L’île aux pastèques (Chuyện Dưa hấu)

dua_hau

English version

French version

Dưới triều đại Hùng Vương thứ 18, vua Văn Lang vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, An Tiêm, một trong những thần dân trung thành nhất của nhà vua, đã bị đày ải trên một hoang đảo cùng vợ và con trai vì tội vu khống. Trước sự khắc nghiệt của thiên nhiên, tất cả mọi người đều khóc, ngoại trừ ông, vì ông tin rằng, theo tục ngữ Việt Nam, nước suối chảy ra biển nhưng luôn trở về nguồn.

Ông bắt đầu khám phá môi trường xung quanh và tìm kiếm mọi thứ cần thiết để sinh tồn: nước, trái cây vân vân.. Ông thậm chí còn tự chế tạo một chiếc nỏ để săn chim. Một buổi sáng đẹp trời, khi đang bắn một con chim, ông phát hiện ra nó đã ăn một loại quả nào đó, không để lại hạt, điều này đã thôi thúc ông gieo chúng. Nhờ sự tưới nước và chăm sóc của vợ con, những quả bắt đầu to và tròn hơn. An Tiêm đặt tên cho chúng là « dưa hấu » để tưởng nhớ tên « Hấu » của con trai mình.

Đã mấy tuần trăng trôi qua kể từ khi họ rời đi. Điều này bắt đầu khơi dậy trong lòng chàng một nỗi nhớ kỳ lạ. Vì lý do này, chàng quyết định gửi lời nhắn đến bạn bè bằng cách khắc tên mình và tên gia đình lên vỏ dưa hấu rồi thả xuống biển. Những người đánh cá vớt được chúng lên và thấy chúng không chỉ có hương vị tuyệt hảo mà còn mang dấu ấn của gia tộc An Tiêm. Họ không ngần ngại dâng một ít lên nhà vua. Hối hận, nhà vua, cảm động trước lòng trung thành của gia tộc An Tiêm, đã quyết định tha tội cho An Tiêm và gia đình. Về phần hòn đảo, nó không còn là vùng đất lưu đày nữa. Người dân có thể định cư ở nơi đó. Công sức của họ đã tạo ra những loại trái cây khác ngoài « dưa hấu ».

Sous le règne de Hùng Vương 18, roi de Văn Lang au 3è siècle avant J.C., An Tiêm, un des meilleurs sujets du roi, à cause des calomnies, a été condamné à s’exiler sur une île déserte avec sa femme et son fils. Devant l’hostilité de la nature, tout le monde a pleuré sauf lui car il a été convaincu que selon un proverbe du Viêt-Nam, l’eau du ruisseau rejoint la mer mais finit toujours par retourner à la source.

Il commençait à tâtonner l’environnement et à trouver tout ce qu’il fallait pour survivre: de l’eau, des fruits etc… Il arrivait même avec ses mains à fabriquer lui-même une arbalète pour chasser les oiseaux. Un beau matin, en abattant un oiseau, il découvrit que celui-ci était en train de manger un certain fruit dont il ne restait plus des graines, ce qui lui donnait l’idée de les semer. Grâce à l’arrosage et aux soins apportés par sa femme et son enfant, les fruits commençaient à grossir et à prendre une certaine rondeur. An Tiêm les a nommés « dưa hấu » en souvenir du nom de son fils « Hấu« .

Plusieurs lunes ont passé depuis leur départ. Cela commençait à provoquer en lui une étrange nostalgie. C’est pour cette raison qu’il décida d’envoyer à ses amis un message en gravant son nom ainsi que celui de sa famille sur l’écorce des pastèques et en jetant ces fruits à la mer. Ceux-ci ont été repêchés par les pêcheurs qui les trouvaient non seulement posséder un goût exquis mais porter aussi des inscriptions de la famille An Tiêm. Ils n’hésitèrent à en offrir quelques unes au roi. Celui-ci, rongé par le remords et par la fidélité de la famille d’An Tiêm, décida de gracier An Tiêm et sa famille.

Quant à l’île, elle n’était plus une terre d’exil. Les gens pouvaient s’y installer. Leur labeur faisait pousser les fruits autres que « dưa hấu ». 

[Return CONTES]

The story of an impossible love (Trương Chi Mỵ Nương)

The story of an impossible love

French version
Vietnamese version

Once upon a time there was a powerful lord having a sole daughter of the name Mỵ Nương. She was very beautiful. Like all the girls of her status, she was always kept in the palace. She devoted her time in painting, embroidery and poetry. She often came to the window to view the landscape and look at the river water that flowed underneath. 

On a beautiful day, she was attracted by a melodious and melancholic song that came up from the river. It was the voice of a fisherman who was pulling his net. She began to make a habit of listening to him. This voice is so captivating that she began to rock her soul into insensitivity. It was like an appointment she had with this fisherman.


 In one beautiful morning, that voice was quiet. Its silence rendered her ill. She was completely bedridden and no doctors could determine the cause of her illness. Then, one day, the voice rose again. The song was so melodious that My Nuong regained her forces and found her beauty back. She became happy at the greatest joy of her father. He began to know the cause of his daughter’s illness. Every time the voice was quiet, she plunged back into a desperate lethargy. Her father ended up looking for the fisherman and brought him to his sick daughter. This boy was so ugly that My Nuong was frightened of him at first sight. From that day on, the charm of the voice whose absence made her ill disappeared. She began to forget that habit and went back to her normal life.

However, life was turned up side down for the poor fisherman, Trương Chi. He had lived, up until then, a peaceful life and had nothing to worry about besides earning his daily bread. From that encounter, he fell in love with the gracious Mỵ Nương. He knew that his love was a desperate one. He began to neglect his work, fell ill one beautiful morning and ended up dying. His body was buried at the river bank, next to a tree.

[Return CONTES]

 

One day, during a violent storm, the banks were ravaged by the river. His tomb was completely devastated. People found at that place a jade ball of magnificent purity. According to the people of that place, it was the body of this fisherman that was transformed into that ball.

Attracted by the splendor of the jade ball during a passage to that place , My Nuong’s father succeeded in buying it at the price of gold. He had it made in the form of a cup and gave it to his daughter as a birthday gift. When she poured tea in the cup, she saw appearing at the bottom of the cup the image of Trương Chi with his resonant melodious voice somewhere.

Moved and taken by pity, Mỵ Nương began to cry. Her tears dropped into the cup. With enchantment, the image disintegrated and disappeared. The fisherman’s soul was thus freed of his despair thanks to My Nuong’s compassion. And thus ended the story of an impossible love.


In the Vietnamese best-seller very known, this legend is evoked by two following verses:

Nợ tình chưa giã cho ai
Khối tình mang xuống tuyên đài chưa tan

As long as the love debt is not paid
Even in Hades, this stone of love cannot be melted.


 

 

L’histoire de la voix envoûtante ( Trương Chi Mị Nương )

 

L’histoire de la voix envoûtante

Vietnamese version
English version

Il était une fois un puissant seigneur ayant eu une fille unique s’appelant Mỵ Nương. Celle-ci était très belle. Comme toutes les autres filles de son rang, elle était toujours cloîtrée dans son palais. Elle consacrait tout son temps à la peinture, la broderie et  la poésie. Elle se mettait souvent à la fenêtre pour admirer le paysage et regarder l’eau du fleuve qui coulait jusqu’en contrebas. 

Un beau jour, elle fut séduite par un chant mélodieux et mélancolique qui montait du fleuve. C’est la voix d’un pêcheur qui était en train de chanter et  de tirer son filet. Elle commençait à prendre l’habitude de l’écouter. Cette voix était si envoûtante qu’elle commençait à bercer son cœur jusque-là insensible. C’était un rendez-vous habituel qu’elle ne pouvait pas manquer avec ce pêcheur.

Puis un jour, cette voix se tut. Ce silence la rendit malade. Elle fut complètement alitée et aucun médecin n’arriva à déterminer les causes de sa maladie. Puis, un autre jour, la voix s’éleva de nouveau. Ce chant était si mélodieux que Mỵ Nương reprit ses forces et retrouva sa beauté. Elle redevint heureuse à la grande joie de son père. Celui-ci commença à découvrir la cause de son mal. Elle fut replongée dans la léthargie désespérée chaque fois que cette voix se tut.  Son père finit par rechercher ce pêcheur qu’on amena auprès de sa fille malade. Ce pauvre garçon était tellement laid que cela effraya Mỵ Nương à sa première vue. De ce jour, le charme de la voix dont l’absence la rendait malade disparut. Elle commença à oublier cette habitude et reprit une vie normale.

Par contre, la vie fut bouleversée complètement pour ce pauvre pêcheur, Trương Chi. Celui-ci menait jusque-là une vie paisible et n’avait aucun souci autre que la procuration journalière de la nourriture. Il tomba amoureux de la gracieuse My Nương lors de cette rencontre. Il sut que cet amour était sans espoir. Il commença à négliger son travail, tomba malade un beau matin et finit par mourir. Son corps fut enterré au bord du fleuve. Un jour, lors d’une crue violente, les berges furent ravagées par le fleuve. Sa tombe fut complètement dévastée. On trouva à cet endroit une boule de jade d’une pureté magnifique. Selon les gens de ce coin, il s’agit bien du corps du pêcheur qui s’était transformé en cette boule.

Attiré par la splendeur et la beauté de cette boule lors de son passage dans ce coin, le père de Mỵ Nương réussit à l’acheter à prix d’or. Il fit tailler cette boule en forme de tasse et l’offrit à sa fille lors de son jour d’anniversaire. Quand celle-ci y versa du thé, elle vit apparaître au fond de cette tasse l’image de Trương Chi avec sa voix mélodieuse résonant quelque part.

Émue et prise de pitié, Mỵ Nương commença à pleurer. Ses larmes tombèrent dans la tasse. Par enchantement, celle-ci se désagrégea et disparut. Grâce à la compassion de Mỵ Nương, l’âme du pêcheur fut ainsi libérée de son désespoir. Ainsi se termina l’histoire d’un amour impossible.

Dans un chef-d’œuvre vietnamien bien connu, on fait allusion à cette légende à travers les deux vers suivants:

Nợ tình chưa giã cho ai
Khối tình mang xuống tuyên đài chưa tan

Tant que la dette d’amour demeure,
Au Pays des Sources, la pierre d’amour ne peut pas fondre.

Trương Chi-Mị Nương

Ngày xưa, có một vị lãnh chúa quyền thế có được một cô con gái duy nhất tên là Mỵ Nương. Nàng này rất đẹp. Tựa  như tất cả những cô gái khác cùng cấp bậc, nàng nầy luôn luôn ở trong cung điện của mình. Nàng dành tất cả thời gian cho hội họa, thêu thùa và làm thơ. Nàng hay thường đến bên cửa sổ để ngắm quan cảnh và nhìn dòng nước chảy xuống về phía dưới cuối sông. Một ngày nắng đẹp, nàng bị quyến rũ bởi một tiếng hát du dương và u sầu vang lên từ dòng sông. Đó là tiếng của một ngư dân vừa đang kéo lưới và vừa hát. Nàng bắt đầu có thói quen lắng nghe tiếng hát của anh chàng nầy. Giọng hát nó mê hoặc đến nỗi làm  rung chuyển trái tim vô cảm của nàng. Đây là một cuộc hẹn hò quen thuộc mà nàng có với anh chàng ngư dân này.

 Có một ngày, giọng hát đó lại im bặt  khiến làm nàng đâm ra lâm bệnh. Nàng nằm liệt giường và không thầy thuốc y nào có thể xác định được nguyên nhân khiến nàng bị mắc bệnh. Rồi bổng một ngày, giọng hát nầy cất lên lại. Bài hát nó quá du dương khiến Mỵ Nương hồi phục mau chóng sức khỏe và vẻ đẹp của mình. Nàng trở nên vui vẻ như thưở nào  khiến cha nàng vô cùng vui sướng. Cha nàng mới bắt đầu khám phá ra nguyên nhân của căn bệnh. Nàng  bị chìm vào trạng thái hôn mê tuyệt vọng mỗi khi giọng hát đó lại im bặt. Cha nàng quyết định tìm kiếm lại anh ngư dân này và mời đến cho cô con gái bị bệnh gặp mặt. Tội nghiệp cho anh chàng này quá xấu xí đến mức khiến Mỵ Nương khiếp sợ ngay qua cái nhìn lần đầu tiên. Kể từ ngày đó, sự thu hút của tiếng hát không còn làm nàng khốn đốn  lâm bệnh. Nàng bắt đầu quên dần  đi thói quen này và trở lại  sau đó với nếp sống bình thường. 

Trái lại, cuộc sống hoàn toàn bị  chao đảo đối với anh ngư dân nghèo Trương Chi này. Cho đến giờ, anh có một cuộc sống  bình yên và không phải lo lắng gì cả ngoài việc  sinh nhai hằng ngày. Chàng đem lòng yêu trộm Mỵ Nương trong cuộc gặp gỡ này. Anh cũng thừa biết tình yêu này là tuyệt vọng khiến làm anh  bắt đầu bê tha công việc của mình, đổ bệnh vào một hôm và qua đời sau đó. Thi thể của anh được chôn ở  bên cạnh bờ sông.Có một hôm, trong một trận lũ dữ dội, bờ sông bị phá vỡ. Phần mộ của anh cũng bị tàn phá hoàn toàn. Người ta tìm thấy ở nơi đó có quả ngọc bích tinh khiết tuyệt đẹp. Theo người dân sinh sống ở khu vực này, đó là thi thể  của Trương Chi  đã biến thành ra quả cầu này. Bị thu hút bởi vẻ đẹp lộng lẫy của quả cầu này khi đi qua ở nơi này, cha của Mị Nương mua lại viên ngọc bích nầy rồi nhờ một  nghệ nhân đẽo thành hình một cái chén và  đem tặng cho  Mỵ Nương nhân dịp ngày lễ sinh nhật của nàng. Khi Mị Mương  rót trà vào chén, nàng bổng thấy hình ảnh Trương Chi hiện ra dưới đáy chén cùng với tiếng hát du dương của chàng vang vọng ở đâu đó. Quá xúc động và thương hại chàng, Mỵ Nương bắt đầu rơi lệ.  Các giọt lệ của nàng rơi vào  cái chén khiến nó  bị tan rã  và biến mất. Nhờ sự đồng cảm của Mỵ Nương  mà hồn của Trương Chi được giải thoát từ sự tuyệt vọng. Đây cũng là sự kết thúc của một tình yêu bất khả thi. Trong một kiệt tác nổi tiếng của Việt Nam, truyền thuyết này được ám chỉ qua hai câu thơ như sau:

Nợ tình chưa giã cho ai
Khối tình mang xuống tuyên đài chưa tan.

[Return CONTES]

The golden star fruit tree (Ăn Khế trả vàng)

an_khe_tra_vang

French version

Vietnamnese version

The golden star fruit tree

Once upon a time there were two brothers who divided an inheritance at the death of their parents. The elder, greedy and stingy, took all the wealth and left to his younger brother and his wife only a dilapidated hut and and a star fruit tree with juicy but stunted fruits. But the two younger spouses hardly complained and were contented with this meager share. They took care of their star fruit tree and watered it in such a way that the tree took back it vigor and bore lots of fruits. When the star fruits began to ripe, a extraordinarily large raven came every morning to eat them. No matter what they did, it was impossible for the couple to chase the bird away. Chargined, the wife lamented:  » Poor us. As poor as we are, the only thing we count much on was what that star fruit tree brings us; now look, this bird ravaged it all. We will probably know starvation ». Miracle! The raven upon hearing those lamentations, perched down and replied in a human voice:  » Star fruits I eat, with gold I pay, be ready with a three-foot bag and follow me to get it ».

Afraid the woman ran in the hut to look for her husband. They discussed and decided to sew the bag according to the indicated size, waiting for the return of the bird. A few days later, the bird came back, ate all the star fruits then got down from the tree to invite the husband to take a seat on its back with the bag. Then they disappeared together in the horizon. Frightened, the younger brother closed his eyes. The bird took him very far before landing on a deserted island, full of precious stones. He was free to take whatever he could.

He filled the bag and the raven took him back to his home. From then on, the couple knew opulence, lived in luxury places. They often gave help to the poor. On the occasion of the commemoration of his parents’ death, the couple invited the elder brother to come over. Full of despise of his younger brother, the elder look for a pretext to decline and aksed that the younger carpet the road with mats and adorn the gate with gold if he wanted to receive him. Respectful of his elder brother, the younger complied with the latter’s wish. The elder brother and his wife were surprised to see the younger couple’s opulence and wealth. Curious, the elder skillfully tried to penetrate the mystery. His younger brother, honest and frank, did not hesitate to tell him the story of the giant raven that took him to look for gold.

The elder couple proposed an exchange of their fortune for only the hut and the star fruit tree. The younger agreed. One day, the raven came back to eat the star fruits and gave the same recommendation: a three-foot bag to go looking for gold. The elder greedy and curious, brought with him two big six-foot bags and when on the spot, filled them with gold. On the way back, burdened by the overweight of of the two bags, the raven who could not hold any longer, swayed and sent the elder to the sea where he drowned. The elder was the object of much despise when people knew about his greed and stinginess. God always helps good people and always punishes naughty people.

The golden star fruit tree

The betel quid (Trầu Cau)

chique_de_betel

The betel quid

French version
Vietnamese version

 

Long time ago, under the reign of king Hùng Vương the 4th, there were two twin brothers, Cao Tân and Cao Lang. They looked so much alike that it was difficult to distinguish one from the other. They both attended the school of an old teacher in the village who had a sole daughter named  Liên whose beauty attracted all the homage of all the young men in the area.

The old teacher liked both of them. He would grant his daughter’s hand to one of them, preferably the elder because according to Vietnamese customs, the elder brother would get married first. In order to be able to distinguish them, he relied on a little trick by inviting them for dinner. The one who first picked up the chopsticks would be the elder. So Cao Tân got the hand of his daughter without any doubts that his younger brother has devoted an ardent love to her. They went on to live together in a complete harmony and experienced a faultless happiness.
Cao Tân continued no less to love his younger brother like ever before and would do anything to make him happy.

However, in spite of that, the younger brother could not rid of the pain in his heart. He decided to leave them and went out for an adventure. After so many days of walking, he ended up falling exhausted on the road and was transformed into a block of lime stone with an immaculate white.

The elder brother, taken by growing worries for his younger brother left in search for him. He followed the same road taken by his younger brother. In a beautiful morning, after so many days of walking, he arrived at the lime stone block, sat on it and succumbed without movement. He was metamorphosed in to a betel nut tree growing tall with its green palms and oblong little fruits. The tree began to extend its branches and its shadow over the lime stone mass as if to protect it from the changes of weather.

Staying at home without any news from her husband, the young wife in turn left the house and went for a search of her spouse. She roamed fields, crossed villages and finally one day, she came real close to the tree. Tired by the long walk, she leaned back at the foot of the tree, took her turn to die and change into a plant whose stems curled around the trunk of the tree with large intensely green leaves in the form of a heart.

One day, while passing through the area, King Hùng heard this story. He tried chewing betel and areca with a little of the lime from the limestone block. He found that the resulting saliva was as ruddy as blood, with a fresh, tangy and fragrant taste. From then on, he ordered betel and areca to be included in the wedding ceremony as a ritual offering. This is one of the Vietnamese customs that must be observed at the wedding feast. Areca nuts and bright green betel leaves in the shape of a heart are always part of the wedding gifts, symbolizing the pledge of marital love and fidelity.

Similar to a cigarette, betel quid was a conversation starter in old Vietnamese society. That’s why it’s customary to say in Vietnamese “Miếng trầu là đầu câu chuyện”. The betel quid is also used to measure time, because in the absence of clocks in those days, a mouthful of betel corresponds to roughly three or four minutes, giving you an idea of how long a conversation lasted.

 The betel quid

This is one of Vietnamese customs to be observed at a marriage ceremony. There is always betel, with betel nut and intensely green leaves in the form of a heart that is part of wedding gifts that symbolize an eternal union.

[Return CONTES]

Les Bahnar (Dân tộc Bà Na): dernière partie

peuple_bana5

 

Version vietnamienne 

English version

Dernière partie

Une fois le mariage célébré, les jeunes époux habitent par roulement dans leurs familles parentales au bout d’un certain temps suivant l’accord établi entre les deux familles. C’est seulement après la naissance de leur premier enfant qu’ils commencent à construire leur propre maison. Les Bahnar adoptent la monogamie. Le viol, l’inceste et l’adultère sont strictement condamnés. Au cas où l’adultère est commise par le conjoint survivant quel que soit son sexe au moment de la période d’entretien de la tombe, on dit qu’il saute par dessus le cercueil ko dang boăng. Le survivant n’est pas aussitôt délié de ses obligations envers le mort. Il est obligé de payer non pas aux ayants droit du défunt mais au défunt lui-même des indemnités qui sont réglées en un nombre de bêtes que l’on immole bơthi sur sa tombe. C’est pourquoi le conjoint survivant a l’intérêt d’écourter la période d’entretien s’il a envie de refaire sa vie. Même dans la mort, le préjudice causé au défunt par la faute de son conjoint a droit à une réparation matérielle par le nombre de bêtes qu’on immole sur sa tombe.

Dans la tradition des Bahnar, chacun est « libre » sous réserve de ne pas nuire à la personne ou aux biens d’autrui. Dans le cas où la personne a été lésée dans son honneur ou matériellement dans ses biens, elle a droit à une réparation sous forme d’indemnité ou à un remboursement des frais engagés. Les Bahnar n’infligent pas la peine de mort. L’envoi de quelqu’un au bagne correspond à un bannissement. Les Bahnar savent pratiquer l’entraide en cas de disette. Dans leur maison, on ne boit jamais d’alcool de riz, on ne mange jamais de viande sans inviter les autres familles. Le premier riz mûr n’appartient pas seulement au propriétaire du champ mais au village tout entier. 

Figurines de bois
devant les maisons funéraires

bana_figurine

La liberté de choisir le conjoint ou la conjointe, la répartition des tâches dans un couple, le droit à une réparation matérielle ou morale, le respect d’autrui illustrent bien l’égalité entre hommes et femmes dans la tradition ancestrale des Bahnar. Il n’y a pas de différence essentielle entre la situation juridique de l’homme et celle de la femme. Chez les Bahnar, le mode de fonctionnement démocratique existe depuis longtemps avant que la démocratie soit découverte et pratiquée en Occident. Selon l’ethnologue français feu Georges Condominas, les « sauvages » n’attendent pas Minkowski ou Einstein pour avoir la notion d’espace-temps. En employant une expression liée à l’espace, ils indiquent une date. Ils donnent approximativement l’âge de quelqu’un par rapport à un événement saillant. Ils ne détruisent pas totalement la forêt car ils savent la laisser se regénérer des années après qu’ils l’avaient mangé dix ou vingt ans auparavant comme les Mnong de Georges Condominas. Ils ne tuent pas le gibier pour le plaisir de tuer mais ils le tuent pour manger seulement et pour savoir le partager avec leurs compatriotes.

Ils ne gardent que pour eux une part infime de leur chasse. L’épandage et l’utilisation des défoliants par les Américains durant la guerre du Vietnam, le massacre des animaux pour la pharmacopée traditionnelle, la destruction de la végétation et la déforestation liées à la démographie galopante, la stérilisation de la terre par l’utilisation excessive des engrais chimiques sont l’apanage des gens dits « civilisés ». La solidarité et l’entraide ne sont pas des mots creux.

Les Bahnar sont avant tout des « rơngơi » (ou libres). Ils sont habitués à dire: « Je suis rongơi ou kodră (maître)  » pour dire qu’ils sont libres du choix de leurs activités ou maîtres de leur destin. Sont -ils des « sauvages » comme on y pense depuis longtemps? C’est à chacun de nous d’approfondir cette question et de se servir de leur genre de vie et de leur culture comme source d’inspiration et de réflexion afin de nous permettre de vivre mieux et d’être ensemble dans le respect d’autrui et de la nature.

Retour à la première page 

Les Bahnar (Dân tộc Bà Na): deuxème partie

peuple_bana1

 

Version vietnamienne

Version anglaise

Deuxième partie 

La dernière étape correspond au dernier jour. C’est non seulement le jour de la libération du veuf ou de la veuve mais aussi celui où on vide et on nettoie la marmite (xlah go). Un repas commun a lieu en l’honneur des invités chez l’hôte ou dans la maison communale. Puis il est suivi ensuite par un rite consistant à asperger d’eau le veuf ou la veuve ainsi que les parents du défunt par chacun des invités. Cette manifestation officialise la coupure définitive du lien des vivants avec le défunt. Dès lors, le veuf (ou la veuve) est permis de se remarier. La maison funéraire est désormais une carcasse matérielle sans âme. Elle va se décomposer naturellement au fil des années. Mais elle est d’un grand intérêt au niveau artistique et culturel car la palissade en pieux qui la clôture présente un caractère original avec les sculptures d’animaux et d’oiseaux. À l’abri du petit toit de chaume, on peut voir les armes, les vêtements, les aliments offerts à l’esprit du mort. Certaines maisons funéraires sont entourées de sculptures ayant trait à la fertilité ou à la renaissance: hommes et femmes en copulation, hommes et femmes montrant leurs organes génitaux démesurés, figures en position fœtale etc.. Ces figurines grossières ne sont pas des êtres humains mais elles sont des singes du fait qu’elles sont laides comme un singe dans le monde des esprits où tout est à l’inverse du monde des vivants. L’arête faîtière de la maison funéraire ne peut pas passer inaperçue car elle est faite avec un tronc d’arbre entier sculpté et décoré.

Pour les Bahnar, l’âme du défunt continue à vivre en tant qu’esprit dans le monde des esprits.  L’organisation de ce dernier  est semblable à celle du monde des vivants et sa souveraine est à la fois immortelle et un génie-femme nommée Brôu. Le monde des esprits (ou mang lung) est invisible pour les vivants car il se trouve soit à l’intérieur d’une grotte soit dans une forêt noire ou dans une mer très lointaine. Les esprits y vivent groupés dans les villages. Ils assument toutes les activités humaines. Ils connaissent comme les vivants le bonheur et la souffrance et ils vont mourir aussi comme ces derniers. Par contre ils travaillent leurs terres la nuit et ils dorment le jour. De même ils utilisent un langage tout à fait opposé à celui des vivants: « laid » signifie « beau », « émoussé » signifie « aiguisé » etc… Mang Lung ressemble à notre monde mais il est tout à fait inversé. Lorsqu’il fait nuit, c’est le jour à Mang lung. Les maisons y ont des pilotis pointés vers le haut et le toit vers le bas. La durée de vie d’un esprit est aussi limitée car elle se termine aussi par la mort. L’esprit se transforme alors au bout de quarante ou cinquante ans en une goutte de rosée (dak ngop) qui se dissout dans la terre. C’est ainsi que se termine un cycle de vie fermé: terre-homme-esprit-terre. Il n’y a que la souveraine-génie (Bia Brôu) qui a le soin de superviser la naissance de nouvelles créatures en façonnant des enfants avec de la terre et en les introduisant dans les matrices des femmes enceintes.

Pour les Bahnar, un cycle de vie est composé de deux existences:

celle du monde des vivants et celle du monde des esprits.

En ce qui concerne la coiffure des Bahnar, on commence à voir souvent des hommes qui, en contact avec les Kinh et les étrangers, se coupent de plus en plus les cheveux. Normalement, l’homme bahnar enroule un turban d’étoffe et le passe dans le chignon. Par contre, une femme ne porte pas le turban et le remplace par un cordon ou un bandeau de perles de verroteries. C’est un acte de déclaration d’amour lorsqu’une fille dénoue en public le turban d’un jeune homme ou lorsqu’un homme offre à la femme ou à la fille du tabac ou une chique sortie de sa pipe. 

La vie des Bahnar est régie par un cycle annuel traditionnel avec dix mois pour la production agricole et deux mois consacrés aux festivals et aux activités variées du village: mariage, réparation ou construction de la maison, confection des vêtements etc… Dans leur société traditionnelle, la notion d’argent n’a aucune signification importante. Leurs produits de valeur tels que les gongs, les jarres, les buffles, les éléphants, les chevaux étaient utilisés comme les objets de troc dans le passé. Leur richesse se mesure au nombre de gongs, de jarres, d’esclaves trouvés dans chaque famille. Les Bahnar font du riz la base de leur nourriture. Il est cuit à l’étouffée ou à la vapeur. On remplit du riz et d’eau dans un gros bambou qu’on suspend au dessus du feu. En carbonisant le récipient, cela permet de cuire le riz. Ils se servent du riz gluant pour fabriquer une boisson fermentée (ou alcool de riz)( rượu cần en vietnamien). Ils absorbent ce liquide au moyen de longues pipettes en bambou. Ils ajoutent de l’eau lorsque le niveau du liquide baisse. Il est évident que la boisson est de moins en moins concentrée avec cet ajout.  

Les Bahnar de deux sexes se percent souvent les lobes pour porter des boucles d’oreilles mais ils ne se les distendent pas pour porter de gros anneaux comme les autres ethnies de la région. Vers quatorze ou quinze ans, ils se font araser les dents. Cette coutume de l’arasement des dents est en décroissance au fil des années. Par contre, le tatouage n’est pas pratiqué. Pour les garçons, à l’âge où ils commencent à aider leur père dans les champs, ils sont obligés d’aller coucher à la maison communale car c’est ici qu’ils reçoivent la formation, le maniement des armes et l’enseignement assumés par les anciens du village pour l’apprentissage de la vie. Ils ne peuvent rentrer qu’à la maison paternelle pour manger ou pour être soigné en cas de maladie.dantoc_bana

Chez les Bahnar, on constate que le couple des mariés n’adhère ni à la patrilocalité ni à la matrilocalité. C’est une question de convenance liée à la décision du couple. Par contre il y a une répartition de travail dans le couple: le mari s’occupe des affaires du village tandis que la femme prend en charge tous les travaux de la maison. Chez les Bahnar, on est libre de choisir son époux ou son épouse. Le mariage peut être célébré quand chacun des futurs répond aux conditions suivantes:

1°) Ils sont d’âge à cultiver un champ ( 15 à 16 ans). C’est une condition préalable pour nourrir leur famille car personne n’est prête d’apporter l’assistance même leurs parents.
2°) Il est obligatoire de contracter le premier mariage pour une jeune fille même si elle dépasse le cap de trente ans. Par contre elle peut être épousée soit comme femme de premier rang soit femme de second rang. Mais pour un veuf, un célibataire ou un divorcé, il n’est pas possible de contracter de mariage de second rang.
3°) Il n’existe pas de liens de parenté entre les futurs. C’est le cas où le consentement des parents est refusé lorsque le lien est prouvé. D’une manière générale, la participation des parents a pour but de s’assurer que les principes de tradition sont respectés. 

Lire la suite (Tiếp theo)

 

 

Les Bahnar (Dân tộc Bà Na): 2ème partie (version vietnamienne)

peuple_bana1

Version française

Version anglaise

Giai đoạn cuối tương ứng với ngày cuối cùng. Đây không chỉ là ngày giải thoát cho người góa chồng hay góa vợ mà còn là ngày rửa nồi và dọn dẹp (xlah go). Một bữa ăn cơm chung được tổ chức để vinh danh các vị khách tại nhà của chủ nhân hoặc ở nhà rông. Sau đó, có được một nghi thức rảy nước lên người góa phụ hay góa vợ và cha mẹ của những người đã khuất bởi mỗi quan khách được mời. Sự kiện này chính thức hóa việc cắt đứt mối liên hệ cuối cùng giữa người sống và người đã khuất. Vì vậy, người vợ góa chồng (hoặc góa vợ) được phép tái hôn. Nhà tang lễ bây giờ là một cái nhà xác không còn linh hồn. Nó sẽ phân hủy tự nhiên theo năm tháng.

Nhưng nó vẫn  còn được sự lưu ý đến ở phương diện nghệ thuật và văn hóa vì hàng rào bao xung quanh có một đặc điểm độc đáo với các tác phẩm điêu khắc động vật và chim. Dưới mái nhà tranh nhỏ, người ta có thể nhìn thấy vũ khí, quần áo, thức ăn được cúng cho vong linh người đã khuất. Một số nhà tang lễ được rào quanh bởi các tác phẩm điêu khắc liên quan đến khả năng sinh sản hoặc tái sinh: đàn ông và phụ nữ giao cấu, đàn ông và phụ nữ thể hiện bộ phận sinh dục không cân xứng của họ, hình người trong tư thế bào thai vân vân… Những bức tượng thô thiển này không phải là các con người mà là một loài khỉ rất xấu xí trong thế giới thần linh nơi mà mọi thứ đều đảo ngược lại  với  thế giới của người sống. Cây cột của nhà tang lễ khó mà không thấy được vì nó được chạm khắc và trang trí toàn bộ thân cây.

Đối với người Bahnar, linh hồn của người đã khuất tiếp tục sống như một người có linh hồn trong thế giới thần linh. Nơi nầy có tổ chức tương tự như thế giới của người sống. Người cai trị ở đây bất tử và là một phụ nữ có tên là Brôu. Thế giới  thần linh (hay mang lung)  không thể nhìn thấy được đối với người sống vì nó được  ở bên trong hang động, trong rừng sâu hoặc ở một vùng biển rất xa xôi. Các linh hồn sống ở nơi nầy  thường sống thành nhóm ở các ngôi làng. Họ đảm nhận mọi hoạt động của con người. Họ biết hạnh phúc và đau khổ như con người sống và họ cũng sẽ chết như họ. Mặt khác, họ làm việc về đêm và ngủ ban ngày. Tương tự như vậy, họ sử dụng một ngôn ngữ đối lập với ngôn ngữ của người sống: « xấu xí » có nghĩa là « đẹp », « cùn » có nghĩa là « bén » vân vân… Mang Lung trông giống như thế giới của chúng ta, nhưng nó hoàn toàn ngược lại. Khi trời tối là ban ngày ở Mang lung. Những ngôi nhà ở đó có nhà sàn hướng lên trên và mái nhà hướng xuống dưới. Tuổi thọ của một linh hồn ở đây cũng bị giới hạn bởi vì nó cũng kết thúc bằng cái chết. Sau đó, linh hồn biến thành sau bốn mươi hoặc năm mươi năm, một giọt sương (dak ngop) tan vào đất. Đây là một vòng đời khép kín được kết thúc: đất- con người- linh hồn – đất. Chỉ có thần linh tối cao (Bia Brôu), người có công trông coi việc sinh nở của những sinh vật mới bằng cách tạo hình những đứa trẻ với đất và đưa chúng vào tử cung của những phụ nữ mang thai.

Đối với người Bahnar, một vòng đời gồm có hai lần tồn tại: một lần sống với thế giới  người sống và một lần với thế giới thần linh.

Nói đến kiểu tóc của người Bahnar, chúng ta thấy nam giới thường tiếp xúc với người Kinh và người nước ngoài nên  việc cắt tóc ngày càng nhiều. Thông thường, người đàn ông Bahnar quấn trên đầu một chiếc khăn xếp bằng vải và kéo qua búi tóc. Ngược lại, người phụ nữ không đội khăn xếp mà thay bằng dây hoặc băng đô hạt thủy tinh. Đó là hành động tuyên bố tình yêu khi một cô gái cởi bỏ khăn xếp của một chàng trai trẻ ở nơi công cộng hoặc khi một người đàn ông đưa cho phụ nữ hoặc cô con gái thuốc lá hoặc điếu thuốc lào của chàng  ta. Cuộc sống của người Bahnar được điều chỉnh theo chu kỳ truyền thống hàng năm với mười tháng để sản xuất nông nghiệp và hai tháng dành cho lễ hội và các hoạt động khác nhau trong làng: cưới xin, sửa nhà, may quần áo … Trong xã hội truyền thống của họ, khái niệm tiền không có ý nghĩa quan trọng. Những sản phẩm có giá trị của họ như chiêng, ché, trâu, voi, ngựa được dùng làm hàng trao đổi trong quá khứ. Sự giàu có của họ được đo bằng số lượng chiêng, ché, nô lệ được tìm thấy trong mỗi gia đình. 

Người Bahnar dùng gạo làm thức ăn cơ bản. Gạo được nấu hầm hoặc hấp. Cho gạo và nước vào một cây tre lớn rồi treo trên bếp lửa. Bằng cách đốt cháy cây tre chứa thì sẽ nấu chín cơm. Họ dùng gạo nếp để làm thức nước uống lên men (hoặc rượu gạo) (tiếng Việt gọi là rượu cần). Họ hút chất lỏng này qua các cây tre thon dài. Họ thêm nước vào khi mức chất lỏng giảm xuống. Như vậy thức uống nầy ngày càng ít có đặc hơn với sự bổ sung. Người Bahnar ở cả hai giới thường xỏ khuyên tai để đeo chứ không kéo dài ra để đeo vòng bản lớn như các dân tộc khác ở trong vùng. Khoảng mười bốn hoặc mười lăm tuổi, chúng được làm phẳng răng. Tục phẳng răng này đã giảm dần trong những năm qua. Tuy nhiên, xăm mình không được sử dụng. Đối với các đứa con trai, đến tuổi bắt đầu giúp cha làm ruộng thì phải ngủ lại ở nhà rông vì ở đây các em được giáo dục, huấn luyện và sử dụng vũ khí do các già làng đảm nhiệm trong việc học làm người. Chúng chỉ có thể về nhà ăn cơm hoặc được điều trị trong trường hợp ốm đau.  Với người Bahnar, chúng ta nhận  thấy rằng vợ chồng không tuân theo chế độ phụ hệ cũng như mẫu hệ. Đó là một vấn đề thuận tiện liên quan đến quyết định của hai vợ chồng. Mặt khác, giữa hai vợ chồng có sự phân công lao động: chồng lo việc làng, vợ lo việc nhà. Với người Bahnar, bạn có thể tự do chọn vợ hoặc chồng. Hôn nhân có thể được cử hành khi mỗi người (vợ cũng chồng) đáp ứng các điều kiện sau đây: 

1 °) Họ phải đủ tuổi làm ruộng (15 đến 16 tuổi). Đây là điều kiện tiên quyết để nuôi sống gia đình họ vì không ai sẵn sàng hỗ trợ kể cả cha mẹ họ.

2 °) Bắt buộc phải ký hợp đồng hôn nhân đầu tiên đối với một cô gái trẻ ngay cả khi cô ấy đã vượt quá ngưỡng ba mươi tuổi. Mặt khác, cô ấy có thể kết hôn với tư cách là một người vợ chính hoặc một người vợ thứ. Nhưng đối với một người góa bụa, một người độc thân hoặc một người đã ly hôn thì không thể ký kết hôn nhân loại hạng hai.

3 °) Không có liên hệ bà con giữa những người trở thành vợ chồng. Đây là trường hợp mà sự đồng ý của cha mẹ sẽ bị từ chối khi có sư liên hệ. Nói chung, mục đích của sự tham gia của cha mẹ nhầm để đảm bảo và  tôn trọng các  nguyên tắc truyền thống.

[Đọc tiếp phần chót ]


dantoc_bana1

Les Bahnar (Dân tộc Bà Na): 1ère partie

peuple_bana

Version vietnamienne

English version

Première partie

Les Bahnar font partie du groupe Môn-Khmer de la famille ethnolinguistique austro-asiatique. Ils vivent regroupés dans la partie septentrionale des hauts plateaux du Centre Vietnam (Kontum, Gia Lai, Bình Định etc.) à l’écart des gens de la plaine qui à une certaine époque, les ont traités encore comme de sauvages ( ou Mọi en vietnamien). Cela est dû à la méconnaissance de leur culture qui conduit à entretenir cette attitude déplorable et cette vision grotesque. Même les explorateurs français ne cessèrent pas de les désigner comme des Mọi dans leurs récits d’exploration à l’époque coloniale. 

Il n’y a que les ethnologues comme feu Georges Condominas ayant réussi à les reconnaître comme des gens respectueux de la nature et de l’environnement, des gens épris d’un sentiment profond en accord avec le milieu où ils habitent et où tous les êtres (plantes et animaux), monts et eaux, ont une âme comme eux. Les Bahnar vivent dans les régions montagneuses à de diverses altitudes. Ils font pousser du riz sur les champs secs ou sur les rays. (brûlis). Ceux-ci nécessitent souvent le déplacement des plantations et celui des villages car les cendres de l’essartage ne permettent pas de fertiliser la terre au delà de deux ou trois ans à cause de la pluie qui les entraîne lors de son passage. Les récoltes sont abondantes pour la première année de l’incendie.

La deuxième année commence à être moins bonne. Dans de mauvaises conditions, il est impossible de garder le champ au delà de deux ans. C’est pourquoi les Bahnar ont tendance à utiliser les champs secs qui sont aménagés souvent au bord des cours d’eau. La houe est l’outil principal utilisé dans leur agriculture mais depuis le début du XXème siècle, le recours à la charrue dans les rizières inondées est fréquent de plus en plus. 

dantoc_bana1

Leurs croyances religieuses et leurs mythes sont similaires à ceux des autres groupes ethniques rencontrés au Vietnam. Animistes, les Bahnar vénèrent les plantes comme les banians et les ficus. Le kapokier est considéré comme le gardien et sert de pôle de sacrifice dans la célébration des rites et des cérémonies. Chaque rivière, chaque source d’eau, chaque montagne ou chaque forêt, chacune d’elles a son propre génie (ou iang). Les Bahnar séparent les génies en deux catégories: les génies de rang supérieur et les génies de rang inférieur. Les premiers sont les dieux qui ont crée le monde et veillent sur les activités humaines. Parmi ces dieux, on peut citer Bok Kơi Dơi (Principe mâle de la nature), Iă Kon Keh (Principe femelle de la Nature ), Bok Glaih (Dieu du tonnerre et de la foudre), Iang Xơri (Génie du riz) , Iang Dak (Génie des eaux) etc… Quant à la deuxième catégorie, la plupart des génies sont des génies d’animaux, d’arbres ou d’objets parmi lesquels figurent Bok Kla (Monsieur Tigre), Roih (Éléphant), Kit drok (Crapaud), Iang Long ( Génie d’arbres) , Iang Xatok (Génie de jarre) etc…

Face à ces croyances religieuses et à ces superstitions, les missionnaires catholiques ont eu du mal au début de leur mission pour convertir les Bahnar au christianisme. Ils étaient obligés de falsifier même leurs mythes pour corroborer la bible. Les Bahnar chrétiens étaient tellement attachés à leurs croyances animistes qu’ils arrivaient à assimiler tant bien que mal le christianisme au fil des années.

Pour les Bahnar, la mort n’est pas la fin d’une vie mais c’est le commencement d’une autre dans l’au delà. L’âme que les Bahnar désignent sous le nom de pơngơl, se mue en fantôme (ou atâu en bahnar) et rejoint les ancêtres dans le monde des esprits (dêh atâu). Les Bahnar croient que l’être humain est constitué d’un corps (akao) et de l’âme pơngơl. La vie n’est possible que grâce à l’âme et non au corps. Mais l’âme est invisible pour les humains. Il n’y a que le devin qui peut la voir sous la forme d’une araignée, d’un grillon ou d’une sauterelle. Les humains ont chacun trois âmes: une âme principale importante (pơngơl xok ueh) qui doit être attachée au sommet de la tête et deux âmes complémentaires (pơngơl kơpal kol et pơngơl hadang), l’une située sur le front et l’autre dans le corps. Au cas où l’âme principale qui constitue le souffle essentiel pour l’homme quitte le corps pour une raison inconnue et ne revient pas, l’homme sera malade et sera décédé. Les âmes complémentaires sont là pour remplacer temporairement l’âme principale. C’est cette dernière qui se métamorphose en fantôme  dans l’autre monde. Cet esprit (ou fantôme)  a besoin de nourriture, de vêtements et même d’une maison pour se protéger contre la pluie et le soleil. C’est la conception animiste d’après laquelle le défunt continue d’avoir les mêmes besoins dans l’autre monde. C’est aussi pour cela que lors de l’enterrement du décédé, sa famille construit une hutte sur sa tombe: c’est la maison du fantôme (h’nam atâu). Pour les Bahnar, le fantôme continue à vivre dans cette hutte et à rôder dans les environs de la cimetière. Il reçoit régulièrement tous les mois une offrande de porc et de poulet de la part de sa famille. Cette période d’entretien de la tombe peut durer plusieurs mois voire des années. Elle est liée à la situation financière de la famille du décédé. Elle se termine par une cérémonie rituelle (ou cérémonie d’abandon de la tombe ) dont le but est de permettre au fantôme de rejoindre définitivement le monde des esprits (dêh atâu) et de rompre le lien du trépassé avec les vivants. Cet esprit devient ainsi un « esprit grand-père ou grand-mère » (atâu bok ja). Contrairement à des Vietnamiens, des Nùng, des Mường etc…, les Bahnar ne font pas le culte des ancêtres.

Cette cérémonie rituelle a lieu une fois par an et débute d’une manière générale à la fin de la saison des pluies. On choisit la période où il y a la pleine lune. Cette cérémonie est en quelque sorte un enterrement secondaire. Elle est préparée avec soin et joie. Elle est choisie à un jour propice par tous les chefs des familles endeuillées en concertation avec les anciens du village et elle dure habituellement trois jours et trois nuits. On trouve dans cette cérémonie trois étapes essentielles: rites de construction, d’abandon et de libération. Chaque étape correspond à un jour entier.

Dans la première étape, on se débarrasse de la hutte recouvrant la tombe et on édifie à sa place, une maison funéraire avec les matériaux de construction (bambous, bois, herbe imperata) ramassés depuis plusieurs semaines. Le premier jour de construction est appelé « dong boxàt » par les Bahnar. Le travail de construction est accompagné toujours par la danse et la musique dans une liesse indescriptible.

Dans la seconde étape, la cérémonie rituelle débute toujours le soir. C’est l’étape de l’abandon de la tombe. Pour les Bahnar, c’est nar tuk (ou jour de l’abandon). On commence à faire une offrande d’alcool et de viande au défunt dans la maison funéraire. Puis c’est au chef de famille d’entamer une prière et d’officier tandis que ses proches peuvent entrer dans la maison funéraire et se lamenter pour la dernière fois sur le départ précipité du défunt. Une fois le rite terminé, la famille du défunt doit faire sept fois le tour de la maison funéraire dans le sens inverse des aiguilles d’une montre. Elle est accompagnée dans cette ronde par des hommes portant sur leurs épaules une maison miniature (ou maison du fantôme) et des figurines en bois articulées de diverses tailles et actionnées par un jeu de ficelles tentant de simuler toutes les activités humaines: pilage du riz, tissage etc.. Même un couple de figurines en copulation n’est pas absent non plus. Les Bahnar prétendent que l’animation de ces figurines devant la maison du fantôme a pour but d’apporter seulement le divertissement mais certains ethnologues pensent qu’il y a certainement une autre signification en comparaison avec les coutumes des autres ethnies de la région (celles des Batak du Nord de Sumatra). La procession est accompagnée par la danse des femmes au rythme des gongs frappés par des hommes revêtus avec de beaux vêtements et portant chacun une plume dans les cheveux. Etant le point culminant de la cérémonie, cette procession est destinée à accompagner le fantôme dans le monde des esprits.

  Lire la suite (Tiếp theo)

 

 

Les Mnong (Dân tộc Mnong): 2ème partie

dantoc_mnong

Version vietnamienne

Version anglaise

Deuxième partie

Quand on décide d’aller à l’étranger ( càd dans les autres villages voisins), on a besoin d’être accompagné par un entremetteur recruté de préférence sur les kuang du village. Un kuang est en fait un homme puissant et réputé qui ne se mesure pas à la fortune accumulée mais au nombre de sacrifices de buffles qu’il a organisés et accomplis. Grâce aux dépenses grandioses qu’il a entamées dans les sacrifices des buffles pour ses proches, ses invités jôok et son village, il a acquis du même coup un énorme prestige. Cela lui a permis d’élargir progressivement son réseau de relations, d’avoir du poids dans les délibérations du village et de devenir un rpuh kuang (ou un buffle mâle) au niveau de la puissance sexuelle.

Même les cornes de son « âme-buffle ( ou hêeng rpuh ) » élevée par les génies se sont allongées en fonction du nombre de sacrifices accomplis. Son cercueil pèse d’autant plus lourd que ces cornes ont atteint une taille imposante. Un grand kuang est celui qui ose pratiquer la stratégie de l’endettement. Plus il thésaurise pour dépenser dans les sacrifices des buffles et dans les achats, plus son prestige s’accroît. Il a toujours quelque dette à la traîne.

Il n’attend pas de rembourser l’intégralité de ses achats pour en faire d’autres car cela lui vaut l’admiration et la renommée. Un villageois mnong devient un kuang avec le premier sacrifice de buffle. Il devient ainsi l’homme « indispensable » sur lequel on s’appuie pour s’assurer non seulement la sécurité routière mais aussi la réussite dans les transactions commerciales lors du déplacement hors du village. C’est avec lui qu’on mettra au point l’itinéraire. C’est lui qui présentera, grâce à son réseau de relations, le jôok local du village destinataire qui connait tous les habitants et qui sait parmi ces derniers lequel intéressé par les objets entrant dans la transaction tout en présentant les garanties de solvabilité.

Analogues aux Bahnar, les Mnong sont des animistes. Ils pensent que toute chose a une âme même dans les ustensiles à usages rituels (les jarres à bière par exemple). L’univers est peuplé de génies (ou yaang).

C’est pourquoi l’appel aux divinités ne se cantonne pas dans un endroit particulier mais il s’éparpille partout soit dans le village soit dans les bois soit dans les monts et les eaux. Aucun recoin n’est épargné. Il sera soit évoqué collectivement soit honoré d’un culte spécial dans des circonstances particulières. C’est le cas du génie du riz auquel un petit autel est dédié au milieu du ray. Durant la saison des semailles, le Mnong viendra placer ses offrandes. La moisson collective ne peut pas commencer sans un rite spécial connu sous le nom de « Muat Baa » ou ( nouage du paddy ). Comme le paddy a une âme, il faut éviter de le faire courroucer et de le faire fuir en prenant soin d’un grand nombre de précautions: éviter de siffler, de pleurer, de chanter sur les champs ou de s’y disputer, de manger des concombres, des citrouilles, des œufs, des êtres glissants etc. Une poule sera sacrifiée près de la hutte miniature de l’âme du riz perchée sur un bambou lui-même cerné par des bambous portant des nids à offrandes. Au génie de la pluie, le Mnong offrira sur une minuscule plateforme des œufs. Pour calmer la colère des génies végétaux de la forêt avant le défrichement d’un pan, on procède à de grands soins rituels et de prières. Un long piquet de bambou à la pointe recourbée duquel a été suspendu un poisson pêché est planté sur le lieu consacré dans le défrichement à brûler.

Au moment où le feu commence à jaillir, deux « hommes sacrés »( croo weer ) implorent la protection des génies tandis qu’un troisième oint le piquet au poisson et appelle les génies. Même il y a des divinités censées d’être les gardiens de l’âme de l’individu. Celui-ci se compose d’un corps matériel et de plusieurs âmes (ou heêng). Celles-ci prennent des formes multiples: une âme-buffle élevée dans un étage des cieux par les génies, une âme-araignée dans la tête de l’individu, une âme-quartz qui loge tout droit derrière le front. Il y a même l’âme-épervier (kuulêel) symbolisé par une ficelle faite de brins de coton rouges et blancs et tendue au dessus du corps de défunt entre deux bambous pour distinguer le kuulêel de l’épervier ordinaire. Cette âme-épervier prend son envol à la mort de l’être humain. Un mal subi par l’une de ces âmes se répercute sur les autres. Les génies peuvent rendre malade quelqu’un en attachant son âme-buffle à leur poteau de sacrifice céleste. Le recours au chamane s’avère indispensable car lui seul peut établir le dialogue avec les génies lors de la séance de cure (mhö). Il tente de marchander le prix que les génies exigent pour libérer l’âme-buffle du malade sinon le malade meurt et l’un de ses autres âmes rejoint le premier des étages du monde souterrain. L’âme disparaît totalement lorsqu’il arrive à atteindre le septième étage souterrain au bout de la septième mort.

L’au delà est conçu comme souterrain. Le rite de guérison n’a pas de côté festif. Cela entraîne peu de frais à engager à part le buffle immolé et l’honoraire payé ( équivalent au nombre de hottées de paddy) au chamane qui reçoit en plus une cuisse de la bête sacrifiée. Chez les Mnong, la notion d’immortalité de l’âme n’existe pas. Par contre, la notion de réincarnation fait partie de la tradition des Mnong. Il peut arriver que l’ancêtre maintenu au premier étage souterrain se réincarne dans l’un de ses descendants.

Les hommes de la forêt

Musée d’ethnologie du Vietnam (Hanoi)

Dans la tradition mnong, le buffle est un animal sacré. Les Mnong ont recours au buffle comme monnaie d’évaluation. C’est aussi dans le système de croyances mnong que le buffle est l’équivalent de l’homme dont l’une de ses âmes est l’âme-buffle (hêeng rput) élevé au ciel par les génies à sa naissance et ayant un rôle prépondérant sur les autres âmes de l’individu. Avant d’être inhumé, le décédé est déposé dans un cercueil prenant approximativement la forme d’un buffle. Les Mnong n’organisent pas des funérailles et ils abandonnent le tombeau après un an d’inhumation. D’une manière générale, la maison de funérailles est construite sur une butte et elle est décorée avec des figurines sculptées en bois ou des motifs variés peints en noir, rouge ou blanc. La puissance d’un individu se mesure au nombre de bucrânes de buffles sacrifiés empilés et maintenus par des poteaux. Selon le mythe mnong, le buffle a remplacé l’homme dans le sacrifice. C’est pourquoi on voit dans ce sacrifice l’aboutissement suprême de tous les rites dont il se détache par le faste rituel animé par les processions de gongs, des jeux de tambours, des invocations d’appel aux esprits, des chants etc … et accompagné par des libations de bière, ce qui en fait un événement majeur et exceptionnel dans la vie villageoise.

Personne ne peut se soustraire à cet événement. Le village devient une aire sacrée où on doit s’amuser collectivement, bien boire, bien manger et éviter de se disputer car on pourrait courroucer les esprits. Les Mnong sont divisés en plusieurs sous-groupes ( Mnông Gar, Mnông Chil, Mnông Nông, Mnông Preh, Mnông Kuênh, Mnông Prâng, Mnông Rlam, Mnông Bu đâng, Mnông Bu Nor, Mnông Din Bri , Mnông Ðíp, Mnông Biat, Mnông Bu Ðêh, Mnông Si Tô, Mnông Káh, Mnông Phê Dâm ). Chaque groupuscule a une dialecte différente mais d’une manière générale, les Mnong issus de ces groupuscules différents arrivent à se parler sans aucune difficulté apparente.

Ceints d’un long pagne de coton indigo dont l’extrémité frangée de cuivre et de laine rouge leur retombe à mi-cuisse comme un petit tablier (suu troany tiek)(3) , les Mnong se présentent souvent sous l’aspect des hommes fiers aux membres longs et au torse nu musclé et bronzé malgré les souffrances d’une vie précaire. Cette ceinture-tablier sert à porter toutes sortes d’objets: le couteau, l’étui à tabac, le poignard et les talismans individuels (ou pierres-génies ). Ils se servent d’une veste soit courte soit longue ou d’une couverture comme manteau à la saison froide. On trouve sur leurs têtes un turban noir ou blanc ou un chignon où est piqué souvent un couteau de poche en acier et à manche recourbé. Ils sont habitués à porter une hache pour abattre les troncs d’arbres.

Les femmes mnong aux seins nus portent une jupe courte (suu rnoôk) enroulée au niveau du bas-ventre. Les Mnongs adorent les parures. Ils portent au cou des pectoraux, des colliers de fer ou en perles de verre ou des dents de chiens provenant d’un rite exorciste qui leur confèrent des propriétés protectrices.

Des bobines d’ivoire enfilées dans les lobes percés de leurs oreilles battent leurs maxillaires. Les femmes aiment particulièrement les colliers en verre de perles. Les lobes de leurs oreilles sont distendus souvent par de gros disques en bois blanc. On trouve encore dans la plupart des groupuscules mnong l’abrasion des dents de devant (de la mâchoire supérieure). Les hommes comme les femmes fument du tabac et consomment beaucoup de bière de riz. Celle-ci est non seulement un élément indispensable dans toutes les fêtes et dans les cérémonies rituelles mais aussi une boisson d’hospitalité. En l’honneur de son hôte, une jarre de bière de riz est débouchée quelques instants avant d’être offerte. Sa consommation se fait collectivement à l’aide d’un ou plusieurs chalumeaux en bambou plantés dans la jarre. Le nombre de mesures est imposé au buveur par la tradition de chaque ethnie. ( 2 chez les Mnongs Gar, 1 chez les Edê ). Pour maintenir le niveau de la jarre, on est obligé d’y verser de l’eau, ce qui dilue progressivement l’alcool de la bière de riz et qui transforme ce dernier en une boisson inoffensive.

Analogues aux Bahnar, les Mnong (ou les Hommes de la Forêt) sont fiers d’être des gens libres. C’est ce qu’a constaté l’ethnologue célèbre G. Condominas auprès des Mnongs Gar. Dans le village de Sar Luk où il a fait un an d’immersion complète avec les Mong Gar, il n’y avait pas de chef de village mais un groupe de trois ou quatre hommes sacrés qui sont des guides rituels notamment en matière agricole. La perte de leur liberté peut être le catastrophe que redoutent les Mnong. On trouve toujours en eux deux particularités qui les différencient des autres groupes ethniques du Vietnam: leur esprit d’abnégation et de solidarité et leur absence de s’enrichir égoïstement.

Malgré les souffrances de leur vie précaire, les Mnong démunis connaissent encore la notion de partage que nous, les gens dits civilisés, avons oubliée depuis longtemps.

[Retour à la page « Vietnam des 54 ethnies »]


Références bibliographiques

De la monnaie multiple. G. Condominas. Communications 50,1989,pp.95-119

Essartage et confusionisme: A propos des Mnong Gar du Vietnam Central. Revue Civilisations. pp.228-237

Les Mnong Gar du Centre Vietnam et Georges Condominas. Paul Lévy L’homme T 9 no 1 pp. 78-91

La civilisation du Végétal chez les Mnong Gar. Pierre Gourou. Annales de géographie. 1953. T.62 pp 398-399

Tiễn đưa Condo của chúng ta, của Tây Nguyên. Nguyên Ngọc

Chúng tôi ăn rừng …Georges Condominas ở Việtnam. Editeur Thế Giới 2007

Ethnic minorities in Vietnam. Đặng Nghiêm Vạn, Chu Thái Sơn, Lưu Hùng . Thế Giới Publishers. 2010

Mosaïque culturelle des ethnies du Vietnam. Nguyễn Văn Huy. Maison d’édition de l’Education. Novembre 1997

Les Mnongs des hauts plateaux. Maurice Albert-Marie 1993. 2 tomes, Paris, L’Harmattan, Recherches asiatiques.