Embrasser la lune (Ôm trăng nhớ tình)

 

Ôm trăng cạn chén đêm thâu
Tựa như Lý Bạch mấy bầu mới say
Ôm tình chẳng được bao ngày
Để tình quyến rủ đoạt đài thân ai
Ôm trăng nào biết tàn phai
Giật mình thức tỉnh mới hay trăng tàn
Ôm tình nào biết phủ phàng
Ngờ đâu tỉnh lại muộn màng xót xa
Ngậm ngùi thương xót thân ta
Tri âm với rượu bôn ba cỏi đời
Rượu ngon dễ kiếm góc trời
Còn tình với nguyệt muôn đời tìm đâu.

Embrasser la lune, vider sa coupe au milieu de la nuit
Comme Li Bai, on ne s’enivre qu’après quelques coupes
Embrasser l’amour pour un court instant
On laisse  l’amour séduire et maltraiter son corps
Embrasser la lune, sans savoir qu’elle va s’éteindre
En se réveillant  en sursaut, on réalise que la lune a disparu
Embrasser l’amour,  on est inconscient de sa cruauté
En se réveillant trop tard on s’apitoie sur son sort
Et on a pitié de son corps
Etant l’âme sœur avec le vin, on parcourt le monde
Avec le bon vin on peut l’avoir au bout  du monde
Quant à l’amour et la lune, on ne les trouve nulle part.

Embracing the moon, emptying one’s cup in the middle of the night
Like Li Bai, one only gets drunk after a few cups
Embracing love for a brief moment
We let love seduce and mistreat our body
Embracing the moon, unaware that it will fade
Waking up with a start, we realize the moon has disappeared
Embracing love, we are unconscious of its cruelty
Waking up too late, we pity our fate
And we feel sorry for our body
Being soulmates with wine, we travel the world
With good wine, we can have it at the ends of the earth
As for love and the moon, we find them nowhere.

[RETURN]

 

 

 

 

 

 

 

 

Argot vietnamien (Tiếng lái)

Nói lái

Version française

Không biết nói lái  nó có từ bao giờ ở  Việt Nam nhưng ở thời Pháp thuộc được  nhà nghiên cứu của trường học Pháp ở Viễn Đông  M.A. Chéon nhận định rằng  nói lái là một ngôn ngữ được sáng tạo « một cách máy móc (thuộc lòng) » và giã tạo từ việc hỗn hợp hoặc đảo ngược các yếu tố của hai hoặc ba đơn âm liên tiếp trong một câu. Nó được xem như một lối chơi chữ thực sự và có đặc điểm là trong cuộc  đàm thoại. Khi một người nói ra một đường thì  người  nghe phải hiểu một nẻo, một cách khác theo một qui ước ngầm chỉ có một giới nào trong nghề nghiệp hay bạn bè mới thấu hiểu mà thôi. Nay nó trở thành thông dụng của dân gian, mang tính đùa giỡn và bông lơn trong nhóm bàn bè thân thiết chẳng hạn như khoái ăn sang (sáng ăn khoai), chà đồ nhom (chôm đồ nhà), hạ cờ  tây (hạ cầy tơ) vân vân…

Từ những từ thanh nhã nó có thể trở thành những từ thô tục mang tính cách vô tư hay cố ý để trêu nghẹo hay chọc quê người khác  nhất là về tên tuổi mà cha mẹ đặt ra cho con rất đẹp  như Cảnh hu, Thu đạm, Thái đức  vân vân.Trong câu, đôi khi nó không  có nghĩa chi cả mà một khi đảo ngược lại thì nó có nghĩa  như  mán cài  trở thành  cái màn hay là ngược lại như đơi chi lại thành đi chơi.

Theo nhà nghiên cứu Pháp M.A. Chéon,  người Việt hay có thói quen tách ra một cách dễ dàng các yếu tố (phụ âm và nguyên âm) của các từ. Chính nhờ  dựa trên sự tách rời nầy cả qui tắc của nói lái  được thiết lập. Cái từ đầu tiên nó cho từ  sau mượn phần kết  và đổi lại nó lấy lại phần kết của từ sau.

Như vậy  đi chơi được chia thành đ+i và ch+ơi và trở thành đơi chi bằng cách đảo ngược. Đây là qui luật rất đơn giản nhưng nó  cũng có  qui luật rất phức tạp mà ta hay thường thấy trong cách nói lái với ba nguyên tắc dưới đây:

Cách thức thứ nhất:

1°) Hoán đổi (đảo ngược) khuôn âm, trước ra sau, sau ra trước.
2°) Giữ nguyên hai thanh (dấu) của hai âm gốc.

Thí dụ: cờ tây  thành cầy tơ. Cách thức  nầy nghe êm tai và thông dụng nhất. Cờ và cầy vẫn giữ hai dấu huyền (bằng)  của hai âm gốc  cũng như tây và tơ (không dấu).

Cách thứ nhì:

1°) Hoán đổi trọn âm tiết (syllabes).
2°) Giữ nguyên hai thanh (dấu) của hai âm gốc.

Thí dụ: đấu  tranh thành tránh đâu. Cách thức nầy không nghe êm tai và ít được sử dụng.

Cách thứ ba:

1°) Hoán đổi khuôn âm.
2°) Hoán đổi cả hai thanh (dấu)  của hai âm tiết.

Thí dụ: khó đi thành khi đó. Cách thức nầy gượng ép không xuôi tai và cũng ít được sử dụng.

Theo nhà văn Phụng Nghi, trong một từ có 3 hoặc 4 âm tiết, muốn nói lái ta giữ nguyên những âm nối kết (kết tự) hoăc những âm có nghĩa phụ. Những âm tiết có nghĩa chánh được hoán đổi theo ba cách thức ở trên.

Thí dụ: khoái ăn sang (sáng ăn khoai)
cái trâm em cài->  (cái trài em câm)-> (cái chai em cầm)
làm sương cho sáo->  (làm sao cho sướng)
cầu gia đạo  (cạo da đầu)

Nói lái thường dùng có  hữu ý phản ảnh một thực trạng của xã hội như:

Ban lãnh đạo (Bao lãnh đạn)

Thủ tục đầu tiên tức là  thủ tục tiền đâu (tức là hối lộ).

Chiều 30 Tết thầy giáo tháo giầy đi chợ, mồng một giáo chức (giức cháo) dứt  cháo  vui Xuân. Trong câu nầy thì có sự châm chước trong lỗi chính tả như hai chữ  giức và dứt.

Với đặc điểm « biến tục thành thanh », tiếng lái là một thủ pháp đi vào các loại văn chương bác học và  các câu đối dân gian.  Nó  còn châm biến  mĩa mai  như  bài thơ  kiếp tu hành của Hồ Xuân Hương:

Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Vị gì một chút tẻo tèo teo (quá nhỏ)
Thuyền từ muốn về Tây trúc
Trái gió phải nên phải lộn lèo

hay châm chước  các phát âm hỏi ngã  trong bài thơ «Hè đợi tình nhân» của Nguyễn Khoa Vy :

Nực cổi chỉ ra nỗi cực lòng
Dòng châu lai láng đĩa dầu chong
Khó đi tìm hiểu nhau khi đó
Công khó chờ ai biết có không

Ta cũng thường nghe  câu đố nói lái như sau :

-Chè gì không ngán chỉ ngán chè ghim (chìm nghe)

-Bằng ngón tay trên bàn Phật
 Tụng kinh rồi búng cánh bay xa (bánh cúng)

-Cái bông trên cành, cái trái cận mây (cây mận)

-Cục đo đỏ bỏ vô giường (Cục đường bỏ vô giỏ)

hay trong các câu đối dân gian:

Con mèo cái nằm mãi trên mái kèo
Con cá đối nằm trong cối đá
Con chim mỏ kiến đậu trên miếng cỏ

Có những  kiểu nói lái, lúc ban đầu người nghe tưởng tiếng tây, tiếng tàu gì đó  gây ra sự  khó hiểu, làm cho người nghe  ngớ ngẫn một hồi  trước khi  vỡ lẽ ra  bật  tức cười thú vị như

Quýt xơ măng bông sên (Quăng xơ mýt (mít) bên sông).

Chúng mình đập chuông nhé?->Chúng mình đuông chập nhé ? ->Chúng mình đuông chậm nhé ?-> ? Chúng mình đâm  chuột  nhé?-> Chúng mình đâm tí nhé ?-> Chúng mình đi tấm nhé?

On ne connait pas exactement la date d’apparition de la contrepèterie au Vietnam, mais durant la période coloniale française, elle a été découverte par un chercheur de l’École française d’Extrême-Orient, M.A. Chéon. Ce dernier  soutient qu’elle  est un langage de formation mécanique et artificielle  à partir du mélange ou de l’inversion d’éléments de deux ou trois monosyllabes consécutifs dans une phrase. Il est considéré comme un véritable gymnastique linguistique  et il est caractéristique dans la conversation.   Quand quelqu’un dit quelque  chose, celui qui lui écoute doit  savoir l’interpréter d’une autre manière  selon une convention tacite que seul un groupe restreint de gens  dans la profession ou  dans  le cercle d’amis peut comprendre. Aujourd’hui, il est devenu populaire parmi la population  et il est  utilisé  dans le but de plaisanter de manière ludique entre les amis proches, comme « khoái ăn sang  (éprouver le plaisir de manger dans l’abondance)» (sáng ăn khoai «manger des patates douces au petit-déjeuner »), (chà đồ nhom « frotter les objets en aluminium »)( chôm đồ  nhà « voler des choses à la maison »), (hạ cờ  tây «descendre le drapeau français ») (hạ cầy tơ « manger la viande du chien »)

Des mots d’une extrême élégance peuvent devenir des mots vulgaires dans l’insouciance ou dans l’intention de  taquiner quelqu’un  ou de se moquer des autres, en particulier des beaux noms que les parents ont donnés  à leurs enfants tels que Cảnh hu, Thu đạm, Thái Đức, etc. Parfois dans un énoncé, aucun sens n’est trouvé  mais lorsqu’on y inverse les mots, cela  lui donne  un sens  comme « man cái » devient cái màn (rideau)  ou vice versa comme đơi chi devient đi chơi (balader).

Selon le chercheur français M.A. Cheon, les Vietnamiens ont souvent l’habitude de séparer facilement les éléments (consonnes et voyelles) des mots. C’est sur cette séparation que s’établit toute la règle du jeu de mots. Le premier mot prête sa terminaison finale au mot suivant et en retour, il reprend la terminaison finale  du mot suivant.

Ainsi, đi chơi (balader)  est divisé en d+ i et devient đơi chi par inversion. C’est une règle très simple mais elle comporte aussi des règles très complexes que l’on retrouve souvent dans les jeux de mots avec les trois principes ci-dessous.

 Première méthode:

1°) Échanger (inverser) le motif sonore, d’avant en arrière et d’arrière en avant.

2°) Conserver les deux tons (accents) des deux sons d’origine.

Exemple : cờ  tây (drapeau français) devient  cầy tơ  (un jeune chien). Cette méthode s’avère harmonieuse et plus fréquemment rencontrée. Cờ et cầy conservent toujours les deux tons (bằng) des deux sons originaux comme tây et tơ.

Deuxième méthode.

1°) Échanger complètement des syllabes.

2°) Conserver les deux tons (accents) des deux sons d’origine.

Par exemple: đấu tranh (lutter) devient tránh đâu (éviter). Cette méthode ne semble pas agréable à l’écoute  et elle est rarement utilisée.

Troisième méthode.

1°) Inverser le motif sonore.

2°) Échanger les deux tons (accents) de deux syllabes.

Par exemple : khó đi (difficile d’aller) devient khi đó (à cet instant). Cette méthode n’est pas non plus agréable à l’écoute et son emploi est aussi rare.

Selon l’écrivain Phụng Nghi, dans un mot de 3 ou 4 syllabes, si on veut le dire « à l’envers », on doit  garder les sons de liaison (conjonctions) ou les sons à sens secondaire. Les syllabes ayant le sens correct sont échangées des trois manières ci-dessus.

Exemple:  khoái ăn sang (éprouver le plaisir de manger dans l’abondance)» (sáng ăn khoai «manger des patates douces au petit-déjeuner »)

 cái trâm em cài (la broche que je porte)->  (cái trài em câm)-> (cái chai em cầm « la bouteille que je tiens)

làm sương cho sáo (faire la rosée pour la flûte : aucun sens) ->(làm sao cho sướng “comment me rendre heureux »)

cầu gia đạo (prière en famille)-> (cạo da đầu « rasage du cuir chevelu »)

Ce jeu de mots est souvent utilisé dans l’intention de refléter une réalité sociale telle que

 Ban lãnh  đạo « équipe dirigeante »->Bao lãnh đạn (étui à cartouches »)

Thủ tục đầu tiên « la première procédure à prendre »->   (thủ tục tiền đâu« procédure monétaire (corruption)» ).

L’après-midi du 30 du Têt, les enseignants enlèvent leurs chaussures pour aller au marché. Le premier jour du Têt, les enseignants terminent leur potage et célèbrent le printemps. Dans cet énoncé, il y a une certaine tolérance dans les fautes d’orthographe telles que les deux mots « giức (aucun sens) » et «dứt (cesser)».

Avec la caractéristique de « transformer le « vulgaire » en « distingué », la contrepèterie  est une technique qui apparaît dans la littérature savante et les distiques populaires.  Elle est également satirique et ironique comme le poème intitulé  « La vie monastique » de Hồ Xuân Hương:

Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Vị gì một chút tẻo tèo teo (quá nhỏ)
Thuyền từ muốn về Tây trúc
Trái gió phải nên phải lộn lèo.

La vie monastique  est chargée  de fardeaux.
Quel  petit goût  (trop petit)?
Le bateau veut retourner vers l’Inde
Le vent  contraire nous oblige de nous retourner.

ou ne pas tenir en rigueur la prononciation des tons montants et descendants dans le poème « L’été attend l’amant » de Nguyễn Khoa Vy:

Nực cổi chỉ ra nỗi cực lòng
Dòng châu lai láng, đĩa dầu chong
Khó đi tìm hiểu nhau khi đó
Công khó chờ ai biết có không

Le débarras de la chaleur n’est que le désespoir
Les larmes coulent abondamment sur l’assiette de l’huile de la veilleuse.
Il est difficile de se connaître à cet instant
L’effort d’attendre quelqu’un, quiconque le sait ?

On est habitué à écouter les énigmes suivants:

Je ne me dégoûte pas  des compotes sauf chè ghim (chìm nghe « bateau coulé »)

-Juste à la taille d’un doigt sur l’autel de Bouddha

Une fois terminée la prière, le gâteau  qui lui est offert  s’envole très loin (búng cánh « bánh cúng »)

-Cái bông trên cành, cái trái cận mây (cây mận).

La fleur étant sur la branche, le fruit se trouve  tout proche du nuage (cận mây) càd sur le « cây mận (prunier)»)

-Le morceau de couleur rougeâtre est sur le lit (Cục đo đỏ bỏ vô giường)  (Cục đường bỏ vô giỏ « le morceau de sucre est dans le panier »)

ou  à retrouver la contrepèterie dans  les sentences parallèles suivantes:

Con mèo cái nằm mãi trên mái kèo
Con cá đối nằm trong cối đá
Con chim mỏ kiến đậu trên miếng cỏ.

La chatte repose éternellement sur la charpente du toit.
Le mulet repose dans le mortier de pierre.
Le pivert se perche sur une parcelle d’herbe.

Il existe certains jeux de mots de la contrepèterie auxquels  l’auditeur pense avoir affaire comme des mots occidentaux ou chinois lors de son écoute, ce qui  lui provoque d’abord une confusion et le laisse  abasourdi pendant un  moment avant de s’en rendre compte et d’éclater de rire. C’est le cas de l’exemple suivant:

Quýt xơ măng bông sên (Quăng xơ mýt (mít) bên sông « jeter les filaments du jacquier au bord du fleuve »).

Chúng mình đập chuông nhé?->Chúng mình đuông chập nhé ? ->Chúng mình đuông chậm nhé ?-> ? Chúng mình đâm  chuột  nhé?-> Chúng mình đâm tí (tý) nhé ?->( Chúng mình đi tắm nhé? « Nous allons nous baigner »)

 

Bibliographie:

 

Phụng nghi:100 năm phát triển tiếng Việt.NXB Văn Nghệ 1999.
Lê Trung Hoa, Hồ Lê : Thú chơi chữ. Nhà xuất bản xã hội.
A. Chéon : Argot annamite. EFEO,  année 1905, vol 5, no 1
Hoàng văn Hành : Tự điển tự lái tiếng Việt.NXB Văn hóa Sàigòn 2006

Souriez-vous même si la vie est comme ça

Version française
Version anglaise

Rất tiếc là nhà xuất bản Hồng Đức ở Việt Nam không in lại các quyễn sách của Phật sống Gyatso Rinpoche  của chùa Zhaga ở Tây Tạng. Mình có dịp mua được nguyên bộ cũa ngài viết mà nhà xuất bản Hồng Đức in lại nên mình không những thích thú mà nhận thấy ngài có một triết lý quá sâu sắc, giúp chúng ta vượt những khó khăn trong cuộc sống hằng ngày bằng cách buông bỏ những gì không thuộc về mình. Chỉ vậy thôi mà ta sẽ có hạnh phúc và có niềm vui trọn vẹn trong cuộc sống. Tất cả  đều nằm trong tay ta cả. Ta không có được  tại vì ta đòi hỏi quá nhiều và  không thương bản thân mình. Đừng để tâm trạng nó điều khiển chúng ta, mà cần trở về với những gì thuộc về ta như niềm vui và hạnh phúc đấy.

Đối với Gyatso Rinpoche, niềm vui là việc của bản thân. Nó là nhịp điệu của trái tim đến từ cảm giác mãn nguyện mà bản thân ta cảm nhận được và đến từng những cảm giác quyến luyến đối với cuộc sống.Chỉ cần ta muốn là ta có nó ở mọi lúc mọi nơi. Ta cần học cách sống vui vẻ, ta làm sao giữ được cho minh tâm thái lạc quan để cảm giác dễ chịu mỗi ngày, đấy là hạnh phúc. Chớ chỉ  mãi lo lắng đến những việc không may đến ngày mai và chưa thoát đươc sự ưu phiền của ngày hôm qua thì làm sao ta vui vẻ được ngày nay ? Tâm trạng của ta làm sao có thể thanh tịnh được ngày hôm nay nếu ta cứ đua đòi những điều ta không thể có hay không thể thiết thực  được. Chính đó là sự đau khổ của ta khởi nguồn sự không đầy đủ trong cuộc sống hằng ngày.

Đây là sự ngẫm nghĩ của Phật sống Tây Tạng  Gyatso Rinpoché  về niềm vui trong quyển có tựa đề «  Mĩm cười dù cuộc đời là thế »

Il est  regrettable d’apprendre que l’éditeur Hong Duc au Vietnam ne réimprime plus les bestsellers du Bouddha vivant  Gyatso Rinpoché de la pagode  Zhaga au Tibet. J’ai  la chance  de les acquérir au bon moment.  Je les  apprécie tellement. Je me suis rendu compte qu’il a une philosophie profonde permettant de nous aider à surmonter les difficultés de la vie quotidienne en nous demandant de laisser tomber tout ce qui ne nous appartient pas.  C’est tout ce qu’il  nous  demande pour retrouver la joie de vivre dans la vie.  Normalement,  tout est  dans nos mains.  Nous ne l’obtenons pas parce que nous voulons le réclamer plus et nous  n’aimons pas nous-mêmes. Il ne faut pas laisser notre état d’âme nous  contrôler mais il faut nous ressaisir avec ce  qui nous  appartient comme la joie et le bonheur.

Pour Gyatso Rinpoché, la joie de vivre est une affaire personnelle. C’est le rythme du cœur provenant du sentiment de satisfaction que nous ressentons et de celui d’attachement à la vie. Si nous le voulons, nous  l’avons  partout et tout le temps. Nous devons apprendre à vivre heureux et à garder une attitude optimiste pour nous sentir bien à l’aise chaque jour, c’est ça le bonheur. Si  nous continuons à nous soucier seulement des malheurs de demain et  à penser aux chagrins d’hier, comment pouvons-nous vivre heureux aujourd’hui ? Comment notre esprit peut-il être en paix aujourd’hui si nous continuons à nous efforcer d’obtenir des choses qui ne sont pas à notre portée ou qui ne sont pas  réalisables? C’est là notre souffrance commençant à partir de l’insuffisance  dans notre vie quotidienne.

C’est la réflexion de Gyatso Rinpoché au sujet de la joie de vivre dans le livre intitulé « Souriez-vous-même si la vie est comme ça ».

It is regrettable to learn that the publisher Hong Duc in Vietnam no longer reprints the bestsellers of the living Buddha Gyatso Rinpoche from the Zhaga pagoda in Tibet. I was fortunate to acquire them at the right time. I appreciate them so much. I realized that he has a profound philosophy that helps us overcome the difficulties of daily life by asking us to let go of everything that does not belong to us. That is all he asks of us to regain the joy of living. Normally, everything is in our hands. We do not obtain it because we want to claim more and we do not love ourselves. We must not let our state of mind control us, but we must regain control with what belongs to us, like joy and happiness.

For Gyatso Rinpoche, the joy of living is a personal matter. It is the rhythm of the heart stemming from the feeling of satisfaction we experience and the attachment to life. If we want it, we have it everywhere and all the time. We must learn to live happily and maintain an optimistic attitude to feel comfortable every day; that is happiness. If we continue to worry only about tomorrow’s misfortunes and think about yesterday’s sorrows, how can we live happily today? How can our mind be at peace today if we keep striving to obtain things that are beyond our reach or unattainable? This is where our suffering begins, stemming from insufficiency in our daily lives.

This is Gyatso Rinpoche’s reflection on the joy of living in the book titled « Smile at Yourself Even if Life Is Like This. »

Le crapaud (Con cóc)

Con cóc (The toad)

Version française

Version anglaise

Lúc khai quật tìm kiếm các trống đồng ở miền bắc Việt Nam vào thế kỷ 19  thì các nhà khảo cổ Pháp và Việt tìm  thấy trên mặt của vài trống  lạị có 4 tượng  cóc (hay nhái)  được cách điệu  và thường đi ngược với kim đồng hồ.Theo sự nhận xét của các nhà khảo cổ đây là các trống đồng có liên quan  đến với những nông dân của nền văn hoá trồng lúa nước như người Việt cổ. Con cóc (hay nhái) cũng được thấy thường ở trên trống đồng nhất là thuộc loại Heger 1 thời kỳ muộn (thế kỷ 1 và 2 sau công nguyên). Các nhà khảo cứu người Hoa xem các con cóc  (hay nhái) nầy dùng để trang trí cho đẹp mặt trống đồng chớ không có ý nghĩa gì sâu xa cả. Ngược lại, với người dân Việt, sự hiện diện của nó trên mặt trống  thì  đây là các trống để cầu khẩn thần mưa cho màu mỡ đất đai và thụ hoạt thuận lợi. Theo phong tục của người dân việt thì có sự liên hệ mật thiết giữa các con vật nầy với ông Trời qua câu chuyện cổ tích hóm hỉnh nên mới có câu tục ngữ như sau:

Cóc nhái là cậu ông Trời
Ai mà đánh nó ông Trời đánh cho.

Các con cóc, nhái  nầy khi chúng nó kêu lên  thì  báo hiệu trời sẻ sấp mưa khiến chúng nó trở thành những vật linh thiêng. Chúng được đưa vào thế giới tín ngưỡng của các dân tộc ở miền nam Trung Quốc như đồng bằng Bắc Bộ, Quảng Đông và Quảng Tây  và trở thành từ đó một chủ đề riêng: tín ngưỡng thờ động vật. Chúng còn thường được nhắc đến trong các ca dao hay những câu từ ngữ mang ý nghĩa xâu xa như

Ăn cóc bỏ gan, ăn trầu nhả bã
Ăn cơm lừa thóc, ăn cóc bỏ gan

để nói lên sư thận trọng và kinh nghiệm trong việc ăn uống vì gan của cóc có chứa nhiều chất độc.

Cóc còn biểu hiện của cuộc sống tự lập, không dựa vào ai cả.

Con cóc cụt đuôi
Ở bờ ở bụi
Ai nuôi mày lớn ?
Dạ thưa Thầy, con lớn mình ên

“Mình ên,” tiếng địa phương là một mình, một mình tự kiếm sống và trưởng thành.

Con ếch ám chỉ người dốt nát và có tầm nhìn hiểu biết kém nên mới có câu ca dao dưới đây:

Ếch ngồi đái giếng coi trời đất bằng vung.

cũng như nhà ngụ ngôn  Pháp nổi tiếng  Jean de la Fontaine  khiển trách  thậm tệ kẻ khoác lác trong chuyện « Con ếch muốn to bằng con bò ». Chúng ta hay thường  nghe nói « Ếch mọc lông nách » để  ám chỉ những kẻ tự phụ.

Ếch hay cóc đều là động vât lưỡng cư. Sau khi nở trứng  chúng là những con nòng nọc không tay hay chân cho đến khi trưởng thành, chỉ thở bằng mang và nhờ có một cái đuôi mà chúng dùng để bơi như cá. Môt khi trưởng thành, có  tứ chi và mất đuôi.  Để phân biệt ếch và cóc, động vật lưỡng cư có dáng ngắn, mập với chân nhỏ hơn cơ thể là cóc còn có dáng thanh mảnh với chân dài có khả năng là ếch. Ếch hay thường thích sống trong nước hay thích nhảy trên đất liền còn cóc thì không. Vã lại về kích thước của ếch thì có sự chênh lệch lớn giữa con  đực và con cái như ở nước ta  loài cái  có 10 cm nhưng loài  đực chỉ 3-4 cm nên lúc giao phối chúng bám chặc với nhau  và di chuyển, đẻ trứng ở những nơi có nước chảy khá mạnh. Trong những năm qua, các nhà khoa học Úc và  Việt  đã khám phá ra được nhiều loại ếch quá kỳ lạ. Một loài ếch biết bay mới thuộc chi Rhacophorus vừa được phát hiện ở rừng nhiệt đới  miền nam Việt Nam, chỉ cách xa thành phố Saigon một trăm cây số. Khả năng bay lượn của Rhacophorus helenae từ cây này sang cây khác đã bảo vệ con ếch bay này tránh  khỏi bất cứ thứ gì bò trên mặt đất. Nó sống chủ yếu trên tán cây (canopée). Với đôi chân và bàn tay hình cọ, nó bơi và bay trong không khí  theo lời tường thuật của nhà sinh học Úc Jodi Rowley. Còn có một loại khác được phát hiện tại khu bảo tồn thiên nhiên Pu Hoat, loài mới này được gọi là  Gracixalus Quangi, sống trong rừng ở độ cao từ 600 đến 1300 mét. Loai nầy nó biết  hót như chim  chớ  không phải quạ  quạ  như  các loại ếch khác và nó có nhiều tiếng kêu khác nhau.

Chử oa   trong tiếng nôm ta  dùng  chỉ con ếch và nhái. Còn cóc thì  ta gọi là thiềm thừ  được nói nhiều trong phong thủy. Còn các tranh  Đông Hồ thì  có một tấm tranh được gọi  là thầy đồ  cóc. Trên tranh có dòng chữ  « Lão Oa độc giảng« , có nghĩa là ông Ếch một mình giảng dạy. Đáng lý ra phải  nói Ếch nhưng trong dân gian không quen phân biệt nên gọi Cóc nhất là  hình con cóc thể hiện trên trống đồng và trên các  đồ vật thời Đồng Sơn vã  lại còn là cậu ông Trời. Ngụ  ý của bức tranh không phải  dùng để chỉ là thầy cóc đang ngồi dạy học mà muốn nhắc nhở cho hậu thế biết dân ta từ ngày xưa có chữ khoa đẩu, một  loại chữ ấy giống như con nòng nọc có đầu lớn, đuôi nhỏ.Vi vậy  trong tranh dù chỉ có  hiện diện của các sinh vật  nhưng chúng nó có  những hành động như con người. Có lẽ nghệ nhân khi vẽ tấm tranh muốn nhắn nhủ  điều gì cho hậu thế biết dân tộc ta cũng có chữ viết và nên nhớ  về  cội nguồn của dân tộc. Vì là chữ giống như con nòng nọc nên mới biến người thành ếch vì ếch là mẹ của con nòng nọc.

Nhắc  đến chữ Oa củng nên nhắc đến chuyến công du của sứ thần Mạc Đĩnh Chi  khi lúc ông sang Tàu dưới thời ngự trị của vua Nguyên Thế Tổ (Kubilai Khan). Ông được vua Nguyên Thế Tổ công nhận tài năng của ông và trao cho ông danh hiệu « Trạng Nguyên đầu tiên » (Lưỡng Quốc Trạng Nguyên) ở cả Trung Hoa và Việt Nam, khiến một số quan lại ganh tị. Một trong số người nầy cố tình làm bẽ mặt ông ta vào một buổi sáng đẹp trời bằng cách ví ông ta như một con chim bởi vì âm điệu đơn âm của ngôn ngữ, người dân Việt khi họ nói cho cảm giác người nghe như họ luôn luôn hót líu lo:

Quích tập chi đầu đàm Lỗ luận: tri tri vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri
Chim đậu cành đọc sách Lỗ luận: biết thì báo là biết, chẳng biết thì báo chẳng biết, ấy là biết đó.

Đây là một cách để khuyên Mạc Ðỉnh Chi nên khiêm tốn hơn và cư xử như một người đàn ông có phẩm chất Nho giáo (Junzi). Mạc Đỉnh Chi trả lời bằng cách ví anh nầy như một con ếch. Người Trung Hoa thường có thói nói to  và tóp tép lưỡi  qua tư cách họ uống rượu.

Oa minh trì thượng đọc Châu Thư: lạc dữ đọc lạc nhạc, lạc dữ chúng lạc nhạc, thục lạc.
Châu chuộc trên ao đọc sách Châu Thu: cùng ít người vui nhạc, cùng nhiều người vui nhạc, đằng nào vui hơn.

Đó là một cách để nói lại với người quan lại nầy nên có một tâm trí lành mạnh để hành xử một cách công bằng và phân biệt nghiêm chỉnh.

Theo đặc tính của đại tộc Bách Việt mà trong đó có tộc Lạc Việt thì các tộc nầy thích ăn sò hến và ếch. Chưa kể số lượng ếch dùng ở trong nước nhưng được biết ngày nay từ  2010–2019 Việt Nam đã cung cấp cho EU hơn 8400 tấn đùi ếch, trở thành nhà cung cấp đùi ếch lớn thứ hai  sau Nam Dương vào EU (theo tin Tia Sáng). Pháp nhập khẩu hơn 2.500 tấn đùi ếch từ nước ngoài mỗi năm để đáp ứng nhu cầu trong nước. Nhu cầu lên cao tại châu Âu đang gây rắc rối lớn cho các nước cung cấp vì  không biết có bao nhiêu con ếch được xuất khẩu trong các trại  nuôi ếch và bao nhiêu con còn lại trong tự nhiên.

Đây là mối lo ngại lớn nhất  của các nhà sinh học hiện nay vì ếch giữ  một vai trò cực kỳ quan trọng trong chuỗi thức ăn. Ếch vừa là thợ săn mà vừa  là con mồi. Nhờ có ếch mà  số lượng châu chấu và muỗi được giảm. Ếch là thuốc trừ sâu tự nhiên. Nếu ngày nào không còn  ếch  thì  phải dùng thuốc trừ  sâu  nhiều  hơn thì có  hại cho sức khoẻ  và môi trường. Theo cơ  quan Humance Society International, số lượng ếch ở Việt Nam đã giảm đáng kể trong những thập kỷ gần đây vì nó cũng là con mồi của con người. Nó không những là nguồn lợi đáng kể trong việc xuất khẩu mà còn là món ăn dân dã  ở nước ta nhất là thịt nó thơm như thịt gà nên được gọi là gà đồng.  Chổ nào có nước có sông ngòi là có sự hiện diện của ếch thì  có  các món đặc sản từ ếch như đùi ếch chiên giòn, ếch xào măng, ếch nấu cà ri, ếch xào chua ngọt, ếch xào xã ớt  vân vân.

 Ở miền tây Nam Bộ, vào cuối tháng 8, lúc mùa nước nổi  hay thường có thú vui giải trí là trò đi câu  hay soi bắt  ếch.  Lũ  ếch  thường tụ hợp ở những nơi  có nhiều côn trùng và sâu bọ. Chỉ  cần có cây trúc dài khoảng bốn năm mét, cước dài với mồi rồi thả mồi xuống các hang hay các vùng trũng nước. Khi có tiếng động thì phải nhanh tay giật mạnh cái cần trúc lên bờ vì ếch đã cắn câu. Đây là thú điền viên, một nghệ thuật câu ếch tinh vi và nhanh nhẹn của những  đứa trẻ sống ở miền tây. Còn soi ếch cần tránh làm ồn ào lúc trời lại tối và dùng  đèn pin soi  vào mắt ếch  thì nó lại ngồi im lìm trên bờ  không di chuyển còn không khi nghe tiếng động, nó  biến mất nhanh nhẹn dưới nước liền theo lời tường thuật của những kẻ rành đi bắt ếch đồng.

Lors de fouilles de tambours de bronze dans le nord du Vietnam au XIXème siècle, des archéologues français et vietnamiens ont découvert sur les faces de certains tambours de bronze quatre crapauds stylisés (ou grenouilles) se déplaçant souvent dans le sens inverse des aiguilles d’une montre. Selon les archéologues ces tambours en bronze sont liés étroitement aux agriculteurs de la culture du riz inondé comme les Proto-Vietnamiens. Les crapauds (ou grenouilles) sont également fréquemment trouvés sur les tambours de bronze, en particulier ceux du type Heger 1 tardif (1er et 2ème siècles après J.-C.). Les chercheurs chinois considèrent que ces crapauds (ou grenouilles) sont utilisés pour décorer les tambours de bronze et n’ont aucune signification particulière. Au contraire, pour le peuple vietnamien, leur présence sur la surface du tambour a pour but d’implorer  le génie  de la pluie de rendre  les terres plus fertiles et des  récoltes fructueuses. Selon la coutume vietnamienne, il existe évidemment un lien étroit entre ces amphibiens  et Dieu à travers un conte  humoristique. C’est pourquoi on a le proverbe suivant :

Le crapaud (ou grenouille) est l’oncle maternel de Dieu.
Celui qui ose le battre, Dieu le battra.

Lorsque ces crapauds et ces grenouilles coassent, ils  signalent qu’il est sur le point de pleuvoir, ce qui les rend en fait des animaux sacrés. Ils ont été introduits dans le monde religieux des peuples vivant au sud de la Chine comme ceux du delta de Tonkin, du Guangdong et du Guangxi et ils sont devenus désormais  un sujet à part entière  dans le culte des animaux. Ils sont souvent mentionnés dans des chansons folkloriques ou des expressions ayant des significations profondes.

Ăn cóc bỏ gan, ăn trầu nhả bã
Ăn cơm lừa thóc, ăn cóc bỏ gan

Lorsqu’on mange une grenouille, il faut jeter son foie. Lorsqu’on chique le bétel, il faut cracher les résidus ;
Lorsqu’on mange du riz, il faut rejeter les cosses de riz. Lorsqu’on mange une grenouille, il faut jeter son foie.

Ce sont des expressions notant  la prudence et l’expérience en matière de consommation car le foie d’un  crapaud contient de nombreuses substances toxiques.

Le crapaud est la représentation d’une vie indépendante et n’ayant  pas besoin de l’aide de personne.

Con cóc cụt đuôi
Ở bờ ở bụi
Ai nuôi mày lớn ?
Dạ thưa Thầy, con lớn mình ên

Crapaud sans queue,
Tu vis au bord du rivage et dans le ruisseau
Qui t’a élevé ?
Oui monsieur, je grandis tout seul.

La grenouille incarne  souvent  un ignorant et a   une vision assez étroite  et limitée.  Il y a donc un proverbe ci-dessous:

Ếch ngồi đái giếng coi trời đất bằng vung.
La grenouille assise au fond d’un puits considère le ciel comme un couvercle.

comme le célèbre fabuliste français Jean de la Fontaine a l’ occasion de réprimander le vantard dans l’histoire « La grenouille  veut être aussi grosse que le bœuf ». On entend souvent l’expression Ếch mọc lông nách « grenouille qui prétend avoir des poils sous les aisselles » pour désigner les personnes vaniteuses.

Les grenouilles et les crapauds sont tous deux des amphibiens. Après l’éclosion, ils sont des têtards sans bras ni jambes jusqu’à l’âge adulte, respirant uniquement grâce à  des branchies et une queue qui leur permet de nager comme des poissons. Une fois adulte, il possède quatre membres et perd sa queue.  Pour distinguer les grenouilles des crapauds, les amphibiens au corps court et gras et aux pattes plus petites que leur corps sont des crapauds, tandis que ceux au corps mince et aux pattes longues sont probablement des grenouilles. Ces dernières aiment généralement vivre dans l’eau ou sauter sur terre, mais pas les crapauds. De plus, il existe une grande différence dans la taille des grenouilles entre les mâles et les femelles. Dans notre pays, les femelles mesurent 10 cm de long, mais les mâles n’ont que 3 à 4 cm. Ainsi, lors de l’accouplement, elles s’accrochent  les unes aux autres dans leur déplacement et  pondent leurs œufs dans des endroits à fort courant d’eau. Au fil des années, les scientifiques australiens et vietnamiens ont découvert de nombreuses espèces étranges de grenouilles. Une nouvelle espèce de grenouille volante appartenant au genre Rhacophorus vient d’être découverte dans les forêts tropicales du sud du Vietnam,  seulement à cent kilomètres de la ville de Saigon. La capacité de Rhacophorus helenae de  planer d’arbre en arbre protège cette grenouille volante de tout ce qui rampe sur le sol. Il vit principalement dans la canopée. Dotée de pattes et de mains en forme de paume, elle nage et vole dans les airs, selon la biologiste australienne Jodi Rowley. Une autre espèce a été découverte dans la réserve naturelle de Pu Hoat. Cette nouvelle espèce s’appelle Gracixalus Quangi, vivant dans les forêts à des altitudes de 600 à 1300 mètres. Cette espèce peut chanter également  comme un oiseau.  Contrairement au corbeau et aux autres grenouilles  elle possède de nombreux cris différents.

Dans la langue Nôm  le mot « oa » est utilisé pour désigner les grenouilles et les crapauds. Quant au crapaud, on l’appelle « Thiêm thù » 蟾蜍 et il est souvent mentionné en feng shui. En ce qui concerne les estampes de Đông  Hồ, il existe un tableau  intitulé « L’érudit crapaud » sur lequel  il y a la ligne «Lão Oa độc giảng», ce qui signifie que le vieux crapaud  enseigne  seul. Normalement on devrait l’appeler « Grenouille ». Comme  les gens  ne sont pas habitués à faire la distinction, ils l’appellent Crapaud quand même  du fait  que le crapaud figure  sur les tambours de bronze et sur les artefacts de la période de Đồng Sơn et qu’il est aussi l’oncle maternel de Dieu. La signification du tableau n’est pas  dans l’intention de montrer le crapaud professeur assis et enseignant, mais de rappeler aux générations futures que notre peuple possédait l’écriture Khoa Đẩu dans le passé, un type d’écriture ressemblant  à un têtard avec une grosse tête et une petite queue. Ainsi, bien qu’il n’y ait que des créatures présentes dans le tableau, celles-ci agissent comme les humains. Peut-être au moment  de la réalisation de ce tableau, l’artiste voulait dire aux générations futures que notre peuple possédait aussi une langue écrite et qu’il devrait s’en souvenir. Comme la lettre ressemblait à un têtard, il voulait transformer les gens en grenouilles  car ces dernières étaient la mère des têtards.

En mentionnant le mot Oa, nous devons  évoquer également le voyage de l’ambassadeur Mạc Đỉnh Chi lorsqu’il se rendit en Chine sous le règne du roi Nguyên Thế Tổ  (Kubilai Khan). Ce dernier dut reconnaître son talent et lui accorda ainsi le titre  » Premier docteur » ( Lưỡng Quốc Trạng Nguyên ) aussi bien en Chine qu’au Viêt-Nam, ce qui rendit jaloux quelques mandarins chinois. L’un d’eux tenta de l’humilier un beau matin en le traitant comme un oiseau car à cause de la tonalité monosyllabique de la langue, les Vietnamiens donnent l’impression de gazouiller toujours lorsqu’ils parlent:

Quích tập chi đầu đàm Lỗ luận: tri tri vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri
Chim đậu cành đọc sách Lỗ luận: biết thì báo là biết, chẳng biết thì báo chảng biết, ấy là biết đó.

L’oiseau s’agrippant sur une branche lit ce qui a été écrit dans le livre Les Entretiens : Si nous savons quelque chose, nous disons que nous la savons. Dans le cas contraire, nous disons que nous ne la savons pas. C’est ainsi que nous disons que nous savons quelque chose.

C’est une façon de recommander Mạc Ðỉnh Chi de se montrer plus humble et de se comporter comme un homme de qualité confucéenne ( junzi ). Mạc Ðỉnh Chi lui répliqua en le traitant comme une grenouille car les Chinois ont l’habitude de clapper à cause de leur manière de boire ou de parler bruyamment:

Oa minh trì thượng đọc Châu Thư: lạc dữ đọc lạc nhạc, lạc dữ chúng lạc nhạc, thục lạc.
Châu chuộc trên ao đọc sách Châu Thu: cùng ít người vui nhạc, cùng nhiều người vui nhạc, đằng nào vui hơn.

La grenouille barbotant dans la mare lit ce qui a été écrit dans le livre Livre des Documents Historiques (Chou Ching): certains jouent seuls de la trompette, d’autres jouent ensemble de la trompette. Lesquels paraissent en jouer mieux.

C’est une façon de dire au mandarin chinois d’avoir un esprit sain pour pouvoir avoir un comportement juste et un discernement équitable.

Selon les caractéristiques des Bai Yue dont fait partie la tribu Lo Yue, ils aiment manger des palourdes et des grenouilles. Sans parler du nombre de grenouilles consommées dans le pays, on sait qu’entre 2010 et 2019, le Vietnam a fourni à l’UE plus de 8 400 tonnes de cuisses de grenouilles. Il devient ainsi le deuxième grand fournisseur de cuisses de grenouilles après l’Indonésie à l’UE (selon  le journal Tia Sáng). La France importe chaque année plus de 2 500 tonnes de cuisses de grenouilles de l’étranger pour répondre à sa consommation  interne. La forte demande en Europe pose de gros problèmes aux pays fournisseurs car on ne sait pas combien de grenouilles  exportées des fermes d’élevage et combien de grenouilles prises dans la nature.

C’est la plus grande préoccupation des biologistes d’aujourd’hui, car les grenouilles jouent un rôle extrêmement important dans la chaîne alimentaire. Les grenouilles sont à la fois des chasseurs et des proies. Grâce aux grenouilles, le nombre de criquets et de moustiques est réduit. Les grenouilles sont des « pesticides naturels ». S’il n’y a plus de grenouilles, nous devrons utiliser davantage de pesticides, ce qui est nocif pour la santé et l’environnement. Selon la Humance Society International, le nombre de grenouilles au Vietnam a considérablement diminué au cours des dernières décennies, car elles sont également la proie des humains. Ce n’est pas seulement une source importante d’exportation mais c’est aussi une  spécialité populaire  dans notre pays, en particulier sa chair parfumée comme celle du  poulet. C’est pourquoi on appelle  la grenouille  avec le vocable « poulet des champs ».

Partout où il y a de l’eau et des rivières, il y a des grenouilles. Il existe donc des spécialités locales de grenouilles telles que les cuisses de grenouilles frites, les  cuisses de grenouilles sautées aux pousses de bambou, les cuisses de grenouilles au curry, les cuisses de grenouilles sautées aigre-douce, les grenouilles sautées à la citronnelle et au piment etc.

Dans la région du sud-ouest du Viet Nam, à la fin du mois d’août, durant la saison des inondations, les gens aiment aller  pêcher ou attraper des grenouilles.  Celles-ci  se rassemblent souvent dans des endroits où il y a beaucoup d’insectes et de bestioles. Il suffit d’avoir un bâton de bambou d’environ quatre à cinq mètres de long, muni  d’une longue ligne avec un appât et  de déposer le tout dans des grottes ou des zones basses. Lorsqu’il y a du bruit, il faut rapidement tirer la perche en bambou jusqu’au rivage car la grenouille a mordu à l’hameçon. Il s’agit  bien d’un passe-temps rural, un art de pêche à la grenouille sophistiqué et agile des enfants vivant dans l’ouest du Vietnam. Pour attraper les grenouilles, on doit devez éviter de faire du bruit. Lorsqu’il fait sombre la nuit, on doit se servir d’une lampe de poche pour éblouir les yeux de la grenouille. Celle-ci  reste  « tétanisée » et  immobile sur le rivage  sinon en cas de bruit, elle  disparaîtra rapidement sous l’eau selon les gens qui sont habitués à attraper les grenouilles.

Version anglaise

During excavations of bronze drums in northern Vietnam in the 19th century, French and Vietnamese archaeologists discovered four stylized toads (or frogs) on the faces of some bronze drums, often moving counterclockwise. According to archaeologists, these bronze drums are closely related to flooded rice farmers such as the Proto-Vietnamese. Toads (or frogs) are also frequently found on bronze drums, especially those of the late Heger 1 type (1st and 2nd centuries A.D.). Chinese researchers consider these toads (or frogs) to be used to decorate bronze drums and have no particular significance. On the contrary, for the Vietnamese people, their presence on the drum surface is intended to implore the rain spirit to make the land more fertile and harvests fruitful. According to Vietnamese custom, there is obviously a close connection between these amphibians and God through a humorous tale. This is why we have the following proverb:

The toad (or frog) is God’s maternal uncle.
Whoever dares to beat him, God will beat him.

 When these toads and frogs croak, they signal that it is about to rain, which actually makes them sacred animals. They were introduced into the religious world of people living in southern China such as those in the Tonkin Delta, Guangdong, and Guangxi, and have now become a separate subject in animal worship. They are often mentioned in folk songs or expressions with deep meanings.

Ăn cóc bỏ gan, ăn trầu nhả bã
Ăn cơm lừa thóc, ăn cóc bỏ gan.

When you eat a frog, you must discard its liver. When you chew betel, you must spit out the residue;
When you eat rice, you must discard the rice husks. When you eat a frog, you must discard its liver.

These are expressions that denote caution and experience when consuming food, as a toad’s liver contains many toxic substances.

The toad represents an independent life that requires no help from anyone.

Con cóc cụt đuôi
Ở bờ ở bụi
Ai nuôi mày lớn ?
Dạ thưa Thầy, con lớn mình ên.

Tailless toad,
You live by the shore and in the bush.
Who raised you?
Yes sir, I’m growing up all alone.

The frog often embodies an ignoramus and has a rather short and limited vision. Therefore, there is a proverb below:

Ếch ngồi đái giếng coi trời đất bằng vung.

The frog sitting at the bottom of a well considers the sky as a lid.

as the famous French fabulist Jean de la Fontaine has occasion to reprimand the boaster in the story « The frog wants to be as big as the ox. » We often hear the expression Ếch mọc lông nách « frog who claims to have hair under his armpits » to refer to vain people.

Frogs and toads are both amphibians. After hatching, they are tadpoles without arms or legs until adulthood, breathing only through gills and a tail that allows them to swim like fish. Once adult, it has four limbs and loses its tail. To distinguish frogs from toads, amphibians with short, fat bodies and legs smaller than their bodies are toads, while those with thin bodies and long legs are probably frogs. The latter generally like to live in water or hop on land, but toads do not. Furthermore, there is a large difference in the size of frogs between males and females.

In our country, females are 10 cm long, but males are only 3 to 4 cm. Therefore, during mating, they cling to each other as they move and lay their eggs in places with strong water currents. Over the years, Australian and Vietnamese scientists have discovered many strange species of frogs. A new species of flying frog belonging to the genus Rhacophorus has just been discovered in the tropical forests of southern Vietnam, just 100 kilometers from the city of Saigon. Rhacophorus helenae’s ability to glide from tree to tree protects this flying frog from anything crawling on the ground. It lives primarily in the canopy. Equipped with palm-like legs and hands, it swims and flies through the air, according to Australian biologist Jodi Rowley. Another species has been discovered in the Pu Hoat Nature Reserve. This new species is called Gracixalus quangi, which lives in forests at altitudes of 600 to 1300 meters. This species can also sing like a bird. Unlike the crow and other frogs, it has many different calls.

In the Nôm language, the word « oa » is used to refer to both frogs and toads. The toad is called « Thiem thù » (蟾蜍) and is often mentioned in feng shui. Regarding Dong Ho’s prints, there is a painting titled « The Scholarly Toad » with the line « Lão Oa độc giảng, » which means that the old toad teaches alone. Normally, he should be called « Frog. » Since people are not used to making the distinction, they call him Toad anyway, because the toad appears on bronze drums and artifacts from the Dong Son period and he is also the maternal uncle of God. The meaning of the painting is not to show the toad teacher sitting and teaching, but to remind future generations that our people had Khoa Đẩu writing in the past, a type of writing resembling a tadpole with a big head and a small tail. Thus, although there are only creatures present in the painting, they act like humans. Perhaps at the time of making this painting, the artist wanted to tell future generations that our people also had a written language and should remember it. Since the letter resembled a tadpole, he wanted to turn people into frogs because frogs were the mother of tadpoles.

Mentioning the word Oa, we must also mention the journey of Ambassador Mạc Đỉnh Chi when he went to China during the reign of King  Kubilai Khan. The latter recognized his talent and thus granted him the title of « First Doctor » (Lưỡng Quốc Trạng Nguyên) both in China and in Vietnam, which made some Chinese mandarins jealous. One of them tried to humiliate him one fine morning by treating him like a bird because due to the monosyllabic tone of the language, the Vietnamese give the impression of always chirping when they speak:

Quích tập chi đầu đàm Lỗ luận: tri tri vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri
Chim đậu cành đọc sách Lỗ luận: biết thì báo là biết, chẳng biết thì báo chảng biết, ấy là biết đó.

The bird clinging to a branch reads what was written in the book « The Conversations »: If we know something, we say that we know it. If we don’t, we say that we don’t know it. This is how we say that we know something.

This is a way of recommending Mạc Ðỉnh Chi to be more humble and to behave like a man of Confucian quality (junzi). Mạc Ðỉnh Chi replied by treating him like a frog because the Chinese have the habit of clapping because of their way of drinking or speaking loudly:

Oa minh trì thượng đọc Châu Thư: lạc dữ đọc lạc nhạc, lạc dữ chúng lạc nhạc, thục lạc.
Châu chuộc trên ao đọc sách Châu Thu: cùng ít người vui nhạc, cùng nhiều người vui nhạc, đằng nào vui hơn.

The frog splashing in the pond reads what was written in the Book of Historical Documents (Chou Ching): some play the trumpet alone, others play the trumpet together. Which one seems to play it better?

This is a way of telling the Chinese Mandarin to have a sound mind so as to be able to behave justly and discern justly.

According to the Bai Yue people, who include the Lo Yue tribe, they enjoy eating clams and frogs. Not to mention the number of frogs consumed in the country, it is known that between 2010 and 2019, Vietnam supplied the EU with more than 8,400 tons of frog legs. This makes it the second largest supplier of frog legs to the EU after Indonesia (according to the Tia Sáng newspaper). France imports more than 2,500 tons of frog legs from abroad each year to meet its domestic consumption. The high demand in Europe poses major problems for supplying countries because it is unclear how many frogs are exported from breeding farms and how many are taken from the wild.

This is the biggest concern of biologists today because frogs play an extremely important role in the food chain. Frogs are both hunters and prey. Thanks to frogs, the number of locusts and mosquitoes is reduced. Frogs are « natural pesticides. » If there are no more frogs, we will have to use more pesticides, which is harmful to health and the environment. According to the Humance Society International, the number of frogs in Vietnam has decreased significantly in recent decades because they are also preyed on by humans. It is not only an important source of export but also a popular specialty in our country, especially its fragrant meat like that of chicken. That is why the frog is called « field chicken. »

Wherever there is water and rivers, there are frogs. Therefore, there are local frog specialties such as fried frog legs, stir-fried frog legs with bamboo shoots, curry frog legs, sweet and sour stir-fried frog legs, stir-fried frog legs with lemongrass and chili etc. In the southwest region of Vietnam, at the end of August, during the flood season, people like to go fishing or catching frogs. These often gather in places where there are many insects and creatures. All you need is a bamboo stick about four to five meters long, equipped with a long line with bait, and drop it into caves or low-lying areas. When there is noise, you must quickly pull the bamboo pole to the shore because the frog has taken the bait. This is indeed a rural pastime, a sophisticated and agile frog fishing art of children living in western Vietnam. To catch frogs, you must avoid making noise. When it is dark at night, you must use a flashlight to dazzle the frog’s eyes. This one remains « frozen » and motionless on the shore otherwise in case of noise, it will quickly disappear underwater according to people who are used to catching frogs.

Làng Việt Nam (Village vietnamien)

Portail du village

Version française

Version anglaise

Làng (), từ nầy  nó dùng để chỉ  một đơn vị cư trú mà nó còn là  một hình thức tổ chức xã hội quan trọng ở nông thôn Việt Nam. Nó được thành hình từ những người trong gia tộc cùng huyết thống hoặc đến từ cộng đồng cư dân cùng làm một nghề chung. Từ thưở ban đầu, Việt Nam là môt nước nông nghiệp nên lúc nào cũng chịu nhiều  ảnh hưởng thiên nhiên. Lũ lụt hay thường có  không ai tránh khỏi nên cần có nỗ lực chung của cộng đồng mới có thể có  kết quả hữu hiệu. Bởi vậy mới có câu tục ngữ nầy nói lên tình láng giềng đôi khi còn quí trọng hơn tình anh em xa. (Bán anh em xa mua láng giềng gần).  Còn  đến mùa gặt lúa thì cần có nhân lực, cần có sự trợ giúp của cộng đồng. Vì thế làng cần có tổ chức chặt chẽ nên có những đặc thù riêng,  có sự  gần gũi và  gắn bó với nhau giữa  cư dân  làng hơn. Bao giờ cũng thường nghe gọi một câu «  Ối làng nước ơi » một khi phụ nữ bực tức phẫn nộ chi đó ở nông thôn miền Bắc. Luôn luôn nhớ đến làng trước khi nhắc đến nước.

Theo nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm, không  phải có sự ngẫu nhiên trùng hợp trong tiếng nước ta lại có khái niệm « làng nước »[ibid 238]  còn « nhà nước » chỉ là  sự chuyển  đổi tóm tắt của khái niệm Trung Hoa « quốc gia » hay « nhà nước ». Có nói đến gia đình từ khi đạo Khổng du nhập vào xứ ta. Ta cũng thường nghe nói đến các tổ hợp từ đình làng, ao làng, giếng làng, hương ước làng vân vân. Đây cũng là những nét đặc tính làng ta đều có cả. Uy quyền của vua tuy lớn nhưng quá ở xa nên không có hiệu lực bằng  tục lệ làng nên mới có câu tục ngữ  nầy: Phép vua thua lệ làng hay là  Áo cứ tràng, làng cứ xã  để khẳng đinh vai trò chính yếu của làng, chỗ nương tựa cần thiết trong việc giải quyết mọi việc hằng ngày  tuy ảnh hưởng nó nhỏ và lấy nó làm căn cứ như  vạt áo khi cắt may trong đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Làng ̣được xem có tính tự trị, khép kín, độc lập, là một vương quốc nhỏ trong vương quốc lớn nên mới có câu « Hương đảng (), tiểu triều đình ». Chính vì có tính tự  trị nên lúc đầu có những qui ước miệng sơ sài nhưng về sau trở thành hương ước đôi khi còn nặng nề  và đối lập với  luật của triều đình. Vì thế nhà nước phong kiến hạn chế lại việc lập tư ước với đạo dụ của vua Lê Thánh Tôn. Luật nhà nước đối với làng  như nước đổ lá khoai theo lời trích dẫn của  nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến [ibid 33]. Tục lệ  hay hương ước được chép thành văn bản và được khắc trên bia và được phổ  biến rộng rải từ thế kỷ 17. Có nhiều tục lệ lạ thường trớ trêu như thách cưới bằng bánh giầy. Làng có bao nhiêu gia đình thì bên đàn trai phải biếu bao nhiêu cái bánh. Còn có tục lệ gái đi lấy chồng thiên hạ để bắt cheo có nghĩa là muốn cưới vợ phải nộp cho làng gạch đế lát đường. Có nhiều tục lệ bám con người từ lúc trẻ cho đến khi qua đời khiến làm người nghèo càng nghèo thêm khiến đôi khi nhân phẩm của họ bị chà đạp nên phải bỏ làng mà đi như ở làng Chèm. Ngay nay với những qui định của nhà  nước và sự hiểu biết  của người dân trong xã hội tân tiến nên tục lệ trong làng cũng được rút gọn để  phù hợp với nguyện vọng của  cư dân ở trong làng.

Làng có một tổ chức độc đáo gọi là « giáp » chỉ dành cho nam giới và có đặc tính là cha truyền con nối.Trong  tổ chức nội bộ, có ba giai cấp : tì ấu (đến 18 tuổi), đinh tráng  và lão (từ 60 tuổi trở lên). Khi đứa trẻ mới sinh, người cha có nhiệm vụ thông báo với giáp và xin gíáp thừa nhận cháu bé vào cấp tì ấu với một quà nhỏ. Đến lúc 18 tuổi, có một buổi lễ công nhận đứa bé được đổi cấp, sang thành hội viên chính thức của cấp đinh tráng. Còn công việc làm cho làng, ai cũng như nhau và hưởng tất cả quyện lợi của cấp nầy cũng như có  miếng đất của công xã để trồng trọt và  một phần lợi tức thu hoạt phải đóng cho làng xã. Còn một khi sang cấp lão thì có một danh dự không nhỏ, được xem là người nhiều kinh nghiệm và được ngồi ngang hàng  vớc các bậc tú tài, cử nhân và tiến sĩ của triều đình. Bởi vậy mới có câu tục ngữ như sau: Triều đình trọng tước, hương đảng trọng xỉ (xỉ là răng  tức là những nguời lớn tuổi trong làng  bị mất răng) nhưng ngược lại  mất đi quyền hưởng thụ đất ai của làng, không còn làm những việc nhọc nhằn  mà làng giao phó. Chỉ có những người chính cư hay nội tịch mới có quyền vào tổ chức nầy chớ  những người ngụ cư hay ngoại tịch thì không có quyền, chỉ làm những nghề thấp kém.

Đây cũng  là ví dụ điển hình của sự phân biệt  đối xử dưới thời phong kiến trong làng.Theo nhà khảo cứu Trần Ngọc Thêm, đây là một  phương tiện để đảm bảo sự ổn định của các làng mạc.[ Trần Ngọc Thêm , ibid 248]. Cụ thể sự khác biệt được thấy rõ trong viêc cưới hỏi. Nếu cô dâu chú rể cùng chung  làng thì tiền cheo đóng cho làng rất tối thiểu và tượng trưng  (cheo nội) còn không thi tiền cheo có thể gấp đôi hay gấp ba lần. Cư dân ở làng chia ra thành năm hạng: chức sắc, chức dịch, lão, đinh tráng và tì ấu.Những nguời thuộc  ba hạng trên được chọn cử vào Hội đồng kì mục để có nhiệm vụ quản trị làng qua các hương ước sau khi có sự đồng ý của các hội nghị và thảo luận chung. Việc thu thuế cũng được rỏ ràng.Thay vì có sổ thuế má cho mỗi cá nhân thì làng đây có tính cách cộng đồng và của một nhóm người nên chỉ  cần đặt mức thuế cho làng và làng tự lo liệu trong việc nầy. [ Trần Ngọc Thêm, ibid 253]

Chính nhờ có tính cộng đồng cùng các hương ước, tính tự trị của làng xã được thể hiện được  tính độc lập và  sự đa dạng về  các quyết định liên quan đến  đời sống xã hội và tâm linh của  dân làng. Ngoài các đặc trưng mà làng Việt nào cũng  có như cổng làng, đình, giếng nước, thành hoàng thì làng  lại còn được biết đến nhờ lễ hội mỗi năm. Thông thường lễ hội thường hay tổ chức ở cửa đền, đình hay miếu chớ ở chùa thì ít có lắm chỉ dành cho lễ Phật. Trong lễ hội, làng hay diễn lại sử tích hay hành vi đặc trưng nào của thành hoàng chính đó là tiết mục chính cho nghi lễ. Ngoài nét đặt thù của làng, làng còn là một thành lũy tự trị, độc lập và kép kính sau lũy tre xanh. Nó còn là « yếu tố cơ bản » trong việc  xây dựng » quốc gia. Bởi vậy nhà Đông Phương học Pháp Paul Mus mới nói rằng Việt Nam là xã hội làng mạc.

Village (), ce mot est utilisé pour désigner une unité résidentielle mais il est également une structure importante d’organisation sociale dans le Vietnam rural. Il est formé des gens issus  d’une même lignée ou d’une communauté de résidents  partageant un métier commun. Dès le début, le Vietnam est un pays agricole, il a donc toujours été influencé par les aléas de la nature. Les inondations sont fréquentes et  inévitables. Cela  nécessite évidemment un effort conjoint de la communauté pour obtenir des résultats efficaces. C’est pourquoi il existe un  proverbe rappelant  que l’amour  réservé aux gens vivant  à proximité est parfois plus précieux que celui donné aux frères et sœurs vivant trop lointain.  À l’approche de la saison de la récolte du riz, on a besoin de la main-d’œuvre et du soutien de la communauté. Le village doit donc être bien  organisé, afin qu’il ait ses propres caractéristiques et qu’il y ait plus de cohésion et d’attachement entre les villageois. Il est courant d’entendre la phrase « Oh village-pays » lorsque la femme est  en colère ou contrariée par quelque chose dans la campagne du Nord. Elle pense tout de suite à son village avant de mentionner son pays.

Selon le chercheur Trần Ngọc Thêm, ce n’est pas par hasard que dans notre langue il y a la notion  « village-pays » [ibid 238] tandis que  «nhà nước » n’est qu’une transposition  sommaire de la notion chinoise  « quốc gia » . On parle de la famille depuis l’introduction du confucianisme dans notre pays. On entend aussi souvent parler de la combinaison  des mots   « maison communale -village »,  « étang- village », « puits -village », « règlements internes-village » etc. Ce sont aussi les caractéristiques que possède notre village. L’autorité du roi, bien que elle soit  grande, est trop éloignée pour être aussi efficace que les coutumes du village. C’est pourquoi il y un  proverbe: L’autorité du roi cède devant les coutumes du village ou « La tunique  suit son corps, le village la commune » pour affirmer le rôle important du village et le soutien nécessaire dans la résolution de toutes les difficultés quotidiennes. Malgré que  son influence soit faible dans la vie matérielle et spirituelle du peuple mais il est  utilisé comme le point de repère  dans   la coupe et  la couture d’une tunique.

Le village est toujours considéré comme autonome, fermé et indépendant. C’est  un petit royaume dans un grand royaume. C’est pourquoi on dit « Hương đảng (鄉黨), petite cour« . En raison de son autonomie, il n’existe au début que des accords oraux simples mais ils deviennent plus tard des règlements internes  parfois trop lourds et contraires aux lois de la cour impériale.  C’est pourquoi l’état féodal a restreint l’établissement des règlements privés par l’édit du roi Lê  Thánh Tôn. La loi de l’État pour le village est considérée  comme l’eau versée glissant  sur le dos d’une feuille (inefficace) , selon la  citation de l’écrivain Nguyen Ngoc Tien [ibid 33]. Les coutumes ou les règlements internes étaient  consignés et gravés sur des stèles et furent largement diffusés à partir du XVIIème  siècle.

Il existe de nombreuses coutumes étranges et ironiques, comme la dot de gâteaux de riz. En fonction du nombre de familles dans le village,  le marié doit donner autant de gâteaux de riz. Il existe également une coutume selon laquelle si une fille veut épouser quelqu’un venant de l’extérieur, elle doit offrir au  village des briques pour  paver la route. Il existe de nombreuses coutumes qui suivent les gens depuis l’enfance jusqu’à la mort, ce qui appauvrit encore les pauvres,  piétine parfois leur dignité et  les force à quitter le village comme dans le village de Chem. De nos jours, avec les réglementations de l’État et la compréhension des gens dans la société moderne, les coutumes villageoises sont également moins contraignantes  pour répondre aux souhaits des villageois.

Le village possède une organisation unique appelée « giáp » qui est réservée uniquement aux hommes et qui a un caractère héréditaire. Dans l’organisation interne, il existe trois classes: les benjamins (jusqu’à 18 ans), les hommes d’âge moyen et les hommes âgés (60 ans et plus). À la naissance de l’enfant, le père a le devoir d’informer le « giáp »  et de lui demander d’inscrire  l’enfant  à la première classe avec un petit cadeau. À l’âge de 18 ans, une cérémonie a lieu pour reconnaître le changement de classe de l’enfant. Il  devient ainsi un membre officiel de la classe  des « hommes forts et utiles ». En ce qui concerne le travail pour le village, tout le monde est égal et bénéficie de tous les avantages à ce niveau ainsi que la possession d’un lopin  de terre communale pour la culture. Une partie  des revenus lors de la récolte doit être versée au village. Une fois entré dans la dernière classe, on a le  grand honneur d’être considéré comme une personne expérimentée et on a le droit de s’asseoir au même niveau que  les bacheliers, les licenciés et les docteurs de la cour royale. C’est pourquoi il existe un proverbe : La cour royale honore les grades, le village les personnes âgées (ce sont les personnes âgées du village ayant perdu leurs dents) mais en contrepartie, elles perdent le droit de jouir des terres communales du village et ne peuvent plus faire le dur travail assigné par le village. Seuls les natifs et les résidents ont le droit d’entrer dans cette organisation, tandis que les immigrants ou les étrangers n’ont pas ce droit et ne peuvent occuper que des emplois subalternes.

C’est aussi l’exemple typique de  la discrimination féodale dans le village. Selon le chercheur Trần Ngọc Thêm, il s’agit d’un moyen d’assurer la stabilité des villages. [Trần Ngôc Thêm, ibid 248]. Cette discrimination  est particulièrement visible dans le mariage. Si les mariés sont du même village, la dot du mariage  « cheo » versée au village est minime et symbolique (cheo nội), sinon la somme  d’argent (cheo) peut être doublée  ou triplée.

Les habitants du village sont divisés en cinq classes : les dignitaires diplômés (Chức sắc), les dignitaires administrateurs (Chức dịch), les anciens (lão), les actifs et les benjamins. Les gens  des trois  premières classes ci-dessus sont élus au conseil des notables  ayant la mission d’administrer le village par le biais des règlements internes  après avoir reçu l’approbation unanime lors des réunions  et des discussions générales. La collecte des impôts est également claire.   Au lieu d’avoir un livre d’impôts pour chaque individu, il suffit donc de fixer un taux d’impôt pour le village car il a le caractère communautaire et il appartient   à un groupe de personnes.  Il doit  s’en charger lui-même. [Trần Ngọc Thêm, ibid 253]

Grâce au caractère communautaire et aux règlements internes, l’autonomie du village s’exprime dans son indépendance et sa diversité dans les décisions liées à la vie sociale et spirituelle des villageois. En plus les caractéristiques possédées par  chaque village vietnamien, telles que le portail, la maison commune, le puits et le génie tutélaire, il est également connu pour son festival annuel.

Les festivals ont généralement lieu à l’entrée des temples, des maisons communales ou des sanctuaires, mais rarement dans les pagodes réservées  uniquement pour vénérer Bouddha. Durant le festival, le village reconstitue souvent des événements historiques ou des actions typiques du génie tutélaire, ce qui constitue le numéro principal du rituel.

Outre ses caractéristiques uniques, le village est également une citadelle autonome, indépendante et fermée derrière la haie de bambous  à la végétation luxuriante. C’est aussi un « élément fondamental » dans la formation de la  nation.

C’est pourquoi l’orientaliste français Paul Mus a l’occasion de dire que

le Vietnam est une société des villages.

Village (廊), this word is used to refer to a residential unit but it is also an important structure of social organization in rural Vietnam. It is formed by people from the same lineage or a community of residents sharing a common occupation. From the beginning, Vietnam has been an agricultural country, so it has always been influenced by the vagaries of nature. Floods are frequent and inevitable. This obviously requires a joint effort from the community to achieve effective results.

This is why there is a proverb reminding us that love for a neighbor nearby is sometimes more precious than that given to brothers and sisters living too far away. As the rice harvest season approaches, the community’s workforce and support are needed. The village must therefore be well organized, so that it has its own characteristics and there is more cohesion and attachment among the villagers. It is common to hear the phrase « Oh village-country » when a woman is angry or upset about something in the northern countryside. She immediately thinks of her village before mentioning her country.

According to researcher Trần Ngọc Thêm, it is not by chance that in our language there is the notion « village-country » [ibid 238] while « nhà nước » is only a summary transposition of the Chinese notion « quốc gia ». We have been talking about the family since the introduction of Confucianism in our country. We also often hear about the combination of the words « communal house-village », « pond-village », « well-village », « internal regulations-village » etc. These are also the characteristics that our village has. The authority of the king, although it is great, is too distant to be as effective as the customs of the village. This is why there is a proverb: The authority of the king yields to the customs of the village or « The tunic follows its body, the village the commune » to affirm the important role of the village and the necessary support in solving all daily difficulties. Although its influence is weak in the material and spiritual life of the people, it is used as a reference point in the cutting and sewing of a tunic.

The village is always considered autonomous, closed and independent. It is a small kingdom within a large kingdom. That is why we say « Hương đảng (鄉黨), small court ». Due to its autonomy, at first there were only simple oral agreements but later they became internal regulations that were sometimes too cumbersome and contrary to the laws of the imperial court. That is why the feudal state restricted the establishment of private regulations by the edict of King Lê Thánh Tôn. The state law for the village is considered like poured water sliding down the back of a leaf (inefficiency), according to the quote from the writer Nguyen Ngoc Tien [ibid 33]. Customs or internal regulations were recorded and engraved on steles and were widely disseminated from the 17th century.

There are many strange and ironic customs, such as the rice cake dowry. Depending on the number of families in the village, the groom must offer that many rice cakes. There is also a custom that if a girl wants to marry someone from outside, she must offer the village bricks to pave the road. There are many customs that follow people from childhood until death, making the poor even poorer, sometimes trampling on their dignity, and forcing them to leave the village, as in Chem Village. Nowadays, with state regulations and people’s understanding of modern society, village customs are also less restrictive in meeting the villagers’ wishes.

The village has a unique organization called « giáp » which is reserved exclusively for men and is hereditary. Within the internal organization, there are three classes: the youngest (up to 18 years old), the middle-aged, and the elderly (60 years and older). Upon the birth of a child, the father is responsible for informing the « giáp » and asking him to enroll the child in the first class with a small gift. At the age of 18, a ceremony is held to recognize the child’s change of class. He thus becomes an official member of the « strong and useful men » class. Regarding work for the village, everyone is equal and enjoys all the benefits at that level, as well as the possession of a plot of communal land for cultivation. A portion of the harvest proceeds must be paid to the village. Once one reaches the last grade, one has the great honor of being considered an experienced person and is entitled to sit on the same level as the bachelors, licentiates, and doctors of the royal court. Therefore, there is a proverb: The royal court honors the ranks, the village the elderly (these are the elderly people of the village who have lost their teeth), but in return, they lose the right to enjoy the village’s communal land and can no longer do the hard work assigned by the village. Only natives and residents are entitled to join this organization, while immigrants or foreigners do not have this right and can only hold menial jobs.

This is also a typical example of feudal discrimination in the village. According to researcher Trần Ngọc Thêm, it is a way to ensure village stability. [Trần Ngôc Thêm, ibid 248]. This discrimination is particularly visible in marriage. If the bride and groom are from the same village, the marriage dowry « cheo » paid to the village is minimal and symbolic (cheo nội), otherwise the sum of money (cheo) can be doubled or tripled.

The villagers are divided into five classes: qualified dignitaries (Chức sắc), administrative dignitaries (Chức dịch), elders (lão), active members, and youngest members. The people in the first three classes above are elected to the council of notables whose mission is to administer the village through internal regulations after receiving unanimous approval at meetings and general discussions. Tax collection is also clear. Instead of having a tax book for each individual, it is sufficient to set a tax rate for the village because it has a community character and belongs to a group of people. It must take care of it itself. [Tran Ngoc Them, ibid 253].

Thanks to its community-based nature and internal regulations, the village’s autonomy is expressed in its independence and diversity in decisions related to the villagers’ social and spiritual lives. In addition to the characteristics that each Vietnamese village possesses, such as the village gate, the communal house, the well, and the guardian spirit, the village is also known for its annual festival. Festivals usually take place in temples, communal houses, or shrines, but rarely in pagodas reserved solely for worshipping Buddha. During the festival, the village often reenacts historical events or typical actions of the guardian spirit, which constitutes the ritual’s number one feature.

In addition to its unique characteristics, the village is also an autonomous citadel, independent and enclosed behind a hedge of green bamboo. It is also a « fundamental element » in the formation of the nation.

This is why the French orientalist Paul Mus has the opportunity to say that

Vietnam is a village society.

Tài liệu tham khào

Bibliography

Nguyễn Ngọc Tiến: Làng làng phố phố Hà Nội. Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 2024
Trần Ngọc Thêm: Recherche sur l’identité de la culture vietnamienne . Editions Thế Giới. 2008.
[10] Paul Mus: Sociologie d’une guerre. Editions Seuil 1952.

Le tatouage (Tập tục xăm minh)

Tục lệ xăm mình

Version française

English version

Theo sách Lĩnh Nam Chích Quái, tục lệ  xăm mình có từ thời Hồng Bàng. Lúc đó dân ta thường sống trong nước để đánh cá hay bắt sò nên thường bị giống giao long làm hại bèn tâu với vua. Vua ta mới nói giống sơn man và giống thủy man có thù với nhau, thưòng  ghét nhau cho nên hại nhau đó. Nhờ lấy mực xăm vào mình theo hình Long Quân dạng thủy quái nên từ đó không bị hại. Tục xăm mình có từ lâu từ thời dân tộc ta thuộc  đại tộc Bách Việt và  còn cư trú ở vùng hạ và trung lưu  của sông Dương Tử, nơi có một loại cá sấu lớn  thích sống ở những khúc sông nước chảy chậm mà dân ta gọi là giao long. Ngày nay loại cá sấu nầy trong tình trạng bị đe dọa tuyệt chủng. Tục xăm mình chỉ là một hình thức văn hóa tâm linh trong việc ghép cho vật tổ của họ, Tiên-Rồng với  quan niệm song trùng lưỡng hợp (hai thành một) của tộc Việt nên mới có việc vẽ hình Rồng trên người và đội mũ lông chim.(Con Rồng Cháu Tiên).

Tục xăm mình vẫn được duy trì dưới hai triều  đại nhà Lý và Trần. Dưới thời nhà Lý thì chỉ có qúi tộc mới có quyền vẽ hình rồng trên ngực và đùi. Đến đời nhà Trần, để  tỏ ra ý chí can đảm diệt quân Nguyên  với tinh thần bất khuất, dân ta không ngần ngại thích xăm  trên cánh tay hai chữ  Sát Thát  như Trần Quốc Toản dưới thời nhà Trần.  Tục lệ nhà Trần, khi lên ngôi  vua phải xăm hình rồng ở đùi để nhớ nguồn gốc của mình nhưng vua Trần Anh Tôn không thích nên tục lệ nầy  bị mất dần từ đó trong giới hoàng tộc. Xăm mình ngày nay ở  Việt Nam được giới trẻ  xem như là một phương pháp làm đẹp cơ thể theo sở thích  của mình và thể hiện được cá tính dù xã hội ngày nay đôi khi có cái nhìn không thân thiện nhất là còn ảnh hưởng đạo Khổng ít nhiều. Điều nầy cũng không  quan trọng chi cho mấy  trong cuộc sống hiện nay nhất là ta biết  ta,  sống cho ta và ta có quyền tự chủ  con người của ta. Với cái ý nghĩ nầy , hình xăm đã được dân chủ hóa phần lớn và đã trở thành một hiện tượng xã hội thực sự.

Selon le livre intitulé  « Sélection des contes étranges à Lingnan », le tatouage remonte à la période de la dynastie des Hồng Bàng. À cette époque, notre peuple vivait souvent dans l’eau pour pêcher ou attraper des palourdes. Ils étaient donc souvent attaqués par les alligators. Alors ils le signalaient au roi.  Ce dernier venait de leur dire que les gens des montagnes et ceux de l’eau étaient  hostiles les uns envers les autres, se détestaient souvent et se faisaient donc du mal. Grâce au tatouage effectué « en forme de monstre marin » avec de l’encre, ils n’étaient plus blessés depuis lors. Le tatouage exista depuis l’époque où notre peuple faisant partie de la  grande tribu « Cent Yue ( Bai Yue) » vivait encore dans les cours inférieur et moyen du fleuve Yang Tse.  Il y avait  un grand type de crocodile aimant  vivre dans les cours d’eau  à débit lent de ce fleuve. Notre peuple l’appelait souvent sous le nom Giao Long. Aujourd’hui cette espèce vivant dans ce fleuve est menacée d’extinction. Le tatouage n’est qu’une forme de culture spirituelle dans l’association du couple (Oiseau /Dragon)(Fée-Dragon)   à leur totem avec la notion de dualité (deux en un) des Proto-Viet. C’était pour cela qu’ils aimaient à se faire tatouer le dragon sur leur corps et porter le chapeau à plumes (Enfants du Dragon et Grands Enfants de l’Immortelle).

Cette coutume continuait à exister sous les deux dynasties des Lý et des Trần. Sous la dynastie des Lý, il n’y avait que les gens de la noblesse ayant le droit de  se faire tatouer le dragon au niveau de la poitrine et des cuisses.  Puis sous la dynastie des Trần, afin de montrer le courage de vaincre les Mongols avec l’esprit indomptable de résistance, les Vietnamiens n’hésitaient pas à se faire tatouer sur le bras deux mots « Sát Thát (Tuer les Mongols) comme le jeune général Trần Quốc Toản. Selon la tradition des Trần, une fois monté au trône, le roi devait  se faire tatouer sur les cuisses  le dragon pour rappeler son origine. Mais le roi Trần Anh Tôn n’appréciait pas cette coutume et refusait de le faire. Le tatouage disparut ainsi auprès de la noblesse.

Aujourd’hui, le tatouage est  considéré au Vietnam par les jeunes comme une méthode d’embellissement de leur corps selon la préférence et la possibilité d’exprimer leur personnalité  bien que la société ait parfois une vision défavorable car elle est encore influencée dans une certaine mesure par le confucianisme.  Ce n’est pas si important dans la vie d’aujourd’hui car on sait qu’on peut vivre pour soi-même et on a le droit de disposer librement de son corps. Avec cette idée, le tatouage réussit  à se démocratiser largement  et devient ainsi un phénomène de société.

 

According to the book entitled “Selection of Strange Tales in Lingnan”, the tattoo dates back to the period of the Hồng Bàng dynasty. Back then, our people often lived in the water to fish or catch clams. So they were often attacked by alligators. So they reported it to the king.  The king had just told them that the mountain people and the water people were hostile to each other, often hated each other and therefore did each other harm. Thanks to a tattoo in the shape of a “sea monster” with ink, they have not been hurt since. The tattoo has existed since the time when our people, part of the great “Cent Yue ( Bai Yue)” tribe, still lived in the lower and middle reaches of the Yang Tse River.

There was a large type of crocodile that liked to live in the slow-moving streams of this river. Our people often called it Giao Long. Today this species living in this river is threatened with extinction. Tattooing is only a form of spiritual culture in the association of the couple (Bird / Dragon) (Fairy-Dragon) to their totem with the notion of duality (two in one) of the Proto-Viet. That was why they liked to have the dragon tattooed on their body and wear the feathered hat (Children of the Dragon and Great Children of the Immortal).

This custom continued to exist under both the Lý and Trần dynasties. Under the Lý dynasty, only the nobility were allowed to have the dragon tattooed on their chest and thighs. Then under the Trần dynasty, in order to show the courage to defeat the Mongols with the indomitable spirit of resistance, the Vietnamese did not hesitate to have two words « Sát Thát (Kill the Mongols) » tattooed on their arms like the young general Trần Quốc Toản. According to Trần tradition, once ascended to the throne, the king had to have the dragon tattooed on his thighs to recall his origin. But King Trần Anh Tôn did not appreciate this custom and refused to do so. The tattoo thus disappeared among the nobility.

Today, tattooing is considered by young people in Vietnam as a method of beautifying their bodies according to their preferences and the possibility of expressing their personality, although society sometimes has an unfavorable view of it because it is still influenced to some extent by Confucianism. This is not so important in today’s life because we know that we can live for ourselves and we have the right to freely dispose of our bodies.

With this idea, tattooing has managed to become widely democratized and thus becomes a social phenomenon.

Tài liệu tham khảo:

Lĩnh Nam Chích Quái . Trần Thế Pháp. Nhà xuất bản Hồng Bàng.
Đai Việt Sử Ký Toàn Thư Toàn Bộ. Nhà xuất bản Thời Đại.
Văn Lang Dị Sử. Nguyễn Lang. Lá Bối.

Tại sao Việt Nam ta không bị đồng hóa?

Tại sao Việt Nam ta không bị đồng hóa?

Pourquoi le Vietnam n’est pas assimilé?

Why is Vietnam not assimilated?

Version française 

English version

Rất hiếm có trong lịch sử loài người  một nước như Việt Nam chúng ta bị thống trị bởi người Hoa có một ngàn năm mà không bị đồng hóa. Làm thế nào một dân tộc chỉ có  mãnh đất « Đồng Bằng Bắc Bộ » không bị chinh phục bởi một đế chế rộng lớn  “Trung Quốc” cai quản một lãnh thổ  ngày nay tương đương  với Âu Châu?  Chúng ta cần tìm hiểu những lý lẽ  nào ông cha ta đã thành công trong việc thoát khỏi sự thống trị và dành lại độc lập chớ theo nhà Hán học Christine Nguyen Tri  [1], giảng viên của trường INALCO (Paris)  thì Trung Quốc là một ma trận kì ảo: nó thu hút các lãnh thổ xung quanh và cư dân. Những người nầy từ lúc bước vào ma trận thì vĩnh viễn ở mãi mãi trong đó. 

Dù có xâm chiếm  và cai trị được Trung Hoa một thời như các dân tộc hiếu chiến  Nữ Chân (nhà Liêu), Mông Cổ (nhà Nguyên) hay Mãn Châu (nhà Thanh) rồi cũng bị đồng hóa bởi người Hán.  Còn ta có gì  để thoát khỏi được sự Hán hóa nhất là dân tộc ta thường được xem kém cỏi về dân số chỉ vỏn vẹn một triệu người so với dân số thời vua Hán Vũ Đế (50 triệu) chưa kể nói đến lễ nghĩa còn phải học với sách vở của Khổng Phu Tử, còn  lại không biết cày cấy cần nhờ các  thái thú  Cửu Chân thời nhà Tây Hán Tích Quan (Si Kouang) và Nhâm Diên (Ren Yan) dạy dân khai khẩn ruộng đất, hàng năm cày trồng để  cho trăm họ no đủ trong  Hậu Hán Thư.  Thời đó những bộ tộc sống bên ngoài nền văn minh Trung Quốc như Yi, Rong, Di, Man thì được viết với bộ thủ của một con vật để nói lên sự khinh khi và miệt thị. Như vậy những dân tộc Nữ Chân, Mông Cổ hay Mãn Châu dù có sức mạnh lúc đó  để thống trị nước Trung Hoa nhưng văn hóa họ kém nên bị đồng hóa.

Còn ta không bị đồng hóa tức là phải có  một văn hóa  tương đương với nền văn hoá của họ. Điều nầy đã được rõ từ khi có  các cuộc nghiên cứu di truyền trong thời gian qua.  Với nghiên cứu của Huang et al. 2020 [2] thì cho thấy  người Việt cổ là hậu duệ của văn hóa Đồng Sơn  vì các mẫu di truyền cổ của văn hóa Đông Sơn là của người Việt hiện đại trùng lặp với nhau. Đây cũng là  một  văn hoá độc lập cuối cùng trước khi nước ta mất  quyền tự chủ và bị rơi vào thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc. Chính nó là văn hóa thừa kế  từ văn hóa Phùng Nguyên và các văn hóa ở  vùng hạ và trung lưu của  sông Dương Tử  (Lương Chử và Thạch Gia Hà) tức là văn hóa trồng lúa nước mà nhà khảo cổ Pháp Madeleine Colani khám phá ra được ở  làng Hoà Bình (Việt Nam) vào năm 1922 và cho nó với cái tên Hòa Bình. Văn hóa nầy cách ngày nay 15.000 năm, kéo dài cho đến 2.000 năm trước Công Nguyên ở Đông Nam Á.

Theo tác giả Lang Linh[4] ý thức Việt có thể nói là cốt lõi của người Việt, đó chính là ý thức dân tộc, bắt đầu xuất hiện từ thời văn hóa Lương Chử ở  hạ lưu sông Dương Tử, tiếp tục được tộc Việt sử dụng và kế thừa  khoảng chừng 3000 năm  trước Công Nguyên và bị thất bại về sau  trong những cuộc chiến chống xâm lược của các triều đại Sở – Tần – Hán. Văn hóa Lương Chử  là văn hóa đầu tiên hình thành nên cộng đồng tộc Việt, mà trong đó, người Việt thuộc ngữ hệ Nam Á [5] ngày nay đóng một vai trò rất quan trọng. Tên Việt được hình thành từ hình chiếc rìu rồi sau đó đến  thủ lĩnh cầm rìu  với ý nghĩa đại diện tộc Việt trong  nghi lễ [6]. Đến thời kỳ văn hóa Thạch Gia Hà ở vùng trung lưu Dương Tử thì thấy hình ảnh thủ lĩnh đội mũ lông chim cầm rìu và sau đó hình ảnh thủ lĩnh cầm rìu xuất hiện rất phổ biến trên các trống đồng Đồng Sơn khoảng chừng 500 năm trước Công nguyên.

Văn hóa Thạch Gia Hà  nằm ở trong địa bàn của nước Sở. Qua sự mô tả địa lý trong truyền thuyết thì được biết nước Văn Lang thời đó đóng đô ở Phong Châu, có đất đai rộng lớn giáp ranh bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba Thục (Tứ Xuyên). Theo nhà Hán học Pháp Léonard Aurousseau, Văn Lang  nằm trong địa bàn của nước Sở gồm có hai tỉnh Hồ  Bắc (Hubei) và Hồ  Nam (Hunan)  thời Xuân Thu. Cư dân nước Sở thời đó có thói xăm  mình, ưa ở trong nước, cắt tóc để tựa  giống các cá sấu con tránh sự  tấn công của các con sấu lớn theo lời tường thuật của Tư Mã Thiên trong sử ký mà được  nhà khảo cổ Pháp Edouard Chavannes [7] dịch lại (ibid 216).

Hơn nữa theo Léonard Aurousseau, các lãnh tụ của người Việt cổ và nước Sở đều có tên thị tộc chung là Mị (hay tiếng dê  con kêu trong tiếng Hán-Nôm)  như vậy họ cùng chung  tổ tiên. Theo Léonard Aurousseau [8], ở thế kỷ IX trước Công Nguyên, một nhóm người của lãnh chúa phong kiến nước  Sở có tên thị tộc Mị  di cư dọc theo sông Dương tử và xâm  chiếm vùng đất phì nhiêu ở Chiết Giang lập nên một vương quốc Việt chỉ được nói đến  trong biên niên sử Trung Hoa ở  vào thế thế kỷ VI trước Công Nguyên (ibid 261).Tại sao có cuộc di cư diễn ra như vậy ? Điều nầy Léonard Aurousseau  không giải thích nhưng theo tác giả Lang Linh thì vua nước Sở không còn phải là ngưòi Việt mà là người Hoa được nhà Châu phong chức sau khi diệt được nhà Thương ở đất của đại tộc Bách Việt. Chính vì vậy có cuộc di cư dẫn đến sự thành hình nước Việt của Câu Tiễn ở cuối thời Xuân Thu  ở bắc Chiết Giang mà trước đó  không nghe nói đến trong sử Trung Hoa. Tại sao Léonard Aurousseau khẳng định tổ tiên của chúng ta cùng  một gốc với nguời Việt của vương quốc Câu Tiễn? Trong sử sách của ta lúc nào cũng dùng bộ thủ Việt để chỉ  định người Việt, nước Việt chúng ta còn trong sử ký Trung Hoa cũng dùng bộ thủ nầy để nói đến vương quốc của Câu Tiễn.

Cũng theo Léonnard Aurousseau thì  ngoài tên Lo Yue (Lạc Việt)  dưới thời  nhà Châu, Si ngeou (Tây Âu) hay Ngeou-Lo (Âu Lạc) dưới nhà Tần, tổ tiên của dân tộc ta cùng gốc với dân tộc Việt của Câu Tiễn  ở vùng Ôn Châu (Chiết Giang).  Trước  hết cả hai dân tộc đều có cùng một nhánh Ngeou  chung trong tộc Việt. Dân tộc ta thi được gọi là  Si Ngeou (tộc Việt ở phương Tây)  còn dân tộc ở Ôn Châu, Chiết Giang  (Wen-tcheou, Tchô-kiang) thì Tong Ngeou (tộc Việt ở phương Đông). Nhánh Ngeou trong tộc Việt rất quan trọng để nói lên mối họ hàng thân thiết, từ nhánh đó họ xuất thân. Sau đó ông còn chứng  minh rằng hai tộc Việt  nhánh Ngeou nầy có những tập tục giống nhau như cắt tóc, xăm mình, khoanh tay, gài vạt áo bên tay trái vân vân (ibid 248)  Tập tục khoanh tay hay thường thấy ở người Việt chúng ta để bày tỏ sự kính trọng chớ không có trong nghi lễ của người Hoa.

Dựa trên các luận điểm trên, Léonard Aurousseau khẳng định tổ tiên của ta cùng cư dân của vương quốc Việt của Câu Tiễn cùng chung một thị tộc. Nước Việt của Câu Tiển bị thôn tính bởi nước Sở vào  năm 333 TCN  (trước  Công Nguyên) và sau đó nước Tần diệt Sở,  thống nhất Trung Hoa thì có một cuộc di tản  trọng đại của các tộc Việt trong đó  có cả tổ  tiên  của chúng ta (người Kinh) quay trở  về  Đông Nam Á bằng cách đi vòng theo các ngọn núi ở  ven bờ biển Đông từ Thái Châu (Chiết Giang)  để  về cư trú ở  Quảng Đông,  Quảng Tây và châu thổ sông Hồng.

Theo sử ký thì có sự thành hình nhiều tiểu quốc tộc Việt dọc theo bờ biển Đông trong cuộc di tản nầy nên mới gọi là Bách Việt rồi từ từ các tiểu quốc nầy thôn tính lẫn nhau để thành hình các nước lớn trong đó có nước Mân Việt, Đông Âu, Tây Âu, Âu Lạc của An Dương Vương (Thục Phán) và Nam Việt của tướng Triệu Đà nhà Tần. Nói tóm lại chỉ có Quảng Đông, Quảng Tây và châu thổ sông Hồng  là  nơi mà các tộc Việt ngữ hệ Nam Á cùng gốc với tổ tiên  của chúng ta cư ngụ dựa theo  các tâp quán và các cuộc  khảo  cứu di truyền và ngôn ngữ  còn các  tộc  Việt khác bị Trung Quốc đồng  hóa. Bởi vậy khi có cuộc nổi dậy của hai Bà Trưng dưới thời nhà Tây Hán thì hai bà rất  thành công trong việc chiếm được khoảng thời gian đầu 65 thành trì từ Lưỡng Việt (Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay) đến Mũi nậy được 9 quận: Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô, Giao Chỉ,  Cửu Chân và Nhật Nam. Chính cũng các nơi nầy còn tìm thấy về sau các trống đồng mà  Trung quốc nói là thuộc về họ.

Sự việc nầy nói  lên các vùng nầy có một thời thuộc về tộc Việt chúng ta. Theo Leonard Aurousseau  thì cư dân ở châu thổ sông Hồng thời đó tức là thời Hùng Vương gồm có Việt tộc (người Kinh và người Mường), người Tày-Thái-Nùng và người  bản xứ gốc Nam Đảo. Chính nhóm gốc Nam Đảo nổi loạn về sau lập nước Lâm Ấp (Lin Yi) ở thế kỷ thứ 2 SCN  (sau Công Nguyên). Chính trong nhóm Tày-Thái –Nùng có một người Tày tên là Thục Phán (Cao Bằng)  lập ra nước Âu Lạc thay thế họ Hồng Bàng. Vương quốc của Thục Phán hay An Dương Vương chỉ có tồn tại 50 năm bị Triệu Đà tướng nhà Tần diệt lâp nên nước Nam Việt vào năm 207 TCN. Trong thời gian ông cai trị nước Nam Việt, ông dùng chính sách « hoà tập Bách Việt » nhằm thống nhất các bộ tộc Bách Việt và chính sách « Hoa – Việt dung hợp » nhằm đồng hoá  người Hoa ở Lĩnh Nam và ở lãnh thổ nước Nam Việt.

Chính sách nầy  làm các  tộc Việt qui thuận và được xem như là vua nước Việt trong sử sách Việt dưới thời phong kiến chớ ông không phải là đại diện tộc Việt với các sử gia hiện nay. Chính nhờ triều đại mà ông thành lâp có được gần một trăm năm, Việt tộc  của chúng ta  mới  có thời gian thuận lợi để định cư vĩnh viễn ở châu thổ sông Hồng. Họ không bị cuốn  hút bởi khối người Hán tộc và còn tồn tại lại sau mười một thế kỷ thống trị gần như không bị gián đoạn.

Dân tộc ta rất coi trọng việc trồng lúa nước. Từ ngàn xưa, dân ta  khai khẩn trồng lúa nhờ xem thủy triều lên xuống mà thu hoạch được hai lần một năm từ đất. Dân tộc ta rất gắn bó mật thiết với  Đất và Nước, hai nguyên liệu cần thiết trong việc trồng lúa. Vì vậy tổ tiên ta mới dùng hai chữ Đất Nước để ám chỉ Nước, nơi mà họ sinh ra và có liên kết tình cảm sâu sắc với làng mạt. Chính đây cũng là cái nôi của dân tộc Việt, nơi gìn giữ tất cả tập quán và truyền thuyết được phổ biến ở  các đền thờ cúng  tổ tiên mà cũng là nơi bất khả xâm phạm được dưới thời thống trị của người phương Bắc. Phần lớn các làng Việt là của nông dân nên đều có đình, nơi thờ các thành hoàng và những người có công với làng. Các làng Việt được có những đặc quyền bên cạnh quyền lực tuyệt đối của kẻ xâm lăng và có cấu kết cộng động rất chặt chẽ như một đại gia đình. Người nông dân có quyền nói tiếng mẹ đẻ không cần học viết chữ Hán vì đâu có tiếp cận thường ngày với  người Hán chỉ nhờ đến các hương chức ở trong làng. Còn nếu có học chữ Hán thì chỉ  có giới tinh hoa học cần  hiểu văn bản kinh thư tiếng Hán để thi cử còn nói thì vẫn dùng âm Hán Việt. Như vậy hoàn toàn không thể biến tiếng Việt thành một phương ngữ của Hán ngữ vì ta vẫn hoàn toàn nói và nghe bằng tiếng mẹ đẻ dù viết chữ Hán. Nhờ đó việc Hán hóa về ngôn ngữ trở thành vô dụng vì theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hải Hoành [7], tiếng ta còn thì nước ta còn. Ông cha ta  đã sớm nghĩ tới việc mượn thứ chữ này làm chữ viết cho dân tộc ta từ thời Sĩ Nhiếp. Mỗi chữ Hán đều  có một âm tiếng Hán, muốn học chữ Hán tất phải đọc được âm của nó. Mỗi chữ Hán đều được đặt cho một (hoặc vài) cái tên tiếng Việt xác định, gọi là từ Hán-Việt.Thứ chữ Hán đọc bằng âm Hán-Việt này được dân ta gọi là chữ Nho. Chỉ cần học mặt chữ, nghĩa chữ và cách viết văn chữ Hán mà không cần học phát âm cũng như học nghe/nói tiếng Hán.

Theo nhà nghiên cứu Pháp  Bernard Philippe Groslier (CNRS) [9], làng Việt  xem như là một tế bào được nuôi dưởng  trong mỗi lô đất của đồng bằng phù hợp với phương pháp canh tác mà nó còn là một hộ gia đình độc lập về chính trị và đồng nhất về mặt xã hội khiến nó trở thành một công cụ hiệu quả chống ngoại xâm và bành trướng lãnh thổ. Như vậy làng  ta  có sức sống mãnh liệt mà cũng là sức mạnh cho sự bành trướng không thể tưởng tượng trong cuộc hành trình về phương nam. (Chiêm Thành và Chân Lập).

Chính nhà Đông Phương học Pháp Paul Mus [10] cũng đã nhận thấy ra điều nầy nên ông  mới viết như sau: Việt Nam là xã  hội làng mạc. Làng là « yếu tố cơ bản » vì nó đã « xây dựng » quốc gia  Việt Nam (ibid.: 329). Làng là « thành trì của cuộc kháng chiến thắng lợi chống Trung Quốc » (ibid.: 279) và rộng hơn, nó là lò nung đốt  của « tính không phân nhường quốc gia » để chống lại « các  cuộc  chia rẻ và chinh phục » (ibid.: 19). Người Hán chỉ nắm quyền đến cấp huyện còn làng xã ta do người Việt đứng đầu quản lý. Có lẽ người Hán quá tự tin họ nhất là họ đồng hóa dễ dàng dân Bách Việt  phía Nam sông Dương Tử nên họ nghĩ có thể đồng hóa tổ tiên của chúng ta (Âu Lạc) như vậy. Chắc hẳn người Hán  dựa lên câu nói của nhà triết gia Mạnh Tử của họ  như sau: Tôi đã nghe nói về những người  sử dụng học thuyết của đất nước chúng ta để thay đổi những kẻ man rợ, nhưng tôi chưa bao giờ nghe nói về những người chúng ta bị những kẻ man rợ thay đổi. Chính vì họ không thấu hiểu người Việt chúng ta nên mới có  sự khinh khi miệt thị. Có một thời họ còn gọi dân ta là những người đi chân trần chớ đâu có biết rất tiện leo cây và suốt ngày tay lấm chân bùn trong nước cho việc trồng lúa. Họ quên rằng dân tộc ta xuất thân từ hạ lưu sông Dương Tử  với văn hóa Lương Chử, một văn hóa tương đương  với văn hóa họ có 3000 năm TCN di tản chịu nhiều  gian khổ để định cư cuối cùng ở đồng bằng sông Hồng  qua nhiều thế kỷ. Họ quên rằng dân tộc ta là dân tộc có sức sống mãnh liệt và một tộc còn lại duy nhất gồm tựu lại tất cả thành phần ưu tú của các tộc Việt trong đại tộc Bách Việt không bị họ Hán hóa và không  chịu qui phục trước bạo lực dù bị họ thống trị suốt một ngàn năm. Họ quên rằng dân tộc ta thà mất đất chớ lúc nào cũng muốn thoát  ảnh hưởng họ nên trong bộ thủ « Việt » của tự  điển Hán-Nôm về sau  có thêm ý  nghĩa « thoát » và dùng chử Hán để phổ biến tiếng nôm của ta một cách tuyệt vời. Họ quên rằng làng xã của dân ta là một thành trì kiên cố bất khả xâm phạm không những để chống họ mà còn là một công cụ bành trướng  hữu hiệu trong cuộc hành trình về phương nam.  Làm sao có thể không hiểu  thâm ý  của họ  một khi  thông hiểu  tường  tận binh thư Tôn Tử của họ trong suốt thời gian bị đô hộ.

Lấy lại câu nói kết luận của Léonard Aurousseau, sau hai mươi hai thế kỷ đấu tranh, người dân Việt  dừng lại, nhận thức  mình đã  tôn vinh  những nỗ lực ban đầu của tổ tiên từ bờ biển Đông và đã mãn nguyện có được môt quê hương dường như điều mong  muốn nó phù hợp với  trí tuệ của giống nòi.  

[Return] 

Il est très rare dans l’histoire de l’humanité qu’un pays comme le Vietnam ait été dominé par les Chinois pendant mille ans sans être assimilé. Comment une nation ne possédant qu’une portion de territoire appelée « Delta du Tonkin » aurait- elle pu ne pas être conquise par un vaste empire appelé  la « Chine » qui régnait sur un territoire aujourd’hui équivalent à l’Europe ? Il est nécessaire de comprendre les raisons qui ont poussé nos ancêtres à échapper à la domination et à retrouver leur indépendance, car selon la sinologue Christine Nguyen Tri [1], maître de conférences à l’INALCO (Paris), la Chine est une matrice magique : elle attire les territoires et leurs habitants. Ces derniers, dès leur entrée dans la matrice, y demeurent à jamais.

Bien qu’ils aient réussi à  envahir et gouverner  la Chine durant une période comparable à celle des guerriers Jurchen (dynastie Liao), des Mongols (dynastie Yuan) ou des Mandchous (dynastie Qing), ils étaient  néanmoins  assimilés  par les Han. Comment  pouvons-nous faire pour échapper à la sinisation, surtout quand notre peuple est souvent considéré comme inférieur, seulement un million d’habitants comparés à la population de l’empereur Wu Di des Han (50 millions) en termes de population, sans compter que nous devons encore apprendre les bonnes manières  dans les livres de Confucius, et que nous ne savons ni labourer ni cultiver les champs de riz? Nous avons donc besoin de l’aide des préfets de Cửu Chân sous la dynastie des Han occidentaux, Si Kouang et Ren Yan, qui ont appris à notre population à mettre en valeur  la terre, à la labourer et à la cultiver chaque année pour subvenir aux besoins de la population selon  le Livre des Han postérieurs. À cette époque, les tribus vivant en dehors de la civilisation chinoise, comme les Yi, Rong, Di et Man, étaient désignées par les Han à l’aide du radical d’un animal pour exprimer leur mépris et leur dédain. Ainsi, les Jurchens, les Mongols  et les  Mandchous, malgré leur pouvoir de dominer la Chine à cette époque, avaient une culture inférieure et ils étaient donc assimilés.

 Si nous ne sommes pas assimilés, nous devons avoir une culture équivalente à la leur. Cela est clairement apparu depuis des études génétiques récentes. Selon les recherches de Huang et al. 2020 [2], il est démontré que les anciens Vietnamiens sont les descendants de la culture Dong Son, car les anciens échantillons génétiques de cette culture sont ceux du peuple vietnamien moderne. Il s’agit également de la dernière culture indépendante avant que notre pays perde son autonomie et  tombe dans une période de 1 000 ans sous la domination chinoise. Il s’agit de la culture héritée de la culture de Phùng Nguyên et des cultures des cours inférieur et moyen du fleuve Yangtsé (Lianzhu et Shijiahé), c’est-à-dire la culture du riz inondé que l’archéologue française Madeleine Colani a découverte dans le village de Hoa Bình (Vietnam) en 1922 et lui a donné le même nom. Cette culture vieille de 15 000 ans a perduré jusqu’à 2 000 ans avant J.-C. en Asie du Sud-Est.

 Selon l’auteur Lang Linh [4], la conscience Yue (Việt)  peut être considérée comme le noyau du peuple Yue (Việt), c’est-à-dire la conscience nationale apparue à partir de la culture  de Liangzhu dans le cours inférieur du fleuve Yangtsé, a continué à être utilisée et héritée par le peuple Yue  (Việt)  environ 3000 ans avant J.-C. et a été vaincue plus tard dans les guerres contre l’invasion des dynasties Chu-Qin-Han. La culture de Liangzhu a été la première culture à former la communauté ethnique Yue (Việt), dans laquelle le Proto-Vietnamien appartenant à la famille linguistique sud-asiatique [5] jouait à cette époque un rôle très important. Le nom Yue (Việt) a été formé à partir de l’image d’une hache, puis celle d’un chef tenant la hache dans le but de représenter le peuple Yue (ou Việt)  dans les rituels [6]. Pendant la période de la culture Shijiahé dans le moyen fleuve Yangtsé, l’image du chef portant un chapeau de plumes tenant une hache était apparue  très couramment sur les tambours en bronze de Dong Son environ 500 ans.

La culture de Shijiahé était située sur le territoire de l’État de Chu. La description géographique de la légende indique que l’État de Văn Lang avait alors sa capitale à Phong Châu, avec une zone très vaste  bordant le lac Dongting au nord, Hồ Tôn (Champa) au sud, la mer de Chine méridionale à l’est et Ba Thục (Sichuan) à l’ouest. Selon le sinologue français Léonard Aurousseau, Văn Lang était située sur le territoire de l’État de Chu, comprenant en gros les deux provinces du Hubei et du Hunan pendant la période des Printemps et Automnes. Les habitants de l’État de Chu avaient alors l’habitude de se tatouer, de rester dans l’eau, et de se couper les cheveux pour ressembler à des petits crocodiles afin d’éviter les attaques des grands crocodiles, selon les archives historiques de Sima Qian, traduites par l’archéologue français Édouard Chavannes [7] (ibid. 216).

De plus, selon Léonard Aurousseau, les dirigeants de l’ancien Vietnam et de l’État Chu portaient tous le même nom de clan, Mị (ou le bêlement du mouton en sino-nôm), partageant ainsi les mêmes ancêtres. Selon Léonard Aurousseau [8], au IXème siècle avant J.-C., un groupe important de gens issus de l’État Chu portant le nom de clan Mị migra le long du fleuve Yangtze et envahit les terres fertiles du Zhejiang, établissant un royaume Yue (Việt) qui n’était mentionné dans les chroniques chinoises qu’au VIème siècle avant J.-C. (ibid. 261). Pourquoi cette migration a-t-elle eu lieu ? Léonard Aurousseau n’a pas donné l’explication mais d’après l’auteur Lang Linh, l’état Chu était gouverné désormais par un roi  chinois nommé par la dynastie des Chou (Nhà Châu)   sur le territoire des Bai Yue après avoir éliminé la dynastie des Shang, ce qui expliquait la naissance du royaume Yue de Goujian (Câu Tiễn)  à la fin de la période des Printemps et Automnes dans le nord du Zhejiang.  Ce royaume  n’avait jamais été mentionné auparavant dans l’histoire chinoise. Pourquoi Léonard Rousseau a-t-il affirmé que nos ancêtres avaient la même origine que le peuple Yue du royaume de Goujian (Câu Tiễn) ? Dans nos livres d’histoire, le radical Viet est toujours utilisé pour désigner le peuple vietnamien, notre pays Viet, et dans les livres d’histoire chinois, ce radical est également utilisé pour désigner le royaume de Goujian (Câu Tiễn).

Selon Léonard Aurousseau, outre le nom Lo Yue (Lạc Việt) sous la dynastie Zhou, Si ngeou (Tây Âu) ou Ngeou-Lo (Âu Lạc) sous la dynastie Qin, les ancêtres de notre peuple ont la même origine que le peuple Yue de Goujian (Câu Tiễn) dans la région de Wenzhou  (Ôn Châu)(Zhejiang). Tout d’abord, les deux peuples ont la même branche commune Ngeou au sein du peuple Yue(Việt). Notre peuple est appelé Si Ngeou (peuple Yue de l’Ouest) tandis que les habitants de Wenzhou, Zhejiang (Wen-tcheou, Tchô-kiang) sont appelés Tong Ngeou (peuple Yue  de l’Est). La branche Ngeou au sein du peuple Yue (Việt)  est très importante pour montrer la parenté étroite dont ils sont issus. Il a ensuite prouvé que les deux groupes ethniques Yue (Việt) de la branche Ngeou avaient des coutumes similaires telles que se couper les cheveux, se tatouer, croiser les bras, mettre le pan de chemise sur le bras gauche, etc. (ibid 248). La coutume de croiser les bras est souvent observée chez les Vietnamiens pour montrer du respect, mais elle ne se retrouve pas dans les rituels chinois.

En s’appuyant  sur ces arguments, Léonnard Aurousseau affirmait que nos ancêtres et les habitants du royaume Yue de  Goujian (Câu Tiễn) appartenaient au même clan. Le royaume Yue de Goujian (Câu Tiễn)  fut annexé par le royaume Chu (Sờ) en 333 av. J.-C. (avant notre ère), puis le royaume Qin détruisit Chu et unifia la Chine. Il y eut une importante migration des ethnies Yue, dont nos ancêtres (les Kinh), retournant en Asie du Sud-Est en contournant les montagnes de la côte est depuis Taizhou (Thái Châu (Zhejiang) pour s’installer dans le Guangdong, le Guangxi et le delta du fleuve Rouge.

Selon les archives historiques, de nombreuses petites nations Yue se formèrent le long de la côte de la mer de l’Est lors de cette migration, d’où leur nom de Bai Yue (Bách Việt). Ces petites nations s’annexèrent ensuite progressivement pour donner naissance à des royaumes, dont Man Yue, Đông Âu, Tây Âu, Âu Lạc d’An Dương Vương (Thục Phán) et Nam Việt (Nan Yue) du général Zhao To de la dynastie Qin. En résumé, seuls Guangdong,  Guangxi et le delta du fleuve Rouge abritaient des groupes ethniques Yue de même origine que nos ancêtres, d’après les coutumes et les recherches génétiques et linguistiques, tandis que d’autres groupes ethniques Yue étaient  assimilés par la Chine. Ainsi, lors du soulèvement des deux sœurs Trưng sous la dynastie des Han occidentaux, elles réussirent à s’emparer avec succès des 65 premières citadelles de Lưỡng Việt (aujourd’hui Guangdong et Guangxi) jusqu’à Mũi Này, conquérant ainsi 9 districts : Nam Hải, Uất Lâm, Thượng Ngô, Giao Chi, Cửu Chân et Nhật Nam. C’est également à ces endroits que furent découverts plus tard des tambours de bronze que les Chinois prétendaient leur appartenir. Ce fait prouve que ces zones appartenaient autrefois à notre peuple vietnamien.

Selon Léonard Aurousseau, les habitants du delta du fleuve Rouge comprenaient à l’époque du roi Hùng les Proto-Vietnamiens  (peuples Kinh et Mường), les peuples Tày-Thái-Nùng et les peuples autochtones d’origine austronésienne. Ce sont ces derniers  austronésiens  qui établirent plus tard le royaume de Lâm Ấp (Lin Yi) au IIème siècle après J.-C lors de leur révolte. C’est dans le groupe Tày-Thái-Nùng qu’il y avait un Tày nommé Thục Phán (Cao Bằng) qui réussit à fonder  le royaume Au Lac pour remplacer le royaume  Văn Lang de la dynastie des Hồng Bàng. Le royaume de Thục Phán (ou An Dương Vương) ne dura que 50 ans et il fut détruit par Triệu Đà (Zhao To), un général de la dynastie des Qin et le fondateur  du  royaume de Nan Yue  en 207 avant J.C. Durant son règne, il a adopté une  politique de réconciliation de toutes  les tribus Yue et il a mené en même temps une  autre politique de « fusion Han-Yue  » dans le but  d’assimiler tous les Han vivant à Lingnan et dans le  territoire de son royaume. Cette politique a réussi à obtenir  la soumission de tous les Yue et lui a permis d’être considéré comme le roi du Vietnam dans les livres d’histoire vietnamiens à l’époque féodale mais par contre  il n’était pas un représentant légal du peuple vietnamien pour les historiens actuels. C’est grâce à la dynastie qu’il a fondée durant près de cent ans que notre peuple vietnamien  a eu la durée propice à l’installation définitive dans le delta du fleuve Rouge. Il n’a pas été  absorbé par les  Han malgré leur nombre important  et a réussi à survivre durant onze siècles de domination presque ininterrompue.

Notre peuple attachait  une grande importance à la riziculture inondée. Depuis l’Antiquité, notre peuple cultivait le riz en observant le flux et le reflux des marées, ce qui lui permettait  de récolter deux fois par an. Il était profondément attaché à la Terre et à l’Eau, deux ingrédients essentiels à la riziculture. C’est pourquoi nos ancêtres utilisaient les deux mots « Terre » et « Eau » pour désigner leur pays, leur lieu de naissance et montrer le  profond attachement à leur village. Ce dernier était aussi le berceau du peuple vietnamien, où étaient préservées toutes les coutumes et les  légendes orales  dans les temples ancestraux et un lieu inviolable sous la domination des gens du Nord. La plupart des villages vietnamiens appartenaient  à des agriculteurs ; ils possédaient donc tous des maisons communales où étaient vénérés les génies tutélaires  et les gens  ayant eu le mérite de contribuer à leur développement. Les villages vietnamiens bénéficiaient  des privilèges particuliers, malgré le pouvoir absolu des envahisseurs, et possédaient  une structure communautaire très soudée comme  une grande famille.

Les agriculteurs avaient  le droit de parler leur langue maternelle sans apprendre à écrire les caractères chinois, car ils n’étaient  pas en  contact quotidien avec les Han et dépendaient  uniquement des responsables locaux du village.  L’étude des caractères chinois était réservée seulement  pour  l’élite qui avait  besoin de  comprendre les Classiques chinois pour les examens.  À part cela, on continuait à parler  et à écouter avec la langue vietnamienne. Il  est donc absolument impossible de transformer le vietnamien en dialecte chinois, car nous parlons et nous écoutons toujours dans notre langue maternelle, même si nous écrivons les caractères chinois. Par conséquent, la sinisation de la langue devient inutile, car selon le chercheur Nguyen Hai Hoanh [7], tant que notre langue continue à être parlée et écoutée, notre pays continue à  exister. Nos ancêtres avaient envisagé d’emprunter ce type d’écriture chinoise comme système d’écriture pour notre peuple depuis l’époque de Shi Xie. Chaque caractère chinois a une sonorité chinoise. Pour apprendre les caractères chinois, il faut savoir les lire. Chaque caractère chinois porte un ou plusieurs noms vietnamiens spécifiques, appelés des mots sino-vietnamiens. Ce type de caractère chinois lu avec une prononciation sino-vietnamienne est appelé « caractère Nho » par notre peuple.  Il suffit de mémoriser les caractères chinois, leur signification et savoir les écrire correctement  sans avoir besoin d’apprendre la prononciation en chinois.

Selon le chercheur français Bernard Philippe Groslier (CNRS) [9], le village vietnamien est considéré comme une cellule cultivée dans chaque parcelle du delta selon le mode d’agriculture, mais c’est aussi un foyer politiquement indépendant et socialement homogène, ce qui devient en fait un instrument  efficace contre l’invasion étrangère et l’expansion territoriale. Ainsi, notre village possède une forte vitalité et constitue également la force d’une expansion inimaginable lors de la migration vers le sud. (Champa et Chenla).

L’orientaliste français Paul Mus [10] l’a également compris, et il a écrit : « Le Vietnam est une société des villages. Le village est l’« élément fondamental » car il a « construit » la nation vietnamienne (ibid. : 329). Le village est « la citadelle de la résistance victorieuse contre la Chine » (ibid. : 279) et, plus largement, il est le creuset de « l’indivisibilité nationale » pour lutter contre « la division et la conquête » (ibid. : 19). Les Han ne détenaient le pouvoir qu’au niveau du district, tandis que nos villages étaient gérés par les Vietnamiens. Peut-être les Han étaient-ils trop confiants dans leur capacité d’assimiler facilement le peuple Bai Yue au sud du fleuve Yangtsé, et pensaient-ils à pouvoir assimiler ainsi nos ancêtres (Âu Lac)?

Les Han devaient se fier à la parole de leur philosophe Mencius : « J’ai entendu parler de ceux qui ont utilisé les doctrines de notre pays pour changer les barbares, mais je n’ai jamais entendu dire que notre peuple ait été changé par les barbares. C’est parce qu’ils ne nous comprennent pas, nous les Vietnamiens, qu’ils nous méprisent.» Il y avait  un temps où ils nous traitaient comme  des gens aux « pieds nus » car ils  ignoraient  qu’il était très pratique de grimper aux arbres et de passer toute la journée avec  les mains  sales et les pieds remplis de boue dans l’eau pour cultiver du riz. Ils ont oublié que notre peuple était originaire du cours inférieur du Yangtsé, avec la culture de Liangzhu, une culture équivalente à celle qu’ils avaient eue 3 000 ans avant J.-C. et migrait au travers de nombreuses épreuves pour s’installer finalement dans le delta du fleuve Rouge au fil des siècles. Ils ont oublié que notre peuple était un peuple doté d’une forte vitalité inébranlable, le seul peuple restant formé de toutes les élites des groupes ethniques de Bai Yue qui n’a pas été sinisé par eux et qui n’a pas cédé à la violence malgré leur domination millénaire. Ils ont oublié que notre peuple préférait de perdre ses terres et vouloir échapper à leur influence. C’est pourquoi, plus tard,  dans le radical « Việt » du dictionnaire Hán-Nôm  on voit apparaître le sens du mot« fuir (Thoát) ». Grâce  aux caractères chinois, notre langue Nôm  était diffusée de manière remarquable. Ils ont oublié que nos villages étaient une forteresse imprenable, non seulement pour les combattre, mais aussi un puissant instrument  d’expansion vers le sud. Comment ne pas comprendre leur mauvaise intention   après avoir parfaitement appris  le livre de guerre de Sun Tzu durant la période de leur domination ?

En reprenant la conclusion de Léonard Aurousseau, après vingt deux siècles de lutte, les Vietnamiens s’arrêtent et sont conscients d’avoir fait honneur aux premiers efforts de leurs ancêtres du littoral de la mer de l’Est et satisfaits d’avoir crée une patrie qui semblait faite à souhait pour le génie de leur race.

[Return]

English version

It is very rare in human history that a country like Vietnam was dominated by the Chinese for a thousand years without being assimilated. How could a nation possessing only a portion of territory called the « Red River Delta » have not been conquered by a vast empire called « China, » which ruled over a territory today equivalent to Europe? It is necessary to understand the reasons that led our ancestors to escape domination and regain their independence, because according to sinologist Christine Nguyen Tri [1], lecturer at INALCO (Paris), China is a magical matrix: it attracts territories and their inhabitants. The latter, once they enter the matrix, remain there forever.

Although they succeeded in invading and governing China for a period comparable to that of the Jurchen warriors (Liao dynasty), the Mongols (Yuan dynasty), or the Manchus (Qing dynasty), they were nevertheless assimilated by the Han. How can we escape sinicization, especially when our people are often considered inferior, only one million inhabitants compared to the population of Emperor Wu Di of the Han (50 million) in terms of population, not to mention that we still have to learn proper manners from Confucius‘s books, and that we neither know how to plow nor cultivate rice fields? We therefore need the help of the prefects of Cửu Chân under the Western Han dynasty, Si Kuang and Ren Yan, who taught our people to cultivate the land, to plow it and farm it each year to meet the needs of the population according to the Book of Later Han. At that time, tribes living outside Chinese civilization, such as the Yi, Rong, Di, and Man, were designated by the Han using the radical of an animal to express their contempt and disdain. Thus, the Jurchens, Mongols, and Manchus, despite their power to dominate China at that time, had an inferior culture and were therefore assimilated.

If we are not assimilated, we must have a culture equivalent to theirs. This has become clear from recent genetic studies. According to the research of Huang et al. 2020 [2], it is demonstrated that the ancient Vietnamese are descendants of the Dong Son culture, as the ancient genetic samples from this culture are those of the modern Vietnamese people. This is also the last independent culture before our country lost its autonomy and fell into a period of 1,000 years under Chinese domination. It is the culture inherited from the Phùng Nguyên culture and the cultures of the lower and middle courses of the Yangtze River (Lianzhu and Shijiahé), that is, the wet rice culture that the French archaeologist Madeleine Colani discovered in the village of Hoa Bình (Vietnam) in 1922 and gave the same name. This culture, 15,000 years old, lasted until 2,000 BC in Southeast Asia.

According to the author Lang Linh [4], the Yue (Việt) consciousness can be considered as the core of the Yue (Việt) people, that is, the national consciousness that emerged from the Liangzhu culture in the lower Yangtze River basin, continued to be used and inherited by the Yue (Việt) people around 3000 BC, and was later defeated in the wars against the invasion of the Chu-Qin-Han dynasties. The Liangzhu culture was the first culture to form the Yue (Việt) ethnic community, in which Proto-Vietnamese belonging to the Austroasiatic language family [5] played a very important role at that time. The name Yue (Việt) was formed from the image of an axe, then that of a chief holding the axe in order to represent the Yue (or Việt) people in rituals [6]. During the Shijiahé culture period in the middle Yangtze River, the image of a chief wearing a feathered hat holding an axe commonly appeared on Dong Son bronze drums about 500 years ago.

The Shijiahé culture was located in the territory of the State of Chu. The geographical description of the legend indicates that the State of Văn Lang then had its capital at Phong Châu, with a very vast area bordering Dongting Lake to the north, Hồ Tôn (Champa) to the south, the South China Sea to the east, and Ba Thục (Sichuan) to the west. According to the French sinologist Léonard Aurousseau, Văn Lang was located in the territory of the State of Chu, roughly comprising the two provinces of Hubei and Hunan during the Spring and Autumn period. The inhabitants of the State of Chu were then accustomed to tattooing themselves, staying in the water, and cutting their hair to resemble small crocodiles in order to avoid attacks from large crocodiles, according to the historical records of Sima Qian, translated by the French archaeologist Édouard Chavannes [7] (ibid. 216).

Moreover, according to Léonard Aurousseau, the leaders of the former Vietnam and the Chu State all bore the same clan name, Mị (or the bleating of the sheep in Sino-Nôm), thus sharing the same ancestors. According to Léonard Aurousseau [8], in the 9th century BC, a significant group of people from the Chu State bearing the clan name Mị migrated along the Yangtze River and invaded the fertile lands of Zhejiang, establishing a Yue (Việt) kingdom that was only mentioned in Chinese chronicles in the 6th century BC (ibid. 261). Why did this migration take place? Léonard Aurousseau did not provide an explanation, but according to the author Lang Linh, the Chu state was then governed by a Chinese king appointed by the Zhou dynasty (Nhà Châu) over the territory of the Bai Yue after having eliminated the Shang dynasty, which explained the birth of the Yue kingdom of Goujian (Câu Tiễn) at the end of the Spring and Autumn period in northern Zhejiang. This kingdom had never been mentioned before in Chinese history. Why did Léonard Rousseau assert that our ancestors had the same origin as the Yue people of the kingdom of Goujian (Câu Tiễn)? In our history books, the Viet radical is always used to designate the Vietnamese people, our country Viet, and in Chinese history books, this radical is also used to designate the kingdom of Goujian (Câu Tiễn).

According to Léonard Aurousseau, besides the name Lo Yue (Lạc Việt) under the Zhou dynasty, Si ngeou (Tây Âu) or Ngeou-Lo (Âu Lạc) under the Qin dynasty, the ancestors of our people share the same origin as the Yue people of Goujian (Câu Tiễn) in the Wenzhou region (Ôn Châu) (Zhejiang). First of all, the two peoples have the same common branch Ngeou within the Yue (Việt) people. Our people are called Si Ngeou (Western Yue people) while the inhabitants of Wenzhou, Zhejiang (Wen-tcheou, Tchô-kiang) are called Tong Ngeou (Eastern Yue people). The Ngeou branch within the Yue (Việt) people is very important to show the close kinship from which they originate. He then proved that the two Yue (Việt) ethnic groups of the Ngeou branch had similar customs such as cutting hair, tattooing, crossing arms, placing the shirt flap on the left arm, etc. (ibid 248). The custom of crossing the arms is often observed among Vietnamese to show respect, but it is not found in Chinese rituals.

Relying on these arguments, Léonnard Aurousseau claimed that our ancestors and the inhabitants of the Yue kingdom of Goujian (Câu Tiễn) belonged to the same clan. The Yue kingdom of Goujian (Câu Tiễn) was annexed by the Chu kingdom (Sờ) in 333 BC (before our era), then the Qin kingdom destroyed Chu and unified China. There was a significant migration of the Yue ethnic groups, including our ancestors (the Kinh), returning to Southeast Asia by bypassing the mountains on the east coast from Taizhou (Thái Châu (Zhejiang)) to settle in Guangdong, Guangxi, and the Red River Delta.
According to historical records, many small Yue nations formed along the coast of the East Sea during this migration, hence their name Bai Yue (Bách Việt). These small nations gradually annexed each other to give rise to kingdoms, including Man Yue, Đông Âu, Tây Âu, Âu Lạc of An Dương Vương (Thục Phán), and Nam Việt (Nan Yue) of General Zhao To of the Qin dynasty. In summary, only Guangdong, Guangxi, and the Red River Delta housed Yue ethnic groups of the same origin as our ancestors, according to customs and genetic and linguistic research, while other Yue ethnic groups were assimilated by China.

Thus, during the uprising of the two Trưng sisters under the Western Han dynasty, they successfully captured the first 65 citadels of Lưỡng Việt (present-day Guangdong and Guangxi) up to Mũi Này, conquering 9 districts: Nam Hải, Uất Lâm, Thượng Ngô, Giao Chi, Cửu Chân, and Nhật Nam. It was also in these places that bronze drums were later discovered, which the Chinese claimed belonged to them. This fact proves that these areas once belonged to our Vietnamese people.

According to Léonard Aurousseau, the inhabitants of the Red River delta during the time of King Hùng included the Proto-Vietnemese (Kinh and Mường peoples), the Tày-Thái-Nùng peoples, and the indigenous peoples of Austronesian origin. It was these Austronesians who later established the kingdom of Lâm Ấp (Lin Yi) in the 2nd century AD during their revolt. Within the Tày-Thái-Nùng group, there was a Tày named Thục Phán (Cao Bằng) who succeeded in founding the kingdom of Âu Lạc to replace the Văn Lang kingdom of the Hồng Bàng dynasty. The kingdom of Thục Phán (or An Dương Vương) lasted only 50 years and was destroyed by Triệu Đà (Zhao To), a general of the Qin dynasty and the founder of the kingdom of Nam Việt in 207 BC.

During his reign, he adopted a policy of reconciliation of all the Yue tribes and simultaneously pursued another policy of « Han-Yue fusion » with the aim of assimilating all the Han living in Lingnan and in the territory of his kingdom. This policy succeeded in obtaining the submission of all the Yue and allowed him to be considered the king of Vietnam in Vietnamese historical books during the feudal era, but on the other hand, he was not a legal representative of the Vietnamese people for current historians. It is thanks to the dynasty he founded that lasted nearly a hundred years that our Vietnamese people had the favorable time to settle permanently in the Red River Delta. They were not absorbed by the Han despite their large numbers and managed to survive eleven centuries of almost uninterrupted domination.

Our people placed great importance on flooded rice cultivation. Since ancient times, our people cultivated rice by observing the ebb and flow of the tides, which allowed them to harvest twice a year. They were deeply attached to the Earth and Water, two essential ingredients for rice cultivation. That is why our ancestors used the two words « Earth » and « Water » to designate their country, their birthplace, and to show their deep attachment to their village. The latter was also the cradle of the Vietnamese people, where all customs and oral legends were preserved in ancestral temples and considered an inviolable place under the domination of the northern people. Most Vietnamese villages belonged to farmers; therefore, they all had communal houses where tutelary spirits and people who had contributed to their development were venerated. Vietnamese villages enjoyed special privileges despite the absolute power of the invaders and had a very close-knit community structure like a large family.

Farmers had the right to speak their mother tongue without learning to write Chinese characters, as they were not in daily contact with the Han and depended solely on the local village officials. The study of Chinese characters was reserved only for the elite who needed to understand the Chinese Classics for exams. Apart from that, people continued to speak and listen in the Vietnamese language. It is therefore absolutely impossible to transform Vietnamese into a Chinese dialect, because we still speak and listen in our mother tongue, even if we write Chinese characters. Consequently, the sinicization of the language becomes unnecessary, because according to researcher Nguyen Hai Hoanh [7], as long as our language continues to be spoken and listened to, our country continues to exist. Our ancestors had considered borrowing this type of Chinese writing as a writing system for our people since the time of Shi Xie. Each Chinese character has a Chinese sound. To learn Chinese characters, one must know how to read them. Each Chinese character carries one or more specific Vietnamese names, called Sino-Vietnamese words. This type of Chinese character read with a Sino-Vietnamese pronunciation is called « Nho characters » by our people. It is enough to memorize the Chinese characters, their meaning, and know how to write them correctly without needing to learn the pronunciation in Chinese.

According to the French researcher Bernard Philippe Groslier (CNRS) [9], the Vietnamese village is considered as a cultivated cell in each plot of the delta according to the mode of agriculture, but it is also a politically independent and socially homogeneous household, which in fact becomes an effective instrument against foreign invasion and territorial expansion. Thus, our village possesses strong vitality and also constitutes the force of an unimaginable expansion during the migration to the south. (Champa and Chenla).

The French orientalist Paul Mus [10] also understood this, and he wrote: « Vietnam is a society of villages. The village is the ‘fundamental element’ because it ‘built’ the Vietnamese nation (ibid.: 329). The village is ‘the citadel of victorious resistance against China’ (ibid.: 279) and, more broadly, it is the crucible of ‘national indivisibility’ to fight against ‘division and conquest’ (ibid.: 19). The Han held power only at the district level, while our villages were managed by the Vietnamese. Perhaps the Han were too confident in their ability to easily assimilate the Bai Yue people south of the Yangtze River, and thought they could thus assimilate our ancestors (Âu Lac)? »

The Han had to rely on the words of their philosopher Mencius: « I have heard of those who used the doctrines of our country to change the barbarians, but I have never heard that our people were changed by the barbarians. It is because they do not understand us, the Vietnamese, that they despise us. » There was a time when they treated us as « barefoot people » because they ignored that it was very practical to climb trees and spend the whole day with dirty hands and feet covered in mud in the water to cultivate rice. They forgot that our people originated from the lower course of the Yangtze River, with the Liangzhu culture, a culture equivalent to the one they had 3,000 years before Christ, and migrated through many trials to finally settle in the Red River delta over the centuries. They forgot that our people were a people endowed with a strong, unshakable vitality, the only people formed from all the elites of the Bai Yue ethnic groups who were not sinicized by them and who did not yield to violence despite their millennial domination. They forgot that our people preferred to lose their lands rather than submit to their influence. That is why, later, in the radical « Việt » of the Hán-Nôm dictionary, the meaning of the word « to flee (Thoát) » appears. Thanks to Chinese characters, our Nôm language was remarkably disseminated. They forgot that our villages were an impregnable fortress, not only to fight them but also a powerful instrument for expansion towards the south. How can one not understand their ill intentions after having thoroughly studied Sun Tzu’s Art of War during their period of domination?.

Summing up Léonard Aurousseau’s conclusion, after twenty-two centuries of struggle, the Vietnamese pause and are aware that they have honored the initial efforts of their ancestors from the coast of the East Sea and are satisfied with having created a homeland that seemed perfectly suited to the genius of their race.

[Return]

Paris ngày 7/5/2025

 

Tài liệu tham khào :     

[1] Christine Nguyễn Tri: La conquête de l’espace chinois sous les Qin et les Han 221 avant notre ère. Cahiers  CEHD, n°34

[2] Huang, X., Xia, Z., Bin, X., He, G., Guo, J., Lin, C., Yin, L., Zhao, J., Ma, Z., Ma, F., Li, Y., Hu, R., Wei, L., & Wang, C. (2020). Genomic Insights into the Demographic History of Southern Chinese. bioRxiv.

[3] Léonard Aurousseau : La première conquête chinoise des pays annamites (IIIe siècle avant notre ère), Bulletin de l’Ecole française  d’Extrême-Orient. Tome 23, 1923. pp. 136-264

 [4] Lang Linh: Người Việt có bị đồng hóa hay không ? Lược Sử Tộc Việt.

[5] Norman Jerry- Mei tsulin 1976 The Austro asiatic in south China : some lexical evidence, Monumenta Serica 32 :274-301

[6] Đổng Sở Bình 董楚平; “Phương Việt hội thi” “方钺会矢” – Một trong những diễn giải về các nhân vật Lương Chử 良渚文字释读之一[J];东南文化;2001年03期.

[7] Edouard Chavannes: Mémoires historiques. Tome 1

[8] Nguyễn Hải Hoành: Tiếng ta còn thì  nước ta còn.  Bản sắc  văn hóa Việt Nam.

[9] Bernard Philippe Groslier : Indochine. Carrefour .Editions Albin Michel. 1960.

[10] Paul Mus: Sociologie d’une guerre. Editions Seuil 1952.

 

 

Le kouffa (Thuyền thúng)

Thuyền thúng

Version française

Version anglaise

Thuyền thúng là một loại thuyền được trọng dụng ở miền biển Việt Nam nhất là ở miền trung từ Hà Tịnh đến Bình Thuận. Ngoài màu sắc vui tươi,  các thuyền thúng  hay thường dập  dềnh ngoài biển khơi hay nằm phơi nắng trên các bãi cát. Chúng còn là  một phương tiện rất cần thiết với các ngư dân trong việc sử dụng để chuyên chở các hàng hóa từ các tàu thuyền lớn  đánh cá ngoài biển vào bờ hoặc dùng với mục đích khác nhau như  câu tôm hay mực, lặn ngắm xem san hô cho các du khách nước ngoài hay là cứu sinh trong trường hợp khẩn cấp. Không chì tiện dụng  cưởi sóng dễ dàng, mà còn vững chắc thuyền thúng  ít khi bị lật đổ  vì nó nhẹ so với các thuyền thân dài.

Thuyền thúng có hai kích cở, một loại lớn với đường kính là 2,2m và một loại nhỏ là 1,8m. Việc đóng thuyền thúng đòi hỏi người thợ phải có nhiều kinh nghiệm và tâm huyết. Nếu có bất trắc, thuyền bị thắm nước và lật úp thì hậu quả sẽ khó đo lường. Loại tre dùng để đan  không quá non và cũng không già quá. Chỉ dùng cật từ thân tre trở xuống. Ít nhất cũng cần  từ 5 đến 7 cây tre loại đặc.

Thuyền thúng là một minh chứng cuộc sống hằng ngày vất vả của các ngư dân miền trung với khát vọng mong muốn có được một tương lai rực rỡ trong một môi trường sống quá khắc nghiệt.

Le  kouffa est un type de bateau très apprécié sur la côte vietnamienne, en particulier dans la région centrale de Hà Tịnh à Bình Thuận. Outre  leurs couleurs gaies, on voit souvent les kouffas flotter sur la mer ou prendre un bain de soleil sur la plage de sable. Ils sont un moyen  indispensable pour les pêcheurs de pouvoir  transporter les marchandises depuis de grands bateaux de pêche en mer jusqu’au rivage ou à d’autres fins telles que la pêche aux crevettes ou aux calmars, la plongée pour observer les coraux  ou le sauvetage en cas d’urgence. 

Le kouffa  est non seulement maniable pour surfer facilement sur les  vagues mais aussi stable pour éviter d’être renversé car il est léger  par rapport au bateau de dimension importante. Le bateau panier est disponible en deux tailles, l’un grand d’un diamètre de 2,2 m et l’autre petit d’un diamètre de 1,8 m.

La construction d’un bateau-panier nécessite de la part de l’artisan beaucoup d’expérience et de dévouement. En cas de problème, le bateau sera inondé  et chaviré et  les conséquences seront difficiles à prévoir. Le type de bambou utilisé pour le tissage n’est ni trop jeune ni trop vieux. Seuls les nœuds du milieu du bambou jusqu’à la racine sont utilisés. Il faut se servir au moins de 5 à 7 troncs solides de bambous à maturité pour la réalisation de ce bateau-panier.

Le bateau-panier témoigne de la dureté de la vie quotidienne des pêcheurs du Centre qui rêvent d’avoir toujours  un avenir radieux dans un environnement extrêmement rude.

The kouffa is a popular type of boat on the Vietnamese coast, particularly in the central region from Hà Tịnh to Bình Thuận. In addition to their cheerful colors, kouffas are often seen floating on the sea or sunbathing on the sandy beach. They are an indispensable means for fishermen to be able to transport goods from large offshore fishing boats to shore or for other purposes such as shrimp or squid fishing, diving to observe corals or rescue in case of emergency.

The kouffa is not only maneuverable for easy wave riding, but also stable to avoid being knocked over, as it is lightweight compared to the larger boat. The basket boat is available in two sizes, a large one with a diameter of 2.2 m and a small one with a diameter of 1.8 m.

Building a basket boat requires a great deal of experience and dedication on the part of the craftsman. If something should go wrong, the boat will flood and capsize, and the consequences will be difficult to predict. The type of bamboo used for weaving is neither too young nor too old. Only knots from the middle of the bamboo to the root are used. At least 5 to 7 solid, mature bamboo trunks are needed for this basket boat.

The kouffa bears witness to the harsh daily life of the fishermen of the Centre, who dream of a bright future in an extremely harsh environment.

 

Folk songs (Ca Dao)

 

 

 

Vietnamese version

French version

Folk songs are an oral tradition that the Vietnamese people have preserved for four thousand years of their history behind the bamboo hedges of the village. They are often used as a popular expression reflecting the daily life and thoughts of the peasants in opposition to the scholars imposing morality and enclosing the individual in morality and in the imperative network of rites and obligations with their scholarly literature written in nôm.

According to writer Thuần Phong, folk song is considered by Vietnamese intellectuals to be the most characteristic and specifically Vietnamese literary genre, because it is oral literature, anonymous and originating in the rural world. Moreover, ca dao is a song without verse divisions and without musical accompaniment.  Six-eight is the metre for folk songs. Different types of ca dao are performed from North to South:

lullaby (ru con) in the North, (hát đưa em) in the South, sampan song (đò đưa), war drum songs (trống quân) and so on. Despite this, folk song is expounded with a view to respecting the established order on the five duties and three relationships (Ngũ Thường and  Tam Cang) of Confucian and feudal society and manifesting common sense, wisdom, love of life, optimism, satire of feudal society.

As Vietnam is an agricultural country, the peasant’s daily life is always dominated by factors he cannot control in advance, such as floods, droughts, typhoons and so on. His existence is a perpetual struggle. What’s more, in the event of a foreign invasion, the peasant must take up arms and defend the land. From then on, it’s the wife who has to take over from him, replacing him in all the daily chores. These day-to-day difficulties are often cited in folk song, where the peasant not only enjoys a certain freedom, however restricted, to express his human feelings, but also has the opportunity to create a verbal world in which villains are castigated and sneered, and to depict his beloved animals with realism and precision. Such is the case with familiar animals like the egret, the buffalo and the pig.

As a hunter-gatherer animal that looks noble and innocent in the rice fields and closer to the peasants, the egret has to search hard for food day and night, but it can fly away freely at any time towards the blue sky, as so many peasants dream of always having faith in the future and optimism as opposed to the scholar.  For the peasant, freedom is priceless, despite the daily toil he is accustomed to sharing with the buffalo. As for the pig, it’s synonymous with wealth and prosperity.

The folk song quoted below evokes the fate of peasants in the face of calamity under feudal rule. Analogous to the egret, the peasant does not escape death, but she wishes to die with dignity rather than in dishonor. This is the essence of the folk song that has won the admiration of generations of Vietnamese.

Con cò mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi, ông vớt tôi nào,
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.
Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.

The egret searching for food at night
From a flexible branch has fallen into the pond
Sir, please fish me out of here
If I’ve done wrong, you can cook me with bamboo shoots.
But if it’s done, it’s better to do it in clear water
Cloudy water would hurt the little egret’s heart

The image of the buffalo is closely linked to Vietnam’s rural landscape. Buffalo are often seen harrowing the soil after ploughing in rice fields.  This is why the buffalo’s arduous task is described in the following folk songs:

Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cầy cấy vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.

O my buffalo, listen to what I say
You go to the rice field and plough with me; 
Ploughing and transplanting is a ploughman’s trade
Here I am, here you are, who of us pities his pain.

Trên đồng cạn dưới đồng sâu,
Chồng bừa vợ cấy con trâu đi cày.

In the low rice field and in the deep rice field,
The husband harrows, the wife transplanting, the buffalo ploughing.

Analogous to the buffalo, the pig is also an animal often cited in Vietnamese folk songs. It is first used to describe the situation of a polygamous person in Vietnam:

Một vợ nằm giường lèo,
Hai vợ nằm chèo queo,
Ba vợ thì xuống chuồng heo mà nằm.

With one woman, you have the right to sleep in the bed in a decent way,
With two wives, you start sleeping on your own.
But with three wives, you deserve to be in the pigsty.

The criticism is scathing for people who mistreat their colleagues when they are poor and destitute, and who bow their heads and show their docility to powerful and wealthy people:

Mèo tha miếng thịt xôn xao,
Hùm tha con lợn thì nào thấy chi

We become agitated when the cat snatches a piece of meat,
We remain impassive when the tiger devours a pig.

We use physiognomy to give an indication about a person we meet:

Trông mặt mà bắt hình dong,
Con lợn có béo thì lòng mới ngon.

By looking at someone’s face, you already have an idea of his personality, just as in the case of a fat pig, you know that it always has delicious guts.

It’s also through popular song that we come to know the farmer’s deep attachment to his native land. The water of his pond is the most pleasant despite the vagaries of nature and the ups and downs of the life he has had.

Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn

Let’s go back home and bathe in our pond.
Whether the water is clear or turbid, our pond is always better.

Ca Dao (Chansons populaires)

 

Chansons populaires (Ca Dao)

Version vietnamienne

English version

Les chansons populaires sont une tradition orale que le peuple vietnamien a su conserver depuis quatre mille ans de son histoire derrière les haies de bambou du village. Elles sont employées souvent comme une expression populaire reflétant la vie quotidienne  et la pensée des paysans  en opposition  aux lettrés imposant la morale et enserrant l’individu dans la morale et dans le réseau impératif de rites et d’obligations  avec leur littérature  savante écrite en nôm.

Selon l’écrivain Thuần Phong, la chanson populaire est considérée par les intellectuels vietnamiens comme le genre littéraire le plus caractéristique et le plus spécifiquement vietnamien car elle est la littérature orale, anonyme et issue du monde rural. De plus ca dao est un chant non soumis à des divisions en couplets et sans accompagnement de musique.  Le Six-Huit est le mètre des chansons populaires. Différents genres de ca dao sont divulgués  du Nord jusqu’au Sud: berceuse (ru con) dans le Nord, (hát đưa em) dans le Sud, chant des sampaniers (đò đưa), chants du tambour de guerre (trống quân) etc. Malgré cela, la chanson populaire est exposée dans  le souci de respecter l’ordre établi sur les cinq devoirs et les trois relations (Ngũ Thường Tam Cang) de  la société confucéenne et féodale et de manifester le bon sens, la sagesse, l’amour de la vie, l’optimisme, le satire de la société féodale.

Comme le Viêt-Nam est un pays agricole, la vie quotidienne  du paysan  est toujours dominée par des facteurs qu’il n’arrive pas à  maîtriser  à l’avance comme  l’inondation, la sécheresse, le typhon etc. Son existence est une lutte perpétuelle. De plus, lors d’une invasion étrangère, le paysan doit prendre les armes et défendre la terre. Dès lors  c’est la femme qui doit assumer la relève et le remplacer dans tous les travaux journaliers. Ces difficultés journalières sont souvent citées dans la chanson populaire où le paysan jouit non seulement d’une certaine liberté même restreinte pour exprimer ses sentiments humains mais aussi de la possibilité de créer un monde verbal où les méchants sont fustigés et ricanés et  de dépeindre ses animaux proches avec réalisme et précision. C’est le cas des animaux familiers comme l’aigrette , le buffle et le cochon.

Etant un animal chasseur-cueilleur ayant l’air noble et innocent dans les rizières et plus proche des paysans, l’aigrette doit chercher durement de jour comme de nuit la nourriture mais elle peut s’envoler librement  à tout moment vers le ciel bleu comme tant de paysans rêvent avoir toujours la foi en l’avenir et l’optimisme  en opposition aux lettrés.  Pour le paysan, la liberté n’a pas de prix en dépit du labeur journalier qu’il est habitué à partager avec le buffle. Quant au cochon, il est synonyme de richesse et de prospérité.

La  chanson populaire  citée ci-dessous  évoque le sort  des paysans face à la calamité sous le régime féodal. Analogue à l’aigrette, le paysan n’échappe pas à la mort mais elle souhaite mourir avec dignité au lieu d’être  décédé dans le déshonneur. C’est là qu’on trouve l’essence de la chanson populaire qui a suscité l’admiration de plusieurs générations des Vietnamiens.

Con cò mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi, ông vớt tôi nào,
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.
Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.

L’aigrette qui la nuit cherche sa nourriture
D’une branche flexible est tombée dans la mare
Monsieur, repêchez-moi d’ici
Si j’ai mal fait, vous pourrez me faire cuire aux pousses de bambou.
Mais si c’est fait, il vaut mieux le faire dans une eau limpide
Une eau trouble ferait mal au cœur de la  petite aigrette.

L’image du buffle est liée étroitement au paysage rural du Vietnam. On a l’habitude de voir souvent les buffles herser le sol  après le labourage dans les rizières.  C’est pourquoi la tâche pénible du buffle est décrite dans les chansons populaires suivantes :

Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cầy cấy vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.

Ô mon buffle, écoute ce que je te dis
Tu vas à  la rizière, tu  laboures avec moi;  
Labourer et repiquer c’est le métier des laboureurs
Moi que voici, toi que voilà, qui de nous plaint sa peine.

Trên đồng cạn dưới đồng sâu,
Chồng bừa vợ cấy con trâu đi cày.

Dans la rizière basse  et dans la rizière profonde,
Le mari herse, la femme repique, le buffle laboure.

Analogue au buffle, le cochon est aussi un animal souvent cité dans les chansons populaires vietnamiennes. Il est employé d’abord pour décrire la situation d’une personne polygame au Viêt-Nam:

Một vợ nằm giường lèo,
Hai vợ nằm chèo queo,
Ba vợ thì xuống chuồng heo mà nằm.

Avec une femme, on a le droit de dormir dans le lit d’une manière convenable,
Avec deux femmes, on commence à dormir tout seul
Mais avec trois femmes, on mérite d’être à la porcherie.

La critique est acerbe pour  les gens qui maltraitent leurs collègues quand ceux-ci sont pauvres et sans ressources et qui courbent leur tête et montrent leur docilité face à des gens puissants et riches :

Mèo tha miếng thịt xôn xao,
Hùm tha con lợn thì nào thấy chi.

On s’agite quand le chat happe un morceau de viande,
On reste impassible quand le tigre dévore un cochon.

On se sert de la physionomie pour donner une indication sur une personne rencontrée :

Trông mặt mà bắt hình dong,
Con lợn có béo thì lòng mới ngon.

En regardant le visage de quelqu’un, on a déjà une idée sur sa personnalité comme dans le cas d’un cochon gras, on sait qu’il a toujours des boyaux délicieux.

C’est aussi par la chanson populaire ci-dessous qu’on connait l’attachement profond du paysan à sa terre natale. L’eau de son étang est la plus agréable malgré les aléas de la nature et les hauts et les bas de la vie qu’il a eus.

Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn

Retournons chez nous et baignons nous dans notre étang.
Que l’eau soit limpide ou trouble, l’étang de chez nous est toujours meilleur.

Version vietnamienne

Ca dao là truyền thống truyền miệng (truyền khẩu) mà người  dân Việt đã gìn giữ trong suốt bốn ngàn năm lịch sử sau những hàng tre của ngôi làng. Chúng thường được dùng như một  câu nói  phổ biến phản ánh đời sống và suy nghĩ thường ngày của những  người nông dân, không giống như các sĩ phu áp đặt đạo đức và ràng buộc cá nhân vào mạng lưới của các nghi lễ và nghĩa vụ bằng văn học uyên bác của họ được viết bằng chữ Nôm.

Theo nhà văn Thuần Phong, ca dao được giới trí thức Việt Nam coi là thể loại văn học đặc trưng và riêng biệt nhất của Việt Nam vì đây là thể loại văn học truyền miệng, vô danh và có nguồn gốc đến  từ nông thôn. Hơn nữa, ca dao là một bài hát không chia ra thành từng câu và không có nhạc đệm. Thể thơ Lục Bát hay thường dùng trong các bài ca dao. Có  rất nhiều loại ca dao khác nhau từ Bắc đến  Nam: hát ru con ở miền Bắc, hát đưa em  ở miền Nam, hát đò đưa, hát trống quân… Mặc dù vậy, ca dao  quan tâm đến việc tôn trọng trật tự đã được thiết lập dựa trên ngũ thường và tam cang trong xã hội phong kiến và nho giáo, đồng thời  nó  còn thể hiện sự lương tri, trí tuệ, tình yêu cuộc sống, sự lạc quan, châm biếm xã hội phong kiến.

Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp nên  cuộc sống hàng ngày của người nông dân luôn bị chi phối bởi những yếu tố mà họ không thể kiểm soát trước, chẳng hạn như lũ lụt, hạn hán, bão vân vân. Sự tồn tại của họ là một cuộc đấu tranh triền miên. Hơn nữa, khi có cuộc xâm lược  từ bên ngoài, người nông dân phải cầm vũ khí và bảo vệ đất đai. Từ đó trở đi, người phụ nữ phải là người thay thế chồng trong mọi công việc hàng ngày. Những khó khăn thường ngày này thường được nói  đến  trong những ca dao, nơi người nông dân hưởng quyền tự do tối thiểu  để thể hiện không chỉ cảm xúc của mình mà còn tạo ra cho  mình một thế giới mà có thể  dùng lời nói để  chế giểu và trừng phạt những kẻ độc ác và  để miêu tả những con vật gần gũi của mình một cách chân thực và chính xác. Đây là trường hợp của con cò, con trâu và con heo.

Là loài động vật săn bắt và hái lượm trông vẻ cao quý và ngây thơ trên những cánh đồng lúa và gần gũi với người nông dân, con cò phải vất vả kiếm ăn ngày đêm nhưng nó có thể lựợn  bay tự do bất cứ lúc nào hướng về bầu trời xanh cũng như bao nhiêu người nông dân hay thường mơ ước có được niềm tin trong tương lai và sự lạc quan, không giống như các  sĩ phu.  Đối với người nông dân, tự do là vô giá bất chấp công việc nhọc nhằn  hàng ngày mà họ phải chia sẻ với con trâu. Còn với con lợn, nó đồng nghĩa với sự giàu có và thịnh vượng.

Bài ca dao dưới đây  gợi lên cảnh ngộ khốn khổ của người nông dân phải đối mặt với tai ương dưới chế độ phong kiến. Tương tự như loài cò, người nông dân không thoát khỏi cái chết nhưng muốn chết với danh dự thay vì qua đời trong tủi nhục. Đây chính là nơi mà chúng ta tìm thấy được  bản chất thật sự của bài ca dao  nầy.  Nó đã khơi dậy sự ngưỡng mộ của nhiều thế hệ người dân Việt.

Con cò mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi, ông vớt tôi nào,
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.
Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.

Hình ảnh con trâu  thường được gắn liền với phong cảnh nông thôn của nước Việt. Chúng ta hay  quen nhìn thấy trâu thường xới đất sau khi cày trên ruộng lúa. Đây là lý do việc  cực nhọc vất vả của con trâu được miêu tả trong những bài ca dao sau đây:

Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cầy cấy vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.

hay là

Trên đồng cạn dưới đồng sâu,
Chồng bừa vợ cấy con trâu đi cày.

Tương tự như trâu, lợn cũng là loài vật thường được nhắc đến nhiều  trong các ca dao. Trước hết,  lợn được sử dụng để mô tả tình trạng của một người đa thê ở Việt Nam:

Một vợ nằm giường lèo,
Hai vợ nằm chèo queo,
Ba vợ thì xuống chuồng heo mà nằm.

Những lời chỉ trích nặng nề đối với những người đối xử tệ bạc với đồng nghiệp khi họ nghèo khổ, túng thiếu và cúi đầu, tỏ ra ngoan ngoãn trước những người quyền lực và giàu có:

Mèo tha miếng thịt xôn xao,
Hùm tha con lợn thì nào thấy chi.

Người ta cũng dùng ngoại hình để đoán  ra được  người mà ta gặp:

Trông mặt mà bắt hình dong,
Con lợn có béo thì lòng mới ngon.

Khi nhìn vào khuôn mặt của một người, chúng ta đã có ý niệm về tính cách của họ, cũng giống như chúng ta biết về một con lợn béo thì nó luôn có ruột ngon.

Cũng nhờ qua bài ca dao dưới đây  người ta mới biết sự gắn bó sâu sắc  của  người nông dân  với đất nước. Nước ao nhà vẫn dễ chịu  dù có sự biến đổi thất thường của thiên nhiên và sự thăng trầm trong cuộc sống của họ.

Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn

Bibliographie:
Thuần Phong: Ca dao giãng luân.  Explication et commentaire des chansons populaires. Editions Á Châu, Saigon, 1958, 196 pages
Lê Thành Khôi: Aigrettes sur la rizière. Chants et poèmes classiques du Vietnam. Connaissances de l’Orient. Gallimard