L’art du bronze émaillé (Kỹ thuật pháp lam)

L’art du bronze émaillé.

The art of enamelled bronze

Version anglaise
Version française
Galerie des photos

Đây là kỹ thuật  làm các sản phẩm  bằng đồng  trên bề mặt được tráng men, dùng  trang trí trong  mỹ thuật ở cung đình Huế hay thường  được gọi với cái tên pháp lam. Nó có nguồn gốc từ chữ « pha lang (France) » mà người Trung Hoa gọi để chỉ kỹ thuật  được các nhà truyền bá Tây Phương mang sang, hướng dẫn cho họ làm trong việc sản xuất. Kỹ thuật pháp lam  sau đó được du nhập sang Việt Nam với các nghệ nhân Trung Hoa  vào thời ngự trị của vua Minh Mạng (1820-1841). Chính triều đình nhà Nguyễn mới  ra quyết đinh xây dựng các xưởng ở Quảng Bình và Quảng Trị nhưng  các bí mật sản xuất vẫn được các nghệ nhân Trung Quốc bảo vệ một cách nghiêm ngặt. Nhưng nhờ sự kiên trì, các thủ công Việt ngày xưa đã  khám phá  ra được   bí  quyết và thành công  trong việc sử dụng các màu không  thể xóa nhoà   khiến các sản phẩm  đồng tráng men có  được  một linh hồn. Mỗi màu  phải tương ứng  với một lớp men và đựợc đung với nhiệt độ khác nhau.

Để tránh tên húy của chúa Nguyễn Phúc Lan (1635-1648), pháp lang từ đó trở thành pháp lam và được trọng dụng ở trong cung điện  triều  Nguyễn nhất là trong việc trang trí ở ngoại thất. Có một thời kỹ thuật pháp lam nầy  bị suy tàn  dưới thời Pháp thuộc. Kỹ thuật nầy  làm cho  các hoa văn trang trí ở cung điện Huế có nét đẹp kiêu sa mà được thấy lại gần đây qua các cuộc sùng tu  ở các cung điện Huế như sân sau của điện Thái Hoà, điện Kiến Trung (*), cầu Trung Đạo của lăng Minh Mạng vân vân.


Version française

C’est la  technique de fabrication des produits en bronze aux surfaces émaillées qui est  fréquemment utilisée pour la décoration  dans l’art de Huế  et communément appelée sous le nom « Pháp Lam ». Elle tire son origine du mot « pha lang (France)» que les Chinois emploient pour désigner la technique apportée par les missionnaires occidentaux dans le but de les aider dans la production. Cette technique a été introduite ensuite au Vietnam avec les artisans chinois sous le règne du roi Minh Mang (1820-1841). C’est la dynastie des Nguyễn  qui  a décidé de construire des ateliers  à Quảng Binh et à Quảng Tri mais les secrets de production ont été encore  strictement  protégés par les artisans chinois. Grâce à leur  ténacité, les artisans vietnamiens d’antan ont  découvert le secret de fabrication et ils ont réussi à utiliser des couleurs indélébiles donnant ainsi  une âme à ces produits en  bronze émaillés. Chaque couleur correspondait ainsi à une couche d’émail et un cuisson à température différente.    

Pour éviter d’appeler le surnom du seigneur Nguyễn Phúc Lan (1635-1648),, la technique « Pháp Lang » est devenue désormais  « Pháp Lam ». Elle est très utilisée  dans les palais de la dynastie des Nguyễn, en particulier dans la décoration de leur partie extérieure.  Il y a une époque où cette technique a périclité  sous l’occupation française. Cette technique permet aux motifs décoratifs de posséder  la beauté éclatante qu’on a l’occasion de retrouver récemment lors de la restauration des palais de la citadelle impériale Huế. C’est le cas du palais de l’Harmonie suprême, le palais Kiến Trung (*), le pont de l’Intelligence et de la droiture du mausolée Minh Mạng etc. 

(*) Résidence des deux derniers empereurs du Vietnam ( Khải Định et Bảo Đại

It is the technique of manufacturing bronze products with enameled surfaces that is frequently used for decoration in the art of Huế and commonly called « Pháp Lam. » It originates from the word « pha lang (France) » which the Chinese use to refer to the technique brought by Western missionaries to assist them in production. This technique was later introduced to Vietnam by Chinese artisans during the reign of King Minh Mang (1820-1841). It was the Nguyễn dynasty that decided to build workshops in Quảng Binh and Quảng Tri, but the production secrets were still strictly guarded by the Chinese artisans. Thanks to their perseverance, the Vietnamese artisans of the past discovered the manufacturing secret and succeeded in using indelible colors, thus giving a soul to these enameled bronze products. Each color corresponded to a layer of enamel and a firing at a different temperature.

To avoid using the nickname of Lord Nguyễn Phúc Lan (1635-1648), the « Pháp Lang » technique has now become « Pháp Lam. » It is widely used in the palaces of the Nguyễn dynasty, particularly in the decoration of their exterior parts. There was a time when this technique declined during the French occupation. This technique allows decorative motifs to possess the radiant beauty that has recently been seen again during the restoration of the palaces of the Imperial Citadel of Huế. This is the case with the Palace of Supreme Harmony, the Kiến Trung Palace (*), the Bridge of Intelligence and Rectitude of the Minh Mạng mausoleum, etc.

(*) Residence of the last two emperors of Vietnam (Khải Định and Bảo Đại)

Galerie des photos

2025

[Return Art de Huế]

Phước Minh Cung (Temple de Guan Yu, Trà Vinh)

Phước Minh Cung

Quan Công là người hội đủ các đức tính trung dũng, tình nghĩa, độ lượng và công minh chính trực và cũng  là nhân vật nổi tiếng ở thời Tam Quốc hậu Hán. Chính vì vậy khi ông qua đời, người ta đã tôn thờ ông như một vị thánh. Bởi vậy nơi nào có người Hoa cư trú thường thấy họ hay thờ Quan Công. Ở Trà Vinh nơi thờ ông hay được gọi là Phước Minh Cung.

Étant un personnage réussissant à avoir toutes les vertus de courage, de loyauté, de générosité et de justice, Guan Yu est aussi  l’un des généraux célèbres chinois de l’époque des Trois Royaumes et de la fin des Han. C’est pour cela que  les Chinois le vénèrent comme un Saint lors de sa mort. Partout où la présence des Chinois est importante, on y trouve toujours un temple dédié à ce général. À Trà Vinh, le temple est connu sous le nom de Phước Minh Cung.

PAGODE VAM RAY (Tra Vinh)

Chùa Vàm Ray

Được tọa lạc ở ấp Vàm Ray, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh, ngôi chùa nầy không những  mang tính chất kiến trúc đậm chất của người Khơ Me ở Nam Bộ mà còn giữ phong cách của đế chế Angkor. Chùa còn là một ngôi chùa lớn nhất trong số 143 chùa Khơ Me  được liệt kê ở Trà Vinh. Chùa có 4 cổng vào và theo truyền thống cùa người Khơ Me thì cổng chính và toà nhà chính điện phải quay về hướng Đông biểu  tượng cho con đường tu hành của   Phật tử từ Tây sang Đông.  Chính cũng nơi nầy về hướng Đông Nam của chính điện, du khách sẽ thấy được  tượng đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn có chiều dài 54 thước. Còn bên trong chính điện thì được trang trí lộng lẫy với những bức tranh tường nhiều màu sắc, đậm chất văn hóa Khơ Me, kể lại cuộc đời của Đức Phật và giáo lý của Phật giáo.

Étant située dans le hameau de Vam Ray, district de Trà Cú, province de Trà Vinh, cette pagode porte non seulement le caractère architectural du peuple khmer du Sud Vietnam mais aussi le style de l’empire d’Angkor. La pagode est également la plus grande parmi les 143 pagodes recensées dans la province de Trà Vinh. Elle dispose de 4 portes d’entrée. Selon la tradition khmère, la porte principale et le bâtiment principal doivent être orientés vers l’est. C’est le chemin  pris par les pratiquants  bouddhistes  de l’ouest vers l’est.  C’est aussi ici que vers le sud-est du hall principal, les visiteurs verront la statue allongée de 54 mètres du Bouddha Shakyamuni, illustrant son accession au Nirvana. Quant à l’intérieur du bâtiment principal, on voit défiler des peintures murales colorées et imprégnées de la culture khmère, relatant ainsi la vie de Bouddha et les enseignements du bouddhisme.

Thiền viện Trúc Lâm (Trà Vinh)

Institut bouddhique de la secte Forêt des Bambous

Đây là ngôi thiền viện thuộc Thiền phái Trúc Lâm duy nhất trên địa bàn tỉnh Trà Vinh, nằm cách xa thành phố  khoảng chừng 50 cây số. Thiền viện Trúc Lâm Trà Vinh được xây dựng trên khuôn viên rộng 7 ha, trong khu du lịch sinh thái từng ngập mặn ven biển, mặt tiền nhìn ra biển Đông bao la.

C’est le monastère unique zen de la secte Forêt des bambous de la province de Trà Vinh. Il est  situé à  peu près de 50 kilomètres du centre-ville. Ce monastère zen a été construit sur un terrain de 7 hectares, dans une zone écotouristique autrefois salée tout le long de la côte et  faisant face à l’immense mer de l’Est.

Pagode de la grotte (Chùa Hang)

Pagode de la Grotte (Chùa Hang)

 

Version française

Lúc đầu nơi có một cây đa cổ thụ nằm trước bến sông nên khi chùa nầy dựng lên vào năm 1637 thì dân cư  gọi nó là  Kompông Chrây có nghĩa là « bến cây đa ». Sau nầy cổng chùa được thiết  kế lại với hình dáng của một cái hang nên  từ đó mới mang tên là chùa hang. Chùa nầy nằm trong một khuôn viên có diện tích là 6ha với một chính điện chùa tọa lạc  trên nền cao có 3 thước, có nhiều bậc cấp dẫn lên, được trang trí lộng lẫy với nhiều hoa văn và họa tiết.  Ở các đầu cột đều có tượng vũ nữ Kẽn naarr dang đôi tay chống đỡ mái chùa. Tượng Phật Thích Ca  to lớn đặt trên cao ở trong chính điện , phía dưới là những tượng Phật Thích Ca nhỏ hơn trong nhiều tư thế khác nhau.  Những tác phẩm điêu khắc cổ được trông thấy ở chùa rất đa dạng và phong phú. Đến Trà Vinh mà không đến chùa Hang là một điều đáng tiếc.

Version française

Au début, il y avait un vieux banian se trouvant devant l’embarcadère de la rivière. Lorsque cette pagode fut construite en l’an 1637, les gens l’appelèrent Kompong Chray, ce qui signifie «embarcadère du banian». Plus tard, la porte d’entrée de la pagode fut remodifiée en prenant  la forme d’une grotte. C’est pourquoi elle a été appelée désormais sous le nom de « pagode de la grotte ». Celle-ci est située sur un terrain d’une superficie de 6 hectares avec un bâtiment principal édifié sur une plate-forme de 3 mètres de haut, avec de nombreuses marches montantes, magnifiquement décoré de nombreux motifs à son intérieur. Aux extrémités des colonnes de l’édifice principal, on voit des statues de la danseuse Ken Narr, soutenir la toiture.
À  l’intérieur de cet édifice,  la grande statue du Bouddha Shakyamuni est arrangée de manière qu’elle soit placée  en haut de toutes les autres statues plus petites du même Bouddha  dans de nombreuses positions différentes. Les sculptures anciennes trouvées dans cette pagode sont très variées et riches. C’est dommage pour le touriste de ne pas visiter la pagode de la grotte lors de son passage à la ville Trà Vinh.

 

Pagode AngKorborajaborey (Chùa Âng)

Pagode AngKorborajaborey

 

Version française

Toạ lạc ở  bên cạnh quốc lộ 53 của tình Trà Vinh, chùa  Angkorajaborey hay là chùa Âng mà người Việt thường gọi, là một ngôi chùa cổ có lâu đời có cà ngàn năm tuổi từ năm 990. Nó nằm cách xa thành phố Trà Vinh khoảng chừng 5 cây số nằm trong một khuôn viên thắng cảnh Ao Bà Ôm với một diện tích khoảng chừng 4 ha và đối diện với Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khơ Me của tỉnh. Đây cũng là một ngôi chùa tiêu biểu trong hệ thống 141 chùa Khơ Me ở Trà Vinh.  Chùa được công nhận là di tích kiến trúc tôn giáo của nguời Khơ Me ở Nam Bộ vào năm 1994.

Version française

Située à côté de l’autoroute 53 de la province de Trà Vinh, la pagode Angkorajaborey ou pagode Âng comme l’appellent souvent les Vietnamiens, est une ancienne pagode vieille de plus de mille ans depuis 990. Elle est située à environ 5 kilomètres de la ville de Trà Vinh, dans la zone pittoresque de l’étang Ba Om possédant une superficie d’environ 4 hectares et elle est en face du musée de la culture ethnique khmère de la province. C’est aussi une pagode  typique du d’un système des 141 pagodes khmères de Trà Vinh. Elle a été reconnue comme  un vestige  architectural religieux du peuple khmer vivant au Sud Vietnam en l’an 1994.

Les pagodes khmères du delta du Mékong

Version française

Dựa trên truyền thuyết về vương triều Chân Lạp: một thầy tu ẩn sĩ Bà-la-môn có nguồn gốc từ mặt trời tên là Kambu Svayambhuva đã được thần Shiva ban phép kết hôn với một tiên nữ có nguồn gốc từ mặt trăng, một nàng Mera xinh đẹp, nhà nghiên cứu văn khắc bản nỗi tiếng Georges Cœdes đưa ra giả thuyết rằng chữ Khmer đến từ  K(ambu) và Merâ vi vậy  sinh ra một dòng dõi những nhà  vua hoặc là các con cháu của Kambujadesha có nghĩa là « đất nước của con cháu Kambu » để giải thích tên của người Khơ Me. Cũng nhờ sự khám phá  chữ Kambujadesha trong một văn bản ở thánh đường Po Nagar (Nha Trang) vào năm 817 mà dưới thời Pháp thuộc chữ Kambuja được phát âm từ đó ra  thành Cambodia (Cao Miên). Bởi vây khi mình đến tham quan các chùa ở Trà Vinh, mình gặp các em trẻ, mình hỏi các em có phải người Miên không ? Chúng trả lời một cách không lưỡng lự : chúng em là người Khơ Me Krom là những ngươì Khơ Me sống ở dưới (Khmers En Bas) khác với người Khơ Me Campuchia tức là những Khơ Me sống ở đồng bằng sông Cửu Long tức là vùng Tây Nam Bộ  đôi khi họ chiếm lên tỷ lệ dân số hơn 30% như các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh. Chữ Miên không được dùng vì  có hàm ý miệt thị cũng như  chữ Mít (Annamite) đối người dân Việt.

Các chùa ở Trà Vinh đều là những chùa Phật giáo Nam Tông (thường gọi là phái Tiểu Thừa). Chủ yếu các chùa nầy truyền bá kinh văn Pali  tức là những văn bản ghi lại nguyên vẹn những lời giảng của Đức Phật trong suốt cuộc đời truyền bá giáo pháp của mình.  Có nhiều bộ phái khác nhau từ lúc đầu nhưng chỉ còn duy nhất hệ phái Thượng tọa bộ (Theravāda) là đại biểu cho hệ Phật giáo Nam truyền. Người Khơ Me họ có tập tục lúc còn trẻ (12 hoặc 13  tuổi) là đi vào chùa tu đề học giáo lý, học chữ Pali và trả hiếu cho cha mẹ nhưng cũng để thành người.  Thời gian tu tập kéo dài ít nhất là  3 tháng nhưng có thể kéo dài hơn  tùy theo nhân duyên và ý nguyện của  mỗi  người. Phải cạo đầu, phải thay quần bằng chiếc xa rông và thay áo bằng chiếc áo trắng (Pênexo)  khoác lên vai từ trái sang phải để từ bỏ trần tục. Để tránh sự tốn kém chi phí nhiều, tất cả những việc nầy đều đựợc tập hợp chung với nhiều người cùng một ngày được gọi là lễ thế phát với sự tham gia của tất cả gia đình.  Dù có xuất tu đi nữa,  những đứa trẻ nầy  được cộng đồng thừa nhận là người trưởng thành, có kiến thức để xây dựng một cuộc sống  hướng thiện và hửu ích cho xã hội. Đến tham quan các chùa ở Trà Vinh mới nhận thấy kiến trúc của các chùa ở nơi nầy nhất là chùa Âng, một chùa cổ xưa có cả nghìn năm lịch sử nó không khác chi kiến trúc mình có dịp thấy trước đây ở Bangkok (Thái Lan) với các tượng thần gác cửa  vân vân…

Theo sự nhận xét của nhà khảo cổ Pháp Bernard Groslier thì người dân Thái phải đợi ít nhất hai thế  kỷ vể sau để mới  tiếp  thu được bài vở của chủ nhân họ là người  Khơ Me  trước khi mới có thể  thay  thế và vượt qua mặt chủ của họ. Người Thái lập quốc từ thế kỷ 14 sau khi đế chế Angkor bị suy tàn. Như vậy kiến trúc chùa chiền thành vua của người Thái mà mình thấy hoành tráng xinh đẹp đấy là bản sao của  kiến trúc cũa người Khơ Me và người  Dvaravati nhưng họ có đầu óc thẩm mỹ nên nhờ đó mà hoàn hảo hơn. Tổng thể một ngôi chùa Khơ Me gồm: cổng chùa, tường rào, ngôi chính điện, tháp đựng cốt, tăng xá, nhà hội và  an xá. Trong ngôi chính điện  Đức Phật Thích Ca được bài trí với kích thước lớn tọa lạc trên tòa sen.  Các bức tranh Phật  được trang trí trong chùa Khơ Me chủ yếu kể lại cuộc đời của Đức Phật Thích Ca từ lúc mới sinh cho đến khi tu thành đạo hạnh. Trên trần của chính điện cũng hay thường vẽ những bức họa  nhắc  lại các cảnh giao đấu giữa các Tiên nữ và Chằn (nhân vật biểu trưng cho cái ác), cảnh tiên làm lễ, cảnh dâng hoa vân vân…

 Còn ở ngoài chính điện thường thấy các vị thần mang chân dung người, mình mặc giáp trụ, tay cầm pháp khí để canh giữ nơi cửa chùa hay xung quanh chánh điện. Đấy là  các tượng Yeak hay chằn,  giúp ta có  được tâm sáng hướng về Đức Phật. Có thể nói cũng như ở chùa Việt trước cỗng thường thấy ông Ác ông Thiện vậy. Các tượng chằn hay có mặt dữ dằn hung ác nhưng không phải kẻ làm ác mà chế ngự được cái ác, nó lúc nào cũng có thể nỗi dậy ở trong  lòng con người nên cần có sự hiện diện của con chim K’rut  bắt nguồn từ con vật linh thiêng  Garuda trong thần thoại  Ấn Độ với  đạo Bà La Môn. Nó ở trên cao để theo dõi và thống chế Yeak đấy. Còn  con lân tượng trưng cho sức mạnh trí tuệ hay thường thấy kề bên các tượng chằn. Nhờ có trí tuệ mà nó mới  đem lại  sự sáng suốt  trong việc nhận định để   tìm ra  chân lý nên mới diệt trừ được  ác nghiệp  và giúp con người  mới được giải thoát.  Nói tóm lại các chùa Phật Giáo Nam Tông Khơ Me ở Nam Bộ  có một kiến trúc  độc  đáo chịu nhiều ảnh hưởng Bà La Môn giáo.

Version française

En se basant sur une légende dynastique de Chen La: un  prêtre brahmane d’origine solaire nommé Kambu Svayambhuva  recevant  du dieu Shiva, lui-même une nymphe d’origine lunaire en mariage, la belle Mera, le célèbre épigraphe Georges Cœdes a émis l’hypothèse que le mot khmer viendrait  probablement de K(ambu) et Merâ donnant ainsi naissance à une lignée de rois ou celle des descendants de Kambujadesha et ayant pour signification « pays de la descendance de Kambu » dans le but d’expliquer  le nom des Khmers.  C’est pour cela qu’au moment de ma rencontre avec les enfants dans la pagode, je leur demande: Êtes-vous Cambodgiens ?  Ils me répondent  sans hésitation: Nous sommes des Khmers Krom (des Khmers  vivant en bas) différents de ceux vivant en haut (des Cambodgiens),  des Khmers vivant dans le delta du Mékong. Ces derniers occupent parfois jusqu’à 30% de la population locale. C’est le cas des provinces Sóc Trăng, Trà Vinh.

Trà Vinh

Trà Vinh

Version française

Nằm giữa sông Tiền và sông Hậu, Trà Vinh là một tỉnh cách xa thành phố Saïgon 130 cây số và thành phố Cần Thơ 80 cây số nếu theo hướng Đông. Với dân số trên một triệu và một diện tích là 2341 cây số vuông, Trà Vinh gồm có 3 dân tộc chính là Kinh, Khơ Me và Hoa mà người Khơ Me chiếm trên 30% dân số. Đây là vùng sinh thái thổ nhưỡng nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Đến nơi nầy, du khách có thể viếng thăm các đia danh nỗi tiếng như sau: chùa Âng, chùa Hang, chùa Cò, chùa Vầm Rây, ao  Bà Om, thiền viện Trúc Lâm, Phước Minh Cung vân vân… Chính các nơi nầy mình có dịp ghé đến tham quan trong cuộc hành trình hai ngày. (1/10 và 2/10)

Située à l’embouchure de la branche principale (Tiền) du fleuve du Mékong et son affluent Bassac (Hậu), la province de Trà Vinh se trouve à 130 kilomètres de Saigon et à 80 kilomètres de la ville Cần Thơ. Avec une population de plus d’un million d’habitants et une superficie de 2 341 km2, Trà Vinh est composée de trois groupes ethniques principaux: les Vietnamiens, les Khmers et les Chinois.  Les Khmers sont nombreux et représentent plus de 30% de la population. Il s’agit d’une région écologique de sols d’eau douce, saumâtre et salée. En venant ici, le touriste peut rendre visite aux sites importants suivants : la pagode AngKorborajaborey, la pagode Hang (Grotte), la pagode (Cigogne), la pagode Vầm Rây, la mare Bà Om, l’institut bouddhique Trúc Lâm (Forêt des bambous) , le temple Guan Yu (Quan Công) etc. Ce sont les lieux que j’ai eu l’occasion de visiter durant mon séjour à Trà Vinh (2 jours).

Marché central (Chợ Bến Thành)

Chợ Bến Thành (Saïgon).

Version française
Version anglaise

Chợ nầy được khởi công xây dựng từ năm 1912, nay vẫn được xem là nơi khách du lịch đến mua sấm rất đông, các quần áo, vải sợi, giày dép, thời trang, hàng thủ công mỹ nghệ, thực phẩm tươi sống, trái cây, hoa tươi hay đến ăn uống. Chợ nầy  nổi tiếng chặt chém không nương tay, trả giá nào cũng dính nhưng rất  thuận tiện trong việc mua sấm.

Version française 

Ce marché fut construit en 1912. Il est toujours considéré aujourd’hui comme un lieu où les touristes sont très nombreux. Ils peuvent y trouver tout (vêtements, tissus, chaussures de mode, produits d’artisanat et aliments frais, fruits et  fleurs) ainsi que la nourriture. Ce marché est réputé pour proposer des prix exorbitants aux touristes mais il est très pratique d’y trouver tout. 

Version anglaise

This market was built in 1912. It is still considered a place where tourists are very numerous. They can find everything (clothes, fabrics, fashion shoes, handicrafts and fresh food, fruits and flowers) as well as food. This market is known for offering exorbitant prices to tourists but it is very convenient to find everything there.

Pont Thanh Toàn avec une toiture en tuiles Yin et Yang

Cầu ngói Thanh Toàn

Version française
Version anglaise
Galerie des photos

Được tọa lạc ở trong địa phận của xã  Thủy Thanh, thuộc huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế, cầu nầy cách xa trung tâm  thành phố Huế 8 cây số nếu đi theo hướng Đông Nam. Cũng như chùa cầu ở Hội An, cầu nầy được dựng từ năm 1776 nhờ tấm lòng nhân ái của bà Trần Thị Đạo, vợ của một quan thần dưới triều vua Lê Hiển Tông (1740 – 1786). Bà là con cháu thuộc thế hệ thứ sáu của những tộc trưởng ở vùng Thanh Hóa theo chúa Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa.Bà cúng tiền cho làng Thanh Toàn xây dựng cái cầu nầy để cư dân ở nơi nầy qua lại thuận tiện trên con mương nhỏ sau những lúc nhọc nhằn ở ruộng đồng và có nơi ngồi để thư giãn hay câu cá. Dựa về năm tuổi thì cầu nầy dựng sau khi có chùa cầu (Hội An)  và chịu ít nhiều ảnh hưởng của chùa cầu.

Chùa ngói Thanh Toàn có một lối kiến trúc cổ khá độc đáo mà thường gọi là « Thượng Gia Hạ Kiều » tức là trên là nhà dưới là cầu. Cầu nầy có mái vòm với ngói lưu ly, dài 18,75m, rộng có 5,82m, chia ra được  7 gian, hai bên thân cầu có hai dãy bục gỗ và lan can dùng để ngồi dựa lưng. Ở giữa cầu có một bàn thờ bà Trần Thị Đào.  Cầu nầy được ghi nhận ngày nay có giá trị lịch sử  và văn hoá được Bộ văn hóa trùng tu  lại từ  năm 1991.  Du khách đến đây không những chiêm ngưỡng được cái cầu nầy mà còn có dịp tìm lại nét đẹp cổ kính của một ngôi  làng xưa ở Việt Nam được thể hiện với sự  hiện diện cây đa ở đầu làng và cổng đình. Để tránh phạm huý vua Thiệu Trị, làng Thanh Toàn  đổi tên thành làng Thanh Thủy nhưng dân gian vẫn giử thói quen gọi là Thanh Toàn.

Version française

Étant situé dans la commune de Thủy Thanh appartenant au  district de Hương Thủy de la province de Thừa Thiên Huế, ce pont se trouve à 8 kilomètres du centre-ville de Huế si on suit la direction Sud-Est. Analogue au pont-pagode de Hội An, il fut construit  en l’an 1776 grâce à la bonté de la dame de nom Trần Thị Đào, l’épouse d’un mandarin sous le règne du roi Lê Hiển Tông (1740 – 1786). Elle appartient à la sixième génération des  chefs de clan issus de  la région de Thanh Hóa et accompagnant le seigneur Nguyễn Hoàng  dans la province Thuận Hóa. Pour implorer le Ciel de lui accorder la faculté d’avoir un enfant, elle  a donné de l’argent au village de Thanh Toàn pour construire ce pont afin que les villageois puissent  traverser facilement le cours d’eau après des moments pénibles dans les rizières et qu’ils puissent se détendre en entamant des discussions ou en faisant la pêche. En se basant sur l’âge de ce pont, on sait qu’il a été construit à un moment où  le   pont-pagode de Hội An  avait déjà existé et qu’il a reçu plus ou moins l’influence architecturale de ce dernier.

Le pont Thanh Toàn possède un style architectural assez unique qui est appelé souvent sous le nom « Thượng Gia Hạ Kiều », ce qui signifie qu’en haut il y a la maison et qu’en bas c’est le pont. Son dôme  est couvert des tuiles Yin et Yang.  Il mesure 18,75 m de long et 5,82 m de large. Il est divisé en 7 compartiments tandis que  des deux côtés du pont se trouvent deux rangées de plates-formes et de balustrades en bois utilisées pour permettre aux gens de s’asseoir et  s’adosser. Au milieu de ce pont il y a  un autel dédié à Mme Trần Thị Đào. Ce pont est aujourd’hui reconnu comme celui ayant une valeur historique et culturelle.  Il fut restauré par le ministère de la Culture en 1991. En venant ici, le touriste a l’occasion d’admirer non seulement ce pont mais aussi la beauté d’un village antique vietnamien,  ce qui se traduit toujours par la présence  d’une maison communale et d’un banian à la sortie du village.  Afin de  ne pas offenser l’empereur Thiệu Trị dans l’emploi de son nom, le village Thanh Toàn  change de nom en prenant celui de Thanh Thủy mais les gens ont l’habitude d’appeler toujours Thanh Toàn.   

English version

Located in the commune of Thủy Thanh belonging to the district of Hương Thủy in the province of Thừa Thiên Huế, this bridge is situated 8 kilometers from the city center of Huế if you follow the southeast direction. Similar to the Hội An pagoda bridge, it was built in the year 1776 thanks to the kindness of a lady named Trần Thị Đào, the wife of a mandarin under the reign of King Lê Hiển Tông (1740 – 1786). She belongs to the sixth generation of clan leaders originating from the Thanh Hóa region and accompanying Lord Nguyễn Hoàng in the province of Thuận Hóa. To pray to Heaven to grant her the ability to have a child, she gave money to the village of Thanh Toàn to build this bridge so that villagers could easily cross the watercourse after hard times in the rice fields and could relax by starting conversations or fishing. Based on the age of this bridge, it is known that it was built at a time when the Hội An pagoda bridge already existed and that it was more or less influenced architecturally by the latter.

The Thanh Toàn Bridge has a quite unique architectural style often referred to as « Thượng Gia Hạ Kiều, » which means that there is a house above and a bridge below. Its dome is covered with Yin and Yang tiles. It measures 18.75 meters long and 5.82 meters wide. It is divided into 7 compartments, while on both sides of the bridge there are two rows of wooden platforms and balustrades used to allow people to sit and lean back. In the middle of this bridge, there is an altar dedicated to Mrs. Trần Thị Đào. This bridge is now recognized as having historical and cultural value. It was restored by the Ministry of Culture in 1991. When coming here, tourists have the opportunity to admire not only this bridge but also the beauty of an ancient Vietnamese village, which is always marked by the presence of a communal house and a banyan tree at the village exit. To avoid offending Emperor Thiệu Trị by using his name, the Thanh Toàn village changed its name to Thanh Thủy, but people still habitually call it Thanh Toàn

 

Galerie des photos

[Return Huế]