đũa là một phần không thể thiếu trong đời sống của người  dân Việt. 

Version française

Dans la culture asiatique, en particulier dans les pays comme le Vietnam, le Japon, la Corée ou la Chine, on a l’habitude de manger du riz avec des baguettes. Alors d’où vient-elle l’origine  de ces ustensiles? Selon certains documents de recherche occidentaux, les baguettes font partie de la culture chinoise car  une paire de baguettes en métal datant de la période de la dynastie des Shang (vers 1600-1406 avant JC) fut trouvée à  An Yang dans la province de Henan. Mais selon les historiens et érudits chinois tels que Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi, Quách Mạt Nhược, Đàm Gia Kiện, les  Proto-Chinois (ancêtres des Han) étaient des nomades du bassin occidental du fleuve Jaune et étaient connus sous le nom des « Yi » . Ceux-ci étaient habitués à se nourrir de la viande, des brioches, du  pain avec les mains. Ils vivaient de la culture « sèche » du millet et  d’orge, ce qui ne nécessitait pas l’emploi des baguettes. Ces ustensiles  devaient  appartenir aux riziculteurs  connus  communément sous le nom des Proto-Miao  苗 (ou les ancêtres des Bai Yue et des Luo Yue)  et ils étaient empruntés par les Proto-Chinois après avoir vaincu  Chiyou (Xi Vưu) à Zhuolu (Trác Lộc)  lors de  leur  processus de pacification dans le sud de la Chine (territoire des Bai Yue).

Selon feu professeur Trần Quốc Vượng, le geste de prendre la nourriture ressemble davantage à la simulation d’un oiseau « Lạc » ou « Hồng » ayant l’habitude d’utiliser son bec pour prendre ou picoter la graine. C’est bien l’oiseau « Lạc » trouvé sur les tambours de bronze. Il est probablement l’échassier qu’on est habitué à voir dans les champs de riz vietnamiens. Selon le chercheur chinois Đạm Gia Kiện ,les Proto_chinois (ou les Hoa Bắc) continuaient à manger avec les mains. C’est seulement sous la période des Tsin-Han que lors  de  l’annexion du territoire des Bai Yue, ils commencèrent à imiter ces derniers à utiliser  les baguettes pour prendre l’aliment solide dans la soupe ou le potage. Selon le professeur vietnamien Trần Ngọc Thêm, se servir des baguettes concrétise l’esprit de synthèse et de raisonnement. Une paire de baguettes a une multitude de fonctions: se saisir des aliments, remuer, touiller, déchiqueter en petits morceaux, pousser le riz etc.. Contrairement aux Européens, ils ont besoin d’au moins d’un jeu de trois instruments: couteau, fourchette et cuillère, chacun ayant une fonction  bien déterminée.

Les Proto-Vietnamiens savaient se servir très tôt des baguettes à l’époque de la dynastie des Hồng Bàng à travers la légende intitulée « La chique de bétel ». Pour discerner les deux frères, la fille de leur maître devait recourir  à une petite ruse en mettant sur la table un seul bol de soupe avec une paire de baguettes.  Avec la coutume de cette époque, le petit frère dut laisser la place à son grand frère. Grâce à cette tradition, elle sut que Cao Tân était l’aîné et Cao Lang le cadet car ce dernier laissa au premier de se servir du bol de soupe. (Contrairement à l’époque actuelle, le grand frère doit céder la place au petit-frère. C’est aussi juste). À cette époque, l’aîné dut se marier avant le cadet dans la tradition vietnamienne. C’est pour cela que la fille prit l’aîné pour époux. Bref, les baguettes devaient prendre naissance dans les régions où il y avait l’abondance des bambous. On ne les trouve qu’en Asie du Sud Est et dans le sud de la Chine. Les baguettes sont conçues de manière qu’elles puissent simuler le bec de l’échassier pour prendre avec facilité les grains de riz ou les morceaux de poisson et éviter de salir les mains avec les mets contenant  parfois du liquide (soupe, potage, jus de poisson etc…). On trouve dans l’utilisation des baguettes des Vietnamiens une philosophie à la fois simple et humoristique. Une paire de baguettes est toujours comparée à un couple de mariés.

Vợ chồng như đôi đũa có đôi
Bây giờ chồng thấp vợ cao như đôi đũa lệch so sao cho bằng.

Le mari et la femme sont analogues à une paire de baguettes.
Comment peut-on effectuer la comparaison lorsqu’une paire de baguettes est disproportionnée à l’image d’un mari minuscule et d’une épouse de taille élevée ?

A l’époque de la dynastie des Lê, casser une paire de baguettes est synonyme de la rupture du mariage. On préfère une épouse stupide à la place du désastre qu’on peut avoir avec une paire de baguettes qui gondolent. C’est cette préférence qui est maintes fois évoquée dans le dicton suivant:

Vợ dại không hại bằng đũa vênh.

Outre le caractère « vif » et « animé » trouvé dans le maniement des baguettes, on ne peut pas ignorer non plus le caractère « collectif  » qu’on aime attribuer à cet ustensile rudimentaire. On fait référence souvent à une botte de baguettes pour évoquer la solidarité. Le dicton : Vơ đũa cả nắm (Saisir les baguettes en grande quantité) reflète bien cette idée lorsqu’on voudrait critiquer quelqu’un et sa famille lors d’une dispute ou d’un débat sans tenir compte des individualités. Analogues à d’autres cultures trouvées en Asie, en se servant des baguettes, les Vietnamiens doivent respecter un certain nombre de règles qu’il faut connaître absolument pour éviter d’être taxé « personne n’ayant pas assez d’éducation ». C’est pour cela qu’on est obligé de manier  les baguettes à l’âge précoce. Bien qu’on puisse être maladroit jusqu’à un certain point, on est censé de connaître là  règle  d’interdiction suivante: ne pas planter verticalement les baguettes dans un bol de riz. Cela ressemble à l’acte de mettre les baguettes d’encens  dans un brûle-encens pour honorer un trépassé.  Les baguettes portent en elles toute la philosophie du Yin et Yang.  Elles sont taillées à partir du bambou avec les deux bouts dont l’un est rond et l’autre carré pour représenter respectivement le ciel et la terre. En se servant d’une paire de baguettes dans un repas, on met la baguette au dessous à l’état « immobile (Yin) » (ou tĩnh ») et celle au dessus à l’état « mobile (Yang) » (ou động) pour faciliter la prise de la nourriture. C’est pourquoi on compare   les deux  baguettes à un couple d’énergies « Yin et « Yang ».  C’est cette analogie qu’on doit trouver dans le lien indestructible du couple de femme et mari (Yin et Yang). On est habitué à appeler une paire de baguettes (Yin et Yang) mais il est interdit de désigner « deux baguettes ». Les baguettes étaient le pur produit d’invention des Bai Yue que les Chinois avaient l’intention d’accaparer sciemment comme la théorie du Yin et du Yang, Yi King, le tambour de bronze, le dragon etc…Issues de la civilisation du riz inondé, les baguettes ne peuvent pas être manquantes dans la vie journalière des Vietnamiens.

Bibliographie 

Trần Ngọc Thêm:  Recherche sur l’identité de la culture vietnamienne. Edition Thế Giới, 2008
Đàm Gia Kiện: Lịch sử văn hóa Trung Quốc . (Histoire de la culture chinoise). Edition Khoa Học Xã hội, Hànôi.

 

 

Première domination chinoise (111 avant J.C. -89 après J.C .)

La première domination chinoise  (111 avant J.C. -89 après J.C .)

Bắc  thuộc lần thứ nhất  (111 TCN -89 SCN)

Version vietnamienne 

Profitant de la dissension visible des Yue et de la mort du roi de Nan Yue Zhao Yingqi (Triệu Anh Tề), Han Wudi trouva l’occasion d’incorporer le royaume du Nan Yue à son empire. Puisque le nouveau roi Zhao Xing (Triệu Ái Đế) n’avait que 6 ans, la régence revint à sa mère, une Chinoise de nom Jiu (Cù Thị). Celle-ci fut connue par Zhao Yingqi à l’époque où il représentait son père auprès de l’empereur Han Wu Di pour rassurer ce dernier de la fidélité et la vassalité du royaume de Nan Yue  à la cour des Han. Cù Thị ne cacha jamais sa préférence pour son ancienne patrie car elle était très impopulaire auprès de ses sujets Yue. De plus elle retrouva son amant Anguo Shaoji (An Quốc Thiếu Qúi), l’émissaire de Han Wudi chargé de la protéger et son fils  Zhao Xing lors de l’intronisation de ce dernier (Triệu Ai vương) en l’an 113 avant J.C.  avec une armée de 200 hommes.  Han Wudi tenta de la soudoyer en proposant à cette dernière un marché ayant pour but d’incorporer le royaume Nan Yue à son empire en échange des titres royaux. Ce projet fut avorté à cause d’un coup d’état organisé par le premier ministre Yue  Lữ Gia (Lữ Gia) soutenu en grande majorité par les Yue. Cette reine traîtresse, son fils Zhao Xing, le nouveau roi et les soldats Han furent massacrés par Lữ Gia et ses partisans Yue. Ceux-ci installèrent le nouveau roi Zhao Jiande (Triệu Dương Đế) dont la mère était une Yue. Furieux, Han Wudi ne put pas laisser impuni un tel affront lorsqu’il avait l’occasion de s’approprier définitivement une région connue pour ses richesses naturelles et pour ses ports Canton et Hepu facilitant l’accès à la mer du Sud. Aux dires des commerçants chinois, l’économie était florissante à Nan Yue car on y trouvait non seulement les perles, les cornes des rhinocéros, les carapaces de tortues mais aussi les pierres précieuses et les essences d’arbres. Ces produits exotiques deviendraient ainsi des objets de mode auprès de la cour des Han.

L’expédition militaire fut dirigée par le général Lu Bode (Lộ Bác Đức) avec cent mille marins des bateaux à tours acheminés sur place pour mater la révolte de Nan Yue. Il fut secondé dans cette mission par Yang Pu (Dương Bộc) connu pour son caractère cruel et impitoyable envers ses victimes comme un faucon sur ses proies. Par contre, Lu Bode magnanime joua sur sa réputation et invita ses ennemis à se rendre. Il réussit à avoir l’adhésion des Yue à la fin de l’affrontement militaire. Quant à Lữ Gia et son jeune roi Zhao Jiande, ils furent capturés au printemps -111 lors de leur fuite. Leurs têtes furent exposées à la porte nord du palais de Chang An (Trường An). Connue pour sa suprématie régionale, la défaite de Nan Yue sonna le glas des espoirs Yue et obligea les autres à se soumettre aux Han. C’est le cas des Xi Ou de l’Ouest (Tây Âu)  et du roi de Cangwu, (Kouangsi) (Quảng Tây) ainsi le royaume Yelang (Dạ Lang) situé à cheval à cette époque sur les territoires de Guizhou (Quí Châu) et de Kouang Si. Le Nord Vietnam fut occupé également par les Chinois qui tentaient de pousser leurs avantages jusqu’à Rinan dans l’Annam (frontière avec le royaume du Champa). Han Wudi divisa le Nord Vietnam en deux commanderies: Jiaozhi (Giao Chỉ) and Jiuzhen (Cửu Chân). La capitale administrative de Jiaozhi fut au début à Miling (Mê Linh) puis elle fut transférée plus tard à Lũy Lâu dans la province de Bắc Ninh. Wudi divisa le Nord Vietnam en deux commanderies: 
Jiaozhi (Giao Chỉ) and Jiuzhen (Cửu Chân). La capitale administrative de Jiaozhi fut au début à Miling (Mê Linh) puis elle fut transférée plus tard à Lũy Lâu dans la province de Bắc Ninh. Face à la dislocation de Min Yue (Mân Việt) et à la résistance d’une partie de la population de ce dernier (Dong Yue)  que Wudi considéra comme une source de trouble dans le futur, il n’hésita pas à employer les grands moyens. Il publia un décret permettant de vider la population de ce royaume en l’an 111 avant J.C. par la déportation de tous les autochtones dans une autre zone située entre la rivière Huai et le fleuve Yanzi.

En prenant l’exemple de l’annexion du royaume de Nan Yue,  tout le monde s’est rendu compte que la faiblesse des Vietnamiens  résidait dans la division. Le roi Zhao Wen Di lui-même n’était pas de tempérament fort comme son grand-père Zhao Wu Di (Zhao Tuo). Il n’osa même pas  envoyer son armée pour se battre contre les Min Yue (Fukien). Il dut demander à Han Wu Di de le faire à sa place et il envoya plus tard son fils Zhao Yingqi (Anh Tề ) de le représenter à la cour des Han. (page 24 dans « l’histoire de Vietnam » de Trần Trọng Kim).  C’est ici  que Zhao Yingqi connut Cù Thị, la prit comme épouse secondaire et eut un fils de nom  Zhao Xing (ou Hưng en vietnamien).

C’était pour cela que les Han exploitaient à fond la faiblesse et la division des Vietnamiens pour  conduire le Vietnam  à sa perte. Cette leçon nous apprend chaque fois que lorsqu’il y a  les dissensions internes entre les Vietnamiens et un manque de solidarité nationale, les gens du nord  profitent de  cette occasion pour envahir facilement le  Vietnam  maintes fois  tout le long de son histoire.

Version vietnamienne 

Lợi dụng sự bất hòa của giữa người dân Việt và cái chết của vua Triệu Anh Tề (Zhao Yingqi), Hán Vũ  Đế tìm thấy có cơ hội để sáp nhập vương quốc Nam Việt vào đế chế của mình. Khi vị vua mới là Triệu Ái Đế (Zhao Xing) có được 6 tuổi, việc nhiếp chính phải giao cho mẹ của ông. Bà nầy là một phụ nữ người Hoa tên là Cù Thị (Jiu). Bà không bao giờ che giấu sự lưu luyến  của bà đối với quê hương cũ bởi vì bà không được yêu chuộng bởi các  người dân Việt bản xứ.  Cù Thị được Anh Tề quen biết lúc Anh Tề còn làm con tin ở triều đình nhà Hán để đảm bảo sự trung thành. Hán Vũ Đế cố gắng mua chuộc Cù Thị  bằng cách đề nghị một thỏa ước sát nhập vương quốc Nam Việt vào đế chế của mình và đổi lại cho bà được chức tước hoàng gia. Dự án này đã bị thất bại bởi một cuộc đảo chính được thừa tướng Lữ Gia tổ chức với sự ủng hộ của nguời dân Việt. Vị hoàng hậu bội bạc này cùng  cậu con trai, vị vua mới cùng các quan chức nhà Hán bị tàn sát bởi Lữ Gia và những người Việt ủng hộ  ông ta. Những người này thay thế một  vị vua mới là Triệu Dương Đế (Zhao Jiande) nhất là  mẹ của ông nầy là một người Việt. Quá tức giận, Vũ Đế không thể để cho một sự sỉ nhục như vậy diễn ra mà không bị trừng phạt khi ngài có cơ hội chiếm đoạt dứt khoát một khu vực được biết đến nhờ sự giàu có tự nhiên với các cảng Quảng Châu và Hepu nầy rất thuận lợi cho việc tiếp cận biển ở phương Nam. Theo các thương nhân người Hoa, kinh tế ở Nam Việt phát triển rất  mạnh vì ngoài ngọc trai, sừng tê giác, mai rùa mà  lại còn có cả đá quý và các loài cây bản điạ hiếm có. Những sản phẩm kỳ lạ này có thể trở thành các sản phẩm thời trang cho triều đình nhà Hán.

Cuộc viễn chinh  quân sự do phục ba tướng quân Lộ Bác Đức chỉ huy với một trăm nghìn thủy thủ cùng các thuyền tháp được vận chuyển  đến đó để dập tắt cuộc nổi dậy ở Nam Việt. Ông ta được hỗ trợ trong nhiệm vụ này bởi Dương Bộc (Yang Pu) nổi tiếng có tính cách tàn nhẫn đối với các nạn nhân của mình tựa như con diều hâu săn mồi. Ngược lại Lộ Bác Đức rất hào hiệp và dựa trên tên tuổi của mình mà mời quân thù ra  đầu hàng. Ông  ta đã thành công  thuyết phục được sự gia nhập của ngừời dân Việt  sau khi cuộc đụng độ quân sự  được kết thúc. Về phần Lữ Gia và vị vua trẻ Triệu Dương Đế, họ bị bắt vào mùa xuân -111 trong lúc chạy trốn. Đầu của họ được treo ở cổng phía bắc của  thành Trường An. Nam Việt được  biết đến  giờ nhờ có  uy thế làm bá chủ ở trong khu vực. Sự thất bại nầy  được xem như là hồi chuông báo tử cho sự hy vọng của  các người dân Việt và buộc họ phục tùng nhà Hán từ đây. Đây là trường hợp của các nước Tây Âu, vương quốc Dạ Lang nằm vào thời điểm đó giữa lãnh thổ Quý Châu và Quảng Tây và vùng Cangwu (Quảng Tây). Miền bắc Việt Nam cũng bị chiếm đóng bởi người Hoa. Họ cố gắng dựa có lợi thế đế chiếm luôn đất đến tận Rinan ở An Nam. (địa phận của nước Chămpa)

Hán Vũ Đế chia miền bắc Việt Nam thành ra hai quận: Giao Chỉ Cửu Chân. Thủ phủ hành chính của Giao Chỉ ban đầu ở Mê Linh sau đó được chuyển đến Lũy Lâu thuộc tỉnh Bắc Ninh. Đối mặt với sự tan rã của nước Mân Việt và sự phản kháng của một bộ phận dân cư ở Đông Việt mà  Hán Vũ Đế xem coi là nguồn  rắc rối trong tương lai, ông không do dự dùng các biện pháp mạnh mẽ. Ông  ban hành một sắc lệnh cho phép trục xuất tất cả dân cư ở vương quốc này vào năm 111 trước Công nguyên và đày họ đến tận một khu vực khác giữa sông Hoài và sông Dương Tử.

Qua việc thôn tính nước Nam Việt thì mọi người cũng nhận ra được  cái yếu điểm của người Việt nằm ở sự chia rẽ. Chính vua Triệu Văn Đế  tính khí nhu nhược  không được như Triệu Vũ vương (Triệu Đà) nên ông không dám cử binh mã chống cự lại nước Mân Việt (Phúc Kiến) quấy rối mà còn sang cầu cứu  triều đình nhà Hán gữi binh sang  chinh phạt nước Mân Việt rồi sau đó còn lại gữi công tử Anh Tề sang làm con tin ở triều đình nhà Hán. (trang 24 trong Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim). Chính  bởi vậy Triệu Anh Tề mới quen Cù Thị và cưới Cù Thị làm vợ lẽ, mới có một đứa con tên là Hưng tức là Triệu Ai Đế (Zhao Xing). Cũng vì vậy mới để nhà Hán biết cái yếu hèn, cái chia rẽ  của người Việt để dẫn  đến mất nước nhà tan. Bài học nầy  cho chúng ta nhận thức thêm là mỗi lần thiếu sự đoàn kết của người dân Việt thì  người phương bắc  có lợi thể để xâm chiếm nước Việt của chúng ta  dễ dàng đã bao lần theo dòng  lịch sử.