The golden star fruit tree (Ăn Khế trả vàng)

an_khe_tra_vang

French version

Vietnamnese version

The golden star fruit tree

Once upon a time there were two brothers who divided an inheritance at the death of their parents. The elder, greedy and stingy, took all the wealth and left to his younger brother and his wife only a dilapidated hut and and a star fruit tree with juicy but stunted fruits. But the two younger spouses hardly complained and were contented with this meager share. They took care of their star fruit tree and watered it in such a way that the tree took back it vigor and bore lots of fruits. When the star fruits began to ripe, a extraordinarily large raven came every morning to eat them. No matter what they did, it was impossible for the couple to chase the bird away. Chargined, the wife lamented:  » Poor us. As poor as we are, the only thing we count much on was what that star fruit tree brings us; now look, this bird ravaged it all. We will probably know starvation ». Miracle! The raven upon hearing those lamentations, perched down and replied in a human voice:  » Star fruits I eat, with gold I pay, be ready with a three-foot bag and follow me to get it ».

Afraid the woman ran in the hut to look for her husband. They discussed and decided to sew the bag according to the indicated size, waiting for the return of the bird. A few days later, the bird came back, ate all the star fruits then got down from the tree to invite the husband to take a seat on its back with the bag. Then they disappeared together in the horizon. Frightened, the younger brother closed his eyes. The bird took him very far before landing on a deserted island, full of precious stones. He was free to take whatever he could.

He filled the bag and the raven took him back to his home. From then on, the couple knew opulence, lived in luxury places. They often gave help to the poor. On the occasion of the commemoration of his parents’ death, the couple invited the elder brother to come over. Full of despise of his younger brother, the elder look for a pretext to decline and aksed that the younger carpet the road with mats and adorn the gate with gold if he wanted to receive him. Respectful of his elder brother, the younger complied with the latter’s wish. The elder brother and his wife were surprised to see the younger couple’s opulence and wealth. Curious, the elder skillfully tried to penetrate the mystery. His younger brother, honest and frank, did not hesitate to tell him the story of the giant raven that took him to look for gold.

The elder couple proposed an exchange of their fortune for only the hut and the star fruit tree. The younger agreed. One day, the raven came back to eat the star fruits and gave the same recommendation: a three-foot bag to go looking for gold. The elder greedy and curious, brought with him two big six-foot bags and when on the spot, filled them with gold. On the way back, burdened by the overweight of of the two bags, the raven who could not hold any longer, swayed and sent the elder to the sea where he drowned. The elder was the object of much despise when people knew about his greed and stinginess. God always helps good people and always punishes naughty people.

The golden star fruit tree

L’histoire de la carambole d’or (Ăn Khế trả vàng)

an_khe_tra_vang

English version

Version vietnamienne

L’histoire de la carambole d’or.

Il était une fois deux frères qui se partagèrent un héritage, à la mort de leurs parents. L’aîné, cupide et avare, s’empara de tous les biens et laissa à son cadet et à sa femme seulement une paillote délabrée et un carambolier aux fruits juteux mais rabougris. Mais ces deux époux cadets ne s’en plaignirent guère et se contentèrent de ce maigre avoir. Ils prirent soin de leur carambolier et l’arrosèrent sans cesse de manière que l’arbre reprît vigueur et portât une quantité de fruits. Quand les caramboles commencèrent à mûrir, un oiseau d’une taille extraordinaire vint chaque matin en manger. Il était impossible pour ce couple de l’en chasser quoi qu’il fît. L’épouse navrée se lamenta: « Malheur à nous. Pauvres que nous sommes, nous comptons beaucoup sur ce que nous rapporte le carambolier et voilà que l’oiseau ravage tout. Nous connaîtrons probablement la faim ». Miracle! L’oiseau entendit les lamentations, se pencha et répliqua d’une voix d’homme: » Des caramboles je mange, de l’or je rends, munissez-vous d’un sac moyen et suivez-moi pour en chercher ».

Apeurée, la femme se précipita dans la chaumière pour chercher son mari. Ils se concertèrent et décidèrent de coudre le sac suivant la mesure indiquée, dans l’attente d’un éventuel retour de l’oiseau. Quelques jours plus tard, l’oiseau revint, mangea tout son saoul de caramboles puis descendit de l’arbre pour inviter l’époux à prendre place sur son dos avec le sac. Puis ils disparurent ensemble à l’horizon. Effrayé, le cadet ferma les yeux. L’oiseau le transporta très loin avant d’atterrir sur une île déserte, remplie de pierres précieuses. Il fut libre d’en prendre autant qu’il pût.

Il remplit son sac et l’oiseau le ramena chez lui. Depuis ce jour, le couple connut l’opulence. Il vivait dans des demeures luxueuses. Il venait en aide souvent aux pauvres. A l’occasion de la commémoration de la mort de ses parents, le couple invita l’aîné à venir chez lui. Plein de mépris pour le cadet, l’aîné chercha prétexte pour se dérober et exigea que le cadet tapissât le chemin de nattes et dorât le portail si ce dernier voulait le recevoir. Le cadet respectueux de son aîné, s’exécuta selon le vœu de ce dernier. Celui-ci et son épouse furent surpris devant l’opulence et la richesse du couple cadet. Curieux, l’aîné chercha habilement à connaître le mystère. Son cadet, honnête et franc, n’hésita à lui raconter l’histoire de l’oiseau géant qui l’avait emmené à chercher de l’or. Le couple aîné proposa d’échanger sa fortune contre seulement la paillote et le carambolier juteux. Les cadets obtempérèrent. Un jour, l’oiseau revint manger des caramboles et fit la même recommandation: un sac de trois livres pour aller chercher de l’or. L’aîné, cupide et curieux, emmena deux gros sacs  et une fois sur place les remplit avec de l’or. Sur le chemin de retour, plié sous le poids démesuré de ces deux sacs, l’oiseau qui n’en put plus, tangua et l’aîné fut balancé dans la mer et s’y noya. L’aîné fut l’objet de beaucoup de mépris quand on connut l’histoire de son avidité et de sa cupidité. Dieu vient toujours en aide aux bons et punit toujours les méchants. Dans le livre des proverbes vietnamiens, il y a l’expression suivante : « Tham thi thâm » ou « la cupidité donne une fin triste ».

 

Ăn khế trả vàng

Chúng ta không biết một xã hội  nào không có huyền thoại cũng như không có nền văn minh nào mà không có lịch sử.

Ngày xửa ngày xưa, có hai anh em được chia tài sản thừa kế khi cha mẹ họ mất. Người con cả, tham lam và keo kiệt, chiếm đoạt hết gia sản để lại cho vợ chồng đứa em trai nhỏ chỉ có một túp lều dột nát và một giàn khế ngọt nhưng còi cọc. Nhưng hai người chồng trẻ này không phàn nàn nhiều về điều đó và hài lòng với khối tài sản ít ỏi này. Họ chăm sóc cây khế và tưới nước liên tục để cây lấy lại sức sống và cho trái nhiều. Khi các quả khế bắt đầu chín, sáng nào cũng có một con chim có kích thước lớn đến ăn  các quả khế.

Vô phương cho đôi vợ chồng này không thể nào đuổi  được con chim đi được. Người vợ đau lòng than thở: “Thật khổ cho chúng ta.Chúng ta đã nghèo, chúng ta trông chờ rất nhiều vào những gì chúng ta có được từ cây khế và bây giờ con chim đang tàn phá mọi thứ. Chúng ta sẽ chết đói chắc chắn”. Phép màu! Con chim  nghe tiếng than vãn, cúi xuống và đáp giọng đàn ông: “Các quả khế ta ăn, vàng ta trả lại, lấy túi ba gang theo ta đi tìm”.

Quá hoảng sợ, người phụ nữ lao vào ngôi nhà tranh để tìm chồng. Họ đồng ý và quyết định may túi vải theo kích thước đã chỉ định, chờ chim quay lại. Mấy hôm sau, chim trở lại, ăn khế no nê say rồi từ trên cây bay xuống mời người chồng ngồi lên lưng với túi vải. Rồi họ cùng nhau biến mất ở phía chân trời.

Sợ hãi, người chồng nhắm mắt lại. Con chim đã chở anh nầy đi thật xa trước khi đáp xuống một hòn đảo hoang đầy đá quý. Anh nầy mà lấy được nhiều thì càng tốt.

Anh ta đổ đầy túi và con chim mang anh ta  trở về nhà. Kể từ ngày đó, hai vợ chồng có được sự xa hoa, sống trong những dinh thự sang trọng. Anh thường giúp đỡ người nghèo. Nhân ngày giỗ cha mẹ, hai vợ chồng anh  mời anh cả về nhà họ. Với lòng khinh bỉ đã có với đứ em, anh cả tìm cớ trốn tránh đi và yêu cầu đứa em mình phải trải chiếu và mạ vàng cổng nếu muốn anh sang. Người em trai, kính trọng người anh cả của mình, đã làm theo ý muốn của người anh. Vợ chồng người anh ngỡ ngàng trước sự giàu có, sang chảnh của đôi vợ chồng người em. Hiếu kỳ, người anh cả khéo léo tìm cách khám phá sự bí ẩn. Trung thực và thẳng thắn, người em trai, không ngần ngại kể cho anh c ả nghe câu chuyện về con chim khổng lồ đã đưa đi tìm vàng. Đôi vợ chồng người anh  đề nghị đổi của cải để lấy túp lều rơm và giàn khế ngon ngọt. Vợ chồng người em tuân theo. Một hôm, con chim quay lại ăn quả khế và đưa ra lời đề nghị tương tự: một túi ba gang để lấy vàng. Người anh, ngu si và tò mò,  lấy hai túi lớn mỗi túi ba gang và khi đến đó, làm đầy hai túi với vàng.

Trên đường trở về, dưới sức nặng quá lớn của hai chiếc túi vải, con chim không thể chịu đựng bay nổi được nữa và lảo đảo  ném người anh cả xuống biển khiến anh bị chết đuối. Anh nầy nầy bị khinh miệt khi lòng tham và ngu si của anh ta được biết đến.  Thượng đế luôn giúp đỡ người tốt và trừng phạt kẻ gian ác. Bởi vậy trong tục ngữ của chúng ta có câu nói « Tham thì thâm ».

The betel quid (Trầu Cau)

chique_de_betel

The betel quid

French version
Vietnamese version

 

Long time ago, under the reign of king Hùng Vương the 4th, there were two twin brothers, Cao Tân and Cao Lang. They looked so much alike that it was difficult to distinguish one from the other. They both attended the school of an old teacher in the village who had a sole daughter named  Liên whose beauty attracted all the homage of all the young men in the area.

The old teacher liked both of them. He would grant his daughter’s hand to one of them, preferably the elder because according to Vietnamese customs, the elder brother would get married first. In order to be able to distinguish them, he relied on a little trick by inviting them for dinner. The one who first picked up the chopsticks would be the elder. So Cao Tân got the hand of his daughter without any doubts that his younger brother has devoted an ardent love to her. They went on to live together in a complete harmony and experienced a faultless happiness.
Cao Tân continued no less to love his younger brother like ever before and would do anything to make him happy.

However, in spite of that, the younger brother could not rid of the pain in his heart. He decided to leave them and went out for an adventure. After so many days of walking, he ended up falling exhausted on the road and was transformed into a block of lime stone with an immaculate white.

The elder brother, taken by growing worries for his younger brother left in search for him. He followed the same road taken by his younger brother. In a beautiful morning, after so many days of walking, he arrived at the lime stone block, sat on it and succumbed without movement. He was metamorphosed in to a betel nut tree growing tall with its green palms and oblong little fruits. The tree began to extend its branches and its shadow over the lime stone mass as if to protect it from the changes of weather.

Staying at home without any news from her husband, the young wife in turn left the house and went for a search of her spouse. She roamed fields, crossed villages and finally one day, she came real close to the tree. Tired by the long walk, she leaned back at the foot of the tree, took her turn to die and change into a plant whose stems curled around the trunk of the tree with large intensely green leaves in the form of a heart.

One day, while passing through the area, King Hùng heard this story. He tried chewing betel and areca with a little of the lime from the limestone block. He found that the resulting saliva was as ruddy as blood, with a fresh, tangy and fragrant taste. From then on, he ordered betel and areca to be included in the wedding ceremony as a ritual offering. This is one of the Vietnamese customs that must be observed at the wedding feast. Areca nuts and bright green betel leaves in the shape of a heart are always part of the wedding gifts, symbolizing the pledge of marital love and fidelity.

Similar to a cigarette, betel quid was a conversation starter in old Vietnamese society. That’s why it’s customary to say in Vietnamese “Miếng trầu là đầu câu chuyện”. The betel quid is also used to measure time, because in the absence of clocks in those days, a mouthful of betel corresponds to roughly three or four minutes, giving you an idea of how long a conversation lasted.

 The betel quid

This is one of Vietnamese customs to be observed at a marriage ceremony. There is always betel, with betel nut and intensely green leaves in the form of a heart that is part of wedding gifts that symbolize an eternal union.

[Return CONTES]

La chique de bétel (Trầu Cau)

chique_de_betel
Version vietnamienne
English version

Jadis, sous le règne du roi Hùng IV, vivaient deux frères jumeaux, Cao Tân et Cao Lang (*). Ils se ressemblaient tellement qu’il était difficile de les distinguer. Leurs parents étaient décédés depuis longtemps. Ils suivaient les cours d’un vieux maître du village, Lưu Huyền ayant eu une fille unique de nom Liên  dont la beauté recueillait tous les hommages de tous les jeunes de la région.

Le vieux maître se prit d’affection pour les deux. Il désira accorder la main de sa fille à l’un d’eux, de préférence l’aîné car selon la coutume vietnamienne, l’aîné se maria le premier. Pour arriver à les distinguer, il dut recourir  à un petit subterfuge en les invitant à dîner chez lui. Le premier à prendre les baguettes était l’aîné. C’était ainsi que Cao Tân reçut la main de sa fille sans se douter que son cadet vouait aussi à cette dernière un ardent amour. Ils continuaient à vivre ensemble dans une harmonie complète et connaissaient un bonheur sans faille.

Cao Tân n’en continuait pas moins à aimer son cadet comme avant et faisait tout pour rendre ce dernier plus heureux. Mais celui-ci, malgré cela, n’arriva pas à refouler les peines de son cœur. Il décida de les quitter et trouva le soulagement dans l’aventure. Après tant de jours de marche, il finit par tomber d’épuisement sur la route et fut transformé en un bloc de calcaire d’un blanc immaculé.

Pris d’une inquiétude grandissante pour son frère, l’aîné  partit à sa recherche. Il suivit le même chemin pris par son cadet. Un beau matin, après tant de jours de marche, il arriva près du bloc calcaire, s’y assit et succomba d’inanition.  Il fut métamorphosé en un bel arbre (aréquier) haut avec des palmes vertes et des petits fruits oblongs. L’arbre commença à étendre sa ramure et son ombre au dessus du bloc calcaire  pour le protéger contre les intempéries.

Restée sans nouvelles de son mari, la jeune femme Liên, quitta à son tour, la maison et se mit en quête de son époux. Elle parcourut des champs et des prairies, traversa des villages et arriva enfin un jour tout près de l’aréquier. Fatiguée par la marche, elle s’adossa au pied de l’arbre, mourut à son tour et fut changée en une plante dont les lianes s’enroulaient autour du tronc de l’arbre avec de larges feuilles d’un vert intense en forme de cœur.

Un jour, de passage dans ce coin, le roi Hùng apprit cette histoire. Il essaya de mâcher du bétel et  d’arec  avec un peu de la chaux du bloc calcaire. Il constata que la salive obtenue était vermeille comme le sang et avait une saveur à la fois fraîche, acidulée et odorante.  Il ordonna désormais que le bétel et l’arec durent figurer au mariage comme une offrande rituelle. C’est l’une des coutumes vietnamiennes qu’il faut respecter lors de la fête de mariage. Il y a toujours des noix d’arec et des feuilles de bétel  d’un vert intense en forme de cœur faisant partie des cadeaux de mariage et symbolisant le gage d’amour conjugal et la fidélité.

Semblable à une cigarette, la chique de bétel facilite le début de la conversation dans la société vietnamienne d’autrefois. C’est pourquoi on a l’habitude de dire en vietnamien « Miếng trầu là đầu câu chuyện ». La chique de bétel sert à mesurer aussi le temps car en l’absence d’horloge à cette époque, une bouchée de bétel correspond à peu près trois ou quatre minutes,  ce qui permet d’avoir une idée sur la durée de la conversation.

La chique de bétel est une coutume très ancienne trouvée chez les populations vivant dans les régions s’étendant de l’Inde jusqu’au Japon méridional, recouvrant aussi l’Asie du Sud-Est et la Chine du Sud. Il paraît que la chique de bétel porte le même effet que le coca pour couper la faim. Malgré la disparition de cette coutume au fil des années, les feuilles de  bétel et les noix d’arec continuent à rester une offrande cultuelle et être visible au moment des fiançailles et du mariage des Vietnamiens ou à l’occasion des Tết. 

Chuyện trầu cau

Ngày xưa, dưới thời vua Hùng IV, có hai anh em sinh đôi là Cao TânCao Lang. Hai anh em trông giống nhau như đúc khó mà phân biệt được. Cha mẹ đã qua đời từ lâu. Hai anh em đến học chung cùng một thầy giáo tên là Lưu Huyền. Ông nầy  có một  đứa con gái tên Liên duy nhất rất xinh đẹp được tất cả thanh niên trong vùng trầm trồ ngưỡng mộ.

Ông giáo làng nầy rất qúi cả hai anh em. Ông muốn gã đứa con gái của mình cho  một trong hai người nầy, nhất là cho người anh cả, vì theo phong tục Việt Nam, người anh cả  phải lấy vợ trước. Để có thể phân biệt được giữa họ, ông  phải dùng đến một mẹo nhỏ bằng cách mời họ đến dùng cơm  tối tại nhà. Người đầu tiên cầm đũa là người anh cả. Chính  nhờ vậy mà Cao Tân  được  kết hôn với cô con gái  nhưng không biết  em trai của mình cũng yêu  thầm cô con gái nầy. Họ tiếp tục sống chung với nhau rất hòa thuận và tận hưởng niềm hạnh phúc chung. Cao Tân vẫn tiếp tục yêu thương em trai của mình như trước và làm mọi thứ để người em được  hạnh phúc hơn. Nhưng người  em trai không thể kìm nén nỗi đau trong lòng nên quyết định ra đi và tìm nguồn an ủi trong cuộc phiêu lưu. Sau bao nhiêu ngày đi bộ, anh ta cuối cùng  ngã  bệnh mà chết vì kiệt sức trên đường và biến thành một khối đá vôi trắng tinh.

Càng lo lắng cho em trai mình, người anh cả lên đường đi tìm em. Anh  đi theo con đường tương tự mà em trai của mình đã trải đi qua. Một buổi sáng đẹp trời, sau bao ngày đi bộ, anh ta đến nơi có khối đá vôi, ngồi tụt xuống đó rồi mõi mòn qua đời và được biến thành một cây cau xinh đẹp với những lá cọ xanh tươi và những quả nhỏ hình thuôn dài. Cây nầy bắt đầu vươn cành ra và tỏa bóng mát  lên trên khối đá vôi xem như để  bảo trợ nó chống lại những lúc có mưa gió.

Không có tin tức của chồng, Liên người phụ nữ trẻ lượt rời khỏi nhà và đi tìm chồng. Cô vượt qua những cánh đồng, những ngôi làng và cuối cùng có một ngày cô  lại đến  gần cây cau. Đi quá mệt mỏi, cô mới dựa lưng vào chân cây cau, lần lượt chết đi và được biến  thành một loài thực vật có dây leo quấn quanh thân cây cau  với những chiếc lá rộng màu xanh đậm hình trái tim.

Một hôm, khi đi ngang qua nơi nầy, vua Hùng mới biết được câu chuyện này. Ngài  mới lấy trầu và cau đưa lên miệng nhai  với một tí vôi từ khối đá nầy. Ngài nhận thấy nước bọt thu được có màu hồng như máu và có mùi vị thơm ngon. Bây giờ ngài mới ra lệnh rằng từ đây  trầu cau phải được đưa vào hôn lễ như một lễ vật. Đó là một trong những phong tục mà người dân Việt  cần phải  tôn trọng trong tiệc cưới. Quà cưới luôn luôn phải có các quả cau với những chiếc lá trầu xanh nồng nàn hình trái tim. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu thương vợ chồng và lòng chung thủy sắt son.

Tương tự như điếu thuốc lá, miếng trầu giúp ta dễ bắt nói chuyện hơn trong xã hội Việt Nam thưở  xưa. Đây là lý do tại sao chúng ta thường nói trong tiếng Việt « Miếng trầu là đầu câu chuyện« . Ăn trầu được sử dụng để đo thời gian vì thời đó không có đồng hồ, một miếng trầu chỉ cần nhai khoảng ba hoặc bốn phút, điều này gíúp  chúng ta biết khoảng thời gian của cuộc trò chuyện. Tục ăn trầu là một phong tục cổ xưa được tìm thấy trong các nhóm dân cư sống ở các khu vực trải dài từ Ấn Độ đến miền nam Nhật Bản, bao gồm luôn  cả Đông Nam Á và miền Nam Trung Quốc. Có vẻ như miếng trầu có tác dụng tương tự như nước coca để ngăn cơn đói. Mặc dù phong tục này đã biến mất theo ngày tháng, các lá trầu và các quả cau vẫn tiếp tục là một lễ vật tín ngưỡng và thường trông thấy ở  các lễ quan trọng như đính hôn, cưới hỏi hay   các Tết lớn nhỏ của người Việt Nam.

[Return CONTES]


(*) Hai chữ Tân và Lang ghép lại thì thành Tân Lang có nghĩa là cây cau. L’association des deux  mots Tân et Lang désigne l’aréquier.

 

 

Les Bahnar (Dân tộc Bà Na): dernière partie

peuple_bana5

 

Version vietnamienne 

English version

Dernière partie

Une fois le mariage célébré, les jeunes époux habitent par roulement dans leurs familles parentales au bout d’un certain temps suivant l’accord établi entre les deux familles. C’est seulement après la naissance de leur premier enfant qu’ils commencent à construire leur propre maison. Les Bahnar adoptent la monogamie. Le viol, l’inceste et l’adultère sont strictement condamnés. Au cas où l’adultère est commise par le conjoint survivant quel que soit son sexe au moment de la période d’entretien de la tombe, on dit qu’il saute par dessus le cercueil ko dang boăng. Le survivant n’est pas aussitôt délié de ses obligations envers le mort. Il est obligé de payer non pas aux ayants droit du défunt mais au défunt lui-même des indemnités qui sont réglées en un nombre de bêtes que l’on immole bơthi sur sa tombe. C’est pourquoi le conjoint survivant a l’intérêt d’écourter la période d’entretien s’il a envie de refaire sa vie. Même dans la mort, le préjudice causé au défunt par la faute de son conjoint a droit à une réparation matérielle par le nombre de bêtes qu’on immole sur sa tombe.

Dans la tradition des Bahnar, chacun est « libre » sous réserve de ne pas nuire à la personne ou aux biens d’autrui. Dans le cas où la personne a été lésée dans son honneur ou matériellement dans ses biens, elle a droit à une réparation sous forme d’indemnité ou à un remboursement des frais engagés. Les Bahnar n’infligent pas la peine de mort. L’envoi de quelqu’un au bagne correspond à un bannissement. Les Bahnar savent pratiquer l’entraide en cas de disette. Dans leur maison, on ne boit jamais d’alcool de riz, on ne mange jamais de viande sans inviter les autres familles. Le premier riz mûr n’appartient pas seulement au propriétaire du champ mais au village tout entier. 

Figurines de bois
devant les maisons funéraires

bana_figurine

La liberté de choisir le conjoint ou la conjointe, la répartition des tâches dans un couple, le droit à une réparation matérielle ou morale, le respect d’autrui illustrent bien l’égalité entre hommes et femmes dans la tradition ancestrale des Bahnar. Il n’y a pas de différence essentielle entre la situation juridique de l’homme et celle de la femme. Chez les Bahnar, le mode de fonctionnement démocratique existe depuis longtemps avant que la démocratie soit découverte et pratiquée en Occident. Selon l’ethnologue français feu Georges Condominas, les « sauvages » n’attendent pas Minkowski ou Einstein pour avoir la notion d’espace-temps. En employant une expression liée à l’espace, ils indiquent une date. Ils donnent approximativement l’âge de quelqu’un par rapport à un événement saillant. Ils ne détruisent pas totalement la forêt car ils savent la laisser se regénérer des années après qu’ils l’avaient mangé dix ou vingt ans auparavant comme les Mnong de Georges Condominas. Ils ne tuent pas le gibier pour le plaisir de tuer mais ils le tuent pour manger seulement et pour savoir le partager avec leurs compatriotes.

Ils ne gardent que pour eux une part infime de leur chasse. L’épandage et l’utilisation des défoliants par les Américains durant la guerre du Vietnam, le massacre des animaux pour la pharmacopée traditionnelle, la destruction de la végétation et la déforestation liées à la démographie galopante, la stérilisation de la terre par l’utilisation excessive des engrais chimiques sont l’apanage des gens dits « civilisés ». La solidarité et l’entraide ne sont pas des mots creux.

Les Bahnar sont avant tout des « rơngơi » (ou libres). Ils sont habitués à dire: « Je suis rongơi ou kodră (maître)  » pour dire qu’ils sont libres du choix de leurs activités ou maîtres de leur destin. Sont -ils des « sauvages » comme on y pense depuis longtemps? C’est à chacun de nous d’approfondir cette question et de se servir de leur genre de vie et de leur culture comme source d’inspiration et de réflexion afin de nous permettre de vivre mieux et d’être ensemble dans le respect d’autrui et de la nature.

Retour à la première page 

Les Bahnar (Dân tộc Bà Na): deuxème partie

peuple_bana1

 

Version vietnamienne

Version anglaise

Deuxième partie 

La dernière étape correspond au dernier jour. C’est non seulement le jour de la libération du veuf ou de la veuve mais aussi celui où on vide et on nettoie la marmite (xlah go). Un repas commun a lieu en l’honneur des invités chez l’hôte ou dans la maison communale. Puis il est suivi ensuite par un rite consistant à asperger d’eau le veuf ou la veuve ainsi que les parents du défunt par chacun des invités. Cette manifestation officialise la coupure définitive du lien des vivants avec le défunt. Dès lors, le veuf (ou la veuve) est permis de se remarier. La maison funéraire est désormais une carcasse matérielle sans âme. Elle va se décomposer naturellement au fil des années. Mais elle est d’un grand intérêt au niveau artistique et culturel car la palissade en pieux qui la clôture présente un caractère original avec les sculptures d’animaux et d’oiseaux. À l’abri du petit toit de chaume, on peut voir les armes, les vêtements, les aliments offerts à l’esprit du mort. Certaines maisons funéraires sont entourées de sculptures ayant trait à la fertilité ou à la renaissance: hommes et femmes en copulation, hommes et femmes montrant leurs organes génitaux démesurés, figures en position fœtale etc.. Ces figurines grossières ne sont pas des êtres humains mais elles sont des singes du fait qu’elles sont laides comme un singe dans le monde des esprits où tout est à l’inverse du monde des vivants. L’arête faîtière de la maison funéraire ne peut pas passer inaperçue car elle est faite avec un tronc d’arbre entier sculpté et décoré.

Pour les Bahnar, l’âme du défunt continue à vivre en tant qu’esprit dans le monde des esprits.  L’organisation de ce dernier  est semblable à celle du monde des vivants et sa souveraine est à la fois immortelle et un génie-femme nommée Brôu. Le monde des esprits (ou mang lung) est invisible pour les vivants car il se trouve soit à l’intérieur d’une grotte soit dans une forêt noire ou dans une mer très lointaine. Les esprits y vivent groupés dans les villages. Ils assument toutes les activités humaines. Ils connaissent comme les vivants le bonheur et la souffrance et ils vont mourir aussi comme ces derniers. Par contre ils travaillent leurs terres la nuit et ils dorment le jour. De même ils utilisent un langage tout à fait opposé à celui des vivants: « laid » signifie « beau », « émoussé » signifie « aiguisé » etc… Mang Lung ressemble à notre monde mais il est tout à fait inversé. Lorsqu’il fait nuit, c’est le jour à Mang lung. Les maisons y ont des pilotis pointés vers le haut et le toit vers le bas. La durée de vie d’un esprit est aussi limitée car elle se termine aussi par la mort. L’esprit se transforme alors au bout de quarante ou cinquante ans en une goutte de rosée (dak ngop) qui se dissout dans la terre. C’est ainsi que se termine un cycle de vie fermé: terre-homme-esprit-terre. Il n’y a que la souveraine-génie (Bia Brôu) qui a le soin de superviser la naissance de nouvelles créatures en façonnant des enfants avec de la terre et en les introduisant dans les matrices des femmes enceintes.

Pour les Bahnar, un cycle de vie est composé de deux existences:

celle du monde des vivants et celle du monde des esprits.

En ce qui concerne la coiffure des Bahnar, on commence à voir souvent des hommes qui, en contact avec les Kinh et les étrangers, se coupent de plus en plus les cheveux. Normalement, l’homme bahnar enroule un turban d’étoffe et le passe dans le chignon. Par contre, une femme ne porte pas le turban et le remplace par un cordon ou un bandeau de perles de verroteries. C’est un acte de déclaration d’amour lorsqu’une fille dénoue en public le turban d’un jeune homme ou lorsqu’un homme offre à la femme ou à la fille du tabac ou une chique sortie de sa pipe. 

La vie des Bahnar est régie par un cycle annuel traditionnel avec dix mois pour la production agricole et deux mois consacrés aux festivals et aux activités variées du village: mariage, réparation ou construction de la maison, confection des vêtements etc… Dans leur société traditionnelle, la notion d’argent n’a aucune signification importante. Leurs produits de valeur tels que les gongs, les jarres, les buffles, les éléphants, les chevaux étaient utilisés comme les objets de troc dans le passé. Leur richesse se mesure au nombre de gongs, de jarres, d’esclaves trouvés dans chaque famille. Les Bahnar font du riz la base de leur nourriture. Il est cuit à l’étouffée ou à la vapeur. On remplit du riz et d’eau dans un gros bambou qu’on suspend au dessus du feu. En carbonisant le récipient, cela permet de cuire le riz. Ils se servent du riz gluant pour fabriquer une boisson fermentée (ou alcool de riz)( rượu cần en vietnamien). Ils absorbent ce liquide au moyen de longues pipettes en bambou. Ils ajoutent de l’eau lorsque le niveau du liquide baisse. Il est évident que la boisson est de moins en moins concentrée avec cet ajout.  

Les Bahnar de deux sexes se percent souvent les lobes pour porter des boucles d’oreilles mais ils ne se les distendent pas pour porter de gros anneaux comme les autres ethnies de la région. Vers quatorze ou quinze ans, ils se font araser les dents. Cette coutume de l’arasement des dents est en décroissance au fil des années. Par contre, le tatouage n’est pas pratiqué. Pour les garçons, à l’âge où ils commencent à aider leur père dans les champs, ils sont obligés d’aller coucher à la maison communale car c’est ici qu’ils reçoivent la formation, le maniement des armes et l’enseignement assumés par les anciens du village pour l’apprentissage de la vie. Ils ne peuvent rentrer qu’à la maison paternelle pour manger ou pour être soigné en cas de maladie.dantoc_bana

Chez les Bahnar, on constate que le couple des mariés n’adhère ni à la patrilocalité ni à la matrilocalité. C’est une question de convenance liée à la décision du couple. Par contre il y a une répartition de travail dans le couple: le mari s’occupe des affaires du village tandis que la femme prend en charge tous les travaux de la maison. Chez les Bahnar, on est libre de choisir son époux ou son épouse. Le mariage peut être célébré quand chacun des futurs répond aux conditions suivantes:

1°) Ils sont d’âge à cultiver un champ ( 15 à 16 ans). C’est une condition préalable pour nourrir leur famille car personne n’est prête d’apporter l’assistance même leurs parents.
2°) Il est obligatoire de contracter le premier mariage pour une jeune fille même si elle dépasse le cap de trente ans. Par contre elle peut être épousée soit comme femme de premier rang soit femme de second rang. Mais pour un veuf, un célibataire ou un divorcé, il n’est pas possible de contracter de mariage de second rang.
3°) Il n’existe pas de liens de parenté entre les futurs. C’est le cas où le consentement des parents est refusé lorsque le lien est prouvé. D’une manière générale, la participation des parents a pour but de s’assurer que les principes de tradition sont respectés. 

Lire la suite (Tiếp theo)

 

 

Les Bahnar (Dân tộc Bà Na): 2ème partie (version vietnamienne)

peuple_bana1

Version française

Version anglaise

Giai đoạn cuối tương ứng với ngày cuối cùng. Đây không chỉ là ngày giải thoát cho người góa chồng hay góa vợ mà còn là ngày rửa nồi và dọn dẹp (xlah go). Một bữa ăn cơm chung được tổ chức để vinh danh các vị khách tại nhà của chủ nhân hoặc ở nhà rông. Sau đó, có được một nghi thức rảy nước lên người góa phụ hay góa vợ và cha mẹ của những người đã khuất bởi mỗi quan khách được mời. Sự kiện này chính thức hóa việc cắt đứt mối liên hệ cuối cùng giữa người sống và người đã khuất. Vì vậy, người vợ góa chồng (hoặc góa vợ) được phép tái hôn. Nhà tang lễ bây giờ là một cái nhà xác không còn linh hồn. Nó sẽ phân hủy tự nhiên theo năm tháng.

Nhưng nó vẫn  còn được sự lưu ý đến ở phương diện nghệ thuật và văn hóa vì hàng rào bao xung quanh có một đặc điểm độc đáo với các tác phẩm điêu khắc động vật và chim. Dưới mái nhà tranh nhỏ, người ta có thể nhìn thấy vũ khí, quần áo, thức ăn được cúng cho vong linh người đã khuất. Một số nhà tang lễ được rào quanh bởi các tác phẩm điêu khắc liên quan đến khả năng sinh sản hoặc tái sinh: đàn ông và phụ nữ giao cấu, đàn ông và phụ nữ thể hiện bộ phận sinh dục không cân xứng của họ, hình người trong tư thế bào thai vân vân… Những bức tượng thô thiển này không phải là các con người mà là một loài khỉ rất xấu xí trong thế giới thần linh nơi mà mọi thứ đều đảo ngược lại  với  thế giới của người sống. Cây cột của nhà tang lễ khó mà không thấy được vì nó được chạm khắc và trang trí toàn bộ thân cây.

Đối với người Bahnar, linh hồn của người đã khuất tiếp tục sống như một người có linh hồn trong thế giới thần linh. Nơi nầy có tổ chức tương tự như thế giới của người sống. Người cai trị ở đây bất tử và là một phụ nữ có tên là Brôu. Thế giới  thần linh (hay mang lung)  không thể nhìn thấy được đối với người sống vì nó được  ở bên trong hang động, trong rừng sâu hoặc ở một vùng biển rất xa xôi. Các linh hồn sống ở nơi nầy  thường sống thành nhóm ở các ngôi làng. Họ đảm nhận mọi hoạt động của con người. Họ biết hạnh phúc và đau khổ như con người sống và họ cũng sẽ chết như họ. Mặt khác, họ làm việc về đêm và ngủ ban ngày. Tương tự như vậy, họ sử dụng một ngôn ngữ đối lập với ngôn ngữ của người sống: « xấu xí » có nghĩa là « đẹp », « cùn » có nghĩa là « bén » vân vân… Mang Lung trông giống như thế giới của chúng ta, nhưng nó hoàn toàn ngược lại. Khi trời tối là ban ngày ở Mang lung. Những ngôi nhà ở đó có nhà sàn hướng lên trên và mái nhà hướng xuống dưới. Tuổi thọ của một linh hồn ở đây cũng bị giới hạn bởi vì nó cũng kết thúc bằng cái chết. Sau đó, linh hồn biến thành sau bốn mươi hoặc năm mươi năm, một giọt sương (dak ngop) tan vào đất. Đây là một vòng đời khép kín được kết thúc: đất- con người- linh hồn – đất. Chỉ có thần linh tối cao (Bia Brôu), người có công trông coi việc sinh nở của những sinh vật mới bằng cách tạo hình những đứa trẻ với đất và đưa chúng vào tử cung của những phụ nữ mang thai.

Đối với người Bahnar, một vòng đời gồm có hai lần tồn tại: một lần sống với thế giới  người sống và một lần với thế giới thần linh.

Nói đến kiểu tóc của người Bahnar, chúng ta thấy nam giới thường tiếp xúc với người Kinh và người nước ngoài nên  việc cắt tóc ngày càng nhiều. Thông thường, người đàn ông Bahnar quấn trên đầu một chiếc khăn xếp bằng vải và kéo qua búi tóc. Ngược lại, người phụ nữ không đội khăn xếp mà thay bằng dây hoặc băng đô hạt thủy tinh. Đó là hành động tuyên bố tình yêu khi một cô gái cởi bỏ khăn xếp của một chàng trai trẻ ở nơi công cộng hoặc khi một người đàn ông đưa cho phụ nữ hoặc cô con gái thuốc lá hoặc điếu thuốc lào của chàng  ta. Cuộc sống của người Bahnar được điều chỉnh theo chu kỳ truyền thống hàng năm với mười tháng để sản xuất nông nghiệp và hai tháng dành cho lễ hội và các hoạt động khác nhau trong làng: cưới xin, sửa nhà, may quần áo … Trong xã hội truyền thống của họ, khái niệm tiền không có ý nghĩa quan trọng. Những sản phẩm có giá trị của họ như chiêng, ché, trâu, voi, ngựa được dùng làm hàng trao đổi trong quá khứ. Sự giàu có của họ được đo bằng số lượng chiêng, ché, nô lệ được tìm thấy trong mỗi gia đình. 

Người Bahnar dùng gạo làm thức ăn cơ bản. Gạo được nấu hầm hoặc hấp. Cho gạo và nước vào một cây tre lớn rồi treo trên bếp lửa. Bằng cách đốt cháy cây tre chứa thì sẽ nấu chín cơm. Họ dùng gạo nếp để làm thức nước uống lên men (hoặc rượu gạo) (tiếng Việt gọi là rượu cần). Họ hút chất lỏng này qua các cây tre thon dài. Họ thêm nước vào khi mức chất lỏng giảm xuống. Như vậy thức uống nầy ngày càng ít có đặc hơn với sự bổ sung. Người Bahnar ở cả hai giới thường xỏ khuyên tai để đeo chứ không kéo dài ra để đeo vòng bản lớn như các dân tộc khác ở trong vùng. Khoảng mười bốn hoặc mười lăm tuổi, chúng được làm phẳng răng. Tục phẳng răng này đã giảm dần trong những năm qua. Tuy nhiên, xăm mình không được sử dụng. Đối với các đứa con trai, đến tuổi bắt đầu giúp cha làm ruộng thì phải ngủ lại ở nhà rông vì ở đây các em được giáo dục, huấn luyện và sử dụng vũ khí do các già làng đảm nhiệm trong việc học làm người. Chúng chỉ có thể về nhà ăn cơm hoặc được điều trị trong trường hợp ốm đau.  Với người Bahnar, chúng ta nhận  thấy rằng vợ chồng không tuân theo chế độ phụ hệ cũng như mẫu hệ. Đó là một vấn đề thuận tiện liên quan đến quyết định của hai vợ chồng. Mặt khác, giữa hai vợ chồng có sự phân công lao động: chồng lo việc làng, vợ lo việc nhà. Với người Bahnar, bạn có thể tự do chọn vợ hoặc chồng. Hôn nhân có thể được cử hành khi mỗi người (vợ cũng chồng) đáp ứng các điều kiện sau đây: 

1 °) Họ phải đủ tuổi làm ruộng (15 đến 16 tuổi). Đây là điều kiện tiên quyết để nuôi sống gia đình họ vì không ai sẵn sàng hỗ trợ kể cả cha mẹ họ.

2 °) Bắt buộc phải ký hợp đồng hôn nhân đầu tiên đối với một cô gái trẻ ngay cả khi cô ấy đã vượt quá ngưỡng ba mươi tuổi. Mặt khác, cô ấy có thể kết hôn với tư cách là một người vợ chính hoặc một người vợ thứ. Nhưng đối với một người góa bụa, một người độc thân hoặc một người đã ly hôn thì không thể ký kết hôn nhân loại hạng hai.

3 °) Không có liên hệ bà con giữa những người trở thành vợ chồng. Đây là trường hợp mà sự đồng ý của cha mẹ sẽ bị từ chối khi có sư liên hệ. Nói chung, mục đích của sự tham gia của cha mẹ nhầm để đảm bảo và  tôn trọng các  nguyên tắc truyền thống.

[Đọc tiếp phần chót ]


dantoc_bana1

Les Bahnar (Dân tộc Bà Na): 1ère partie

peuple_bana

Version vietnamienne

English version

Première partie

Les Bahnar font partie du groupe Môn-Khmer de la famille ethnolinguistique austro-asiatique. Ils vivent regroupés dans la partie septentrionale des hauts plateaux du Centre Vietnam (Kontum, Gia Lai, Bình Định etc.) à l’écart des gens de la plaine qui à une certaine époque, les ont traités encore comme de sauvages ( ou Mọi en vietnamien). Cela est dû à la méconnaissance de leur culture qui conduit à entretenir cette attitude déplorable et cette vision grotesque. Même les explorateurs français ne cessèrent pas de les désigner comme des Mọi dans leurs récits d’exploration à l’époque coloniale. 

Il n’y a que les ethnologues comme feu Georges Condominas ayant réussi à les reconnaître comme des gens respectueux de la nature et de l’environnement, des gens épris d’un sentiment profond en accord avec le milieu où ils habitent et où tous les êtres (plantes et animaux), monts et eaux, ont une âme comme eux. Les Bahnar vivent dans les régions montagneuses à de diverses altitudes. Ils font pousser du riz sur les champs secs ou sur les rays. (brûlis). Ceux-ci nécessitent souvent le déplacement des plantations et celui des villages car les cendres de l’essartage ne permettent pas de fertiliser la terre au delà de deux ou trois ans à cause de la pluie qui les entraîne lors de son passage. Les récoltes sont abondantes pour la première année de l’incendie.

La deuxième année commence à être moins bonne. Dans de mauvaises conditions, il est impossible de garder le champ au delà de deux ans. C’est pourquoi les Bahnar ont tendance à utiliser les champs secs qui sont aménagés souvent au bord des cours d’eau. La houe est l’outil principal utilisé dans leur agriculture mais depuis le début du XXème siècle, le recours à la charrue dans les rizières inondées est fréquent de plus en plus. 

dantoc_bana1

Leurs croyances religieuses et leurs mythes sont similaires à ceux des autres groupes ethniques rencontrés au Vietnam. Animistes, les Bahnar vénèrent les plantes comme les banians et les ficus. Le kapokier est considéré comme le gardien et sert de pôle de sacrifice dans la célébration des rites et des cérémonies. Chaque rivière, chaque source d’eau, chaque montagne ou chaque forêt, chacune d’elles a son propre génie (ou iang). Les Bahnar séparent les génies en deux catégories: les génies de rang supérieur et les génies de rang inférieur. Les premiers sont les dieux qui ont crée le monde et veillent sur les activités humaines. Parmi ces dieux, on peut citer Bok Kơi Dơi (Principe mâle de la nature), Iă Kon Keh (Principe femelle de la Nature ), Bok Glaih (Dieu du tonnerre et de la foudre), Iang Xơri (Génie du riz) , Iang Dak (Génie des eaux) etc… Quant à la deuxième catégorie, la plupart des génies sont des génies d’animaux, d’arbres ou d’objets parmi lesquels figurent Bok Kla (Monsieur Tigre), Roih (Éléphant), Kit drok (Crapaud), Iang Long ( Génie d’arbres) , Iang Xatok (Génie de jarre) etc…

Face à ces croyances religieuses et à ces superstitions, les missionnaires catholiques ont eu du mal au début de leur mission pour convertir les Bahnar au christianisme. Ils étaient obligés de falsifier même leurs mythes pour corroborer la bible. Les Bahnar chrétiens étaient tellement attachés à leurs croyances animistes qu’ils arrivaient à assimiler tant bien que mal le christianisme au fil des années.

Pour les Bahnar, la mort n’est pas la fin d’une vie mais c’est le commencement d’une autre dans l’au delà. L’âme que les Bahnar désignent sous le nom de pơngơl, se mue en fantôme (ou atâu en bahnar) et rejoint les ancêtres dans le monde des esprits (dêh atâu). Les Bahnar croient que l’être humain est constitué d’un corps (akao) et de l’âme pơngơl. La vie n’est possible que grâce à l’âme et non au corps. Mais l’âme est invisible pour les humains. Il n’y a que le devin qui peut la voir sous la forme d’une araignée, d’un grillon ou d’une sauterelle. Les humains ont chacun trois âmes: une âme principale importante (pơngơl xok ueh) qui doit être attachée au sommet de la tête et deux âmes complémentaires (pơngơl kơpal kol et pơngơl hadang), l’une située sur le front et l’autre dans le corps. Au cas où l’âme principale qui constitue le souffle essentiel pour l’homme quitte le corps pour une raison inconnue et ne revient pas, l’homme sera malade et sera décédé. Les âmes complémentaires sont là pour remplacer temporairement l’âme principale. C’est cette dernière qui se métamorphose en fantôme  dans l’autre monde. Cet esprit (ou fantôme)  a besoin de nourriture, de vêtements et même d’une maison pour se protéger contre la pluie et le soleil. C’est la conception animiste d’après laquelle le défunt continue d’avoir les mêmes besoins dans l’autre monde. C’est aussi pour cela que lors de l’enterrement du décédé, sa famille construit une hutte sur sa tombe: c’est la maison du fantôme (h’nam atâu). Pour les Bahnar, le fantôme continue à vivre dans cette hutte et à rôder dans les environs de la cimetière. Il reçoit régulièrement tous les mois une offrande de porc et de poulet de la part de sa famille. Cette période d’entretien de la tombe peut durer plusieurs mois voire des années. Elle est liée à la situation financière de la famille du décédé. Elle se termine par une cérémonie rituelle (ou cérémonie d’abandon de la tombe ) dont le but est de permettre au fantôme de rejoindre définitivement le monde des esprits (dêh atâu) et de rompre le lien du trépassé avec les vivants. Cet esprit devient ainsi un « esprit grand-père ou grand-mère » (atâu bok ja). Contrairement à des Vietnamiens, des Nùng, des Mường etc…, les Bahnar ne font pas le culte des ancêtres.

Cette cérémonie rituelle a lieu une fois par an et débute d’une manière générale à la fin de la saison des pluies. On choisit la période où il y a la pleine lune. Cette cérémonie est en quelque sorte un enterrement secondaire. Elle est préparée avec soin et joie. Elle est choisie à un jour propice par tous les chefs des familles endeuillées en concertation avec les anciens du village et elle dure habituellement trois jours et trois nuits. On trouve dans cette cérémonie trois étapes essentielles: rites de construction, d’abandon et de libération. Chaque étape correspond à un jour entier.

Dans la première étape, on se débarrasse de la hutte recouvrant la tombe et on édifie à sa place, une maison funéraire avec les matériaux de construction (bambous, bois, herbe imperata) ramassés depuis plusieurs semaines. Le premier jour de construction est appelé « dong boxàt » par les Bahnar. Le travail de construction est accompagné toujours par la danse et la musique dans une liesse indescriptible.

Dans la seconde étape, la cérémonie rituelle débute toujours le soir. C’est l’étape de l’abandon de la tombe. Pour les Bahnar, c’est nar tuk (ou jour de l’abandon). On commence à faire une offrande d’alcool et de viande au défunt dans la maison funéraire. Puis c’est au chef de famille d’entamer une prière et d’officier tandis que ses proches peuvent entrer dans la maison funéraire et se lamenter pour la dernière fois sur le départ précipité du défunt. Une fois le rite terminé, la famille du défunt doit faire sept fois le tour de la maison funéraire dans le sens inverse des aiguilles d’une montre. Elle est accompagnée dans cette ronde par des hommes portant sur leurs épaules une maison miniature (ou maison du fantôme) et des figurines en bois articulées de diverses tailles et actionnées par un jeu de ficelles tentant de simuler toutes les activités humaines: pilage du riz, tissage etc.. Même un couple de figurines en copulation n’est pas absent non plus. Les Bahnar prétendent que l’animation de ces figurines devant la maison du fantôme a pour but d’apporter seulement le divertissement mais certains ethnologues pensent qu’il y a certainement une autre signification en comparaison avec les coutumes des autres ethnies de la région (celles des Batak du Nord de Sumatra). La procession est accompagnée par la danse des femmes au rythme des gongs frappés par des hommes revêtus avec de beaux vêtements et portant chacun une plume dans les cheveux. Etant le point culminant de la cérémonie, cette procession est destinée à accompagner le fantôme dans le monde des esprits.

  Lire la suite (Tiếp theo)

 

 

The Gongs of Central Highlands (Cồng Chiền Tây Nguyên) Last part

gong_dxdung

Photo Đinh Xuân Dũng ( Nha Trang )

Intangible Heritage of Humanity by Unesco in 2005

Last part

In the ritual ceremonies, the players of gongs move slowly in single file or in half-circle in front of a public admirer. They left from right to left in the counterclockwise direction to go back in time and return to their origins. Their footsteps are slow and rhymed to the beats of gongs, each of which has a well-defined role in the set. Each gong corresponds exactly to a guitar string, each having a note, a particular tone. Whatever the melody played, there is the active participation of all the gongs in the procession. However, an order very precise in the sequence and composition of beats is imposed in order to respond to the melodies and own themes chosen by each ethnic group.

Sometimes, to better listen to the melody, the auditor has the interest to be into a location equidistant from all the players arranged in a half circle otherwise he cannot listen properly because of the weakness and amplification of the resonance of some gongs corresponding respectively to the distance or the excessive closeness of its geographical position relative to one another.

For most of ethnic groups, the set of gongs is reserved only for men. This is the case of the ethnic group Jarai, Edê, Bahnar, Sedang, Co Hu. By contrast, for the ethnic group Eđê Bih, women are allowed to use the gongs. In a general way, the gongs are of variable size. The disk of the major gongs may vary from 60 to 90 cm in diameter with a cylindrical edge from 8 to 10 cm. This does not allow the players to wear them because they are too heavy.

These gongs are suspended often to the beams in house by the ropes. However, there are the gongs more small whose disk varies from 30 to 40 cm with an edge from 6 to 7cm. The latter are frequently encountered in the festive rituals.

For the identification of highland gongs, the Vietnamese musicologist Trần Văn Khê has the opportunity to enumerate a number of characteristics in one of his articles:

  • 1°) They are very varied.
  • 2°) They are linked closely to the spiritual life of highland ethnic minorities. Being regarded as sacred instruments, they promote communication with spirits and geniuses.
  • 3°) They accompany the highland people from its birth until its death. Their presence is visible not only in the important events (weddings, funerals, wars etc. ..) but also in the agricultural feasts (paddy germination, ear intiation, feast of the agricultural close etc. . ).
  • 4°) The manner of playing the highland gong is very particular and reflects the family structure of each ethnic minority. This allows to easily identify the ethnic group in question by the played stamp melodies.
  • 5°) The movement of players is always performed in the counterclockwise direction in the purpose to go back in time and return to the source. It is identical to the approach used by the Zen Buddhist school in its walking meditation (thiền hành) oriented from « the outside to the heart » (từ ngoài vào tim).

The composition of the played melody is based primarily on the sequence of beats settled according to original processes of repetition and answer.

One doesn’t finds elsewhere as many gongs as one had them on the Highlands of Vietnam. That is why, during his visit in Vietnam, the ethnomusicologist Filipino José Maceda, accompagned by Vietnamese musician Tô Vũ, had the opportunity to emphasize that the highland gongs are very original when he was in contact with the gongs. For him, because of the large number of gongs found, it is possible the Highlands may be the gong cradle in Southeast Asia.

Over the years, the risk of seeing the « original » and « sacred » character is real because of the illicit trafficking of gongs, the lack of gong tuner, the disinterestednessof young people and the destruction of natural environment where the gongs have been « educated ».

Highlands Gongs

For a few years, being regarded as cultural goods, the gongs become the object of all desire for Vietnamese antique dealers and foreign collectors, which brings the local authorities to exercise strict control with the aim of stopping the haemorrhage of gongs (chảy máu cồng chiêng)

The governmental effort is also visible at the local level by the establishment of incentive programs for learning with young people. But according to some Vietnamese ethnomusicologists, this allows to make durable the gongs without giving to the latter the means to possess a soul, a sacred character, a ethnic sound color because they need not only the skillful hand and fine hearing of gong tuner but also the environment. This is the latter factor that one forgets to protect effectively during the last years. Because of the intensive deforestation and galloping industrialisation for the coming years, the ethnic minorities don’t have the opportunity to practice slash and burn agriculture. They will not have any occasion to honor the ritual festivals, their genius and their traditions. They no longer know to express sorrows and joys through the gongs. They don’t know their oral epics (sử thi). Their paddy fields are replaced by coffee and rubber plantations. Their children are no longer forest clearers but they are engaged to industrial and tourist activities, which allows them to have comfortable livelyhoods. Few now recall how to tune these gongs.

The character « sacred » of gongs no longer exists. The latter become instruments of entertainment like other music instruments. They can be used anywhere without significant events and very specific and sacred hours (giờ thiêng). They are played according to the tourism demand. They are no longer what they were until now.

It is for this irreparable loss that UNESCO has not hesitated to underline the urgency in the recognition of space of gong culture in the Central Highlands (Tây Nguyên) as the masterpiece of Oral and Intangible Heritage of Humanity on 25 November 2005. The gongs are only one essential element in the achievement of this masterpiece but it must be understood that other elements are as important as these gongs: the environment, the traditions and customs, the ethnic groups etc. ..

The gongs without their environment and their ethnic sound color no longer possess the sacred soul (hồn thiêng) of Central Highlands.They lose the original character for ever. There is always a price to pay in the preservation of the gong culture in Central Highlands but it is to the scope of our collective efforts and our political will. One cannot refute that the culture of the gongs in Highlands is part now of our cultural heritage.

[Back to page « Vietnam, land of 54 ethnies »]

 

 

The Gongs of Central Highlands (Cồng Chiền Tây Nguyên) Third part

congchien_4e

The culture of the gongs is localized in the 5 provinces of central Vietnam (Đắc Lắc, Pleiku, Kontum, Lâm Đồng and Đắk Nong). Some twenty ethnic groups (Bahnar, Sedang (Xơ Đăng), Mnongs, Cơ Ho, Rơ Mam, Êđê, Jarai (Giarai people), Radhes etc ..) are identified in the use of these gongs. According to illustrated Vietnamese musicologist Trần Văn Khê, in the other countries of Southeast Asia, the gong player always remains seated and can play several instruments associated at the same time. This is not the case of the gong players of Highlands in Vietnam. Each player may play a single gong. There are as many gongs than players in a set.

Thanks to a thin string or to a band of cloth that can be more or less tightened by torsion, each player suspends the gong to the left shoulder. He struck the central dome of the gong outer face either with a wooden or leather mallet or with his right fist barren or wrapped up in fabric.

The sound quality of the gong depends not only on the alloy with which the gong has been manufactured but also the tuner quality. Other parameters are involved: the wooden or leather mallet, the position and action of the hand striking the gong, the tension of the strap etc. . In addition, the player can modulate skillfully the effects of the gong sound by varying the pressure and the relaxation on the bent edge of the outer face with his left hand. The muting effect may be caused by this action. Each ethnic group prefer a type of wood in the manufacture of the mallet. By choosing the hard wood, the Êđê often obtain interference noise in the power of the gong resonance. By contrast, in selecting the soft wood, the Bahnar manage to obtain the « clarity » of its fundamental tone despite the weakness of intensity detected in the resonance.

At the time of the purchase, the gong is delivered to the « raw » state, without musical tone, character and soul. Its outer face is almost flat. It is similar to an object producing an audible signal. (Cái kẻng) Thanks to the strokes of wooden mallet and to fine hearing of the tuner, the gong receives small bumps and concentric circles on its border and on its inner and outer faces. The blow of the mallet given on its outer face increase its tone.

By contrast, the decrease of the resonance is visible inversely with its inner face. The gong tuner manages to give it a sound color, a particular musical note, which makes it now a musical instrument in its own right. According to the highland people, analogous to the man, the gong has a face, a character and a soul.  It is unlike any other gong.It is said that the gong is educated because from an object that is purchased with the « raw » state from the Kinh (or Vietnamese) (Quảng Nam), it receives an education, a note, an ethnicity, a sacred character. For the gong purchased in Laos, it already has a soul but it is a Laotian soul.

To transform it into a gong of the high plateaus, it must be educated by the blows of wooden mallet so that it knows as well the language Bahnar, Stieng, Edê, Mnong etc. .. It now has the sacred soul (hồn thiêng) of the high plateaus.

The latter does not disappear as long as there is still the environment where the gong is « educated » (the forest, the ethnic groups, the villages, the sources of water, the animals etc. .. ).  The sacred character of the gong can only be found in this natural environment which allows it to find its ethnic identity through the melodies varying from one village to another or from one ethnic group to another and the agrarian rites. The gong can produce a false note over the years of use. One says that it is « sick ».

It must be treated by bringing in a doctor (or a good musician tuner) that it is difficult to find sometimes on-site. It is necessary to travel several kilometers in other regions to succceed in finding him. Once readjusted the sound, it is said that the gong is healed.

congchien5

More reading (Tiếp theo)