Portail du village
Làng (廊), từ nầy nó dùng để chỉ một đơn vị cư trú mà nó còn là một hình thức tổ chức xã hội quan trọng ở nông thôn Việt Nam. Nó được thành hình từ những người trong gia tộc cùng huyết thống hoặc đến từ cộng đồng cư dân cùng làm một nghề chung. Từ thưở ban đầu, Việt Nam là môt nước nông nghiệp nên lúc nào cũng chịu nhiều ảnh hưởng thiên nhiên. Lũ lụt hay thường có không ai tránh khỏi nên cần có nỗ lực chung của cộng đồng mới có thể có kết quả hữu hiệu. Bởi vậy mới có câu tục ngữ nầy nói lên tình láng giềng đôi khi còn quí trọng hơn tình anh em xa. (Bán anh em xa mua láng giềng gần). Còn đến mùa gặt lúa thì cần có nhân lực, cần có sự trợ giúp của cộng đồng. Vì thế làng cần có tổ chức chặt chẽ nên có những đặc thù riêng, có sự gần gũi và gắn bó với nhau giữa cư dân làng hơn. Bao giờ cũng thường nghe gọi một câu « Ối làng nước ơi » một khi phụ nữ bực tức phẫn nộ chi đó ở nông thôn miền Bắc. Luôn luôn nhớ đến làng trước khi nhắc đến nước.
Theo nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm, không phải có sự ngẫu nhiên trùng hợp trong tiếng nước ta lại có khái niệm « làng nước »[ibid 238] còn « nhà nước » chỉ là sự chuyển đổi tóm tắt của khái niệm Trung Hoa « quốc gia » hay « nhà nước ». Có nói đến gia đình từ khi đạo Khổng du nhập vào xứ ta. Ta cũng thường nghe nói đến các tổ hợp từ đình làng, ao làng, giếng làng, hương ước làng vân vân. Đây cũng là những nét đặc tính làng ta đều có cả. Uy quyền của vua tuy lớn nhưng quá ở xa nên không có hiệu lực bằng tục lệ làng nên mới có câu tục ngữ nầy: Phép vua thua lệ làng hay là Áo cứ tràng, làng cứ xã để khẳng đinh vai trò chính yếu của làng, chỗ nương tựa cần thiết trong việc giải quyết mọi việc hằng ngày tuy ảnh hưởng nó nhỏ và lấy nó làm căn cứ như vạt áo khi cắt may trong đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Làng ̣được xem có tính tự trị, khép kín, độc lập, là một vương quốc nhỏ trong vương quốc lớn nên mới có câu « Hương đảng (鄉黨), tiểu triều đình ». Chính vì có tính tự trị nên lúc đầu có những qui ước miệng sơ sài nhưng về sau trở thành hương ước đôi khi còn nặng nề và đối lập với luật của triều đình. Vì thế nhà nước phong kiến hạn chế lại việc lập tư ước với đạo dụ của vua Lê Thánh Tôn. Luật nhà nước đối với làng như nước đổ lá khoai theo lời trích dẫn của nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến [ibid 33]. Tục lệ hay hương ước được chép thành văn bản và được khắc trên bia và được phổ biến rộng rải từ thế kỷ 17. Có nhiều tục lệ lạ thường trớ trêu như thách cưới bằng bánh giầy. Làng có bao nhiêu gia đình thì bên đàn trai phải biếu bao nhiêu cái bánh. Còn có tục lệ gái đi lấy chồng thiên hạ để bắt cheo có nghĩa là muốn cưới vợ phải nộp cho làng gạch đế lát đường. Có nhiều tục lệ bám con người từ lúc trẻ cho đến khi qua đời khiến làm người nghèo càng nghèo thêm khiến đôi khi nhân phẩm của họ bị chà đạp nên phải bỏ làng mà đi như ở làng Chèm. Ngay nay với những qui định của nhà nước và sự hiểu biết của người dân trong xã hội tân tiến nên tục lệ trong làng cũng được rút gọn để phù hợp với nguyện vọng của cư dân ở trong làng.
Làng có một tổ chức độc đáo gọi là « giáp » chỉ dành cho nam giới và có đặc tính là cha truyền con nối.Trong tổ chức nội bộ, có ba giai cấp : tì ấu (đến 18 tuổi), đinh tráng và lão (từ 60 tuổi trở lên). Khi đứa trẻ mới sinh, người cha có nhiệm vụ thông báo với giáp và xin gíáp thừa nhận cháu bé vào cấp tì ấu với một quà nhỏ. Đến lúc 18 tuổi, có một buổi lễ công nhận đứa bé được đổi cấp, sang thành hội viên chính thức của cấp đinh tráng. Còn công việc làm cho làng, ai cũng như nhau và hưởng tất cả quyện lợi của cấp nầy cũng như có miếng đất của công xã để trồng trọt và một phần lợi tức thu hoạt phải đóng cho làng xã. Còn một khi sang cấp lão thì có một danh dự không nhỏ, được xem là người nhiều kinh nghiệm và được ngồi ngang hàng vớc các bậc tú tài, cử nhân và tiến sĩ của triều đình. Bởi vậy mới có câu tục ngữ như sau: Triều đình trọng tước, hương đảng trọng xỉ (xỉ là răng tức là những nguời lớn tuổi trong làng bị mất răng) nhưng ngược lại mất đi quyền hưởng thụ đất ai của làng, không còn làm những việc nhọc nhằn mà làng giao phó. Chỉ có những người chính cư hay nội tịch mới có quyền vào tổ chức nầy chớ những người ngụ cư hay ngoại tịch thì không có quyền, chỉ làm những nghề thấp kém.
Đây cũng là ví dụ điển hình của sự phân biệt đối xử dưới thời phong kiến trong làng.Theo nhà khảo cứu Trần Ngọc Thêm, đây là một phương tiện để đảm bảo sự ổn định của các làng mạc.[ Trần Ngọc Thêm , ibid 248]. Cụ thể sự khác biệt được thấy rõ trong viêc cưới hỏi. Nếu cô dâu chú rể cùng chung làng thì tiền cheo đóng cho làng rất tối thiểu và tượng trưng (cheo nội) còn không thi tiền cheo có thể gấp đôi hay gấp ba lần. Cư dân ở làng chia ra thành năm hạng: chức sắc, chức dịch, lão, đinh tráng và tì ấu.Những nguời thuộc ba hạng trên được chọn cử vào Hội đồng kì mục để có nhiệm vụ quản trị làng qua các hương ước sau khi có sự đồng ý của các hội nghị và thảo luận chung. Việc thu thuế cũng được rỏ ràng.Thay vì có sổ thuế má cho mỗi cá nhân thì làng đây có tính cách cộng đồng và của một nhóm người nên chỉ cần đặt mức thuế cho làng và làng tự lo liệu trong việc nầy. [ Trần Ngọc Thêm, ibid 253]
Chính nhờ có tính cộng đồng cùng các hương ước, tính tự trị của làng xã được thể hiện được tính độc lập và sự đa dạng về các quyết định liên quan đến đời sống xã hội và tâm linh của dân làng. Ngoài các đặc trưng mà làng Việt nào cũng có như cổng làng, đình, giếng nước, thành hoàng thì làng lại còn được biết đến nhờ lễ hội mỗi năm. Thông thường lễ hội thường hay tổ chức ở cửa đền, đình hay miếu chớ ở chùa thì ít có lắm chỉ dành cho lễ Phật. Trong lễ hội, làng hay diễn lại sử tích hay hành vi đặc trưng nào của thành hoàng chính đó là tiết mục chính cho nghi lễ. Ngoài nét đặt thù của làng, làng còn là một thành lũy tự trị, độc lập và kép kính sau lũy tre xanh. Nó còn là « yếu tố cơ bản » trong việc xây dựng » quốc gia. Bởi vậy nhà Đông Phương học Pháp Paul Mus mới nói rằng Việt Nam là xã hội làng mạc.
Village (廊), ce mot est utilisé pour désigner une unité résidentielle mais il est également une structure importante d’organisation sociale dans le Vietnam rural. Il est formé des gens issus d’une même lignée ou d’une communauté de résidents partageant un métier commun. Dès le début, le Vietnam est un pays agricole, il a donc toujours été influencé par les aléas de la nature. Les inondations sont fréquentes et inévitables. Cela nécessite évidemment un effort conjoint de la communauté pour obtenir des résultats efficaces. C’est pourquoi il existe un proverbe rappelant que l’amour réservé aux gens vivant à proximité est parfois plus précieux que celui donné aux frères et sœurs vivant trop lointain. À l’approche de la saison de la récolte du riz, on a besoin de la main-d’œuvre et du soutien de la communauté. Le village doit donc être bien organisé, afin qu’il ait ses propres caractéristiques et qu’il y ait plus de cohésion et d’attachement entre les villageois. Il est courant d’entendre la phrase « Oh village-pays » lorsque la femme est en colère ou contrariée par quelque chose dans la campagne du Nord. Elle pense tout de suite à son village avant de mentionner son pays.
Selon le chercheur Trần Ngọc Thêm, ce n’est pas par hasard que dans notre langue il y a la notion « village-pays » [ibid 238] tandis que «nhà nước » n’est qu’une transposition sommaire de la notion chinoise « quốc gia » . On parle de la famille depuis l’introduction du confucianisme dans notre pays. On entend aussi souvent parler de la combinaison des mots « maison communale -village », « étang- village », « puits -village », « règlements internes-village » etc. Ce sont aussi les caractéristiques que possède notre village. L’autorité du roi, bien que elle soit grande, est trop éloignée pour être aussi efficace que les coutumes du village. C’est pourquoi il y un proverbe: L’autorité du roi cède devant les coutumes du village ou « La tunique suit son corps, le village la commune » pour affirmer le rôle important du village et le soutien nécessaire dans la résolution de toutes les difficultés quotidiennes. Malgré que son influence soit faible dans la vie matérielle et spirituelle du peuple mais il est utilisé comme le point de repère dans la coupe et la couture d’une tunique.
Le village est toujours considéré comme autonome, fermé et indépendant. C’est un petit royaume dans un grand royaume. C’est pourquoi on dit « Hương đảng (鄉黨), petite cour« . En raison de son autonomie, il n’existe au début que des accords oraux simples mais ils deviennent plus tard des règlements internes parfois trop lourds et contraires aux lois de la cour impériale. C’est pourquoi l’état féodal a restreint l’établissement des règlements privés par l’édit du roi Lê Thánh Tôn. La loi de l’État pour le village est considérée comme l’eau versée glissant sur le dos d’une feuille (inefficace) , selon la citation de l’écrivain Nguyen Ngoc Tien [ibid 33]. Les coutumes ou les règlements internes étaient consignés et gravés sur des stèles et furent largement diffusés à partir du XVIIème siècle.
Il existe de nombreuses coutumes étranges et ironiques, comme la dot de gâteaux de riz. En fonction du nombre de familles dans le village, le marié doit donner autant de gâteaux de riz. Il existe également une coutume selon laquelle si une fille veut épouser quelqu’un venant de l’extérieur, elle doit offrir au village des briques pour paver la route. Il existe de nombreuses coutumes qui suivent les gens depuis l’enfance jusqu’à la mort, ce qui appauvrit encore les pauvres, piétine parfois leur dignité et les force à quitter le village comme dans le village de Chem. De nos jours, avec les réglementations de l’État et la compréhension des gens dans la société moderne, les coutumes villageoises sont également moins contraignantes pour répondre aux souhaits des villageois.
Le village possède une organisation unique appelée « giáp » qui est réservée uniquement aux hommes et qui a un caractère héréditaire. Dans l’organisation interne, il existe trois classes: les benjamins (jusqu’à 18 ans), les hommes d’âge moyen et les hommes âgés (60 ans et plus). À la naissance de l’enfant, le père a le devoir d’informer le « giáp » et de lui demander d’inscrire l’enfant à la première classe avec un petit cadeau. À l’âge de 18 ans, une cérémonie a lieu pour reconnaître le changement de classe de l’enfant. Il devient ainsi un membre officiel de la classe des « hommes forts et utiles ». En ce qui concerne le travail pour le village, tout le monde est égal et bénéficie de tous les avantages à ce niveau ainsi que la possession d’un lopin de terre communale pour la culture. Une partie des revenus lors de la récolte doit être versée au village. Une fois entré dans la dernière classe, on a le grand honneur d’être considéré comme une personne expérimentée et on a le droit de s’asseoir au même niveau que les bacheliers, les licenciés et les docteurs de la cour royale. C’est pourquoi il existe un proverbe : La cour royale honore les grades, le village les personnes âgées (ce sont les personnes âgées du village ayant perdu leurs dents) mais en contrepartie, elles perdent le droit de jouir des terres communales du village et ne peuvent plus faire le dur travail assigné par le village. Seuls les natifs et les résidents ont le droit d’entrer dans cette organisation, tandis que les immigrants ou les étrangers n’ont pas ce droit et ne peuvent occuper que des emplois subalternes.
C’est aussi l’exemple typique de la discrimination féodale dans le village. Selon le chercheur Trần Ngọc Thêm, il s’agit d’un moyen d’assurer la stabilité des villages. [Trần Ngôc Thêm, ibid 248]. Cette discrimination est particulièrement visible dans le mariage. Si les mariés sont du même village, la dot du mariage « cheo » versée au village est minime et symbolique (cheo nội), sinon la somme d’argent (cheo) peut être doublée ou triplée.
Les habitants du village sont divisés en cinq classes : les dignitaires diplômés (Chức sắc), les dignitaires administrateurs (Chức dịch), les anciens (lão), les actifs et les benjamins. Les gens des trois premières classes ci-dessus sont élus au conseil des notables ayant la mission d’administrer le village par le biais des règlements internes après avoir reçu l’approbation unanime lors des réunions et des discussions générales. La collecte des impôts est également claire. Au lieu d’avoir un livre d’impôts pour chaque individu, il suffit donc de fixer un taux d’impôt pour le village car il a le caractère communautaire et il appartient à un groupe de personnes. Il doit s’en charger lui-même. [Trần Ngọc Thêm, ibid 253]
Grâce au caractère communautaire et aux règlements internes, l’autonomie du village s’exprime dans son indépendance et sa diversité dans les décisions liées à la vie sociale et spirituelle des villageois. En plus les caractéristiques possédées par chaque village vietnamien, telles que le portail, la maison commune, le puits et le génie tutélaire, il est également connu pour son festival annuel.
Les festivals ont généralement lieu à l’entrée des temples, des maisons communales ou des sanctuaires, mais rarement dans les pagodes réservées uniquement pour vénérer Bouddha. Durant le festival, le village reconstitue souvent des événements historiques ou des actions typiques du génie tutélaire, ce qui constitue le numéro principal du rituel.
Outre ses caractéristiques uniques, le village est également une citadelle autonome, indépendante et fermée derrière la haie de bambous à la végétation luxuriante. C’est aussi un « élément fondamental » dans la formation de la nation.
C’est pourquoi l’orientaliste français Paul Mus a l’occasion de dire que
le Vietnam est une société des villages.
Village (廊), this word is used to refer to a residential unit but it is also an important structure of social organization in rural Vietnam. It is formed by people from the same lineage or a community of residents sharing a common occupation. From the beginning, Vietnam has been an agricultural country, so it has always been influenced by the vagaries of nature. Floods are frequent and inevitable. This obviously requires a joint effort from the community to achieve effective results.
This is why there is a proverb reminding us that love for a neighbor nearby is sometimes more precious than that given to brothers and sisters living too far away. As the rice harvest season approaches, the community’s workforce and support are needed. The village must therefore be well organized, so that it has its own characteristics and there is more cohesion and attachment among the villagers. It is common to hear the phrase « Oh village-country » when a woman is angry or upset about something in the northern countryside. She immediately thinks of her village before mentioning her country.
According to researcher Trần Ngọc Thêm, it is not by chance that in our language there is the notion « village-country » [ibid 238] while « nhà nước » is only a summary transposition of the Chinese notion « quốc gia ». We have been talking about the family since the introduction of Confucianism in our country. We also often hear about the combination of the words « communal house-village », « pond-village », « well-village », « internal regulations-village » etc. These are also the characteristics that our village has. The authority of the king, although it is great, is too distant to be as effective as the customs of the village. This is why there is a proverb: The authority of the king yields to the customs of the village or « The tunic follows its body, the village the commune » to affirm the important role of the village and the necessary support in solving all daily difficulties. Although its influence is weak in the material and spiritual life of the people, it is used as a reference point in the cutting and sewing of a tunic.
The village is always considered autonomous, closed and independent. It is a small kingdom within a large kingdom. That is why we say « Hương đảng (鄉黨), small court ». Due to its autonomy, at first there were only simple oral agreements but later they became internal regulations that were sometimes too cumbersome and contrary to the laws of the imperial court. That is why the feudal state restricted the establishment of private regulations by the edict of King Lê Thánh Tôn. The state law for the village is considered like poured water sliding down the back of a leaf (inefficiency), according to the quote from the writer Nguyen Ngoc Tien [ibid 33]. Customs or internal regulations were recorded and engraved on steles and were widely disseminated from the 17th century.
There are many strange and ironic customs, such as the rice cake dowry. Depending on the number of families in the village, the groom must offer that many rice cakes. There is also a custom that if a girl wants to marry someone from outside, she must offer the village bricks to pave the road. There are many customs that follow people from childhood until death, making the poor even poorer, sometimes trampling on their dignity, and forcing them to leave the village, as in Chem Village. Nowadays, with state regulations and people’s understanding of modern society, village customs are also less restrictive in meeting the villagers’ wishes.
The village has a unique organization called « giáp » which is reserved exclusively for men and is hereditary. Within the internal organization, there are three classes: the youngest (up to 18 years old), the middle-aged, and the elderly (60 years and older). Upon the birth of a child, the father is responsible for informing the « giáp » and asking him to enroll the child in the first class with a small gift. At the age of 18, a ceremony is held to recognize the child’s change of class. He thus becomes an official member of the « strong and useful men » class. Regarding work for the village, everyone is equal and enjoys all the benefits at that level, as well as the possession of a plot of communal land for cultivation. A portion of the harvest proceeds must be paid to the village. Once one reaches the last grade, one has the great honor of being considered an experienced person and is entitled to sit on the same level as the bachelors, licentiates, and doctors of the royal court. Therefore, there is a proverb: The royal court honors the ranks, the village the elderly (these are the elderly people of the village who have lost their teeth), but in return, they lose the right to enjoy the village’s communal land and can no longer do the hard work assigned by the village. Only natives and residents are entitled to join this organization, while immigrants or foreigners do not have this right and can only hold menial jobs.
This is also a typical example of feudal discrimination in the village. According to researcher Trần Ngọc Thêm, it is a way to ensure village stability. [Trần Ngôc Thêm, ibid 248]. This discrimination is particularly visible in marriage. If the bride and groom are from the same village, the marriage dowry « cheo » paid to the village is minimal and symbolic (cheo nội), otherwise the sum of money (cheo) can be doubled or tripled.
The villagers are divided into five classes: qualified dignitaries (Chức sắc), administrative dignitaries (Chức dịch), elders (lão), active members, and youngest members. The people in the first three classes above are elected to the council of notables whose mission is to administer the village through internal regulations after receiving unanimous approval at meetings and general discussions. Tax collection is also clear. Instead of having a tax book for each individual, it is sufficient to set a tax rate for the village because it has a community character and belongs to a group of people. It must take care of it itself. [Tran Ngoc Them, ibid 253].
Thanks to its community-based nature and internal regulations, the village’s autonomy is expressed in its independence and diversity in decisions related to the villagers’ social and spiritual lives. In addition to the characteristics that each Vietnamese village possesses, such as the village gate, the communal house, the well, and the guardian spirit, the village is also known for its annual festival. Festivals usually take place in temples, communal houses, or shrines, but rarely in pagodas reserved solely for worshipping Buddha. During the festival, the village often reenacts historical events or typical actions of the guardian spirit, which constitutes the ritual’s number one feature.
In addition to its unique characteristics, the village is also an autonomous citadel, independent and enclosed behind a hedge of green bamboo. It is also a « fundamental element » in the formation of the nation.
This is why the French orientalist Paul Mus has the opportunity to say that
Vietnam is a village society.
Tài liệu tham khào
Nguyễn Ngọc Tiến: Làng làng phố phố Hà Nội. Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 2024
Trần Ngọc Thêm: Recherche sur l’identité de la culture vietnamienne . Editions Thế Giới. 2008.
[10] Paul Mus: Sociologie d’une guerre. Editions Seuil 1952.