Pagode Từ Hiếu (Huế)

 

 


Pagode de la piété filiale

Version française

Version anglaise

Galerie des photos

Nằm trên núi Dương Xuân thuộc làng Thủy Xuân và  cách trung tâm thành phố Huế 5 cây số , chùa Từ  Hiếu tọa lạc trong một khu rừng thông tuyệt  vời ở phía bắc lăng vua Tự Đức. Để tưởng nhớ mẹ của ông, ngôi chùa này được xây dựng vào năm 1843 bởi hòa thượng Nhất Định. Được biết đến với cái tên Từ Hiếu để biểu thị sự tận tâm  của ông và lòng hiếu thảo đối với mẹ. Nhưng đó cũng là ngôi chùa của các hoạn quan ở Tử Cấm Thành Huế.

Perchée sur le mont Dương Xuân dans le village de Thủy Xuân et située à 5km du centre-ville de Huế , la pagode Từ hiếu se trouve dans une belle pinède au nord du mausolée de l’empereur Tự Đức. En l’honneur de sa mère, cette pagode  fut édifiée en 1843 par le moine Nhất Đinh. Elle étai connue sous le nom de Từ Hiếu pour signifier le dévouement et la piété  de ce dernier à sa mère. Mais c’était aussi la pagode des eunuques de la cité pourpre interdite de Huế.

Perched on Mount Dương Xuân in the village of Thủy Xuân and located 5km from the center of Huế, the Từ Hiếu pagoda is situated in a beautiful pine forest north of Emperor Tự Đức’s mausoleum. In honor of his mother, this pagoda was built in 1843 by the monk Nhất Đinh. It was known as Từ Hiếu to signify his devotion and filial piety to his mother. But it was also the pagoda of the eunuchs of the Forbidden Purple City of Huế.

Technique de dorure sur bois laqué (Sơn son thếp vàng)

Technique de dorure sur bois laqué.

The technique of gilding on lacquered wood.

Version française

Version anglaise

Sơn son thếp vàng là một kỹ thuật cực kỳ công phu  hay thường được sử dụng trong việc chế tác các vật phẩm có tính chất tâm linh như các tựơng Phật và các đồ thờ như hương án, khám thờ, ngai thờ, bài vị, hoành phi câu đối vân vân… ở chùa chiền hay biểu tượng sự gìàu có và khẳng định sự tôn nghiêm, quyền lực của vương quyền trong chế độ phong kiến qua các cung đình. Nó không chỉ làm nổi bật lên vẻ đẹp, uy nghi và sang trọng mà còn gia tăng độ bền bỉ của các vật phẩm theo thời gian. Những năm gần đây, nhờ sự sùng tu Lầu Ngũ Phụng,Trường Lang, điện Thái Hoà vân vân trong Tử Cấm Thành, chúng ta mới nhận thấy kỹ thuật nầy không chỉ đòi hỏi nghệ nhân phải có tay nghề cao, kinh nghiệm, tĩ mĩ mà còn có tâm huyết và phải hiểu rõ luôn cả kiến thức xây dựng và mỹ thuật để hoàn thiện được phong cách của thời đại triều Nguyễn và làm nổi bật cái riêng biệt của mỗi cung điện. Trước hểt kỹ thuật « Sơn son thếp vàng” được tạo thành từ hai cụm từ « sơn son » và « thếp vàng ».Như vậy có hai khâu chính trong kỹ thuật nầy đó là khâu Sơn Son và Thép Vàng nhưng khâu sơn son lại đặc biệt quan trọng và phức tạp hơn nhiều so với khâu thếp vàng. Danh từ  « sơn » nầy dùng  để  ám chỉ  loại sơn được chế ra từ nhựa cây sơn ở trong rừng nước ta.  Nó có thể mọc tự nhiên hay được trồng để thu hoạch. Sau đó phài để sơn nó lắng đọng đến từ  ba  hay bốn tháng liên tục mới  có thể  gạn ra sau đó nhiều lớp nhưng lớp trên cùng là lớp lỏng có màu nâu là lớp  tốt nhất. Dù vật phẩm có tầm vóc cở nào, có thể  là tượng Phật hay cột ở trong cung đình Huế  đi nữa thì  nghệ nhân  cũng phải  tiến hành qua một số giai đoạn như sau: gắn kết, hom, lót.

Sau khi tạo cốt cho vật phẩm, nghệ nhân tiến hành đến việc sơn. Có nhiều giai đoạn  trong việc sơn son thếp vàng.Trước hết phäi xử lý phần thô vật phẩm qua việc trộn nước sơn với bột đá hay mùn cưa để lấp đi các vết rạn nứt của vật phẩm, giúp ngăn chặn sự nứt gãy, chống thấm nước, không bị mối mọt ăn. Đây là giai đọan  gắn kết. Nếu sau khi nước sơn khô, bề mặt của sản phẩm vẫn còn khuyến tật  thì nghệ  nhân buộc lòng dùng đất thó  trộn với nước sơn theo tỷ lệ nhất định. Có  thể  nước sơn nầy  được dùng đến nhiều lần  khi nó chưa đạt được yêu cầu. Tiếp theo  sau đó  đến việc mài  nhiều lần với nước làm cho nhẵn bề mặt và  sơn phủ lót nhiều lần toàn thể vật phẩm  với  nước sơn cuối (sơn sửa  chửa). Nói tóm lại  giai đọan Hom  nầy mất  rất nhiều thời gian và phải cần kiểm soát nghiêm khắc nhất là phải để các lớp sơn nó được khô. Thời gian khô của các lớp sơn nầy sẽ khác nhau mà còn tùy thuộc vào điều kiện thời tiết.

Còn thếp vàng là khâu dùng để trang trí và dán trên mặt  vật phẩm, lớp vàng lá hay vàng quỳ. Vàng nầy được dát thật mỏng đặt  lên  các mặt vật phẩm làm bằng gỗ mà được sơn lót trong khâu « Sơn Son » và lúc nước sơn lót chưa khô hoàn toàn. Chính nhờ vàng quỳ mà vật phẩm trưng bày  có được màu vàng tự nhiên, tạo ra  ánh kim dễ thu hút sư chú  ý và làm nổi bật giá trị qua sự  thay đổi màu sắc tùy theo độ « chín » của nước sơn.

Version française

La technique de dorure sur bois laqué est une technique extrêmement élaborée et souvent utilisée dans la fabrication d’objets ayant le caractère spirituel tels que les statues de Bouddha et les objets de culte comme les brûleurs d’encens, les édicules, les autels, les tablettes avec des sentences parallèles etc. trouvés surtout dans les pagodes ou le caractère solennel pour témoigner de la richesse et du pouvoir du régime féodal à travers ses palais. Elle met en valeur non seulement la beauté, la majesté et l’élégance, mais aussi la durabilité de ces objets dans le temps. Ces dernières années, grâce à la restauration du belvédère de 5 phénix, le long couloir Trường Lang, le palais de la Suprême Harmonie etc. dans la cité pourpre interdite de Huế, nous avons l’occasion de trouver que cette technique nécessite non seulement les artisans hautement qualifiés, pleins d’années d’expérience, méticuleux mais aussi leur dévotion au métier. Ils doivent avoir toutes les connaissances en construction et en arts pour parfaire le style de la période de la dynastie des Nguyễn en réussissant à mettre en valeur le caractère spécifique de chaque palais. D’abord le nom de cette technique provient de l’association de deux groupes de mots « Sơn son (Peinture d’un rouge vermillon) et «Thếp vàng (dorure sur bois laqué) ». Ceux-ci correspondent exactement à deux étapes importantes trouvées dans la réalisation de cette technique. Mais la première reste la phase la plus sophistiquée par rapport à la deuxième. Le mot «Sơn» fait référence au type de peinture fabriquée à partir de la sève de l’arbre sơn des forêts de notre pays. Cet arbre peut pousser naturellement ou être cultivé pour le rendement industriel. Ensuite, on doit laisser la peinture reposer durant trois ou quatre mois consécutifs avant de pouvoir la décanter en plusieurs couches mais la couche liquide supérieure brune reste la meilleure couche.
 
Quelle que soit la taille de l’objet (statue de Bouddha ou colonne du palais royal), l’artisan est obligé d’entamer le même processus composé de plusieurs étapes suivantes: boucher et sceller les fissures, rendre lisse la surface réparée en plusieurs fois avec les ingrédients différents (poudre de pierre, terre d’argile, sciures de bois etc.) et appliquer à la fin de ce processus la dernière couche de peinture avec le temps de séchage variable.
 
Après avoir créé l’ossature de l’objet, l’artiste commence à entamer la peinture. Il existe de nombreuses étapes dans la technique de dorure. Premièrement, la partie brute de l’objet doit être traitée en mélangeant de la peinture avec de la poudre de pierre ou de la sciure de bois pour couvrir et empêcher les fissures de l’objet en question et résister à l’eau et aux termites. C’est la phase d’agrégation et de réparation. Si après le séchage de la peinture, la surface de l’article continue à avoir toujours des défauts, l’artiste sera obligé d’utiliser de la terre d’argile mélangée à la peinture dans une certaine proportion bien déterminée. Cette peinture mélangée peut être utilisée à plusieurs reprises si elle ne répond pas aux exigences voulues. Ensuite vient le ponçage répété avec de l’eau afin de rendre lisse la surface et un apprêt répété de l’ensemble de l’article avec une couche de peinture finale (ou de retouche). Bref, cette phase Hom prend beaucoup de temps et nécessite un contrôle strict, en laissant sécher notamment les couches de peinture. Le temps de séchage de ces couches varie mais il dépend également des conditions météorologiques.
 
La dorure est une étape de décoration permettant de coller sur la surface d’un objet, une couche de feuille d’or. Cet or est laminé très finement et déposé sur les surfaces des objets en bois en question qui sont apprêtés lors de l’étape « Sơn Son » et qui ne sont pas complètement secs. Grâce à cette décoration, l’objet exposé a une couleur jaune naturelle et crée ainsi un éclat métallique qui retient facilement l’attention et fait ressortir sa valeur grâce au changement de couleur en fonction de la « maturité » de la peinture.
 
English version 
 
The technique of gilding on lacquered wood is an extremely elaborate technique often used in the manufacture of spiritual objects such as Buddha statues and religious items such as incense burners, shrines, altars, tablets with parallel sentences, etc. found mainly in pagodas or the solemn character to testify to the wealth and power of the feudal regime through its palaces. It highlights not only the beauty, majesty, and elegance, but also the durability of these objects over time. In recent years, thanks to the restoration of the Five Phoenix Pavilion, the Trường Lang Long Corridor, the Palace of Supreme Harmony, etc. in the Forbidden Purple City of Huế, we have had the opportunity to discover that this technique requires not only highly skilled craftsmen with years of experience and meticulous attention to detail, but also their devotion to their craft. They must have all the knowledge of construction and the arts to perfect the style of the Nguyễn dynasty period by successfully highlighting the specific character of each palace. Firstly, the name of this technique comes from the combination of two groups of words: “Sơn son” (vermilion red paint) and “Thếp vàng” (gilding on lacquered wood). These correspond exactly to two important stages in the execution of this technique. However, the first stage remains the most sophisticated compared to the second. The word “Sơn” refers to the type of paint made from the sap of the sơn tree found in our country’s forests. This tree can grow naturally or be cultivated for industrial production. The paint must then be left to settle for three or four consecutive months before it can be decanted into several layers, but the brown liquid layer at the top remains the best layer.
 
Regardless of the size of the object (Buddha statue or royal palace column), the craftsman must follow the same process, which consists of several steps: filling and sealing cracks, smoothing the repaired surface in several stages using different ingredients (stone powder, clay, sawdust, etc.), and finally applying the last coat of paint, which requires varying drying times.
 
After creating the framework of the object, the artist begins to start painting. There are many steps involved in the gilding technique. First, the raw part of the object must be treated by mixing paint with stone powder or sawdust to cover and prevent cracks in the object in question and to resist water and termites. This is the aggregation and repair phase. If, after the paint has dried, the surface of the item still has defects, the artist will be forced to use clay mixed with paint in a specific proportion. This mixed paint can be used several times if it does not meet the desired requirements. Next comes repeated sanding with water to smooth the surface and repeated priming of the entire item with a final (or touch-up) coat of paint. In short, this Hom phase takes a long time and requires strict control, particularly allowing the coats of paint to dry. The drying time for these coats varies, but it also depends on weather conditions.

Gilding is a decorative process that involves applying a layer of gold leaf to the surface of an object. The gold is rolled very thinly and applied to the surfaces of wooden objects that have been prepared during the “Sơn Son” stage and are not yet completely dry. This decoration gives the object a natural yellow color and creates a metallic sheen that easily catches the eye and highlights its value thanks to the change in color depending on the “maturity” of the paint.

2025

Mausolée de Gia Long

Version française

Version anglaise

Galerie des photos

Thông thường  đến Huế hay gặp trời mưa nhưng  kỳ nầy ba ngày ở Huế (7/11/2024 -9/11/2024) , trời lại không mưa. Nhờ đó mới có dịp đi tham quan lăng của người anh hùng được người dân Nam Bộ ngưỡng mộ, vua Gia Long nhất là nay có đường đất đi đến địa phận phường Long Hồ, quận Phú Xuân, thành phố Huế và tránh được đường bộ  khoảng 16 cây số và  phải qua  sông ở bến đò Kim Ngọc. Thật là mình có duyên kỳ nầy nhất là được đi tham quan năm lăng của các vua nhà Nguyễn và di tích thành Lồi của người Chàm ở trên đồi Long Thọ  cùng một lúc trong một ngày với chú xe ôm mặc dù đường xá không tốt chi cho mấy.

Habituellement,  il fait souvent pluvieux lors de mon passage à Huế mais cette fois, j’ai la chance d’y avoir trois jours  de suite au soleil.  Grâce à cela, j’ai eu l’occasion d’aller visiter le mausolée de celui qui était adulé par les gens de la Cochinchine, le roi Gia Long.  Il y a aujourd’hui une route menant au quartier de Long Hồ dans le district de Phú Xuân  de la ville de Huế. On peut  éviter ainsi de prendre la voie terrestre d’environ 16km et la traversée à l’embarcadère Kim Ngọc. C’est chanceux pour moi cette fois de pouvoir visiter successivement  cinq mausolées  de la dynastie des Nguyễn et la citadelle Lồi des Chams sur la colline Long Thọ  dans la même journée avec un taxi-moto malgré la route mal entretenue.

Usually, it is often rainy when I visit Huế, but this time, I was lucky to have three consecutive sunny days. Thanks to this, I had the opportunity to visit the mausoleum of the one who was adored by the people of Cochinchina, King Gia Long. Today, there is a road leading to the Long Hồ neighborhood in the Phú Xuân district of Huế city. This allows one to avoid taking the approximately 16km land route and the crossing at the Kim Ngọc ferry terminal. I was fortunate this time to be able to visit successively five mausoleums of the Nguyễn dynasty and the Lồi citadel of the Chams on Long Thọ hill in the same day by moto-taxi despite the poorly maintained road.

Galerie des photos

 

 

 

 

Mausolée Thiệu Trị

Version française

Version anglaise

Galerie des photos

Được có tên là Xương Lăng, lăng của vua thứ ba của triều đại nhà Nguyễn, Thiệu Trị,  nằm dựa  lưng vào núi Thuận Đạo, ở địa phận làng Cư Chánh, phường  Thủy Bằng, quận Thuận Hóa, thành phố Huế, cách trung tâm thành phố khoảng cây số. Vua Thiệu Trị chỉ ngự trị có 7 năm và qua đời lúc 47 tuổi. Thiệu Trị được sử sách mô tả là một hoàng đế thông minh, tận tụy chăm lo việc nước, uyên bác nho học, yêu thích thơ ca. Nhưng Thiệu Trị không có đưa ra cải cách gì mới c ả, chỉ duy trì các chính sách hành chính, kinh tế, giáo dục, luật pháp, quân sự… từ thời vua Minh Mạng.

Étant connu sous le nom de Xương Lăng et adossé à la montagne Thuận Đạo, dans le village Cư Chánh du quartier Thủy Bằng, district Thuận Hóa, ville de Huế, le mausolée du troisième roi de la dynastie des Nguyễn, Thiệu Trị, est situé à environ 1 km du centre-ville. Ce roi n’a régné que 7 ans et est décédé à l’âge de 47 ans. Thiêu Tri est décrit dans les livres d’histoire comme un empereur intelligent, soucieux de prendre soin du pays, connaissant parfaitement le confucianisme et passionné de poésie. Mais Mais Thiệu Tri n’a pas entamé de nouvelles réformes en se contentant de maintenir les politiques administratives, économiques, éducatives, juridiques, militaires etc. de la période  de l’empereur Minh Mang.

Known as Xương Lăng and backed by Thuận Đạo mountain, in the village of Cư Chánh in the Thủy Bằng ward, Thuận Hóa district, Huế city, the mausoleum of the third king of the Nguyễn dynasty, Thiệu Trị, is located about 1 km from the city center. This king reigned for only 7 years and died at the age of 47. Thiệu Trị is described in history books as an intelligent emperor, concerned with taking care of the country, well-versed in Confucianism, and passionate about poetry. However, Thiệu Trị did not initiate new reforms, content with maintaining the administrative, economic, educational, legal, military, etc. policies of the period of Emperor Minh Mạng.

 

 

 

 

 

 

 

L’art du bronze émaillé (Kỹ thuật pháp lam)

L’art du bronze émaillé.

The art of enamelled bronze

Version anglaise

Version française

Đây là kỹ thuật  làm các sản phẩm  bằng đồng  trên bề mặt được tráng men, dùng  trang trí trong  mỹ thuật ở cung đình Huế hay thường  được gọi với cái tên pháp lam. Nó có nguồn gốc từ chữ « pha lang (France) » mà người Trung Hoa gọi để chỉ kỹ thuật  được các nhà truyền bá Tây Phương mang sang, hướng dẫn cho họ làm trong việc sản xuất. Kỹ thuật pháp lam  sau đó được du nhập sang Việt Nam với các nghệ nhân Trung Hoa  vào thời ngự trị của vua Minh Mạng (1820-1841). Chính triều đình nhà Nguyễn mới  ra quyết đinh xây dựng các xưởng ở Quảng Bình và Quảng Trị nhưng  các bí mật sản xuất vẫn được các nghệ nhân Trung Quốc bảo vệ một cách nghiêm ngặt. Nhưng nhờ sự kiên trì, các thủ công Việt ngày xưa đã  khám phá  ra được   bí  quyết và thành công  trong việc sử dụng các màu không  thể xóa nhoà   khiến các sản phẩm  đồng tráng men có  được  một linh hồn. Mỗi màu  phải tương ứng  với một lớp men và đựợc đung với nhiệt độ khác nhau.

Để tránh tên húy của chúa Nguyễn Phúc Lan (1635-1648), pháp lang từ đó trở thành pháp lam và được trọng dụng ở trong cung điện  triều  Nguyễn nhất là trong việc trang trí ở ngoại thất. Có một thời kỹ thuật pháp lam nầy  bị suy tàn  dưới thời Pháp thuộc. Kỹ thuật nầy  làm cho  các hoa văn trang trí ở cung điện Huế có nét đẹp kiêu sa mà được thấy lại gần đây qua các cuộc sùng tu  ở các cung điện Huế như sân sau của điện Thái Hoà, điện Kiến Trung (*), cầu Trung Đạo của lăng Minh Mạng vân vân.


Version française

C’est la  technique de fabrication des produits en bronze aux surfaces émaillées qui est  fréquemment utilisée pour la décoration  dans l’art de Huế  et communément appelée sous le nom « Pháp Lam ». Elle tire son origine du mot « pha lang (France)» que les Chinois emploient pour désigner la technique apportée par les missionnaires occidentaux dans le but de les aider dans la production. Cette technique a été introduite ensuite au Vietnam avec les artisans chinois sous le règne du roi Minh Mang (1820-1841). C’est la dynastie des Nguyễn  qui  a décidé de construire des ateliers  à Quảng Binh et à Quảng Tri mais les secrets de production ont été encore  strictement  protégés par les artisans chinois. Grâce à leur  ténacité, les artisans vietnamiens d’antan ont  découvert le secret de fabrication et ils ont réussi à utiliser des couleurs indélébiles donnant ainsi  une âme à ces produits en  bronze émaillés. Chaque couleur correspondait ainsi à une couche d’émail et un cuisson à température différente.    

Pour éviter d’appeler le surnom du seigneur Nguyễn Phúc Lan (1635-1648),, la technique « Pháp Lang » est devenue désormais  « Pháp Lam ». Elle est très utilisée  dans les palais de la dynastie des Nguyễn, en particulier dans la décoration de leur partie extérieure.  Il y a une époque où cette technique a périclité  sous l’occupation française. Cette technique permet aux motifs décoratifs de posséder  la beauté éclatante qu’on a l’occasion de retrouver récemment lors de la restauration des palais de la citadelle impériale Huế. C’est le cas du palais de l’Harmonie suprême, le palais Kiến Trung (*), le pont de l’Intelligence et de la droiture du mausolée Minh Mạng etc. 

(*) Résidence des deux derniers empereurs du Vietnam ( Khải Định et Bảo Đại) 

The technique of manufacturing bronze products with enameled surfaces is frequently used for decoration in Huế art and is commonly known as “Pháp Lam.” It originates from the word “pha lang (France),” which the Chinese use to refer to the technique brought by Western missionaries to assist them in production. This technique was then introduced to Vietnam by Chinese artisans during the reign of King Minh Mang (1820-1841). It was the Nguyễn dynasty that decided to build workshops in Quảng Binh and Quảng Tri, but the secrets of production were still strictly guarded by Chinese artisans. Thanks to their tenacity, the Vietnamese artisans of yesteryear discovered the manufacturing secret and succeeded in using indelible colors, thus giving soul to these enameled bronze products. Each color corresponded to a layer of enamel and a different firing temperature.

To avoid using the nickname of Lord Nguyễn Phúc Lan (1635-1648), the “Pháp Lang” technique is now known as “Pháp Lam.” It is widely used in the palaces of the Nguyễn dynasty, particularly in the decoration of their exteriors. There was a time when this technique fell into decline under French occupation. This technique gives decorative motifs a striking beauty, which has recently been restored during the renovation of the palaces of the imperial citadel of Huế. This is the case for the Palace of Supreme Harmony, the Kiến Trung Palace (*), the Bridge of Intelligence and Righteousness at the Minh Mạng Mausoleum, etc.

(*) Residence of the last two emperors of Vietnam (Khải Định and Bảo Đại)

 

2025

Phước Minh Cung (Temple de Guan Yu, Trà Vinh)

Phước Minh Cung

Quan Công là người hội đủ các đức tính trung dũng, tình nghĩa, độ lượng và công minh chính trực và cũng  là nhân vật nổi tiếng ở thời Tam Quốc hậu Hán. Chính vì vậy khi ông qua đời, người ta đã tôn thờ ông như một vị thánh. Bởi vậy nơi nào có người Hoa cư trú thường thấy họ hay thờ Quan Công. Ở Trà Vinh nơi thờ ông hay được gọi là Phước Minh Cung.

Étant un personnage réussissant à avoir toutes les vertus de courage, de loyauté, de générosité et de justice, Guan Yu est aussi  l’un des généraux célèbres chinois de l’époque des Trois Royaumes et de la fin des Han. C’est pour cela que  les Chinois le vénèrent comme un Saint lors de sa mort. Partout où la présence des Chinois est importante, on y trouve toujours un temple dédié à ce général. À Trà Vinh, le temple est connu sous le nom de Phước Minh Cung.

PAGODE VAM RAY (Tra Vinh)

Chùa Vàm Ray

Được tọa lạc ở ấp Vàm Ray, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh, ngôi chùa nầy không những  mang tính chất kiến trúc đậm chất của người Khơ Me ở Nam Bộ mà còn giữ phong cách của đế chế Angkor. Chùa còn là một ngôi chùa lớn nhất trong số 143 chùa Khơ Me  được liệt kê ở Trà Vinh. Chùa có 4 cổng vào và theo truyền thống cùa người Khơ Me thì cổng chính và toà nhà chính điện phải quay về hướng Đông biểu  tượng cho con đường tu hành của   Phật tử từ Tây sang Đông.  Chính cũng nơi nầy về hướng Đông Nam của chính điện, du khách sẽ thấy được  tượng đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn có chiều dài 54 thước. Còn bên trong chính điện thì được trang trí lộng lẫy với những bức tranh tường nhiều màu sắc, đậm chất văn hóa Khơ Me, kể lại cuộc đời của Đức Phật và giáo lý của Phật giáo.

Étant située dans le hameau de Vam Ray, district de Trà Cú, province de Trà Vinh, cette pagode porte non seulement le caractère architectural du peuple khmer du Sud Vietnam mais aussi le style de l’empire d’Angkor. La pagode est également la plus grande parmi les 143 pagodes recensées dans la province de Trà Vinh. Elle dispose de 4 portes d’entrée. Selon la tradition khmère, la porte principale et le bâtiment principal doivent être orientés vers l’est. C’est le chemin  pris par les pratiquants  bouddhistes  de l’ouest vers l’est.  C’est aussi ici que vers le sud-est du hall principal, les visiteurs verront la statue allongée de 54 mètres du Bouddha Shakyamuni, illustrant son accession au Nirvana. Quant à l’intérieur du bâtiment principal, on voit défiler des peintures murales colorées et imprégnées de la culture khmère, relatant ainsi la vie de Bouddha et les enseignements du bouddhisme.

Thiền viện Trúc Lâm (Trà Vinh)

Institut bouddhique de la secte Forêt des Bambous

Đây là ngôi thiền viện thuộc Thiền phái Trúc Lâm duy nhất trên địa bàn tỉnh Trà Vinh, nằm cách xa thành phố  khoảng chừng 50 cây số. Thiền viện Trúc Lâm Trà Vinh được xây dựng trên khuôn viên rộng 7 ha, trong khu du lịch sinh thái từng ngập mặn ven biển, mặt tiền nhìn ra biển Đông bao la.

C’est le monastère unique zen de la secte Forêt des bambous de la province de Trà Vinh. Il est  situé à  peu près de 50 kilomètres du centre-ville. Ce monastère zen a été construit sur un terrain de 7 hectares, dans une zone écotouristique autrefois salée tout le long de la côte et  faisant face à l’immense mer de l’Est.