Quảng trường Nguyễn Huệ
Villes du Vietnam ou du monde
Avant de devenir une île vietnamienne, l’île Phú Quốc appartint aux Khmers jusqu’au 17ème siècle. C’est pourquoi pour les Khmers, cette île n’est autre que Koh Tral. Elle est plus proche des côtes cambodgiennes que celles du Vietnam. La ville côtière cambodgienne Kep sur mer pourrait être vue en cas du beau temps à partir de l’île de Phú Quốc. Au début du 17ème siècle, elle fut gouvernée à cette époque par un émigré d’origine chinoise Mạc Cửu en accord avec le roi khmer de nom Nặc Ông Thu ( Ang Sur, Jayajettha III). En voyant grandir l’ambition territoriale des Thaïlandais et face à la faiblesse des Khmers, Mạc Cửu se tourna vers le seigneur Nguyễn Phúc Chu et demanda sa protection. Ce dernier lui conféra le titre de commandant des troupes (tổng binh) de la région Mang Khảm incluant Phú Quốc. Celle-ci passera ainsi dans le giron des Vietnamiens. Phú Quốc servit plus tard de refuge pour Nguyễn Ánh (futur empereur Gia Long) dans sa lutte contre les Tây Sơn du roi Quang Trung.
Đảo Ngọc
Analogue à l’île Poulo Condor (Côn Đảo), elle reste jusqu’alors peu exploitée à part de la ville principale Dương Đông où la concentration des infrastructures touristiques est visible (bungalows, hotels resorts, boutiques destinées à louer des motos et des scooters etc.. ). Elle est connue sous le nom de l’île des perles (Đảo ngọc) car c’est ici qu’on produit des perles de culture d’une qualité exceptionnelle. Mais sa réputation réside incontestablement dans la fabrication de la sauce « nước mấm » à partir des anchois vietnamiens (cá cơm). Cette sauce ne peut pas être manquante dans la plupart des mets vietnamiens. Ses belles plages de sable blanc avec une eau limpide, ses ruisseaux magnifiques, ses récifs coralliens, sa flore primitive où on recense plus de 929 espèces végétales font de cette île un petit coin paradisiaque pour ceux qui aiment la nature à l’état sauvage. Outre la baignade, on peut citer d’autres activités: la plongée, la pêche ou le trekking. Les destinations touristiques connues de l’île sont les suivantes: Bãi Dài, Bãi Sao, Bãi trường, le village des pêcheurs Hàm Ninh, le temple Nguyễn Trung Trực, le parc national Phú Quốc, la prison Cây Dừa, le roc Dinh Cậu etc..
Galerie des photos
Située dans le golfe de Siam, l’île de Phú Quốc dépendant administrativement de la province de Kiên Giang, est la plus grande île du Vietnam et fait partie d’un archipel de 25 îles. Sa superficie équivalente à Singapore est de 576 km2 avec la longueur de 52km du Nord au Sud et une largeur de 20km de l’Est à l’Ouest. Le point culminant de l’île se trouve au nord de l’île à la montagne Chúa avec 565m de hauteur. La population s’élève à 146028 habitants en accord avec les données statistiques fournies en 2019. Sa démographie continue à augmenter malgré des restrictions administratives. Phú Quốc devient aujourd’hui la première ville insulaire du Vietnam.
L’accès à cette île peut se faire en avion ou en en ferry à partir des points de départ Rạch Giá ou Hà Tiên. Par avion, il y a actuellement deux compagnies desservant Phú Quốc ( Vietnam Airlines et Air Mékong). Plusieurs vols sont assurés dans la journée. La durée du vol est de 45 minutes. Par contre, par ferry, la durée minimale de la traversée est de 2h30. Mais le port d’arrivée à Phú Quốc est soit sur la côte est de l’île ( Bãi Vòng , Hàm Ninh ) soit au sud de l’île, An Thới. N’oublier pas de vérifier sur le billet le nom du port d’arrivée avant d’éviter des surprises et d’avoir assez du temps en cas de transfert.
Trước khi là một hòn đảo của Việt Nam, Phú Quốc thuộc về người Khơ Me cho đến thế kỷ 17. Đây là lý do tại sao đối với người Khơ Me, hòn đảo này không có gì xa lạ với cái tên Koh Tral. Nó nằm gần với bờ biển Campuchia hơn so với bờ biển của Việt Nam. Thị trấn ven biển Kép của Campuchia có thể được nhìn thấy khi thời tiết tốt đẹp từ đảo Phú Quốc. Vào đầu thế kỷ 17, Phú Quốc được cai trị vào thời điểm đó bởi một người di cư gốc Hoa, Mạc Cửu theo sự thỏa thuận với vua Khơ Me tên là Nặc Ông Thu (Ang Sur, Jayajettha III). Nhìn thấy sự tham vọng lãnh thổ ngày càng lớn của người Thái và trước tình trạng yếu kém của người Khơ Me, Mạc Cửu đã tìm đến chúa Nguyễn Phúc Chu và xin được bảo hộ. Chính chúa Nguyễn phong cho ông làm tổng binh (tổng binh) ở vùng Mang Khảm (Hà Tiên) trong đó có đảo Phú Quốc. Vì vậy, đảo nầy mới thuộc về Việt Nam. Phú Quốc là nơi ẩn náu sau này của Nguyễn Ánh (vua Gia Long) trong cuộc đấu tranh chống quân Tây Sơn của vua Quang Trung.
Tương tự như Côn Đảo, nó vẫn còn ít được khai thác cho đến ngày nay ngoài thị trấn chính Dương Đông, nơi tập trung nhiều cơ sở hạ tầng du lịch ( boongalô, khách sạn nghỉ dưỡng, các tiệm cho thuê xe máy và xe tay ga vân vân…). Phú Quốc được mệnh danh là Đảo Ngọc vì ở nơi đây được sản sinh ra những viên ngọc trai nuôi có chất lượng tuyệt vời. Nhưng Phú Quốc có tiếng tâm chắc chắn nhờ ở việc sản xuất nước mấm từ các con cá cơm. Món nước chấm này không thể thiếu trong các món ăn Việt Nam. Những bãi biển cát trắng tuyệt đẹp với làn nước trong vắt, những con suối tráng lệ, những rạn san hô, một hệ thực vật nguyên thủy có hơn 929 loài thực vật khiến hòn đảo này trở thành một góc nhỏ thiên đường cho những ai yêu thiên nhiên hoang dã. Ngoài việc bơi lội, chúng ta có thể kể ra các hoạt động khác như lặn biển, câu cá hoặc đi du lịch bụi (trekking) xuyên rừng. Các điểm du lịch nổi tiếng ở đảo là: Bãi Dài, Bãi Sao, Bãi Trường, làng chài Hàm Ninh, đền thờ Nguyễn Trung Trực, vườn quốc gia Phú Quốc, nhà tù Cây Dừa, Dinh Cậu vân vân …
Nằm trong vịnh Xiêm La, đảo Phú Quốc phụ thuộc hành chính tỉnh Kiên Giang là hòn đảo lớn nhất của Việt Nam và là một phần của quần đảo gồm 25 hòn đảo. Diện tích của nó tương đương với Singapore là 576 kilomet vuông với chiều dài 52 cây số từ Bắc đến Nam và chiều rộng 20 cây số từ Đông sang Tây. Điểm cao nhất của đảo nằm ở phía bắc của đảo là núi Chúa với độ cao 565 t ước. Dân số là 146028 người theo dữ liệu thống kê được cung cấp vào năm 2019. Dân số vẫn tiếp tục tăng bất chấp có các hạn chế hành chính và nay Phú Quốc trở thành thành phố biển đảo đầu tiên của Việt Nam.
Bạn có thể đến hòn đảo này bằng máy bay hoặc phà từ các điểm xuất phát từ Rạch Giá hoặc Hà Tiên. Bằng máy bay, hiện nay có hai hãng phục vụ Phú Quốc (Vietnam Airlines và Air Mékong). Một số chuyến bay được khai thác trong ngày. Thời gian bay là 45 phút. Ngược lại, bằng phà, thời gian vượt biển tối thiểu là 2 tiếng 30 phút. Nhưng cảng đến Phú Quốc nằm ở bờ biển phía đông của đảo (Bãi Vòng, Hàm Ninh) hoặc ở phía nam của đảo, An Thới. Nên kiểm tra tên cảng đến trên vé trước khi đến để tránh sự bất ngờ và có đủ thời gian trong trường hợp chuyển phà.
Version vietnamienne
Nằm dưới chân đèo Hải Vân, ranh giới giữa tỉnh Thừa Thiên Huế và tỉnh Đà Nẵng, trải dài hơn chục cây số, bãi biển Lăng Cô xinh đẹp được biết đến với những cồn cát mịn và đầm phá với làn nước xanh biếc. Cách đó không xa là một làng chài, nơi thường xuyên có sự hiện diện của đàn cò. Đó là lý do tại sao vào thời nhà Nguyễn, làng này được gọi với cái tên “Làng cò” hay (làng cò). Vì lý do phát âm, nó đã trở thành Lăng Cô trong thời kỳ Pháp chiếm đóng. Không tựa như những bãi biển khác ở Việt Nam, bên cạnh vẻ đẹp trời phú cho, bãi biển này vẫn giữ được một môi trường hoang sơ và nguyên vẹn. Đáng nên dừng lại cho những ai ưa thích thư giãn trong yên tĩnh.
Située au pied du col des Nuages (ou Hải Vân) marquant la frontière entre la province Thừa Thiên Huế et celle de Đà Nẵng et s’étirant sur une dizaine de kilomètres, la belle plage Lăng Cô est connue pour ses dunes de sable fin et son lagon aux eaux turquoises. Elle n’est pas loin d’un village des pêcheurs où la présence des cigognes est très fréquente. C’est pour cela qu’à l’époque de la dynastie des Nguyễn, ce village fut appelé sous le nom de « Làng cò » ou (village des cigognes). À cause de la défaillance dans la prononciation, il devint ainsi Lăng Cô lors de l’occupation française. Contrairement à d’autres plages du Vietnam, outre son charme paradisiaque, cette plage garde encore un environnement intact et sauvage. Cela vaut un détour pour ceux qui aiment se détendre dans la tranquillité.
Located at the bottom of Hải Vân Pass marking the border between Thừa Thiên Huế province and Đà Nẵng province and stretching over ten kilometres, the beautiful Lăng Cô beach is known for its fine sand dunes and its lagoon with turquoise waters. It is not far from a fishing village where the presence of storks is very frequent. That is why at the time of the Nguyễn dynasty, this village was called under the name of “Làng cò” or (stork village). Because of the faltering pronunciation, it thus became Lăng Cô during the French occupation. Unlike other beaches in Vietnam, besides its heavenly charm, this beach still keeps an intact and wild environment. It is worth a detour for those who like to relax in tranquility.
Située tout près de l’embouchure du delta du Mékong, la province Bến Tre est connue depuis longtemps comme le pays des cocotiers. Bến Tre est en tête de la production nationale des noix à coco avec 400 millions de fruits cueillis sur une superficie de 52.000 ha. Bến Tre est réputée comme le point de départ du soulèvement et de la formation du front national de libération contre le régime sud-vietnamien du président Ngô Đình Diệm. Mais elle est aussi la terre natale du moine illustre aux noix de coco (Đạo Dừa) de nom Nguyễn Thành Nam emprisonné plusieurs fois pour sa propagande pacifique.
Située à 85 km de Saïgon ou (Hồ Chí Minh Ville), Bến Tre est considérée souvent par les touristes comme le point de passage obligatoire pour partir à l’exploration en bateau ou en pirogue des vergers du delta du Mékong.
Galerie des photos
Pays des contrastes
Có đi trên sông Hậu (hay Hậu Giang) và kênh Vĩnh Tế mới nhận thấy được Châu Đốc là một thành phố có tầm quan trọng về mặt kinh tế và chiến lược. Nhờ là cửa ngõ của đồng bằng Cửu Long nên Châu Đốc được thu thập lợi ích không ít về nghề đánh cá và thương mại giữa ba quốc gia Lào, Cao Miên và Việtnam. Châu Đốc được biết đến nhờ các nhà bè xem như các căn hộ nẳm san sát nhau dọc theo hai bờ sông và nuôi cá hồi to có thể từ 5 đến 7 kí hay các loại cá khác. Các cá nầy đươc nuôi giữa môi trường thiên nhiên trong các lưới cài duới hầm nhà. Tất cả loại cá nầy được bán ở trong nước hay xuất khẩu qua các nước ở Thái Bình Dương và Hoa Kỳ. Trên vùng đất có sự tương phản nầy, cảnh nghèo nàn vẫn được thấy ở mấy nhà sàn của các gia đình chài lưới với một cuộc sống bấp bênh.
Ở Châu Đốc ăn uống rất ngon, thức ăn rất cân bằng nào mực, nào hải sản, thịt và rau cỏ nhiều thứ khác nhau. Chợ búa cũng đầy các món ăn ngon được gói sẵn với loại lá dầy mà trước đó được nấu qua nhiều giờ khiến có thể bảo hành vệ sinh và giữ được vài ngày. Ở thành phố, từ bờ sông đến chợ, thường gặp các thiếu nữ người Chămpa duyên dáng và thanh tao trong bộ y phục cổ truyền và màu sắc giản dị. Cộng đồng chàm ở đậy bị hồi giáo hóa nên họ có đến 5 thánh đường mà thánh đường cuối cùng được xây cất vào năm 1992. Dân tộc nầy ở môt khu riêng biệt với các nhà rất xinh xắn. Họ sống với nghề dệt truyền thống, trồng lúa, chài cá và chuyên chở nhờ các chiếc xe mô tô. Họ thường mời khách mua các khăn vải bông màu (hay rằn), túi xách với mức giá rất rẻ. Chính ở đây mới thấy sự hổn hợp của các cư dân nghèo giàu lẫn lộn và các tôn giáo cùng kề bên nhau.
Ở đây có lễ hội miếu Bà Chúa Xứ thường được diễn ra mỗi năm ở duới chân núi Sam. Tuy chưa đến ngày lễ nhưng ở đây lúc nào cũng có một bầu không khí cá biệt với các người buôn bán, các kẽ ăn xin và các phép màu nhiệm ở chùa. Chùa Bà Xứ rất rộng lớn nhưng mùi nhan hoà lẫn cùng mùi của các lễ vật cúng khiến làm không gian ngột ngạt và khó mà ở lâu được nếu không có lòng tôn kính. Ngược lại có một bầu không khí tĩnh tâm và mật thiết ở trên đỉnh núi Sam, ở chùa Hang mà Bà Xứ cũng được thờ kính. Du khách có thể ngắm nhìn toàn cảnh đồng bằng đến cuối chân trời về phiá Cao Miên trong tầm mắt với ánh sáng xanh độc đáo. Ở đây, thường thấy dọc theo đồng bằng có 2 loại cây cọ: cây dừa, một biểu tượng quen thuộc của Vietnam và cây thốt nốt làm ta nghỉ đến cây ngọc giá kết xù với cụm hoa dạng bông lớn mọc thẳng đứng giữa đám lá. Thứ nước được lấy từ các bông thốt nốt qua các ống tre buộc vào đầu cụm hoa, uống rất ngọt mát và bổ còn các quả thốt nốt xem như quả óc chó vỏ màu đen có nhiều múi, mỗi múi thịt trắng ngần, có nước ngọt mát và mềm. Đối với người hướng dẫn, các quả nầy biểu tượng của Cao Miên. Nơi mà hai loại cây nầy mọc gần nhau thì phải xem đó là tình hữu nghị của hai dân tộc yêu chuộng hoà bình mà biên thùy cũng không xa chi cho mấy và cũng không có gì rõ rệt cả. Lìa xa miền nam của sông Cửu Long thì cảm nhận chết trong lòng một ít.
Chính ở nơi nầy nó có cái gì quyến rũ ta và làm ta bỡ ngỡ hơn mọi nơi khác và nó có mang tính chất huyền bí.
Chúng ta tự thầm nhủ mỗi lần ra đi để hẹn ngày trở về.
Galerie des photos
En naviguant sur le fleuve Bassac, affluent du Mékong, et le canal Vĩnh Tế, on a le loisir de percevoir toute l’importance stratégique et commerciale de la ville Châu Đốc. Commandant l’embranchement du grand delta du Mékong, elle tire son profit de la pêche et du commerce, licite ou non, entre trois pays, deux du Haut Mékong : le Laos et le Cambodge, et celui du Delta : le Vietnam. Châu Đốc est réputée par les nombreuses fermes aquacoles qui, montées sur des radeaux et accolées l’une contre l’autre, permettent l’élevage, dans des nasses fixées sous le plancher, en milieu naturel, de truites pesant cinq à sept kilos ou d’autres poissons, le tout destiné au marché local et à l’exportation dans les pays du Pacifique, jusqu’aux Etats-Unis. Sur cette terre de contrastes, la pauvreté s’étale sur les rives du fleuve, où les familles de pêcheurs, dans leurs cabanes sur pilotis, continuent de vivre – survivre – dans des conditions de grande précarité.
On mange bien à Châu Ðốc, une nourriture équilibrée, savoureuse, à base de seiches, fruits de mer, viande et légumes variés. Le marché regorge de ces préparations succulentes fraîchement cuisinées. Emprisonnées dans leurs corsets de feuilles épaisses, dans lesquelles elles ont bouilli plusieurs heures, elles présentent la garantie d’hygiène requise et se conservent quelques jours. En ville, entre le port et le marché, il arrive de croiser des jeunes filles chames, revêtues de leur costume traditionnel aux couleurs sobres, modèles d’élégance et de raffinement. La communauté chame a été islamisée, cinq mosquées y ont été érigées pour le culte, la dernière en 1992. Cette ethnie habite, dans un quartier réservé, des maisons proprettes. Elle vit du traditionnel tissage des tissus, de l’agriculture rizicole, de la pêche et du transport qu’elle assure au moyen de petites motos. Elle vous invite volontiers à venir acheter ses cotonnades colorées, un geste qui ne se refuse ni ne s’oublie.
Métissage des populations, côtoiement de richesse et de pauvreté, juxtaposition des religions. Un culte bouddhique, voué à la Reine du Pays, se déroule au pied du Mont Sam. Il y règne déjà l’ambiance propre aux lieux de pèlerinage, ses marchands du temple, ses mendiants, sa cour des miracles. La pagode Chùa BÀ XỨ est vaste, mais l’odeur de l’encens qui se consume, généralement si agréable, se mêle à celle des offrandes diverses, dans la cohue des grands débordements de ferveur ; elle devient étouffante et nous empêche d’y rester si on n’a pas vraiment la foi. L’ambiance est plus intime et recueillie au sommet du Mont Sam, à la Pagode de la Caverne où est aussi vénérée la Souveraine; celle-ci mérite d’autant plus le détour que le panorama qui s’offre sur la plaine jusqu’au Cambodge nous gratifie de vues imprenables sur des terres rejoignant l’horizon dans une lumière bleutée unique.
Dans cette plaine empreinte de mélancolie, les palmiers qui la jalonnent sont de deux sortes : le cocotier, symbole familier du Vietnam, et le palmier à sucre qui fait penser à un yucca géant, avec sa couronne perchée tout en haut d’une longue tige. Le suc de ses fleurs, récolté dans des tuyaux de bambou, fournit un fondant délicieux et très nourrissant, tandis que ses fruits, des noix d’aspect noir à maturité, de taille moyenne, livrent une chair translucide, aqueuse et douce. Ces derniers, nous explique le guide, sont le symbole du Cambodge et à l’endroit où poussent côte à côte les deux variétés, il y faut voir le signe de l’amitié entre les deux peuples pacifiques. La frontière n’est pas loin non plus, elle est immatérielle.
Quitter le Sud Mékong, « c’est mourir un peu ». L’envoûtement et le dépaysement y sont plus forts qu’ailleurs et d’une nature mystérieuse. A chaque fois, on se dit au fond de soi qu’on part pour revenir.
Face au golfe de Siam, Hà Tiên est située à peu près de 8 kilomètres de la frontière cambodgienne. C’est aussi la ville marquant la fin de la longue marche vers le Sud entamée par les Vietnamiens. Avant d’être connue sous le nom Hà Tiên, elle fut appelée d’abord Phương Thành puis Mang Khảm dans le passé. Son essor économique a été dû à l’arrivée massive des Chinois, partisans de l’ancienne dynastie des Ming (ou Minh Hương en vietnamien) dont le plus connu était Mạc Cửu (Mac King Kiou).
Celui-ci, hostile à la nouvelle dynastie des Mandchous (Qing) et quittant la Chine à l’âge de 17 ans, s’établît avec sa famille au Cambodge en 1671. Il fut nommé quelques années plus tard par le roi cambodgien comme chef de province de Mang Khảm. Grâce à sa générosité et à son talent commercial, il réussît à transformer Mang Khảm en une ville portuaire florissante et animée dans cette région. Pour contrer l’ambition des Siamois, il avait besoin de la protection des Vietnamiens, en particulier celle des seigneurs Nguyễn au détriment des Cambodgiens. Ceux-ci ont accepté de lui conférer le titre de commandant des troupes (tổng binh) de cette région. Dès lors, Mang Khảm fit partie du territoire vietnamien et changea de nom en devenant Hà Tiên. Selon la légende, on vit apparaître sur le fleuve, la ballade des Immortelles (Hà c’est le fleuve en vietnamien). C’est aussi la raison du choix de ce nom. Hà Tiên devint quelques années plus tard le point de départ de la conquête des districts cambodgiens: Long Xuyên (Cà Mau d’aujourd’hui), Kiên Giang (Rạch Giá), Trán Giang (Cần Thơ), Trấn Di (Bạc Liêu) avec son fils Mạc Thiên Tứ. Ce dernier était un personnage hors du commun. Son destin était lié étroitement à celui de Nguyễn Ánh, futur empereur de la dynastie des Nguyễn. Il devint l’illustre rempart des Nguyễn contre les Tây Sơn. Avec les années de vicissitudes de Nguyễn Ánh, il dut se réfugier en Thailande avec toute la famille et son adjoint Tôn Thất Xuân, l’un des oncles de Nguyễn Ánh. Pour semer le doute chez les Siamois, les Tây Sơn n’hésitèrent pas à falsifier les documents et à les rendre responsables d’un complot ourdi contre le roi siamois Trịnh Tân (Phraya Tak Sin).
Toute sa famille fut exécutée ainsi que Tôn Thất Xuân. Pour préserver son honneur et sa fidélité, il se suicida en septembre 1780. Mạc Thiên Tứ était aussi un grand poète de son temps. Il a rendu célèbre Hà Tiên par son volume de poèmes intitulé « Hà Tiên Thập vịnh » vantant la beauté de ses sites naturels et merveilleux.
Ce volume continua à grossir dans les années suivantes avec l’ajout de 10 poèmes écrits par chacun des 31 poètes faisant partie du club des poètes « Chiêu Anh Các » crée sous l’initiative de Mạc Thiên Tứ. Cela a constitué en tout 320 poèmes auxquels Nguyễn Cư Trinh ajouta les dix derniers poèmes pour donner une valeur inestimable à ce volume qui continue de se transmettre à la postérité.
Hà Tiên
On n’oublie pas non plus son célèbre poème en Six-Huit pour taquiner une jeune fille de Quãng Nam (Centre du Vietnam) déguisée en un jeune étudiant participant à la soirée de la fête de l’illumination.
En voyant ce jeune homme, il n’hésite pas à lui adresser les quatre vers suivants :
Bên kia sen nở nhiều hoa
Người khen hoa đẹp nõn nà hơn em
Trên bờ em đứng em xem
Mọi người sao bỗng không thèm nhìn hoa
De l’autre côté, le lotus a beaucoup de fleurs
La personne qui les admire est plus jolie que vous.
Sur terre, vous continuez à les admirer
Tout le monde ne s’intéresse pas à admirer votre « fleur »
Sans hésitation, celui-ci lui réplique promptement par les 4 vers suivants:
Mặt ao sen nở khắp
Trông hoa lẫn bóng người
Trên bờ ai đứng ngắm
Sao chẳng thấy hoa tươi?
La surface de la mare est remplie de fleurs de lotus
On y trouve à la fois celles-ci et les ombres des gens
Sur terre, quiconque est en train de les admirer
Pourquoi ne trouve –t- on pas une belle fleur ?
Cet échange poétique lui a permis d’avoir la sympathie et de découvrir que ce jeune étudiant n’était qu’une fille déguisée en garçon pour éviter les pirates, venue du Centre du Vietnam en suivant son père pour faire le commerce et portant le nom Nguyễn Thi Xuân. Mạc Thiên Tứ la prît plus tard comme femme de second rang. Mais cette dernière a failli mourir à cause de la jalousie de sa femme. Elle fut obligée de se retirer dans un pagodon pour finir ses derniers jours. Avant son décès, elle a laissé un poème montrant sa pureté et sa noblesse dans un monde nauséabond et rempli de turpitudes en la comparant à une fleur de lotus:
Vươn khỏi bùn nhơ thoát vươn lên
Phỉ lòng trong trắng giữa thiên nhiên
Xuân thu đậm nhạt bao hồng tía
Ðừng sánh thanh cao với đóa sen.
Sortant de la boue, la fleur de lotus continue à s’épanouir.
Elle est contente d’être pure dans la nature
Son périanthe devient plus ou moins pourpre au fil du temps
Mais il ne faut pas comparer la noblesse à cette fleur.
Lotus
Galerie des photos
Cet échange poétique lui a permis d’avoir la sympathie et de découvrir que ce jeune étudiant n’était qu’une fille déguisée en garçon pour éviter les pirates, venue du Centre du Vietnam en suivant son père pour faire le commerce et portant le nom Nguyễn Thi Xuân. Mạc Thiên Tứ la prît plus tard comme femme de second rang. Mais cette dernière a failli mourir à cause de la jalousie de sa femme. Elle fut obligée de se retirer dans un pagodon pour finir ses derniers jours. Avant son décès, elle a laissé un poème montrant sa pureté et sa noblesse dans un monde nauséabond et rempli de turpitudes en la comparant à une fleur de lotus:
Vươn khỏi bùn nhơ thoát vươn lên
Phỉ lòng trong trắng giữa thiên nhiên
Xuân thu đậm nhạt bao hồng tía
Ðừng sánh thanh cao với đóa sen.
Sortant de la boue, la fleur de lotus continue à s’épanouir.
Elle est contente d’être pure dans la nature
Son périanthe devient plus ou moins pourpre au fil du temps
Mais il ne faut pas comparer la noblesse avec cette fleur.
Mausolées de Mạc Cửu et de sa famille
Quand on évoque Hà Tiên, on n’oublie pas de penser à Mạc Cửu et à son fils Mạc Thiên Tứ car c’est grâce à eux que le Viêt-Nam réussit à achever sa longue marche vers le Sud. Rien n’est plus étonnant de voir l’attachement profond et le respect que les Vietnamiens ont réservé à Mạc Cửu et à sa famille par le biais de son temple à Hà Tiên

Deuxième partie
Contrairement aux Japonais, les Chinois ont connu Hội An depuis longtemps, à l’époque où cette ville appartenait encore au Champa. Ils étaient venus en bateaux pour y chercher du sel, d’or et de cannelle mais ils avaient besoin de se ravitailler aussi en bois de chauffage et en eau potable car Hội An se trouvait sur leur route maritime. Celle-ci était la route de la soie à travers l’océan. Les vaisseaux marchands arabes et chinois avaient l’habitude de fréquenter, vers le 8ème siècle après J.C., les côtes de la Chine et de l’Asie du Sud-Est. Avant de s’établir à Hội An, les commerçants chinois ont pénétré en nombre limité dans les bras du fleuve Thu Bồn pour construire leurs premiers quartiers soit au port Trà Nhiêu soit à l’embouchure Thanh Hà. Puis survint la menace fréquente de la piraterie japonaise sur les côtes chinoises allant de Shangai jusqu’à l’île de Hainan. En prenant prétexte de cette menace, les empereurs des Ming commencèrent à interdire toutes les communications maritimes excepté l’Asie du Sud Est à partir 1433. Cette politique fut connue en vietnamien sous le nom « Thốn Bản Bất Hạ Bản (Pratiquer la politique de la porte fermée). Malgré cela, les Chinois avaient besoin d’un certain nombre de marchandises de première nécessité. Cela les amenait à se procurer ces produits en Asie du Sud Est, en particulier à Hội An. Il fallait attendre deux événements importants dans la deuxième moitié du XVIIème siècle pour que la communauté chinoise devînt importante à Hội An. D’abord l’avènement des Qing (Mandchous) en Chine provoqua l’exode et l’installation des réfugiés chinois au Vietnam (y comprise la ville Hôi An). En 1679, de nombreuses embarcations des partisans de la dynastie déchue accostèrent Đã Nẵng et Hội An.
Face à l’ampleur de l’exode, le gouverneur Nguyển Phúc Tần, très expéditif en affaires, n’hésita pas à proposer aux partisans des Ming dirigés par les deux généraux Dương Ngạn Địch et Hoàng Tiến de s’installer dans la basse Cochinchine (Mỹ Tho, Thủy Chân Lạp) et de défricher des terres incultes, ce qui lui donna l’occasion d’agrandir son territoire et d’éviter un affrontement éventuel avec une armée décimée comprenant 50 embarcations et 3000 soldats. Puis il permit aux nouveaux réfugiés chinois de fonder Minh Hương (village des Ming) dans le but de remonter leur moral et de leur rappeler qu’ils étaient toujours les partisans émigrés des Ming.

Quartier français ( Rue Nguyễn Thái Học)
Phần thứ nhì
Ngược lại với người Nhật, người Hoa biết Hội An từ lâu từ thời mà vùng nầy còn thuộc về vương quốc Chămpa. Họ đến đây để mua muối, vàng và quế và để dự trữ củi và nước vì Hội An nằm trên con đường biển của họ mà họ thường gọi là con đường tơ lụa trên biển Đông. Người Hoa và người Á Rập hay thường dùng con đường nầy để dọc theo các bờ biển của Trung Hoa và Đông Nam Á vào thế kỷ thứ 8 sau Công Nguyên. Trước khi ở Hội An, thường thấy một số ít thương gia Hoa định cư ở nhánh sông Thu Bổn hay ở bến cảng Trà Nhiêu hay là cửa sông Thanh Hà. Trước sự đe dọa thường xuyên của các cướp biển người Nhật dọc theo bờ biển Trung Hoa đến đảo Hải Nam, các vua chúa nhà Minh mới ra chỉ thị vào năm 1433 cấm các cuộc giao tiếp đường biển chỉ trừ Đông Nam Á. Đó là chính sách hải cấm với khẩu hiệu là “Thốn Bản Bất Hạ Hải” áp dụng với Nhật Bản. Tuy nhiên người Hoa vẫn cần dùng các thương phẩm cần thiết nên họ phải tìm ở Đông Nam Á nhất là ở Hội An.
Có hai biến cố quan trọng về sau, vào giữa thế kỷ 17 khiến cộng đồng người Hoa trở thành yếu tố chính ở Hội An. Đó là sự sụp đổ triều đại nhà Minh khiến có một cuộc di tản và định cư đáng kể của người Hoa ở Việtnam (luôn cả ở Hội An). Rồi vào năm 1679, có nhiều thuyền của thành phần theo nhà Minh đến Đà Nẵng và Hội An. Để tránh sự đối đầu có thể xảy ra với 3000 quân lính được trang bị vũ khí đầy đủ và 50 chiếc thuyền của các thành phần theo nhà Minh do hai tướng Dương Ngạn Địch và Hoàng Tiến chỉ huy và mở rộng thêm bờ cỏi Vietnam với những vùng đất hoang vu ở Chân Lạp (Cao Miên), chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần) rát khéo léo và khôn ngoan đề nghị họ nên định cư ở vùng Nam Bộ (Mỹ Tho, Thủy Chân Lạp) và cho phép họ thành lập các làng Minh Hương để tưởng nhớ triều đại Minh và giúp họ phấn khởi trong việc định cư.

[Two part]
Unlike the Japanese, the Chinese have known Hội An for a long time, back when this city still belonged to Champa. They came by boat to seek salt, gold, and cinnamon but also needed to replenish supplies of firewood and drinking water because Hội An was on their maritime route. This was the silk route across the ocean. Arab and Chinese merchant ships were accustomed, around the 8th century AD, to frequent the coasts of China and Southeast Asia. Before settling in Hội An, Chinese merchants entered in limited numbers into the arms of the Thu Bồn River to build their first quarters either at Trà Nhiêu port or at the Thanh Hà estuary. Then came the frequent threat of Japanese piracy on the Chinese coasts from Shanghai to Hainan Island. Using this threat as a pretext, the Ming emperors began to prohibit all maritime communications except with Southeast Asia from 1433. This policy was known in Vietnamese as « Thốn Bản Bất Hạ Bản » (Practicing the closed-door policy). Despite this, the Chinese needed a certain number of essential goods. This led them to procure these products in Southeast Asia, particularly in Hội An.
It was necessary to wait for two important events in the second half of the 17th century for the Chinese community to become significant in Hội An. First, the rise of the Qing (Manchus) in China caused the exodus and settlement of Chinese refugees in Vietnam (including the city of Hội An). In 1679, many boats of supporters of the fallen dynasty landed in Đà Nẵng and Hội An.
Faced with the scale of the exodus, the governor Nguyễn Phúc Tần, very efficient in affairs, did not hesitate to propose to the Ming supporters led by the two generals Dương Ngạn Địch and Hoàng Tiến to settle in lower Cochinchina (Mỹ Tho, Thủy Chân Lạp) and to clear uncultivated lands, which gave him the opportunity to expand his territory and avoid a possible confrontation with a decimated army comprising 50 boats and 3,000 soldiers. Then he allowed the new Chinese refugees to found Minh Hương (village of the Ming) in order to raise their morale and remind them that they were still the émigré supporters of the Ming.