Voyage 2017: Vatican (Ý Đại Lợi)

Toà thánh Vatican

Version française

Version anglaise

Đây là một  quốc gia nhỏ nhất thế giới với tổng diện tích 0,44km2 và  nằm giữa thủ đô Rome của Ý Đại Lợi. Tuy vậy, Vatican có tầm ảnh hưởng quan trọng trên thế giới vì đây là trung tâm công giáo đã có thời kỳ hoàng đế Constantin (thế kỷ thứ tư) với hàng tỷ tín đồ trên thế giới hiện nay. Đến đây mà không xem được nhà nguyện Sistina thì rất uổng vì nơi nầy có những kiệt tác của các nhà họa sĩ trứ danh của thời phục hưng  như Michel Ange,  Sandro Botticelli vân vân và cũng không nên quên lên chót vòm của thánh đường  Saint Pierre để nhìn xuống xem quảng trường nhưng mất ít nhất hai ngày mới xem hết vì rất mất thì giờ  trong việc  nối  đuôi và chờ đợi.


C’est l’un des plus petits états d’Europe avec une superficie de 0,44km2 au cœur de la ville de Rome en Italie. Pourtant, Vatican a une influence notable dans le monde car c’est le centre spirituel des catholiques existant à l’époque de l’empereur Constantin (4ème siècle)  avec des milliards de fidèles dans le monde entier. C’est très décevant pour ceux qui ont l’occasion de venir à Vatican sans avoir le temps nécessaire pour  visiter le dôme de  la basilique de Saint Pierre et la chapelle  Sixtine car c’est ici qu’on peut voir les fresques,  les chefs d’œuvre des peintres célèbres à l’époque de la Renaissance comme Michel-Ange,  Sandro Botticelli etc. mais pour  cette visite, il faut compter deux jours car il faut faire l’interminable attente  pendant des heures.


It is one of the smallest states in Europe with an area of 0.44 km² in the heart of the city of Rome, Italy. However, the Vatican has a notable influence in the world because it is the spiritual center of Catholics existing since the time of Emperor Constantine (4th century) with billions of followers worldwide. It is very disappointing for those who have the chance to come to the Vatican without having enough time to visit the dome of St. Peter’s Basilica and the Sistine Chapel because it is here that you can see the frescoes, masterpieces by famous painters from the Renaissance era such as Michelangelo, Sandro Botticelli etc. But for this visit, you need to allow two days because you have to endure the endless waiting for hours.

Click vào hình để xem kích thước to hơn 

Cliquez sur la photo pour voir plus grande la photo
Click on the photo to see the larger photo

Place Saint Pierre 

Quảng trường thánh Phê Rô

 


[Return ITALIE]

Paris et ses passages insolites (Ba Lê với các hành lang lạ thường)

Versions vietnamienne et française

Không  được biết  đến trong thời gian qua,  các hành lang ở Paris nay trở thành một trong những điểm thu hút du khách nhiều nhất là trên phương diện kiến trúc và du lịch. Trong những năm 1850, Paris có ít nhất 150 hành lang với mái che kính và mô hình kiến trúc  nầy được truyền bá rộng rãi  đến  các thành phố lớn  ở tỉnh như Bordeaux, Nantes và ở ngoại quốc như  các nước Ý Đại Lợi , Thổ Nhi Kỳ, Anh quốc vân vân… Các hành lang nầy được  thấy phần đông ở bên bờ  phải của sông Seine  nhất là ở khu  đại lộ (Grands Boulevards).  Nhưng vì dự án đô thị hóa qua các công trình xây cất của nam tước Haussmann và sự phát triển nhanh lẹ của các cửa hàng như Le Bon Marché, la Samaritaine, le Printemps khiến một số hành lang bị phá hủy từ đó.  Hiện nay chỉ còn lại hai chục hành lang ở Paris.   Các hành lang nầy  từ nay thuộc  về di sản kiến trúc và ghi nhớ của  kinh đô ánh sáng Paris.

Méconnus jusqu’à une date récente, les passages de Paris redeviennent aujourd’hui l’un des attraits touristiques et architecturaux de Paris. Dans les années 1850, Paris possède au moins 150 passages couverts et exporte le modèle vers d’autres villes françaises (Bordeaux, Nantes etc …) et vers l’étranger (Italie, Turquie, Grande-Bretagne etc …). Ces passages se regroupent sur la rive droite de la Seine, en particulier dans le quartier des Grands Boulevards. Plusieurs passages ont été démolis au profit de l’urbanisation entamée par les grands travaux du baron Haussmann et de l’essor de grands magasins ( Le Bon Marché, la Samaritaine, le Printemps etc …). Il ne reste qu’une vingtaine de passages aujourd’hui à Paris. Ils font partie désormais du patrimoine architectural et mémoriel de la capitale.

 

Passage des Panoramas 

Galerie Colbert

Passage des Princes

Passage Jouffroy

Galerie Vivienne  etc.

 

 

Một ngày thư thản và lững thững dạo các hành lang

Une journée de la détente et de la flânerie dans les passages

Italie (Ý Đại Lợi)

Italie (Ý Đại Lợi)

 Click on the picture you’d like to see 

Voyage d’été 2017: Venise (Ý Đại Lợi)

 

Version française
Version anglaise
Galerie des photos

Thường được gọi là thành phố trên mặt nước , Venise được ra đời vào thế kỷ thứ 5  sau khi Đế chế La Mã bị sup đổ.  Người dân ở đất liền  tìm những vùng lân cận  có đầm  lầy  như  các hòn đảo cát Torcello, IesoloMalamocco để trốn tránh các người phương bắc, người Hun và cần một nơi như Venise có một vị trí để bảo đảm có nước và trong trường hơp bị vây hảm có sự tiếp tế dễ dàng và nhất là nước là hàng rào thiên nhiên chống địch. Venise vì nằm trên nhiều hòn đảo nhỏ nên được có vô số  các cầu nổi. Sự xây cất nhà cửa cũng tùy thuộc tầm vóc của các căn nhà trọng đại nặng nhẹ hay không. Nếu căn nhà không nặng chi cho mấy thì được xây cất  trực tiếp trên đất  liền. Còn nếu không thì cần các cộc gỗ (pali)   được  cắm sâu vào nền đất  cứng (carento) để   cũng cố nền  đất trước khi dựng sau đó một sàn gổ  (plancher) dày hay mỏng và công việc xây cất được bất đầu với gạch (briques).  Đôi khi còn cần phải tính toán trù liệu sự gặm mòn nước  biển với  các tòa nhà gần ven sông. Bởi thế đá đặc Istrie, một loại đá trắng có tiếng là bền,   đến từ vùng Balkans  được  trọng dùng qua nhiều thế kỷ.

Để giới hạn trọng lượng  của các căn nhà, thường thấy có rất nhiều  cửa sổ trên các mặt chính bằng đá , các sườn nhà bằng gỗ sồi thường đúc trong vôi vữa (mortier),  các xà nhà (poutres) cũng như các rầm (solives) đều dùng  để hấp thụ  tất các chuyển động xuất phát từ sự hoạt động địa chấn ở phá (lagune). Khách du lịch ngoại quốc đi theo tour thường được cư trú  ở ngoại ô vì ở trung tâm thành phố, giá khách sạn quá đắt đỏ một đêm có thể lên  đến cả  ngàn euro. Vì vậy sáng phải lấy tàu đi vào thành phố, có dịp cho tớ chụp hình thỏa mái. Đến đây không đi  thuyền gondole, là mất đi niềm vui trọng đại vì  bạn có  dịp  ngắm cảnh trong thành phố Venise qua các con kênh nho nhỏ và các ngóc ngách mà không thể nào biết khi đi bộ. Đến đây cũng  không nên quên cái cầu than thở bằng gạch trắng Istrie với phong cách baroque, một cái cầu mà bao nhiêu người trước khi bị hành quyết phải  đi qua.  Cái cầu nầy thông đến toà án Des Doges  ở quảng trường Saint Marc,  có đôi hành lang và hai hướng khác nhau, một hướng là đi đến ngục tù  tối ẩm thấp còn hướng kia  thì đến  các phòng « chì »   sẻ bị ghẹt thở   bởi sức nóng  từ các bản chì  phủ kín của các mái nhà.

Đây là một « quan tài biết bay » , đó là cái tên mà nhà văn hào Pháp  André Suarès dùng  khi nói đến cái cầu nầy.  Venise cũng là thành phố  quê hương của Marco Polo, một thương gia  thám hiểm nổi tiếng   đã mang về, theo một giã thuyết, cách làm mì từ Trung Hoa dưới  thời  nhà Nguyên  của Đại Hãn Hốt Tất Liêt ở   đầu thế kỷ 13. Nhưng trong quyển sách tựa đề « La cuicina italiana » , ông  Giuseppe Mantovano  có   lưu  ý rằng   tất cả loại  mì đã  có trước khi Marco Polo trở về.  Như vậy có thể một loại mì nào  đấy thời  đó không  có  ở Venise được mang về không?  Ở  Ý , lúc nào trong menu  của buổi  cơm tối ở khách sạn Ý là cũng có pasta (hay pâte), đó là  món ăn đầu tiên mà tớ   được  ăn  hai ngày liên tiếp.  

Version française

Connue souvent comme une ville bâtie sur l’eau, Venise prit naissance au Vème siècle après la la chute  de l’empire romain. Les habitants vivant sur terre cherchèrent  les  alentours des régions marécageuses  comme les îlots Torcello, IesoloMalamocco pour  trouver refuge et fuir les gens du Nord , les Hun et choisirent Venise comme le lieu idéal pour son eau, un barrage naturel contre les ennemis et une nécessité primordiale  en cas de siège et de ravitaillement. Étant étendue sur plusieurs îlots, Venise possède un grand nombre de ponts.  Le choix de la construction des bâtisses est lié étroitement à leur taille imposante ou non.  Si elle a une stature légère, elle est construite directement sur le sol. Par contre, pour les édifices plus élevés et plus imposants, on a besoin de consolider et soutenir  leur fondation par la plantation des pieux (palis) de deux à quatre mètres enfoncés  jusqu’à l’atteinte de la couche de la terre solide (carento)  avant d’installer le plancher de bois plus ou moins épais avant de mettre en place la maçonnerie en briques. Parfois, il est nécessaire de prévoir la corrosion entamée par l’eau de mer pour les bâtisses au bord des rivières. C’est pourquoi la pierre compacte  d’Istrie, connue pour sa résistance et provenant des Balkans est utilisée au fil des siècles.

Pour limiter le poids de ces bâtisses, on est habitué à installer un grand nombre de fenêtres sur des façades en marbre, à employer des charpentes coulées dans le mortier, à utiliser et à assembler des poutres et des solives dans le but d’absorber les variations sismiques  dans la lagune et à rendre ces bâtisses plus résistantes en les alignant côte à côte en cas des secousses telluriques. La plupart des circuits touristiques proposent  des hôtels situés souvent  aux alentours  de Venise car le prix d’une chambre dans le centre de Venise  est très élevé, pouvant atteindre jusqu’à un millier d’euros. C’est pour cette raison qu’il faut prendre l’embarcation pour atteindre le centre-ville de Venise. C’est aussi une occasion unique pour moi de pouvoir prendre des photos à ma guise. En venant à Venise, on ne peut pas se passer des gondoles car c’est un plaisir inouï de  nous permettre de découvrir Venise au fil de l’eau  dans les recoins.

On ne peut pas oublier non plus le pont des Soupirs en marbre blanc d’Istrie de style baroque, un pont que les prisonniers ont dû emprunter avant la sentence. Donnant accès au palais des Doges, ce pont possédait deux couloirs dans deux directions différentes, l’un emmenant le condamné dans un cachot  humide et tout sombre  et l’autre dans des cellules  où le prisonnier serait suffoqué rapidement  par l’excès de la chaleur emmagasinée dans les toits recouverts de plaques en plomb. C’est le « sarcophage qui s’envole », une expression employée par l’écrivain français André Suarès pour désigner ce pont.  Venise c’est aussi la ville natale  du marchand explorateur célèbre Marco Polo. Selon une vieille légende toujours tenace jusqu’à aujourd’hui,  c’est lui qui aurait introduit les pâtes en Italie   après les avoir ramenées de Chine au début de la dynastie des Yuan (Kubïlai Khan).

Mais dans son ouvrage intitulé   « La cuicina italiana« , Giuseppe Mantovano a noté que  plusieurs  sortes de pâtes étaient   déjà présentes avant le retour de Marco Polo. Peut-être y a-t-il une variété de pâte inconnue ramenée  à cette époque à Venise? En Italie, dans le menu du dîner proposé par les hôtels italiens, il y a toujours du pasta (pâte).  C’est le plat d’entrée que j’ai eu deux jours de suite dans les hôtels italiens.

Version anglaise

Often known as a city built on water, Venice was born in the 5th century after the fall of the Roman Empire. The inhabitants living on land sought refuge in the surrounding marshy regions such as the islets of Torcello, Iesolo, and Malamocco to escape the people from the North, the Huns, and chose Venice as the ideal place for its water, a natural barrier against enemies and a vital necessity in case of siege and supply. Being spread over several islets, Venice has a large number of bridges. The choice of building construction is closely linked to their imposing size or not. If it has a light stature, it is built directly on the ground. However, for taller and more imposing buildings, it is necessary to consolidate and support their foundation by driving piles (palisades) two to four meters deep until reaching the solid earth layer (carento) before installing the wooden floor, more or less thick, before setting up the brick masonry. Sometimes, it is necessary to anticipate corrosion caused by seawater for buildings on the riverbanks. That is why the compact Istrian stone, known for its resistance and coming from the Balkans, has been used over the centuries.

To limit the weight of these buildings, it is common to install a large number of windows on marble facades, to use frameworks cast in mortar, to use and assemble beams and joists in order to absorb seismic variations in the lagoon and to make these buildings more resistant by aligning them side by side in case of earthquakes. Most tourist circuits offer hotels often located around Venice because the price of a room in the center of Venice is very high, reaching up to a thousand euros. For this reason, it is necessary to take a boat to reach the city center of Venice. It is also a unique opportunity for me to be able to take photos at my leisure. When coming to Venice, one cannot do without gondolas as it is an incredible pleasure to allow us to discover Venice along the waterways and in its nooks and crannies.

One cannot forget either the Bridge of Sighs made of white Istrian marble in Baroque style, a bridge that prisoners had to cross before sentencing. Providing access to the Doge‘s Palace, this bridge had two corridors going in two different directions, one leading the condemned to a damp and very dark dungeon, and the other to cells where the prisoner would quickly suffocate from the excess heat stored in the roofs covered with lead plates. It is the « flying sarcophagus, » an expression used by the French writer André Suarès to refer to this bridge. Venice is also the birthplace of the famous merchant explorer Marco Polo. According to an old legend still persistent today, he was the one who introduced pasta to Italy after bringing it back from China at the beginning of the Yuan dynasty (Kublai Khan).

But in his work entitled « La cucina italiana, » Giuseppe Mantovano noted that several types of pasta were already present before Marco Polo’s return. Perhaps there is a variety of pasta unknown brought to Venice at that time? In Italy, on the dinner menu offered by Italian hotels, there is always pasta. It is the starter dish I had two days in a row in Italian hotels.

 

Thành phố của các kênh đảo

[Return ITALIE]

Voyage d’été 2017: Milan (Ý Đại Lợi)

 

Version française
Version anglaise
Galerie des photos

Tọa lạc tại  phía bắc của đồng bằng Lombardie, Milan thường được xem  là một trong những thành phố thời trang  nổi tiếng  hàng đầu ở Âu Châu cùng Paris và Londres. Milan không những  là thành phố thứ nhì của Ý Đại Lợi mà còn là thành phố mua sắm lý tưởng nhất vì  Milan hội tụ những nhà thiết kế tài ba như  Giorgio Armani, Guccio Gucci, Gianni Versace vân vân…Galerie  Vittorio Emanuele II ở quảng trường Plazza del Dumo được coi là trung tâm mua sắm cổ xưa nhất thế giới với hai tọa nhà mái vòm có trần nhà kính, một dài 196 m một ngắn 105,5 m. Hai tọa nhà  nầy đụng nhau thành hình chữ thập latin ở giữa dưới vòm hình bát giác  bằng kính cao hơn 40 m . Dưới vòm nầy, có 4 tranh ghép mảnh  tượng trưng  phù hiệu của 4  vùng Milan, Florence, Turin và Rome.  Ở cuối cổng ngang mặt quảng trường Plazza del Dumo thì có một khải hoàn môn còn ở cuối cổng đối diện phiá sau là  nhà hát lớn nhất ở Châu Âu thời đó Opéra La Scala. Galerie nầy được đặt theo tên vị vua đầu tiên  có công thống nhất  vương quốc Italie. Công trình kiến trúc đặc sắc này được thiết kế bởi kiến trúc sư Giuseppe Mengoni. Ông nầy  một ngày trước khi công trình được hoàn thành (tháng 12 năm 1877), bị té chết  từ trên đỉnh vòm khải hoàn môn.

Còn thánh đường Milan, đây là một kiến trúc phong cách gô tích, và tân cổ điển với diện tích gần 12000 m2,  dài 157 m, rộng 93m, có sức chứa đến 4000 người.  Nó được xem là nhà thờ lớn nhất ở Ý Đại Lợi và được xếp hàng  thứ 4 ở châu Âu chỉ sau nhà thờ St Pierre  ở Vatican, Saint Paul ở London và nhà thờ Seville của Tây Ban Nha. Nhà thờ được xây bằng gạch đá cẩm thạch trắng , làm quyến rũ các du khách khi đến tham quan với 2000 bức tượng  trong đó có bức tượng David chặt đầu Goliath và 136 mũi tên trang trí ở  các mặt chính. Đây là một kiệt tác không thể bỏ qua khi đến Milan. Nhưng muốn xem bên trong nhà thờ thì mất ít nhất 2 tiếng rưởi. Rất tiếc thì giở không có nên mình không có thể xem được cây thánh giá của Léonard de Vinci. Được xây cất vào năm 1386 dưới sự thúc đẩy của lãnh chúa Gian Galeazzo Visconti nhưng được hoàn thành sau 500 năm khi hoàng đế Napoléon Bonaparte muốn được phong làm vua của Ý Đai Lợi ở thánh đường Milan. Khi nhắc đến thành phố Milan thì không thể nào không nói đến gia đình Visconti , một gia tộc qúi phái có quyền lực từ thờ i Trung Cổ đến thời kỳ Phục Sinh (Renaissance) từ 1277 đến 1447. ở vùng Lombardie. Có một đạo diễn nổi tiếng thuộc gia tộc nầy đó là ông Luchino Visconti được biết đến với bộ phim The Leopard (1963) và Death in Venice (1971). 


Située dans dans le nord de la Lombardie, Milan est considérée comme l’une des villes connues pour la mode en Europe avec Paris et Londres. Milan n’est pas non seulement la deuxième ville d’Italie mais elle est aussi un lieu idéal pour le shopping car elle réunit tous les grands stylistes célèbres comme Giorgio Armani, Guccio Gucci, Gianni Versace etc.  Située à Plazza del Duomo,   la galerie  Vittorio Emanuele II est considérée comme le plus vieux centre commercial du monde constitué de deux passerelles couvertes des toits en verre et en acier, l’une longue de 196 m et l’autre courte de 105,5 m. Ces deux dernières se rejoignent en forme de croix latine en leur milieu sous un  dôme octogonal haut plus de 40 mètres. Au dessous de celui-ci il y a 4 mosaïques représentant chacune un écusson de chaque région: Milan, Florence, Turin et Rome. À l’extrémité d’une passerelle  située en face de la place Plazza del Dumo se trouve un arc de triomphe tandis qu’à l’autre extrémité opposée  il y a l’opéra La Scala connu à cette époque comme la plus grandiose en Europe. Cette galerie prend pour nom Vittorio Emanuele II, celui  qui a réussi à unifier l’Italie. Ce projet de construction est conçu et réalisé  par l’architecte Giuseppe Mengoni. Ce dernier est décédé  en tombant du haut de la dôme de l’arc de triomphe la veille du jour de la cérémonie d’ouverture.  (décembre 1877) 

Quant à la cathédrale de Milan, c’est un chef d’œuvre architectural de style gothique et néo-classique avec une superficie de 12000 m2, longue de  157 m et large de 93 m et  ayant la possibilité de contenir 4000 personnes.  Elle est considérée comme la plus grande église en Italie et placée au 4ème rang en Europe derrière les cathédrales Saint Pierre à Vatican, Saint Paul à Londres et Séville en Espagne. Cette église est édifiée en marbre d’un blanc immaculé, ne cesse pas de  séduire les touristes lors de leur visite avec 2000 statues parmi lesquelles se trouve la statue de David portant dans sa main la tête de Goliath et 136 flèches ornementales sur ses façades extérieures.  C’est une œuvre architecturale d’une beauté extraordinaire qu’il est difficile de ne pas voir lorsqu’on est à Milan.  Pour voir l’intérieur de l’église, il faut compter 2 h et demie.  Il est regrettable pour  nous d’avoir peu de temps pour y voir le crucifix de Léonard de Vinci.  Cette cathédrale a été édifiée au début  sous l’impulsion du seigneur Gian Galeazzo Visconti mais  sa finition a eu lieu seulement 500 ans plus tard lorsque l’empereur Napoléon Bonaparte avait l’intention d’y être  couronné roi d’Italie. En parlant de Milan, on ne peut pas évoquer la famille noble Visconti ayant  eu  à cette époque un pouvoir politique incontestable du Moyen Âge  jusqu’à la Renaissance (de 1277 à 1447) en Lombardie.  Un metteur en scène  issu de cette famille, Luchino Visconti est très célèbre pour ses deux films The Leopard (1963) et  Death in Venice (1971). 


Located in the north of Lombardy, Milan is considered one of the cities known for fashion in Europe alongside Paris and London. Milan is not only the second-largest city in Italy but also an ideal place for shopping as it brings together all the great famous designers such as Giorgio Armani, Guccio Gucci, Gianni Versace, etc. Located at Piazza del Duomo, the Vittorio Emanuele II gallery is considered the oldest shopping mall in the world, consisting of two covered walkways with glass and steel roofs, one 196 meters long and the other 105.5 meters long. These two walkways meet in the shape of a Latin cross in the middle under an octagonal dome over 40 meters high. Below it are four mosaics, each representing a coat of arms of each region: Milan, Florence, Turin, and Rome. At one end of a walkway facing Piazza del Duomo stands a triumphal arch, while at the opposite end there is the La Scala opera house, known at that time as the most magnificent in Europe. This gallery is named Vittorio Emanuele II, the one who succeeded in unifying Italy. This construction project was designed and carried out by the architect Giuseppe Mengoni. He died by falling from the top of the dome of the triumphal arch the day before the opening ceremony. (December 1877)

As for the Milan Cathedral, it is an architectural masterpiece in Gothic and Neoclassical style with an area of 12,000 m², 157 m long and 93 m wide, capable of holding 4,000 people. It is considered the largest church in Italy and ranks 4th in Europe behind St. Peter’s Basilica in the Vatican, St. Paul’s Cathedral in London, and the Cathedral of Seville in Spain. This church is built of immaculate white marble and continually captivates tourists during their visit with 2,000 statues, including the statue of David holding the head of Goliath in his hand, and 136 ornamental spires on its exterior façades. It is an architectural work of extraordinary beauty that is hard to miss when in Milan. To see the interior of the church, one should allow two and a half hours. It is regrettable for us to have little time to see Leonardo da Vinci’s crucifix there. This cathedral was initially built under the impetus of Lord Gian Galeazzo Visconti, but its completion took place only 500 years later when Emperor Napoleon Bonaparte intended to be crowned King of Italy there. Speaking of Milan, one cannot mention the noble Visconti family who had undeniable political power from the Middle Ages until the Renaissance (from 1277 to 1447) in Lombardy. A director from this family, Luchino Visconti, is very famous for his two films The Leopard (1963) and Death in Venice (1971).


[Return ITALIE]

Kinh đô thời trang và thiết kế


Nha Trang (Khánh Hòa)

Version française

Nha Trang doit son nom à l’appellation chame de Yatran. La mer la plus poissonneuse du Vietnam, la récolte des nids d’hirondelle, la plage, les conditions idéales pour la pratique de la plongée sous-marine sont à l’origine de sa réputation.

Version vietnamienne

Nha Trang là thủ đô của tỉnh Khánh Hoà ngày nay. Tên Nha Trang là tên  gọi của người Chămpa. Nha Trang nổi tiếng không những  nhờ biển  đẹp và  có nhiều cá và có luôn yến sào một  loại thực phẩm từ lâu đã được xếp vào hàng “cao lương mỹ vị” mà còn là nơi có đủ điều kiện lý tưởng để thực hành khám phá lặn dưới nước.

Galerie des photos

Plage méditerranéenne du Vietnam

It owes its name by the Cham appelation of Yatran. The most productive sea in Vietnam, the collection of bird’s nest, the beach, the ideal conditions to practice the scuba diving were a source of its reputation

 

 

Mang Khảm (Hà Tiên)

Version française

Version anglaise

Đối diện với vịnh Xiêm La, Hà Tiên một tỉnh lị nằm cách xa  khoảng 8 cây số với biên thùy Cao Miên.  Đây cũng là thành phố đánh dấu sự kết thúc cuộc hành trình  Nam Tiến của người dân Việt.  Trước khi được  biết với tên Hà Tiên, tỉnh lị nầy thường được gọi buổi đầu với tên Phương Thành sau đó có tên Mang Khảm. Lúc đầu rất hoan sơ, sau đó có sự phát triển kinh tế ở nơi nầy đó là nhờ  việc di cư ồ ạt của các phần tử thân triều đình nhà Minh (hay Minh Hương) mà trong đó có một  người nổi tiếng tên là Mạc Cửu.(Mac King Kiou)

Không khuất phục chính sách của Đại Thanh và rời  bỏ Trung Hoa vào lúc 17 tuổi,  ông sang định cư cùng gia quyến ở Nam Vang ( Cao Miên) năm 1671. Vài năm sau, ông được chức Ốc Nha phong  bởi vua Chân Lạp ( Cao Miên),  xem như là tri phủ hay là tỉnh trưởng  thời đó của Mang Khảm. Nhờ có óc buôn bán và tính hào hiệp, ông đã thành công trong việc biến  Mang Khảm một tỉnh lị nhỏ bé thành một thương cảng sầm uất , buôn bán  phồn thịnh  trong vùng. Để tránh  tham vọng  của người Xiêm La, ông cần sự bảo trợ của  người dân việt nhất là của  các chúa  Nguyễn chớ vua Cao Miên không  có đủ thế lực để bảo vệ ông. Vì lý đó, ông xin qui phục Nam Triều.  Từ đó Mang Khảm thuộc về lãnh thổ Việt Nam và lấy tên Hà Tiên.

Theo truyền thuyết dân gian thì có   thấy trên sông các vị tiên xuống trần tham dự cuộc du hồ (Hà có nghĩa là sông). Chính vì vậy mới gọi là Hà Tiên. Sau vài năm , Hà Tiên trở thành điểm xuát phát trong cuộc chinh phục các huyện của Chân Lạp: Long Xuyên (Cà Mau ngày nay), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (Cần Thơ), Trấn Di (Bạc Liêu) với con trai của Mạc Cửu:  Mạc Thiên Tứ. Ông nầy là một nhân vật phi phạm.  Định mệnh của ông rất liên hệ chặt chẽ với định mệnh của Nguyễn Ánh ( vua Gia Long ). Mạc Thiên Tứ trở thành công thần lừng danh của nhà Nguyễn trong việc chống chọi với nhà Tây Sơn. Với những năm lao đao của Nguyễn Ánh, Mạc Thiên Tứ buộc lòng sang Thái Lan nương thân cùng gia quyến với  Tôn Thất Xuân , một người chú của Nguyễn Ánh. Để làm người Xiêm La nghi ngờ tuyệt giao, quân Tây Sơn không ngần ngại làm giả mạo mật thư  nói rằng Mạc Thiên Tứ cùng bộ hạ sẻ làm nội ứng để lật đổ vua Xiêm La Trịnh Tân (Phraya Tak Sin). Tất cả gia đình của ông cùng Tôn Thất Xuân, tất cả 53 người  bị Trịnh Tân giết cả. Để bảo toàn danh dự và lòng trung thành, ông tuẫn tiết bằng cách nuốt vàng lá  vào miệng vào năm Canh Tý 1780, thọ hơn 70 tuổi. Mạc Thiên Tứ còn là một nhà thi sĩ nổi tiếng của thời đó. Chính ông là người làm  ra tập Hà Tiên Thập vịnh để ca ngợi các thắng cảnh tuyệt vời và thiên nhiên của Hà Tiên. Tập nầy khi lúc đầu  có được 10 bài sau đó được nhóm Chiêu Anh Các gồm có 31 thi sĩ, mỗi người 10 bài cho nên tổng cộng có  đến 320 bài  dưới sự khởi xướng của Mạc Thiên Tứ.  Sau cùng Nguyễn Cư Trinh có họa thêm 10 bài khiến tập nầy có một giá trị vô giá để lưu truyền cho hậu thế.

Hình ảnh 

Chúng ta cũng không thể quên bài thơ Lục Bát mà Mạc Thiên Tứ ứng khẩu để trêu nghẹo một cô gái Quảng Nam giả làm chàng   thư sinh tham dự trong một buổi  dạ hoa đăng:

Bên kia sen nở nhiều hoa
Người khen hoa đẹp nõn nà hơn em
Trên bờ em đứng em xem
Mọi người sao bỗng không thèm nhìn hoa

Không chút ngại ngùng, chàng thư sinh trả lời Mạc Thiên Tư như sau:

Mặt ao sen nở khắp
Trông hoa lẫn bóng người
Trên bờ ai đứng ngắm
Sao chẳng thấy hoa tươi?

Sau cuộc trao đổi thơ, Mạc Thiên Tứ mới khám phá được chàng thư sinh ấy là gái giả trai để tránh nạn cướp từ miền trung  đến , theo cha vào Hà Tiên buôn bán và tên là Nguyễn Thị Xuân. Mạc Thiên Tứ lấy nàng làm vợ lẽ nhưng nàng suýt chết vì sự ghen tương của bà vợ chánh nên đành rút về tu ở một am tự để sống hết quãng đời còn lại.  Trước khi mất, bà có để lại một bài thơ ví bà như một hoa sen , kể lại  sự trong sạch và cao thượng của bà trong một thế giới ghê tởm và đầy  ô nhục bẩn thỉu: 

 

Vươn khỏi bùn nhơ thoát vươn lên
Phỉ lòng trong trắng giữa thiên nhiên
Xuân thu đậm nhạt bao hồng tía
Ðừng sánh thanh cao với đóa sen.

hatien_2Nhắc đến Hà Tiên không thể nào không nghĩ đến Mạc Cửu và Mạc Thiên Tứ. Chính nhờ họ mà  Việtnam đã thành công cuộc Nam Tiến.  Cũng không có chi ngạc nhiên sự gắn bó sâu sắc và lòng kính nể mà người dân Việt dành cho Mạc Cửu và gia quyến nếu ai có lần đến thăm  viếng  đền của ông ở Hà Tiên.