Hội An au fil de l’eau

 

 

hoian_au_fil_de_eauVen bờ sông Đoài 

 

Hôi An et son pont-pagode (Chùa cầu)

Version vietnamienne

Version anglaise

L’histoire du pont-pagode de Hội An

Certains historiens  attribuent la construction de ce pont  aux Japonais. Ces derniers l’ont-ils construit eux-mêmes ou l’ont-ils réalisé sur la commande des Chinois ? C’est une énigme historique qui reste à éclaircir. D’autres experts réfutent totalement cette hypothèse. Ils estiment que ce pont doit être attribué aux Japonais dans la mesure où celui-ci est destiné à mieux signaler l’entrée du quartier japonais. En tout cas, ce pont s’avère nécessaire car  il est établi sur un grand arroyo où les crues surviennent à la saison des pluies dans le but de faciliter la circulation des véhicules, des chevaux et des piétons dans les deux quartiers de Hội An et de relier aujourd’hui les rues de Trần Phú et Nguyễn Thị Minh Khai. Ce pont est constitué de deux parties : le pont lui-même et la pagode. À l’entrée et à la sortie de ce pont on relève la présence de quatre statuettes de chien et de singe. Certains pensent que les travaux de construction ont commencé dans l’année du singe et achevé dans l’année du chien. D’autres attribuent cette présence à un usage japonais qu’il est temps de chercher à comprendre. Quant à la pagode, elle est située à côté de ce pont et en bois. On trouve sur sa porte principale  une enseigne intitulée « Lai Viễn Kiều »  qui est un autographe royal laissé par le seigneur Nguyễn Phước Châu lors de sa visite en l’an 1719 à Hội An.

Auparavant, cette pagode est dédiée au culte de Huyền Thiên Đại Đế (ou Bắc Đế Trần Vũ), un personnage éminent du taoïsme chargé de gouverner la partie Nord du ciel et d’avoir la mainmise sur le poisson-chat géant (Namazu)  vivant dans la vase des profondeurs de la terre. Selon le mythe japonais, cet animal aquatique a la tête au Japon et la queue en Inde et la partie dorsale se trouve à l’endroit où s’érige le pont. Chaque fois qu’il retourne son dos, cela provoque des séismes au Japon et Hội An ne peut pas se tenir dans la paix pour permettre à ses habitants d’avoir la prospérité dans le commerce. C’est pour cela qu’on érige une pagode considérée comme  une épée transperçant  son dos  afin de l’immobiliser et  de l’empêcher de faire grands ravages. De toute façon, grâce au talent des architectes de cette époque,  on constate que ce pont-pagode peut résister aux crues capricieuses de l’arroyo au fil du temps. Ce pont-pagode devient le symbole représentatif de la vieille ville de Hội An.

Version vietnamienne

Chuyện chùa cầu

Một số  sử gia cho rằng việc xây dựng chùa cầu này đến từ người Nhật Bản. Họ tự xây dựng nó hay người Hoa thuê họ làm việc nầy ? Đó là một bí ẩn lịch sử cần được làm sáng tỏ. Các chuyên gia khác bác bỏ hoàn toàn giả thuyết này. Họ tin rằng cầu này được người Nhật dựng lên vì nó nhằm đánh dấu lối vào khu phố Nhật Bản. Trong mọi trường hợp, chiếc cầu này rất cần thiết vì nó được xây dựng trên một con sông lớn, nơi thường xảy ra lũ lụt vào mùa mưa nhằm tạo  ra điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển xe cộ, ngựa và người đi bộ  ở  hai khu phố của Hội An và kết nối hai đường phố Trần Phú Nguyễn Thị Minh Khai ngày nay.

Cầu này gồm hai phần: một phần là cầu và một phần là chùa. Ở  lối vào và lối ra của chùa cầu nầy, người ta nhận thấy có sự hiện diện của bốn tượng chó và khỉ. Một số người cho rằng việc xây dựng khởi đầu vào năm Thân và hoàn thành vào năm Tuất. Những người khác cho rằng sự hiện diện này là một tập tục của người Nhật mà cần phải nghiên cứu và tìm hiểu. Về phần chùa, nó nằm sát cạnh cầu này và được làm bằng gỗ. Trên cửa chính cũa chùa có một tấm biển đề « Lai Viễn Kiều » là ngự bút của chúa Nguyễn Phước Châu trong cuộc  viếng thăm Hội An vào năm 1719.

Ngôi chùa này được thờ phụng trước kia Huyền Thiên Đại Đế (hay Bắc Đế Trần Vũ), một nhân vật nổi tiếng của Lão giáo, có nhiệm vụ cai trị phần phía bắc của trời và có tài năng  kiểm soát được con cá trê khổng lồ  sống ở đất bùn từ sâu của lòng đất. Theo truyền thuyết của người Nhật, loài vật sống dưới nước này có đầu ở Nhật Bản, đuôi nằm ở Ấn Độ và phần lưng của nó thì là nơi dựng chùa cầu. Mỗi lần nó quay lưng lại thì gây ra sự động đất ở Nhật Bản và Hội An cũng không thể yên ổn để cho người dân có được sự thịnh vượng trong mậu dịch. Đây là lý do tại sao một ngôi chùa được dựng lên và  được xem coi như là một thanh gươm đâm vào lưng nó để cố giữ nó lại và ngăn nó tàn phá. Dù thế nào đi nữa, nhờ sự tài hoa của các nhà kiến ​​trúc sư thời bấy giờ mà chùa cầu này có thể chống chọi với những trận lũ kinh hoàng theo dòng  thời gian. Chùa cầu này trở thành ngày nay một biểu tượng tiêu biểu của phố cổ Hội An.

English version

Some historians attribute the construction of this bridge to the Japanese. Did they build it themselves or did they do it on the order of the Chinese? It is a historical mystery that remains to be clarified. Other experts completely refute this hypothesis. They believe that this bridge should be attributed to the Japanese insofar as it is intended to better mark the entrance to the Japanese quarter. In any case, this bridge proves necessary because it is built over a large arroyo where floods occur during the rainy season in order to facilitate the movement of vehicles, horses, and pedestrians between the two quarters of Hội An and today connects Trần Phú and Nguyễn Thị Minh Khai streets. This bridge consists of two parts: the bridge itself and the pagoda. At the entrance and exit of this bridge, there are four statuettes of a dog and a monkey. Some think that the construction work began in the year of the monkey and was completed in the year of the dog. Others attribute this presence to a Japanese custom that it is time to try to understand. As for the pagoda, it is located next to this bridge and is made of wood. On its main door, there is a sign titled « Lai Viễn Kiều, » which is a royal autograph left by Lord Nguyễn Phước Châu during his visit to Hội An in the year 1719.

Previously, this pagoda was dedicated to the worship of Huyền Thiên Đại Đế (or Bắc Đế Trần Vũ), a prominent figure in Taoism responsible for governing the northern part of the sky and having control over the giant catfish (Namazu) living in the mud of the earth’s depths. According to Japanese myth, this aquatic animal has its head in Japan, its tail in India, and its dorsal part is located where the bridge stands. Each time it turns its back, it causes earthquakes in Japan, and Hội An cannot remain peaceful, preventing its inhabitants from prospering in trade. That is why a pagoda was erected, considered as a sword piercing its back to immobilize it and prevent it from causing great destruction. In any case, thanks to the talent of the architects of that time, it is observed that this bridge-pagoda can withstand the capricious floods of the arroyo over time. This bridge-pagoda has become the representative symbol of the old town of Hội An.

 

 

Hội An et ses lampions

 

Quê hương đèn lồng.
Au pays des lanternes.

Version française

Dù ở nơi nào ở phố cổ, du khách cũng dễ dàng nhận ra được  những chiếc đèn lồng đủ màu sắc và trang hoàng đẹp mắt. Đấy là một trong những nét đặc sắc khiến Hội An rất  lộng lẫy và lung linh về đêm nhất là với  đêm rằm hàng tháng. 

Vào cuối thế kỷ 16, đèn lồng được thấy xuất hiện ở Hội An khi những người Hoa đầu tiên đến Hội An để trao đổi buôn bán và định cư lâu dài. Cho đến ngày nay, nghề làm đèn lồng ở Hội An đã có  hơn 400 năm tuổi. Người có công đầu tiên trong việc làm sống lại chiếc đèn lồng là nghệ nhân Huỳnh Văn Ba nhất là ông biết phục chế và tạo dáng lại chiếc đèn lồng, đấy là chiếc đèn lồng khung tre bọc vải ngày nay được thấy bán và treo  khắp nẻo đường ở khu Minh An của phố cổ Hôi An. Tài năng của ông đã được người Nhật để ý đến, và chính ông là nghệ nhân làm đèn lồng đầu tiên của Hội An được Chính phủ Nhật mời sang để giới thiệu về cách làm lồng đèn.

Hiện nay, ở Hội An có đến 32 cơ sở làm và bán đèn lồng.  Đèn lồng ở Hội An được  xuất khẩu ra các nước châu Âu và châu Mỹ. Trong các cơ sở nầy thì có thể kể đến cơ sở sản xuất lồng đèn Huỳnh Văn Ba và xưởng sản xuất lồng đèn Hà Linh đây là 2 cơ sở sản xuất lồng đèn lớn nhất ở Hội An.

Galerie des photos

 

Version française 

Peu importe où dans la vieille ville, les visiteurs peuvent reconnaître facilement les lanternes richement ornées et colorées. C’est l’une des caractéristiques remarquables  de Hôi An, ce  qui la rend  très splendide et étincelante toute  la nuit, en particulier avec la nuit de pleine lune de chaque mois. A la fin du XVIème  siècle, les lanternes commencèrent à faire leur apparition à Hội An lorsque les premiers Chinois venaient ici  pour faire le commerce et s’y installer définitivement. Jusqu’à ce jour, la fabrication des  lanternes à Hội An a plus de 400 ans.

L’artisan Huỳnh Văn Ba est celui ayant le  mérite de faire revivre la lanterne à Hôi An car il sait restaurer et remodeler la lanterne à sa guise en lui donnant un attrait esthétique avec une structure en bois enveloppée dans un tissu qu’on voit accrochée et en vente partout dans toutes les ruelles de l’ancien quartier Minh An de Hội An. Son talent a été remarqué par les Japonais, et c’est lui le premier artisan fabricant de lanternes de Hội An à être invité et récompensé par le gouvernement japonais lors de son exposé sur la façon de fabriquer ces lampions.

Actuellement, à Hội An, il y a 32 établissements qui fabriquent et vendent des lanternes. Celles-ci sont exportées vers les marchés d’Europe et d’Amérique. Parmi ces entreprises, l’usine de production de lanternes de Hùynh Văn Ba ​​et l’usine de lanternes de Hà Linh sont les deux grands établissements de production de lanternes à Hội An.

 

Hội An et ses yeux du dragon

Version vietnamienne

Une autre caractéristique importante de la maison traditionnelle de Hội An est la présence d’une paire des « yeux du dragon » en bois accrochés souvent au-dessus de sa porte d’entrée. Parfois on les retrouve à l’intérieur de la maison. On recense au moins une douzaine de modèles ayant chacun une forme différente: un rond, un octogone  etc… mais le modèle le plus commun trouvé reste le chrysanthème à huit pétales correspondant aux 8 caractères trouvés dans le Yi King (Kinh Dịch) et ayant à son centre le symbole du Yin et du Yang (Âm Dương). Ces yeux du dragon sont aussi un détail important que l’architecte polonais Kazimierz Kwiatkowsky (Kazik) ne laissa pas s’échapper au moment où il avait eu l’occasion d’examiner l’architecture de Hội An, en particulier celle de ses maisons traditionnelles. Certains spécialistes trouvent dans ces yeux l’incarnation de l’âme de la ville Hội An tandis que d’autres attribuent à cette paire l’allégorie de la culture et de la tradition orientale. Selon l’écrivain Hữu Ngọc, les chercheurs ont trouvé leur origine à partir des clous en bois dont on est habitué à voir la fixation dans les linteaux des portes d’accès aux temples bouddhistes dans le Sud de la Chine. Personne ne conteste cette explication relative à leur origine mais on est amené à penser que cette paire d’yeux revêt plutôt une signification très spéciale, un caractère spirituel ou religieux que le propriétaire de la maison aimerait lier à son destin lors de son installation. Pour ce dernier, ces yeux ont la faculté d’entendre les réflexions de chaque membre au sein de la famille et de capter aussi tout ce qui s’est passé autour de la maison et au cœur même de sa propre vie. Il faut se rappeler qu’avant d’être sinisés, les gens de la région du Sud de la Chine faisaient partie du groupe Bai Yue (Cent Yue). Analogues aux Vietnamiens, ils étaient animistes car ils croyaient qu’il existait une force vitale, une âme animant tous les êtres naturels ou non (y compris les objets). (Vạn vật hữu linh). Ce culte perdurait depuis la nuit des temps. Ces yeux du dragon sont en quelque sorte ceux du génie protecteur de la maison.

On retrouve le même culte chez d’autres peuples: dvàrapàla (gardien de la porte) (Hộ pháp) chez les Cham. Les Vietnamiens n’échappent pas non plus à ce culte ainsi que les Thaïlandais et les Cambodgiens. C’est le cas des génies du bien et du mal qu’on trouve souvent à l’entrée de la pagode. On est habitué à voir aussi sur la proue des barques vietnamiennes ces deux yeux censés de se prémunir contre les esprits malfaisants lors de la navigation maritime. Etant utilisée pour protéger les gens contre la pluie et la chaleur, la maison traditionnelle semble être toujours un objet inanimé. Pourtant, en lui offrant ces deux yeux du dragon, le propriétaire réussit à la rendre vivante et à lui donner une âme. Les Vietnamiens ont l’habitude de dire « Đội mắt là cửa sổ của tâm hồn (Les yeux sont la fenêtre de l’âme) ». Puisque elle a une âme, elle ne montre plus son indifférence mais elle devient ainsi plus affective si bien que le visiteur ne peut pas rester insensible à l’atmosphère chaleureuse et à l’hospitalité que le propriétaire aimerait lui réserver lors de sa visite. C’est à travers ces yeux du dragon qu’on découvre le talent inouï de celui qui a pris l’initiative de les créer. Cela permet aux maisons traditionnelles de Hội An d’être imprégnées désormais d’un charme architectural indémodable qu’on ne trouve pas dans le Sud de la Chine ni ailleurs.

Hội An với đôi mắt rồng

hoian_et_ses_yeux_du_dragon

Một đặc điểm quan trọng khác của ngôi nhà truyền thống ở Hội An là sự hiện diện của một đôi “mắt rồng” bằng gỗ thường được treo phía trên trước cửa nhà. Đôi khi chúng ta tìm thấy chúng ở trong nhà. Có ít nhất một chục mô hình, mỗi mô hình có hình dạng khác nhau: hình tròn, hình bát giác vân vân…. Nhưng mô hình  được phổ biến nhất  tìm thấy vẫn là hoa cúc với tám cánh hoa tương ứng với 8  chữ được tìm thấy trong Kinh Dịch và ở trung tâm của nó là biểu tượng của Âm Dương. Đôi mắt rồng này cũng là một chi tiết quan trọng mà kiến ​​trúc sư người Ba Lan Kazimierz Kwiatkowsky (hay Kazik) đã không để bỏ sót khi ông có dịp khảo sát đến kiến ​​trúc của Hội An, đặc biệt là những ngôi nhà truyền thống ở đây. Một số chuyên gia cho rằng đôi mắt này là hiện thân linh hồn của thành phố Hội An trong khi những người khác lại cho rằng cặp mắt này là ngụ ngôn về văn hóa và truyền thống phương Đông. Theo nhà văn Hữu Ngọc, các nhà nghiên cứu đã tìm ra được nguồn gốc của chúng từ những chiếc đinh bằng gỗ được thấy đóng vào các lanh tô các cửa ra vào của các ngôi chùa Phật giáo ở miền nam Trung Quốc.

Không ai chối cãi sự giải thích này có liên quan đến nguồn gốc của chúng nhưng chúng ta nghĩ rằng đôi mắt này có một ý nghĩa  đặc biệt, mang một tính chất tâm linh hoặc tôn giáo mà  người chủ  nhân ngôi nhà  muốn liên kết chúng với số phận của họ  khi lúc mới vào ở ngôi nhà. Đối với chủ nhân, đôi mắt này có khả năng nghe thấu  những suy tưởng của mỗi thành viên ở trong gia đình và cũng có thể nắm thông hiểu  mọi việc đã xảy ra ở xung quanh ngôi nhà và luôn cả trong cuộc sống của họ. Cần nên nhớ lại trước khi bị Hán hóa, người dân ở khu vực phía nam Trung Quốc thuộc về nhóm Bách Việt.

Tương tự như người dân Việt, họ là những người theo thuyết vật linh vì họ tin rằng có một sinh lực  quan trọng, một linh hồn làm sinh động mọi sinh vật, tự nhiên hay không (kể cả vật thể). (Vạn vật hữu linh). Sự tôn thờ này đã kéo dài từ buổi ban sơ. Đôi mắt rồng nầy nó là phần nào  đôi mắt của thần bảo vệ ngôi nhà.

Chúng ta nhận thấy có sự sùng bái tương tự ở các dân tộc khác: dvàrapàla (người gác cổng) (Hộ pháp) của người Chàm. Người Việt Nam tựa như người Thái và người Cao Miên không tránh khỏi việc sùng bái nầy. Đây là trường hợp của những vị thần thiện và ác thường được thấy ở lối vào của chùa. Chúng ta cũng thường nhìn thấy hai con mắt này trên những mũi tàu hay thuyền của người dân Việt dùng để chống lại tà ma trong việc hàng hải.

Được sử dụng để che mưa chống nắng, ngôi nhà truyền thống dường  xem như  là một vật vô tri vô giác. Tuy nhiên, bằng cách cung cấp cho ngôi nhà đôi mắt rồng này, chủ nhân  đã làm cho ngôi nhà nầy sống lại và cho nó có được một linh hồn. Người Việt Nam thường nói « Đội mắt là cửa sổ của tâm hồn ». Từ khi có linh hồn, ngôi nhà không còn tỏ ra hờ hững mà trở nên dễ xúc động hơn khiến du khách không thể vô cảm trước bầu không khí ấm áp và lòng hiếu khách mà chủ nhân dành cho người khách trong chuyến viếng thăm của họ. Chính qua đôi mắt rồng nầy, chúng ta  mới phát hiện được tài năng đáng kinh ngạc của người đã có óc sáng kiến ​​tạo ra chúng. Điều này cho phép các ngôi nhà truyền thống của Hội An có được một nét duyên dáng kiến ​​trúc vượt thời gian mà không thể tìm thấy ở miền nam Trung Quốc hay ở các nơi khác.

 

Hội An au fil de la nuit

Version vietnamienne

Située à 30 kilomètres de Ðà Nẳng, Hội An est un joyau d’architecture. Hội An fut à l’origine une foire internationale fréquentée par les marchands japonais, chinois et indiens aussi bien que ceux venant de l’Ouest. L’UNESCO a recensé plus de 844 sites d’intérêt historique (ponts, pagodes, maisons particulières etc…).

Étant de passage trois fois déjà à Hội An, j’aimerai y retourner un jour si j’ai une bonne occasion dans les années à venir. Outre les maisons historiques, les musées, les spécialités locales délicieuses comme Cao Lầu, Won-ton, gâteaux farcis aux crevettes en hachis, Hội An continue à garder le charme d’antan. Il est impossible de prévoir son avenir car à cause de l’augmentation du nombre de touristes étrangers en particulier chinois comme à Nha Trang, Dalat, le joyau de l’architecture de Hội An n’est plus la destination idéale s’il n’y a pas une politique d’encadrement sévère et sérieuse. Chaque saison apporte au touriste une expérience différente en particulier à ceux qui aiment la photographie comme moi. En été, à Hội An, il fait tellement chaud en particulier à 13 heures. C’est à cette heure que les gens cherchent l’endroit pour se détendre, prendre le déjeuner dans les restaurants, aller à la plage ou visiter l’île Poulo Cham. C’est une occasion idéale pour moi de faire la photographie car les rues sont presque désertes, le ciel est d’un bleu d’azur, les touristes ne sont pas nombreux dans les rues et dans les maisons historiques. Lorsqu’il pleut, c’est un peu pénible car il faut passer des heures dans les cafés ou dans les sites historiques où les gens n’ont aucune pudeur de parler fort et de ne pas savoir respecter la tranquillité comme dans les musées parisiens. Hôi An ne connait que deux saisons distinctes. Quelle que soit la saison, Hội An commence à s’animer vers 7 heures du soir car à ce moment le temps devient clément. Le touriste commence à découvrir son attrait et son charme au fil de la nuit. Outre les spectacles d’animation populaires, il y a le marché de nuit, les restaurants illuminés avec leurs lampions. Vers la fin du mois de juillet, se déroule tous les ans la fête des lumignons ayant lieu sur le fleuve Hoài. Ces petites bougies scintillantes flottent comme de petites étoiles brillantes dans le ciel. C’est une suggestion venant de l’idée originale de l’architecte polonais Kasimierz Kwakowski, l’un des chercheurs ayant apporté beaucoup d’efforts dans la préservation des patrimoines mondiaux du Vietnam, Mỹ Sơn et Hội An. Cela apporte néanmoins un grand plaisir pour la plupart des touristes. Etant de passage à Hôi An, le touriste est habitué à connaître seulement son vieux quartier Minh An. C’est ici qu’on trouve un grand nombre de maisons historiques et de musées. Ce quartier Minh An ressemble à une table de jeux d’échecs avec ses rues verticales Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Hoàng Văn Thụ, Trần Qúi Cáp và Hai Bà Trưng et ses rues longitudinales Trần Phú, Nguyễn Thái Học và Bạch Đằng. Un poète anonyme ou un touriste n’hésite pas à laisser les deux vers imprégnés de romantisme et de nostalgie:
Les rues en largeur ressemblent à des travées
Les rues en longueur à de longs moments d’attente.

Tuy đến Hội An đã có ba lần rồi  nhưng nếu có cơ hội, tôi sẻ trở lại với thành phố nầy vì ngoài các nhà cổ kính,  các  viện bảo tàng,  các thức ăn ngon miệng như cao lầu, hoàn thánh, bánh bao, bánh vạc , bánh đậu xanh vân vân … Hội An vẫn  còn giữ  được nét đẹp duyên  dáng của một thời.  Nhưng khó mà dự đoán được  trong tương lai vì với số lượng du khách càng ngày càng đông như ở Nha Trang, Đà Lạt  thì Hội An sẻ không còn là một điểm tham quan lý tưởng dù biết rằng đây  là  một kỳ công kiến trúc của phương Đông cổ xưa nếu không có giải pháp nào nghiêm túc. Hội An mỗi mùa đem lại cho người du khách một trải nghiệm khác nhau nhất là  những người thích chụp hình như tôi. Ở Hội An mùa hè thời tiết rất nóng nực  nhất là giờ trưa (13 giờ)  khiến mọi người  ẩn náu, tìm nơi nghỉ ngơi, ăn uống ở các quán, ra biển tấm hay tham quan  Cù Lao Chàm thì đây  là cũng là  cơ  hội  tốt thích hợp nhất để chụp hình.  Đường xá vắng vẻ, trời  thường xanh biếc nếu không mưa, du khách lại thưa  thớt ở trên đường phố và ở các điểm tham quan. Còn gặp mùa mưa thì phải chật vật, phải  buồn một tí, chỉ còn biết la cà ở các quán cà phê hay trong các nhà cổ kính thôi nhưng phải chịu sức ép của số người du khách ở các nơi nầy nhất là các du khách người Á không biết tôn trọng sự yên tịnh như ở các viện bão tàng Paris. Ở Hội An hai mùa rất rõ rệt. Dù mùa nào đi nửa thì về đêm, Hội An rất sống động vào khoảng 7 giờ chiều vì lúc đó trời bớt nóng nực, Hôi An lên đèn. Lúc đó du khách sẻ nhận thấy Hội An rất quyến rũ và xinh đẹp về đêm.   Ngoài  các trò hát dân gian  còn có chợ đêm,  các nhà hàng  lung linh với các đèn lồng. Vào các đêm rầm (tháng 8), có lễ hội thả đèn hoa đăng trên sông Hoài hiền hoà. Các ngọn đèn hoa đăng lấp lánh trôi trên sông tựa như một bầu trời đầy sao.  Đây là một ý tưởng độc đáo, một gợi ý của một người bỏ nhiều công sức để  bảo tồn di sản  Hội An và Mỹ Sơn của Việt Nam, cố kiến trúc sư Ba Lan Kasimierz Kwakowski,  mà nay nó trở thành niềm vui không ít cho du khách. Đến Hôi An, du khách thông thường chỉ biết đến khu phố cổ Minh An. Nơi nầy qui tu tất cả các điểm quan trọng ở Hội An. Nó tựa như một  bàn cờ  với những phố ngang  Nguyễn  Huệ, Lê Lợi, Hoàng Văn Thụ, Trần Qúi Cáp và Hai Bà Trưng và  những  phố dài  Trần Phú, Nguyễn Thái Học và Bạch Đằng. Một nhà thơ khuyết danh hay là một du khách để lại hai câu thơ quá lãng mạn và mơ mộng trong niềm thương nhớ Hội An:

Phố ngang như những nhịp cầu
Phố dọc như những dài lâu đợi hoian_over_night

 

Hội An: art culinaire (2ème partie)

 

hoian_et_ses_specialites

Version  vietnamienne

Hoành Thánh (Won-ton)

En mangeant ce won-ton frit, on découvre un goût exquis car il y a dans ce plat un mélange subtil et judicieux de saveurs ( sucrée venant de la chair de crevette, acidulée de la tomate, âcre et brûlante des oignons et grasse de la friture de la pâte). Ce won-ton est préparé à partir des pochettes de pâte de blé farcies aux crevettes en hachis. Mais il faut avoir les meilleures crevettes fraîches pour vous laisser un appétit insatiable.

hoian_et_ses_specialites1

Bánh Bao- Bánh Vạc

C’est une sorte de gâteau farci aux crevettes en hachis ayant pour l’enveloppe une pâte de riz très fine et toute blanche. On continue à le nommer « Bông hồng trắng (ou la rose blanche) ». C’est le nom donné par les Français à l’époque coloniale. Aujourd’hui, il n’y a qu’un seul établissement qui fournit ce gâteau aux autres restaurants de Hội An. On le mange en le trempant dans du jus de poisson dilué (nước mắm). On peut le goûter sur place dans ce restaurant fournisseur se trouvant à l’adresse suivante: 533 Hai Bà Trưng. Hội An.

Bánh đậu xanh
Ce gâteau d’haricots mous a une longue histoire. Depuis le XVIII ème siècle, il fut le cadeau de grande valeur offert aux mandarins locaux par les paysans pauvres. Il faisait partie aussi de la liste des présents offerts à l’empereur Minh Mạng lors de ses tournées d’inspection à Quảng Nam. Sa renommée semble entièrement justifiée car malgré la même constitution d’haricots, du sucre et du riz gluant, elle a non seulement un goût exquis mais aussi une présentation particulière qu’on ne trouve pas ailleurs. Etant de forme « carrée » ou « ronde », il peut être mou et sucré ou dur, salé et farci à la viande de porc. C’est un gâteau qu’on ne peut pas manquer lorsqu’on a l’occasion de visiter Hội An. Mais c’est aussi un cadeau original qu’on peut offrir à ses proches lors de son retour de voyage.

Những thức ăn khó quên

Hoành Thánh ( Won-ton )

Khi ăn món hoành thánh chiên này, chúng ta khám phá ra một mùi vị cao nhã bởi vì trong món ăn này có sự hỗn hợp hương vị tinh tế và khéo léo (ngọt từ thịt tôm, thơm từ cà chua, chát và nóng từ hành tây và béo từ chiên bột). Hoành th ánh này được làm từ các túi bột mì nhồi tôm bằm. Nhưng phải có được những con tôm tươi ngon nhất để khiến bạn còn thèm ăn vô độ.

Bánh Bao- Bánh Vạc

Đây là một loại bánh nhồi nhân tôm bằm, được gói trong một lớp bột gạo trắng và rất mỏng. Chúng ta tiếp tục gọi nó là « Bông hồng trắng« . Đây là tên do người Pháp đặt trong thời thuộc địa. Ngày nay, chỉ có một cơ sở cung cấp món bánh này cho các nhà hàng khác ở Hội An là bánh được ăn bằng cách ngâm trong nước mắm pha loãng. Bạn có thể thưởng thức món này ngay tại nhà hàng của cơ sở cung cấp ở địa chỉ: 533 Hai Bà Trưng. Hội An.

 

Bánh đậu xanh

Bánh đậu mềm này có một lịch sử lâu đời. Kể từ thế kỷ 18, nó đã là một món quà quý giá mà được những người nông dân nghèo thường đem  tặng cho các quan lại địa phương. Nó cũng nằm trong danh sách những lễ vật dâng lên cho vua Minh Mạng trong chuyến đi thanh tra ởQuảng Nam. Sự nổi tiếng của bánh đậu xanh dường như hoàn toàn chính đáng bởi vì ngoài thành phần đậu, đường và gạo nếp, nó không chỉ có hương vị tinh tế mà còn có cách trình bày đặc biệt không thể tìm thấy ở nơi nào khác. Có hình dạng « vuông » hoặc « tròn », có thể mềm hoặc cứng và ngọt hay mặn và được nhồi với thịt lợn. Đây là món bánh bạn không thể bỏ qua khi đến Hội An, nhưng cũng là món quà thuần túy  mà bạn có thể biếu tặng cho những người thân yêu trong chuyến du lịch.

 

 

 

Hội An: un jour comme les autres

Một ngày như mọi ngày ở phố cổ Hội An

One  day, just like on the other days at Hội An.

Un jour identique à d’autres jours à la vieille ville de Hội An

 

Hôi An

 

 

 

 

 

Hội An sommaire (3ème partie)

Version vietnamienne

Version anglaise

Troisième partie

Le paysage de la ville de Hội An commença à changer profondément vers le milieu du XVIIème siècle avec le départ forcé des Japonais et l’arrivée des Chinois. Le nom de la ville Hội An connu jusqu’alors sous le nom « Hai Phố (Deux villages) » n’avait  plus la raison d’être avec la régression du quartier japonais. On donnait désormais à Hội An le nom traditionnel « Phố » (village ou rue) ou Hải Phố (village au bord de la mer) ou Hoa Phố (le village des Chinois). C’est probablement l’un de ces noms que les premiers missionnaires occidentaux ont traduit phonétiquement en Faifo. Mais sur la carte de Pieter Goos dessinée en 1666, on s’aperçoit qu’il y a un nom alternatif « Fayfoo » pour Hội An tandis que sur la carte d’Alexandre de Rhodes se trouve le mot « Haifo ». En tout cas, c’est le mot Faifo employé désormais par les Occidentaux pour désigner la ville Hội An. Le quartier japonais semble disparaître du paysage de la ville de Hội An car dans tous les récits tardifs des voyageurs étrangers (y compris celui du bonze libertin chinois Thích Đại Sán), on ne trouve aucun mot évoquant la présence japonaise.

Malgré cela, à travers l’adage des Hoianais, on sait qu’il existe au début de la fondation de Hội An deux quartiers, l’un japonais et l’autre chinois. Ce proverbe nous indique avec précision la délimitation de la ville : Thựơng chùa cầu, Hạ Âm Bổn. (En amont le pont-pagode, en aval le temple Âm Bổn). Le pont-pagode est situé à l’extrémité ouest de la ville tandis qu’à l’autre extrémité est se trouve le temple Âm Bổn du siège de la congrégation Triều Châu, dédié au grand général pacificateur de la mer, Ma Yuan (Mã Viện). C’est sur cet espace réduit qu’ont été construites les premières maisons traditionnelles chinoises sans étage, avec ou sans grenier (la rue Trần Phú actuelle). Mais aucune maison n’a réussi à résister aux dégradations et aux intempéries de la nature (pluie, inondation etc…) au fil des années. Grâce aux registres cadastraux anciens, on sait que la plus ancienne maison de la ville Hội An datant de 1738 est située actuellement au numéro3 de la rue Nguyễn Thi Minh Khai. La plupart des maisons traditionnelles visibles aujourd’hui à Hội An ont été ré-construites plusieurs fois sur les mêmes emplacements.

À côté de ce type de maison traditionnelle sans étage, on relève un autre type de modèle de maison chinoise très répandu dans la première moitié du XIXème siècle. C’est la maison avec étage dont la façade est en bois ou en brique. Étant de la même culture, ces émigrés chinois n’avaient aucun conflit religieux ou sérieux avec les Vietnamiens depuis leur installation. Par contre, cela leur permet de s’intégrer plus facilement dans la société vietnamienne et de devenir, grâce aux mariages mixtes, des Vietnamiens à part entière au renouvellement de quelques générations. Selon l’auteur Nguyễn Thiệu Lâu [BAVH, La formation et l’évolution du village Minh Hương(Faifo), 1941, Tome 4], la ville de Hội An était au début de son existence un « Minh Hương xã« , une commune habitée par une colonie chinoise. Grâce aux circonstances favorables dues au dot et aux dons des bienfaiteurs et bienfaitrices chinoises (1) et au colmatage de la berge du fleuve Thu Bồn, elle s’était agrandie progressivement pour devenir au fil des siècles un village de métis sino-vietnamien où ces émigrés chinois finissaient par être assimilés à la population locale.

Quant aux Hollandais, ils ne restaient pas inactifs car ils connaissaient très tôt Hội An. Leur Compagnie néerlandaise des Indes Orientales (*) établit au début de 1636 un comptoir à Hội An. Celui-ci cessa ses activités en 1641, l’année où l’exécution d’un voleur vietnamien par cette compagnie provoqua la colère du gouverneur Nguyễn Phước Tần. Celui-ci n’hésita pas prendre des mesures énergiques en brûlant toutes leurs marchandises saisies et en jetant à la mer tout le reste. De plus sept marchands hollandais furent exterminés lors de cet incident. La réaction hollandaise ne tarda pas à venir avec une confrontation armée quelques mois plus tard. Celle-ci dura de 1642 à 1643. Nguyễn Phúc Tần en sortit victorieux en détruisant la flotte hollandaise. L’amiral hollandais Peter Bach se donna la mort sur son bateau. C’est un exploit extraordinaire de combat naval entre les Occidentaux et le royaume du Sud des seigneurs Nguyễn car ces derniers réussirent à défaire pour la première fois la flotte européenne sur leur sol. Mais cela n’émoussa pas l’intention des Occidentaux de revenir plus tard au Vietnam dans le but de chercher des points d’appui militaire facilitant l’accès à la Chine et au commerce convoité depuis les débuts de l’époque moderne.

Entre-temps, Hội An connut à la fin du XVIIIème siècle des troubles provoqués par les révoltes paysannes, en particulier celle menée par les trois frères de Tây Sơn ( Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ et Nguyễn Huệ) à Bình Định dans le centre du Vietnam. C’est la période où Hội An fut ravagée par l’invasion de l’armée nordiste des Trinh profitant du contexte troublant pour chasser les Nguyễn et combattre les Tây Sơn (Paysans de l’Ouest). En 1778, un commerçant britannique de nom Chapman, de passage à Hội An, fit la description suivante: Malgré l’aménagement réussi des quartiers avec des maisons en brique, il ne restait que des ruines. Malgré cela, Hội An reprit ses activités commerciales qui étaient loin d’être florissantes comme au début de sa fondation car la plupart des Chinois résidant à Hội An préférèrent de la quitter et de s’installer à Saïgon (Cholon). Celle-ci était en quelque sorte le bras allongé de Hội An. Puis vint un siècle plus tard le début de l’intervention militaire française prenant prétexte de la protection des missionnaires persécutés au Vietnam sous le règne de l’empereur Tự Đức (1858). C’était le début de la colonisation française au Vietnam.

À l’époque coloniale, Hội An continua à garder le nom de Faifo. Mais elle commença à prendre un autre visage, celui d’une ville européenne. Outre l’infrastructure moderne (équipement en eau, éclairage, canaux d’évacuation etc…), on y trouva la construction de nouveaux bâtiments publics dans le but de satisfaire les besoins de l’administration coloniale (l’hôtel de ville, le palais de justice, l’église etc…) et des maisons individuelles destinées à apporter le confort et bien-être aux fonctionnaires expatriés. Grâce à cet aménagement urbain, Hội An devint désormais une ville cosmopolite. Malgré cela, selon l’écrivain vietnamien Hữu Ngọc, Hội An fut délaissée très vite par les Français à cause de l’alluvion qui rendit difficile la navigation des bateaux sur le fleuve Thu Bồn. Ceux-ci préférèrent Tourane (ou Đà Nẵng) au détriment de Hội An vers la dernière moitié du XIXème siècle. Hội An tomba ainsi dans l’oubli car elle ne fut plus un centre économique et politique. Elle fut heureusement épargnée durant la guerre du Vietnam. C’est pour cette raison qu’elle peut conserver intact un grand nombre de vestiges architecturaux de grande valeur qui font aujourd’hui le bonheur des touristes vietnamiens et étrangers.

Une large part de son attrait réside sur le fait de nous laisser revivre le fil de son histoire à travers le temps.

Version vietnamienne

Phần III

Cảnh quan Hội An bắt đầu thay đổi sâu sắc vào khoảng giữa thế kỷ 17 khi người Nhật Bản buộc phải rời đi và người Trung Quốc đến đây. Hội An không còn ý nghĩa Hai Phố vì phố Nhật không còn nửa. Từ đó, chỉ gọi Hội An là Hải Phố có nghĩa là Phố ở biển hay là Hoa Phố (phố của người Hoa). Có lẽ một trong hai tên nầy mà các cha cố đạo Âu Châu phát âm ra không rỏ mà thành Faifo. Tên nầy được giữ đến thời kỳ Pháp thuộc. Nhưng trên bản đồ của Pieter Goos vẽ năm 1666, chúng ta thấy Hội An có một tên gọi khác là « Fayfoo« , trong khi trên bản đồ của Alexander xứ Rhodes lại thấy chữ « Haifo« . Dù sao đi nữa, đó chính là chữ « Faifo » mà người phương Tây ngày nay dùng để chỉ Hội An. Khu phố Nhật Bản dường như biến mất khỏi cảnh quan Hội An bởi vì trong tất cả những ghi chép sau này của du khách nước ngoài (bao gồm cả nhà sư Trung Hoa phóng túng Thích Đại Sán), chúng ta không tìm thấy từ nào gợi lên sự hiện diện của người Nhật.

Mặc dù vậy, qua câu tục ngữ Hội An, chúng ta biết rằng khi Hội An mới thành lập, có hai quận, một của người Nhật và một của người Hoa. Câu tục ngữ này chỉ chính xác ranh giới của thành phố: Thượng chùa cầu, Hạ Âm Bổn. (Thượng nguồn cầu chùa, hạ nguồn chùa Âm Bổn). Cầu chùa nằm ở đầu phía tây của thành phố trong khi ở đầu phía đông còn lại là chùa Âm Bổn của trụ sở giáo đoàn Triều Châu, thờ vị tướng vĩ đại trấn an biển cả, Mã Viện. Chính trên không gian nhỏ bé này, những ngôi nhà truyền thống đầu tiên của người Hoa không có sàn, có hoặc không có gác xép (ngày nay là đường Trần Phú) đã được xây dựng. Nhưng không ngôi nhà nào có thể chịu được sự xuống cấp và thời tiết xấu của thiên nhiên (mưa, lũ lụt, v.v.) qua nhiều năm. Nhờ các hồ sơ địa chính cũ, chúng ta biết rằng ngôi nhà cổ nhất ở Thành phố Hội An, có niên đại từ năm 1738, hiện tọa lạc tại số 3 đường Nguyễn Thị Minh Khai. Hầu hết các ngôi nhà truyền thống hiện còn thấy ở Hội An đều đã được xây dựng lại nhiều lần trên cùng một địa điểm.

Bên cạnh kiểu nhà một tầng truyền thống này, còn có một kiểu nhà Trung Hoa khác rất phổ biến vào nửa đầu thế kỷ 19. Đây là kiểu nhà hai tầng với mặt tiền bằng gỗ hoặc gạch. Cùng chung một nền văn hóa, những người Hoa di cư này không có xung đột tôn giáo hay xung đột nghiêm trọng nào với người Việt Nam kể từ khi định cư. Mặt khác, điều này cho phép họ hòa nhập dễ dàng hơn vào xã hội Việt Nam và, nhờ hôn nhân khác chủng tộc, trở thành người Việt Nam chính thức sau vài thế hệ. Theo tác giả Nguyễn Thiệu Lâu [BAVH, Sự hình thành và phát triển của làng Minh Hương (Faifo), 1941, Tập 4], thành phố Hội An ban đầu là một « Minh Hương xã« , một xã có người Hoa sinh sống. Nhờ hoàn cảnh thuận lợi do của hồi môn và tiền quyên góp của các nhà hảo tâm người Hoa (1) và việc lấp bờ sông Thu Bồn, dần dần qua nhiều thế kỷ, nơi đây trở thành một ngôi làng có dòng máu lai Hoa-Việt, nơi những người Hoa di cư này đã hòa nhập vào dân cư địa phương.

Về phần người Hà Lan, họ không hề thụ động vì họ đã biết đến Hội An từ rất sớm. Công ty Đông Ấn Hà Lan (*) của họ đã thành lập một trạm buôn bán tại Hội An vào đầu năm 1636. Trạm này ngừng hoạt động vào năm 1641, năm mà việc công ty này hành quyết một tên trộm người Việt Nam đã khiến thống đốc Nguyễn Phước Tần tức giận. Ông không ngần ngại thực hiện các biện pháp mạnh mẽ bằng cách đốt cháy tất cả hàng hóa bị tịch thu và ném mọi thứ khác xuống biển. Ngoài ra, bảy thương gia Hà Lan đã bị tiêu diệt trong sự việc này. Phản ứng của người Hà Lan không lâu sau đó với một cuộc đối đầu vũ trang diễn ra vài tháng sau đó. Điều này kéo dài từ năm 1642 đến năm 1643. Nguyễn Phúc Tần đã giành chiến thắng bằng cách tiêu diệt hạm đội Hà Lan. Đô đốc người Hà Lan Peter Bach đã tự sát trên tàu của mình. Đây là một chiến công hải chiến phi thường giữa người phương Tây và vương quốc phía nam của các chúa Nguyễn, vì sau này đã thành công trong việc đánh bại hạm đội châu Âu trên lãnh thổ của họ lần đầu tiên. Nhưng điều này không làm giảm ý định quay trở lại Việt Nam sau này của người phương Tây để tìm kiếm chỗ đứng quân sự nhằm tạo điều kiện tiếp cận Trung Quốc và hoạt động thương mại mà họ đã thèm muốn từ đầu thời kỳ hiện đại.

Trong khi đó, Hội An đã trải qua tình trạng bất ổn vào cuối thế kỷ 18 do các cuộc khởi nghĩa nông dân gây ra, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa do ba anh em nhà Tây Sơn (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ Nguyễn Huệ) lãnh đạo ở Bình Định, miền Trung Việt Nam. Đây là thời kỳ Hội An bị tàn phá bởi cuộc xâm lược của quân đội Trịnh ở miền Bắc, lợi dụng bối cảnh bất ổn để đánh đuổi nhà Nguyễn và chống lại Tây Sơn (Nông dân miền Tây). Năm 1778, một thương nhân người Anh tên là Chapman, đi qua Hội An, đã mô tả như sau: Mặc dù các khu phố có nhà gạch đã phát triển thành công, nhưng chỉ còn lại những tàn tích. Mặc dù vậy, Hội An đã tiếp tục các hoạt động thương mại, vốn không hề thịnh vượng như lúc mới thành lập, vì hầu hết người Hoa sống ở Hội An thích rời khỏi đây và định cư ở Sài Gòn (Chợ Lớn). Theo một số cách, đây là cánh tay nối dài của Hội An. Sau đó, một thế kỷ sau, bắt đầu có sự can thiệp quân sự của Pháp với lý do bảo vệ các nhà truyền giáo bị đàn áp ở Việt Nam dưới thời vua Tự Đức (1858). Đây là sự khởi đầu của quá trình thực dân hóa Việt Nam của Pháp.

Trong thời kỳ thuộc địa, Hội An vẫn giữ tên Faifo. Nhưng nó bắt đầu mang một diện mạo khác, mang dáng dấp của một thành phố châu Âu. Bên cạnh cơ sở hạ tầng hiện đại (cấp nước, chiếu sáng, kênh thoát nước, v.v.), các công trình công cộng mới được xây dựng để đáp ứng nhu cầu của chính quyền thuộc địa (tòa thị chính, tòa án, nhà thờ vân vân) và nhà ở riêng lẻ được xây dựng để mang lại sự thoải mái và tiện nghi cho các quan chức xa xứ. Nhờ sự phát triển đô thị này, Hội An đã trở thành một thành phố quốc tế. Tuy nhiên, theo nhà văn Việt Nam Hữu Ngọc, người Pháp đã nhanh chóng bỏ rơi Hội An do phù sa khiến tàu thuyền khó di chuyển trên sông Thu Bồn. Họ ưa chuộng Tourane (hay Đà Nẵng) hơn là Hội An vào nửa cuối thế kỷ 19. Do đó, Hội An đã rơi vào quên lãng vì không còn là một trung tâm kinh tế và chính trị. May mắn thay, nó đã được bảo tồn trong Chiến tranh Việt Nam. Đây là lý do tại sao nơi đây có thể bảo tồn nguyên vẹn một số lượng lớn di tích kiến ​​trúc có giá trị lớn mà ngày nay làm say mê du khách Việt Nam và nước ngoài.

Một phần lớn sức hấp dẫn của nó nằm ở chỗ cho phép chúng ta sống lại mạch truyện của nó theo thời gian.

English version

Three part

The landscape of the city of Hội An began to change profoundly around the mid-17th century with the forced departure of the Japanese and the arrival of the Chinese. The name of the city Hội An, until then known as « Hai Phố (Two villages), » no longer made sense with the decline of the Japanese quarter. Hội An was now given the traditional name « Phố » (village or street) or Hải Phố (village by the sea) or Hoa Phố (the village of the Chinese). It is probably one of these names that the first Western missionaries phonetically translated as Faifo. But on the map by Pieter Goos drawn in 1666, one notices an alternative name « Fayfoo » for Hội An, while on Alexandre de Rhodes’s map, the word « Haifo » appears. In any case, it is the word Faifo now used by Westerners to designate the city of Hội An. The Japanese quarter seems to disappear from the landscape of the city of Hội An because in all later accounts of foreign travelers (including that of the libertine Chinese monk Thích Đại Sán), there is no mention of the Japanese presence.

Despite this, through the saying of the Hoianese, it is known that at the beginning of Hội An’s foundation there were two neighborhoods, one Japanese and the other Chinese. This proverb precisely indicates the boundaries of the city: Thượng chùa cầu, Hạ Âm Bổn. (Upstream the bridge-pagoda, downstream the Âm Bổn temple). The bridge-pagoda is located at the western end of the city while at the other eastern end is the Âm Bổn temple of the Triều Châu congregation, dedicated to the great general and pacifier of the sea, Ma Yuan (Mã Viện). It is in this small area that the first traditional Chinese houses without floors, with or without attics (the current Trần Phú street), were built. But no house has managed to withstand the damage and the harshness of nature (rain, flooding, etc.) over the years. Thanks to old cadastral records, it is known that the oldest house in Hội An, dating from 1738, is currently located at number 3 Nguyễn Thi Minh Khai street. Most of the traditional houses visible today in Hội An have been rebuilt several times on the same sites.

Next to this type of traditional single-story house, there is another type of Chinese house model that was very common in the first half of the 19th century. It is the house with an upper floor, whose facade is made of wood or brick. Being of the same culture, these Chinese emigrants had no religious or serious conflicts with the Vietnamese since their settlement. On the other hand, this allowed them to integrate more easily into Vietnamese society and, thanks to mixed marriages, to become full-fledged Vietnamese over the renewal of a few generations. According to the author Nguyễn Thiệu Lâu [BAVH, The formation and evolution of the Minh Hương village (Faifo), 1941, Volume 4], the city of Hội An was at the beginning of its existence a « Minh Hương xã, » a commune inhabited by a Chinese colony. Thanks to favorable circumstances due to dowries and donations from Chinese benefactors and benefactresses (1) and the filling in of the Thu Bồn riverbank, it gradually expanded over the centuries to become a Sino-Vietnamese mixed village where these Chinese emigrants eventually became assimilated into the local population.

As for the Dutch, they did not remain inactive because they knew Hội An very early on. Their Dutch East India Company (*) established a trading post in Hội An at the beginning of 1636. This post ceased its activities in 1641, the year when the execution of a Vietnamese thief by this company provoked the anger of Governor Nguyễn Phước Tần. He did not hesitate to take strong measures by burning all their seized goods and throwing the rest into the sea. Moreover, seven Dutch merchants were killed during this incident. The Dutch reaction was not long in coming, with an armed confrontation a few months later. This lasted from 1642 to 1643. Nguyễn Phúc Tần emerged victorious by destroying the Dutch fleet. The Dutch admiral Peter Bach took his own life on his ship. This was an extraordinary naval combat feat between the Westerners and the southern kingdom of the Nguyễn lords, as the latter succeeded in defeating the European fleet on their soil for the first time. But this did not dampen the Westerners’ intention to return later to Vietnam with the aim of seeking military footholds that would facilitate access to China and trade coveted since the beginning of the modern era.

Meanwhile, Hội An experienced troubles at the end of the 18th century caused by peasant revolts, particularly the one led by the three Tây Sơn brothers (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, and Nguyễn Huệ) in Bình Định in central Vietnam. This was the period when Hội An was devastated by the invasion of the northern Trịnh army, taking advantage of the turbulent context to drive out the Nguyễn and fight the Tây Sơn (Western Peasants). In 1778, a British merchant named Chapman, passing through Hội An, made the following description: Despite the successful arrangement of the quarters with brick houses, only ruins remained. Despite this, Hội An resumed its commercial activities, which were far from flourishing as at the beginning of its founding because most of the Chinese residing in Hội An preferred to leave and settle in Saigon (Cholon). The latter was, in a way, the extended arm of Hội An. Then, a century later came the beginning of French military intervention, taking the pretext of protecting persecuted missionaries in Vietnam under the reign of Emperor Tự Đức (1858). This was the beginning of French colonization in Vietnam.

During the colonial era, Hội An continued to keep the name Faifo. But it began to take on another face, that of a European city. In addition to modern infrastructure (water supply, lighting, drainage canals, etc.), new public buildings were constructed to meet the needs of the colonial administration (the town hall, the courthouse, the church, etc.) and individual houses intended to provide comfort and well-being to expatriate officials. Thanks to this urban development, Hội An became a cosmopolitan city. Despite this, according to the Vietnamese writer Hữu Ngọc, Hội An was quickly abandoned by the French due to the alluvium that made navigation difficult for boats on the Thu Bồn River. They preferred Tourane (or Đà Nẵng) over Hội An in the latter half of the 19th century. Hội An thus fell into oblivion as it was no longer an economic and political center. Fortunately, it was spared during the Vietnam War. This is why it can preserve intact a large number of architectural relics of great value, which today delight Vietnamese and foreign tourists.

Much of its appeal lies in the fact that it allows us to relive the thread of its history through time.


(*) VOC: Compagnie néerlandaise des Indes Orientales. Vereenigde Oost-Indische Compagnie.

(1): Ce sont les premiers fondateurs de l’enclave Minh Hương Xã chinoise. Parmi eux, il y a les dix vieillards (Thập Lão), la bienfaitrice Mme Lành, le bonze Lương Huệ Đường. Ces personnes ont le droit d’avoir un autel en leur honneur dans les sièges des congrégations chinoises.

 Đây là những người đầu tiên sáng lập ra cộng đồng Minh Hương Xã của người Hoa. Trong số đó có Thập Lão, thí chủ bà Lành, và sư Lương Huệ Đường. Những người này được quyền có bàn thờ để tưởng nhớ tại các giáo xứ của người Hoa

Mausolée de Khải Định (Lăng của vua Khải Định)

 

Ứng Lăng (應陵)

English version

Version française

Không giống như những lăng mộ khác của triều đại nhà Nguyễn, đặc biệt là lăng mộ của vua Minh Mạng và vua Tự Ðức, lăng mộ của Khải Ðịnh không để ý đến sự hài hòa và sự phù hợp khéo léo và tinh tế đã được tìm thấy từ trước đến nay giữa kiến trúc và môi trường tự nhiên, ở nơi mà lăng mộ của hoàng đế được xây dựng. Chúng ta cũng nhận thấy sự từ bỏ gỗ  coi như là yếu tố chính trong việc xây dựng lăng mộ này.

 Ngược lại  đây là một tòa nhà được xây dựng hoàn toàn bằng bê tông và được trang trí rất đẹp với các  lớp phủ bằng mảnh sứ và kính đầy màu sắc. Mặc dù không có cảnh quan, lăng Khải Đinh vẫn chứng tỏ  được tài năng phi thường của các nghệ nhân  Việt trong việc trang trí  vào đầu thế kỷ 20. Các yếu tố Tây Phương cũng mới được  xâm nhập vào một cách chừng  mực.  Lăng mộ  nó cũng phản ánh tính hoang tưởng tự đại của một vị hoàng đế chỉ nghĩ đến  trụy lạc và không quan tâm nhiều đến số phận của dân tộc.

Version française

Contrairement aux autres mausolées de la dynastie des Nguyễn, en particulier ceux de Minh Mang et Tự Ðức, le mausolée de Khải Ðịnh ne tient pas compte de l’harmonie et de l’accord ingénieux et subtil savamment trouvé jusqu’alors entre l’architecture et l’environnement naturel, sur l’emplacement où le tombeau de l’empereur doit être édifié. On constate aussi l’abandon du bois comme élément principal dans la construction de ce mausolée.

Par contre, il s’agit bien d’un édifice construit entièrement en béton et magnifiquement décoré de revêtements de tessons de porcelaine et de verreries de toutes les couleurs. Malgré l’absence du paysage, le mausolée de Khải Đinh témoigne quand même du talent exceptionnel des artistes décorateurs vietnamiens au début du vingtième siècle. Les éléments occidentaux sont introduits d’une manière modérée. Ce mausolée reflète aussi le caractère mégalomane d’un empereur qui ne pense qu’à la débauche et ne se soucie guère du sort de son peuple.

Patrimoine culturel mondial du Việt Nam

Galerie des photos du mausolée

Version anglaise  

Unlike other mausoleums of the Nguyên Dynasty, especially those of Minh Mang and Tự Ðức, the Khai Dinh  mausoleum  ignores harmony and ingenious and subtle agreement cleverly searched and found so far between architecture and natural environment, on the site  where the Emperor tomb  must be built. There is also the abandonment of wood as a main element in the construction of this mausoleum.

On the other hand, it is a building constructed entirely of concrete and beautifully decorated by coatings of granular porcelain and glass of all colors. Despite the absence of the landscape, the Khải Đinh mausoleum  still reflects the exceptional talent of Vietnamese designers and artists at the beginning of twentieth century. New Western elements are introduced in a moderate way. This mausoleum also reflects the character of a megalomaniac emperor who is interested only in the debauchery and is not worried about the fate of his people. This mausoleum also reflects the character of a megalomaniac emperor who is interested only in the debauchery and is not worried about the fate of his people.