Thập Tam Lăng ( 13 Mausolées des Ming)

Thập Tam  Lăng nhà Minh

Ming Shisan Ling

Version française

 English version

Mười ba lăng mộ nhà Minh nằm trong một thung lũng rộng phía nam núi Thiên Thọ, cách Bắc Kinh khoảng 42 cây số. Thung lũng này được chọn vì đáp ứng được tiêu chí về Phong Thủy. Nó được bao bọc ba mặt ở  phía bắc nhờ có một dãy núi còn về phía nam nhờ sự  hiện diên một khe hở  để  tránh được các thần linh  ma quỷ từ gió bắc mang đến. Tổng cộng có 13 trong số 16 hoàng đế   của nhà Minh, 23 hoàng hậu, một phi tần nhất phẩm cùng một số phi tần được an nghỉ tại nơi thung lũng bình  yên này. Có ba  vị hoàng đế nhà Minh không được chôn cất ở nơi nầy.

Nằm ở trung tâm nghĩa trang, thì có ngôi mộ của Chu Đệ (Trường Lăng) được  xem  là nổi bật với kích thước to lớn so với mười hai lăng mộ khác. Nó cũng là ngôi mộ đầu tiên được xây dựng ở đây với 60 cột gỗ lim cao có 12 mét và có đường kính 1 mét được đưa từ vùng rừng sâu của Vân Nam và Tứ Xuyên mang về Bắc Kinh và cũng là nơi tổ chức mọi hoạt động cúng tế. Còn các ngôi mộ khác của các hoàng đế nhà Minh thì được sắp xếp theo  mô hình cây quạt xung quanh  con đường  chính thiêng liêng được gọi là « Thần Đạo »  (Shendao)

Dọc hai bên của con đường dài này thì  có 36 bức tượng bằng đá, 12 vị quan chức dân sự và quân sự, và 12 cặp động vật (sư tử, lạc đà, kỳ lân, voi, ngựa và con vật tưởng tượng). Ngôi mộ của Chu Đệ (Yong Le)  vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng chúng ta  cũng biết rằng khi ông được an táng,  có 16 phi tần cũng bị chôn sống. Phong tục dã man này đã bị bãi bỏ sau đó vào thế kỷ 15 dưới thời vua Minh Thần Tông (Vạn Lịch).

Khi còn sống, Hoàng đế Vạn Lịch  bắt đầu xây dựng Định Lăng vào năm 1584. Điều này khiến nhà nước tốn một khoản tiền đáng kể. Không biết cấu trúc bên trong của ngôi mộ này, giáo sư Xia Nai, giám đốc Viện Khảo cổ học Bắc Kinh phải  thực hiện cuộc khảo sát đầu tiên về Định Lăng vào năm 1956 và phát hiện ra ngôi mộ  nầy chưa bao giờ  bị xâm phạm. Chính nhờ một thẻ  bài mới  biết ra vị trí của cánh cửa ở  trong bức tường với cơ chế bí mật được chôn sâu khoảng chừng  11 thước  dưới lòng đất, ông mới thành công trong việc mở được ngôi mộ này cũng như các căn phòng phụ của nó.

Điều này dẫn đến  sự tìm thấy phòng chôn cất của Vạn Lịch và hai  bà hoàng hậu Tiêu DuẩnTiêu Cảnh. Ngoài ra còn có một số lượng lớn các đồ vật quý giá (trang sức bằng ngọc bích, gốm sứ ba màu, meiping (một lọại bình sứ ) vân vân ) trong 26 chiếc rương sơn mài màu đỏ tía được cất giử  ở phòng phía sau cùng.

Điều này dẫn đến  sự tìm thấy phòng chôn cất của Vạn Lịch và hai  bà hoàng hậu. Ngoài ra còn có một số lượng lớn các đồ vật quý giá (trang sức bằng ngọc bích, gốm sứ ba màu, meiping (một lọại bình sứ ) vân vân ) trong 26 chiếc rương sơn mài màu đỏ tía được cất giử  ở phòng phía sau cùng. Hiện tại, ngôi mộ duy nhất mà có thể du khách được truy cập  đó  lăng của  Wanli (1573-1620) (Vạn Lịch). Bà hoàng hậu (Hiếu Đoan Văn Hoàng hậu) và bà hoàng quí phi (Hiếu Tĩnh Hoàng hậu) được  chôn cất bên cạnh hoàng đế.

Cung điện dưới lòng đất nầy có diện tích 1195 thước vuông, sâu 27 mét. Nó được có 5 phòng: phòng phía trước, phòng trung tâm, phòng phía sau cũng như hai phòng bên. Nó được xây dựng bởi 30.000 công nhân sau sáu năm. Phòng trung tâm và phòng phía trước tạo thành một hành lang dài vuông góc với phòng phía sau. Tất cả các phòng đều được ngăn cách với nhau bằng một cánh cửa lớn bằng đá cẩm thạch màu trắng được trang trí bằng những tác phẩm điêu khắc tinh xảo. Ngoài ra còn có 3 chiếc ngai bằng đá cẩm thạch dành riêng cho người đã khuất ở gian giữa.

Ngoại trừ tấm bia mộ của  Chu Đệ mà người kế vị ông để lại hơn 3000 chữ ca ngợi công đức của cha mình, chúng ta không tìm thấy chữ viết nào trên tấm bia của các ngôi mộ khác. Đây là một bí ẩn  mà các nhà sử học cần phải  giải quyết. Một số người cho rằng các hoàng đế nhà Minh đã bãi bỏ tục lệ này vì sợ bị hậu thế chỉ trích, chế giễu vì hành vi sai trái, trụy lạc. Một số  người khác lại ủng hộ sự chấp nhận thái độ  của Vũ Tắc Thiên  thời nhà Đường bởi  các hoàng đế nhà Minh. Bà nầy  không để lại dấu vết gì  cả để khỏi bị chỉ trích vì bà biết cách cư xử của mình không thể  hoàn hảo.

13 TOMBEAUX DES MING

Version française

Les tombeaux des Ming sont situés dans une large vallée au sud de la montagne Tianshou (Thiên Thọ) loin de Pékin à peu près de 42 kilomètres. Cette vallée a été choisie car elle répond aux critères de Fengshui (Phong Thủy). Elle est encadrée au nord sur ses trois côtés par une chaîne de montagnes et au sud par une ouverture, ce qui lui permet d’être protégée contre les mauvais esprits emmenés par les vents du Nord. Il y a en tout 13 des 16 empereurs des Ming, 23 impératrices, une concubine de premier rang et une douzaine de concubines impériales qui ont reposé dans cette vallée paisible. Trois empereurs des Ming ne sont pas enterrés ici.

Située au centre du cimetière, la sépulture de Yong Le (Trường Lăng) se fait remarquer par sa taille imposante par rapport aux douze autres mausolées  avec 60 colonnes en bois de fer (gỗ lim) ayant 12 mètres de haut et un diamètre d’un  mètre, ramenés de la région forestière de Yunnan et Sichuan  jusqu’à Pékin. Elle est aussi la première à y être construite. Les autres tombeaux des empereurs des Ming sont disposés en éventail autour de la voie  principale sacrée (Shendao). Cette longue allée est bordée de 36 statues de pierre, 12 dignitaires civils et militaires et 12 paires d’animaux (lions, chameaux, licornes, éléphants, chevaux et chimères). Le tombeau de Yong Le est resté inviolé. Mais on sait qu’au moment de son enterrement, 16 concubines furent emmurées vivantes à son côté. Cette coutume fut abolie  après au XVème siècle.

De son vivant, l’empereur Wan Li commença à construire en 1584 son tombeau Dingling (tombeau de la tranquillité)(Định Lăng). Celui-ci coûte une somme considérable à l’état. Ignorant la structure interne de ce tombeau, le professeur Xia Nai, directeur de l’institut d’archéologie de Pékin, effectua le premier sondage sur le Dingling en 1956 et découvrit ce tombeau inviolé. Grâce à une tablette indiquant l’emplacement de la porte du mur au mécanisme secret enfoui à trente cinq pieds sous terre, il réussit à ouvrir ce tombeau ainsi que ses chambres annexes. Cela permet de retrouver la chambre funéraire de Wanli et de ses 2 impératrices Xiao Duan et Xiaojing. On trouve également un grand nombre d’objets précieux (parures de jade, des céramiques à trois couleurs, des meiping etc. ) dans les 26 coffres en laque pourpre rangés dans la salle du fond. Pour le moment, le seul tombeau accessible aux visiteurs est celui de Wanli ( 1573-1620) (Vạn Lịch en vietnamien). L’impératrice et la première concubine impériale (Hoàng Qúi Phi)  furent enterrées à leur mort au côté de l’empereur.

Le palais souterrain d’une superficie de 1195 m2 se trouve à 27 mètres de profondeur. Il est constitué de 5 salles: la salle antérieure, la salle centrale, la salle postérieure ainsi que deux salles latérales. Il a été construit par 30.000 ouvriers au bout de six ans. La salle centrale et la salle antérieure forment un long couloir directement perpendiculaire à la salle de fond. Toutes les salles sont isolées les unes des autres par une grande porte en marbre blanc décorée de fines sculptures. On trouve aussi 3 trônes en marbre réservés pour les défunts dans la chambre centrale.

Excepté le stèle du tombeau de Yong Le sur lequel son successeur a laissé plus de 3000 mots vantant les mérites et les vertus de son père, on ne trouve aucune écriture sur les stèles des autres tombeaux. C’est une énigme à élucider pour les historiens. Certains pensent que les empereurs des Ming abolirent cette tradition par peur d’être critiqués et ridiculisés par la postérité à cause de leur mauvaise conduite et de leur débauche. D’autres penchent en faveur de l’adoption de l’attitude de Wu Ze Tian (Vũ Tắc Thiên) de la dynastie des Tang par les empereurs des Ming. Celle-ci ne laisse aucune trace écrite afin de ne pas être critiquée car elle savait que son comportement n’était pas irréprochable.

English version 

The Ming Tombs are located in a wide valley south of Tianshou Mountain (Thiên Thọ), about 42 kilometers from Beijing. This valley was chosen because it meets the criteria of Fengshui (Phong Thủy). It is framed on three sides by a mountain range to the north and by an opening to the south, which allows it to be protected against evil spirits carried by the north winds. In all, 13 of the 16 Ming emperors, 23 empresses, one first-rank concubine, and a dozen imperial concubines were laid to rest in this peaceful valley. Three Ming emperors are not buried here.

Located in the center of the cemetery, Yong Le’s tomb (Trường Lăng) stands out for its imposing size compared to the twelve other mausoleums, with 60 ironwood columns (gỗ lim) 12 meters high and one meter in diameter, brought from the forest region of Yunnan and Sichuan to Beijing. It was also the first to be built there. The other tombs of the Ming emperors are arranged in a fan shape around the main sacred path (Shendao). This long path is lined with 36 stone statues, 12 civil and military dignitaries and 12 pairs of animals (lions, camels, unicorns, elephants, horses and chimeras). Yong Le’s tomb has remained inviolate. But it is known that at the time of his burial, 16 concubines were walled up alive beside him. This custom was abolished after the 15th century.

During his lifetime, Emperor Wan Li began building his Dingling Tomb (Tomb of Tranquility) (Định Lăng) in 1584. It cost the state a considerable amount of money. Unaware of the internal structure of this tomb, Professor Xia Nai, director of the Beijing Institute of Archaeology, carried out the first survey of the Dingling in 1956 and discovered this inviolate tomb. Thanks to a tablet indicating the location of the door of the wall with the secret mechanism buried 35 feet underground, he succeeded in opening this tomb as well as its annex chambers. This allows us to find the burial chamber of Wanli and his two empresses Xiao Duan and Xiaojing. A large number of precious objects (jade ornaments, three-color ceramics, meiping, etc.) are also found in the 26 purple lacquer chests stored in the back room. Currently, the only tomb open to visitors is Wanli Tomb (1573-1620) (Vạn Lịch in Vietnamese). The empress and the first imperial concubine (Hoàng Qúi Phi) were buried at the emperor’s side upon their death.

The underground palace, covering an area of ​​1,195 square meters, is located 27 meters underground. It consists of five rooms: the front room, the central room, the rear room, and two side rooms. It was built by 30,000 workers over a period of six years. The central room and the front room form a long corridor directly perpendicular to the rear room. All the rooms are separated from each other by a large white marble door decorated with fine carvings. There are also three marble thrones reserved for the deceased in the central chamber.

Apart from the stele of Yong Le’s tomb, on which his successor left more than 3,000 words extolling the merits and virtues of his father, no writings are found on the stelae of the other tombs. This remains a mystery for historians to solve. Some believe that the Ming emperors abolished this tradition out of fear of being criticized and ridiculed by posterity for their misconduct and debauchery. Others believe that the Ming emperors adopted the attitude of Wu Ze Tian (Vũ Tắc Thiên) of the Tang Dynasty. She left no written records so as not to be criticized because she knew her behavior was not beyond reproach.

Kinkaku-ji (Kim Các Tự)

Kinkaku-ji (Kim Các Tự)

Version française
Được biết đến với cái tên quen thuộc là Kinkaku-ji, ngôi chùa Rokuon-ji (Lộc Uyển Tự) này là một trong những viên ngọc quý của cố đô Kyoto. Trái ngược với sự đơn giản mà chúng ta thường thấy trong kiến ​​trúc Phật giáo Nhật Bản, Kinkaku-ji là một tòa nhà ba tầng với những bức tường dát vàng đặt giữa một hồ nước. Điều này cho phép toà nhà  phản chiếu ánh sáng vàng trên mặt nước  hồ quanh năm trong một khung cảnh tráng lệ và thanh tịnh. Trên đỉnh tòa nhà rực rỡ này còn có một con phượng hoàng bằng đồng.

Trong ngôi nhà vàng này, chúng ta tìm thấy ba phong cách kiến ​​trúc, tầng trệt tương ứng với phong cách của các cung điện ở thời Heian (794 – 1185), tầng một là phong cách của các ngôi nhà của các võ sĩ và tầng trên cùng là phong cách của các ngôi chùa thiền. Ban đầu, vị tướng quân thứ ba Yoshimitsu của gia tộc Ashikaga (1358-1408), một đệ tử nhiệt thành của thiền sư Soseki, muốn biến nơi này thành nơi ở riêng trong thời gian ông từ giã cuộc sống công cộng. Khi ông qua đời, con trai ông là Yoshimochi quyết định biến nơi này thành một ngôi chùa Thiền tông cho trường phái Rinzai và đặt tên là « Rokuon-ji« . Sau đó nó bị phá hủy nhiều lần bởi hỏa hoạn. Lần trùng tu cuối cùng có niên đại  năm 1955 là bản sao giống hệt như thưở ban đầu. Đây là di sản thế giới được cơ quan UNESCO công nhận từ năm 1994 và được xem là ngôi chùa Phật giáo săn đón một số lượng lớn du khách mỗi năm  đến từ Nhật Bản.

Etant connu sous son nom usuel de Kinkaku-ji, ce temple  Rokuon-ji (Lộc Uyển Tự)  est l’un des bijoux de l’ancienne capitale de Kyoto. Contrairement à la simplicité qu’on est habitué à voir dans l’architecture bouddhique japonaise, Kinkaku-ji est une bâtisse à trois étages dotée des parois recouvertes de feuilles d’or trônant au milieu d’un étang. Cela lui permet de  refléter tout le long de l’année sur la surface de l’eau  sa lumière dorée dans un cadre magnifique et serein.  Au sommet de cette bâtisse éblouissante se trouve un phénix en cuivre. On retrouve dans ce pavillon d’or trois styles d’architecture, le rez-de-chaussée correspondant au style des palais de l’époque Heian (794 – 1185), le premier étage à celui des maisons des samouraïs et le dernier étage à celui des temples zen. À l’origine, le troisième shogun Yoshimitsu de la famille  Ashikaga (1358-1408), disciple fervent du moine zen Soseki veut faire de ce lieu une demeure privée lors de son retrait de la vie publique. À sa mort, son fils Yoshimochi  décide de transformer l’endroit en temple zen pour l’école Rinzai et le nomme « Rokuon-ji ».  Puis il  est  détruit plusieurs fois par les flammes. La dernière restauration datant  de 1955 est la copie absolument conforme de l’ancien pavillon.  Il  est inscrit au Patrimoine mondial de l’Unesco depuis 1994 et il est considéré comme le temple bouddhiste accueillant  un grand nombre de visiteurs par an du Japon.

kinkaku_ji

 

Kyoto (Cố đô Kyoto, Nhật Bản)

Kyoto (Cố đô Kyoto, Nhật Bản)

Version française

Có một thời  thịnh vượng, Tokyo còn được gọi là Edo.  Muốn đến cố đô Kyoto lữ khách phải  đi  bộ  hay đi ngựa nhiều ngày với con đường ngoạn mục Tokaido  dài có 500 cây số.Tuyến đường nầy  có nhiều  lữ quán, các đền thờ thần đạo hay Phật giáo, các di tích lịch sử sẽ  để lại cho lữ khách những kỷ niệm khó quên  như đèo Nakayama, đền Ise, chùa Thanh Thủy (Kiyomieu-dera), chùa  gác vàng Kinka kuji của tướng quân Yoshimitsu Ashikaga  vân vân …  Chính vì thế tuyến đường nầy trở  nên một nguồn cảm hứng không ít cho nhiều  họa sỹ  mà trong đó có Hiroshige mà chúng ta được biết  qua  bộ  tranh màu của ông được in trên  các mộc bản  của thế giới nổi trôi,  thường gọi là ukiyo-e (phù thế hội).  Thời ki hoàng kim  của ukiyo-e là từ khoảng những năm 1790 cho đến năm 1850. Sáng nay tụi nầy được anh HDV dẫn  đến cố đô  Kyoto. Cũng tuyến đường nầy nhưng  được thay thế bằng con  đường sắt với tàu cao tốc TGV Tokaido Shinkansen và được dừng lại ở nhà ga Kakegawa để lấy  xe bus đi tham quan vườn hoa nổi tiếng của Nhật Hammatsu của tỉnh Shizuoka. Trạm ga nào cũng sạch sẽ luôn ở  trên tàu cao tốc cũng vậy trong một không gian yên lặng. Rất tiếc trời rất u ám nên chụp ảnh không vừa ý chi cho mấy khi đến tham quan công viên  Hammatsu. Nơi nầy có rất nhiều cây bonsai hình dáng khác nhau trông lạ mắt lắm đấy nhưng cũng không kém  phần lãng mạn như  ở các  công viên Paris. Sau đó tụi này lấy xe  bus đến cố đô Kyoto nơi ở của Nhật hoàng  vào buổi chiều. Ở đây đường xá cũng sạch  sẽ nhưng thời gian có vẻ chậm lại nhịp sống hằng ngày   tựa như ở cố đô Huế  của nước ta  vậy.

Version française

À une  époque florissante, Tokyo était également connue sous le nom d’Edo. Pour se rendre à l’ancienne capitale de Kyoto, les voyageurs devaient marcher  à pied ou à cheval plusieurs jours sur la spectaculaire route du Tokaido, longue de cinq cent  kilomètres. Celle-ci  comptait de nombreuses auberges, temples shintoïstes ou bouddhistes et des sites historiques qui leur ont laissé des souvenirs inoubliables tels que le col Nakayama, le temple Ise, la pagode Kiyomieu-dera ou le pavillon d’or Kinkaku-ji  du shôgun Yoshimitsu Ashikaga  etc. C’était  pourquoi cet itinéraire devenait ainsi  une source d’inspiration pour de nombreux artistes, dont Hiroshige que l’on connaît grâce à ses peintures  en couleurs imprimées sur planches de bois du monde flottant, souvent appelées ukiyo-e. L’âge d’or de l’ukiyo-e s’était déroulé entre 1790 et 1850 environ. Ce matin, le guide nous a emmenés dans l’ancienne capitale de Kyoto. Ce même itinéraire a été remplacé par le  chemin de fer avec le train à grande vitesse TGV Tokaido Shinkansen. Nous devions  descendre  à la gare de Kakegawa pour prendre un bus afin de pouvoir  visiter le célèbre parc floral Hammatsu de la préfecture de Shizuoka. Nous constations la propreté  partout,  y  compris dans le train à grande vitesse dans un espace silencieux. À  cause du mauvais temps, il était impossible pour moi de faire des photos comme il le fallait  lors ma visite au parc floral. Celui-ci possédait de nombreux bonsaïs de formes différentes. Cela  m’étonna tellement mais il  n’était  pas moins romantique que les jardins  de Paris. Puis nous allions prendre le bus dans l’après-midi pour rendre visite à l’ancienne capitale de Kyoto, où résidait l’empereur du Japon. Ici, les rues sont propres mais  le temps semble ralentir le rythme de vie au quotidien  comme celui trouvé dans l’ancienne capitale Huế de notre pays.

Con phượng hoàng (Le phénix)

Con phượng hoàng

The phoenix (Fenghuang)

Version française

English version

Cũng như kỳ lân mà người  Hoa tHạ thường dùng  để ám chỉ một cập thì con phượng hoàng (Fenghuang)  nầy cũng vậy. Phượng  hay phụng chỉ  con đực và hoàng là con cái. Nhưng người dân Việt chỉ gọi  gắn gọn con chim nầy bằng phượng hoàng  trong văn hóa. Phượng hoàng có phần tựa giống  con chim trĩ có mỏ diều hâu dài, mảo trĩ, vảy cá chép, móng chim ưng và đuôi công. Lông của nó đại diện cho màu sắc của ngũ hành: đen, trắng, đỏ, xanh và vàng. Nó là một loài chim lớn ở thời tiền sử thường được coi là con chim thần thoại trong văn hóa phương Đông và hoàn toàn khác biệt với phượng hoàng  trong khái niệm của phương tây. Theo truyền thuyết, phượng hoàng chỉ xuất hiện vào thời thái bình, và sẽ ẩn mình trong thời loạn lạc. Chim còn biểu thị cho sự hòa hợp âm dương. Bởi vậy chim được dùng cùng rồng để nói lên  quan hệ hạnh phúc  và quyền lực mà Thượng đế ban cho hoàng hậu (Âm) và vua (Dương). Nó còn biểu hiện   đức hạnh và vẻ duyên dáng nữa. Trong truyền thuyết « Con Rồng Cháu Tiên » của dân tộc ta thì chim là hoá thân của mẹ Tiên  Âu Cơ cùng cha rồng Lạc Long Quân.  Vậy con phượng hoàng nầy nó có nguồn gốc từ đâu? Nó có phải là con linh vật  của người Hoa Hạ hay của đại  tộc Bách Việt? Dĩ nhiên nó xuất hiện ở Trung Hoa nhưng ở trong địa bàn của dân Bách Việt bị thôn tính bởi người Hoa Hạ vì hình tượng của nó được tìm thấy sớm nhất trên các miếng ngọc và các hiện vật của nền văn  hóa Thạch Gia Hà (Shiziahé) và Lương Chữ (Lianzhu) ở vùng trung và hạ lưu của sông Dương Tử, nơi  mà người dân  có một lối sống định cư ổn định sớm cùng một hệ thống tưới tiêu ruộng lúa  bằng nguồn nước lưu giữ qua các kênh mương. Các học giả Trung Hoa xác nhận  cư dân ở đây là Vũ Nhân (羽 人) hay Vũ dân tức là những người  thờ vật  Chim và Thú tức là Tiên Rồng (truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên).Theo tự điển Hán nôm, chữ Vũ () chỉ chung một loại chim. Tại sao Tiên Rồng? Từ thưở xưa, chim  là  loại  vật có thể   bay cao vượt núi đến bồng lai tiên cảnh, nơi  cư ngụ của các tiên nữ. Còn rồng chắc chắn là thủy quái  mà trong sử nước ta  gọi là con thuồng luồng (giao long). Thời đó ở sông Dương Tử có  một loại cá sấu  nay đang ở  trong tình trạng bị đe dọa tuyệt chủng. Để tránh sự tấn công của thủy quái, tộc Việt hay có tục lệ xâm mình. Bởi vậy tộc Việt ghép cho vật tổ của họ là Chim và Rồng với quan niệm song trùng lưỡng hợp  (hai thành một).

Còn tên thị tộc  Hồng Bàng  cũng từ vật tổ Chim Rồng mà ra. Ở  văn hóa Thạch Gia Hà còn thấy các hiện  vật  hình tròn bằng ngọc thể hiện chim phượng hoàng hay rồng được tạo tác một cách tinh vi. Theo nhà khoa học chính trị người Mỹ Charles E. Merriam của đại học Chicago thì đây là một phương thức  hợp pháp hóa thực nghiệm  quyền lực và giữ vai trò «miranda» [*] để buộc dân chúng phải kính trọng  hai loại vật linh thiêng nầy. Bởi vậy  cư dân ở đây có thói xâm hình rồng trên người  và  đội mũ lông chim để thể hiện điều nầy. Các tập tục nầy đều có ở dân tộc ta và được thể hiện ở trên trống Đồng Sơn. Chính  ở nơi nầy về sau  thời Chiến Quốc là địa bàn của nước Sở sau khi thôn tính được  hai  nước Ngô Việt của Ngũ Tử TưCâu Tiễn. Chính cũng có một thưở ban sơ trong truyền thuyết  của dân tôc ta có nhắc đến họ Hồng Bàng. Cụm từ nầy cũng từ Chim Rồng mà ra. Còn nước Văn Lang, bắc tới  Hồ Động Đình, đông thì Biển Đông, tây giáp với Ba Thục, nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành) thì cũng nằm hoàn toàn trong địạ bàn của nước Sở. Sự trùng hợp ngẫu nhiên nầy  càng cũng cố thêm quan điểm của Edouard Chavannes[2] và Léonard Aurousseau [3]: người Việt cổ và  các thần dân của  nước Sở có cùng chung tổ tiên:  chữ Mi ở trong  ngôn ngữ nước Sở khi dịch sang Hùng () trong tiếng Việt thì được xem là tên của các vị vua nước  Sở và các vị vua nước Việt. Dựa trên sử  ký  lịch sử của Tư Mã Thiên do E. Chavannes [2]  dịch, chúng ta còn  biết rõ  vua của nước Sở  đến từ những kẻ man rợ ở miền Nam (hay Bách Vịệt). Hùng Cừ nói: Tôi là một kẻ man rợ và tôi không nhận chức tước và tên truy tặng của  nước Trung Hoa cả.

Nói tóm lại, phượng hoàng là con linh vật của đại tộc Bách Việt. Bởi vậy ở vùng đất của đại tộc Bách Việt như ở Quảng Đông thuộc nước Nam Việt thưở xưa nay vẫn còn món ẩm thực nổi tiếng đó là món ăn có tên là Phượng trảo » (鳳爪) tức là chân gà hầm  nấu với đậu đen. Cũng có ở môt địa diểm nổi tiếng tên là Phượng hoàng cổ trấn (Fenghuang) ở tỉnh Hồ Nam trong địa bàn nước Sở của Trung quốc ngày nay. Nơi nầy còn  gìn giữ được những  nét văn hóa đặc sắc  của người Miêu (hay Hmong), một tộc trong đại tộc Bách Việt. Cần nhắc lại trong  tập Lĩnh Nam Chích Quái có kể rằng vào đời  Chu Thành Vương (Zhou Chengwang), Hùng  Vương sai bề tôi tự xưng là người Việt Thường đem dâng nhà Chu  một con chim trĩ trắng để liên kết  sự giao hảo và thân thiện với nhà Chu trong thời bình. Có phải con chim trĩ  nầy là  con phượng hoàng không? Có người cho rằng con chim Lạc ở trên trống Đồng Sơn là tiền thân của hình tượng phượng hoàng ở những thời đại sau này.  Có đúng hay không? Sự việc  nầy chưa có phần giải đáp cho đến ngày hôm nay  nhưng chúng ta có thể xác  định một điều là người Việt cổ có tín ngưỡng thờ chim.   

[*]miranda: thuật ngữ này liên quan đến các biểu tượng đề cập đến cảm xúc của một dân tộc nhằm áp đặt sự tôn trọng hoặc sự thán phục.

                                              

Version française

Analogue à la licorne que les Chinois ont utilisée pour se référer à un couple d’animaux, le phénix (Fenghuang) l’est aussi.  Phượng  (ou phụng) désigne un mâle tandis que Hoàng  est réservée à la femelle. Les Vietnamiens appellent tout simplement le phénix sans distinction dans leur culture. Cet oiseau ressemble à un faisan avec un long bec de faucon, une crête de faisan, des écailles de carpe, des griffes d’aigle et une queue de paon. Ses plumes représentent les couleurs des cinq éléments (Wu Xing): noir, blanc, rouge, jaune et vert. C’est un grand oiseau préhistorique souvent considéré comme un oiseau mythique dans la culture de l’Orient et complètement différent du phénix trouvé dans les concepts occidentaux. Selon la légende, le phénix n’apparaît qu’en temps de paix et se cache en temps de trouble ou du désordre. Il manifeste  également l’harmonie entre le  yin et le yang. C’est pourquoi on se sert du phénix  pour évoquer à la fois  la relation heureuse et le pouvoir  que Dieu accorde à la reine (Yin) et au roi (Yang). Il est aussi le symbole de vertu  et de grâce.  Dans la légende «Le fils du dragon et le petit-fils de l’Immortelle» de notre peuple, l’oiseau est la réincarnation de la fée mère Âu  Cơ et du père dragon Lac Long Quan. Alors, d’où vient ce phénix ? Est-il  l’oiseau sacré  des Chinois ou celui des Bai Yue?

Il est apparu en Chine mais dans l’aire  des Bai  Yue annexée par les  Chinois  car son image a été retrouvée plus tôt sur les objets en jade des  cultures de  Shiziahé et Liangzhu  se trouvant respectivement  dans les  cours milieu et  inférieur du fleuve Yang Tse, où les gens avaient un mode de vie sédentaire précoce et un système d’irrigation et de drainage des rizières avec de l’eau emmagasinée via des canaux. Les érudits chinois confirment que les gens d’ici sont des Vũ Nhân (羽 人) ou des  Vũ Dân. Ce sont  les adorateurs des oiseaux et des  animaux,  càd les Enfants du Dragon et les Grands Enfants de l’Immortelle (Con Rồng Cháu Tiên). Selon le dictionnaire sino-vietnamien, le mot Vũ () fait référence à un oiseau. Pourquoi Fée-Dragon ? Dans les temps anciens, les oiseaux sont  des animaux pouvant  voler au-dessus des montagnes jusqu’à l’endroit où vivent les Immortelles. Quant au dragon, il est certainement un monstre marin qui, dans l’histoire de notre pays, s’appelle le dragon d’eau (Giao Long). À cette époque, dans le fleuve Yang Tsé, il y avait un type d’alligator  qui est maintenant en danger d’extinction. Afin d’éviter l’attaque de  ce monstre marin, les Proto-Vietnamiens avaient  coutume de se tatouer. C’est pourquoi ils  associaient  à leur totem le couple (Oiseau /Dragon) avec la notion de dualité (deux en un). Le nom du clan Hồng Bàng provient également du couple (Oiseau/Dragon).

Dans la culture de Shijiahé, il y a également des artefacts ronds en jade (phénix, dragons) et fabriqués de manière tellement sophistiquée. Selon le politologue américain Charles E. Merriam [1] de l’université de Chicago, il s’agit d’un moyen de légitimation empirique du pouvoir et de possession de la fonction «miranda» pour forcer les gens à respecter ces deux animaux sacrés. C’est pourquoi les gens d’ici aiment tatouer des dragons sur leur corps et porter des chapeaux de plumes pour les montrer. Ces coutumes  ont été retrouvées chez notre peuple et sur le tambour de bronze de  Đồng Sơn. C’est ici  qui devint plus tard durant la période des Royaumes combattants, le  territoire de l’État Chu après que ce dernier avait réussi à annexer les deux états Wu et Yue de Wu Zisu et Goujian. Dans le légendes de notre peuple, le nom patronymique Hồng Bàng est souvent mentionné. Ce nom  trouve également  toute sa source  dans les mots « Oiseau » et « Dragon ».

Etant délimité au nord par le lac Dongtin, à l’est par la mer de l’Est, à l’ouest par le royaume Ba et  au sud par le Champa, le royaume Văn Lang se trouvait entièrement dans l’aire géographique  de l’état Chu. Cette coïncidence renforce encore les points de vues d’Édouard Chavannes[2] et de Léonard Aurousseau[3] : les Proto-Vietnamiens et les sujets de l’état Chu avaient des ancêtres communs: les noms Mi de l’état  Chu  traduit en Hùng () en vietnamien étaient considérés comme les noms des rois de l’état Chu et ceux des rois vietnamiens. D’après les chroniques historiques de Sima Qian traduites par E. Chavannes [2], on sait aussi que le roi de Chu était issu des barbares (Man Di)  du Sud (ou Bai Yue). Hùng Cừ a déclaré : Je suis un barbare et je n’accepte pas de titres et de noms posthumes en provenance de  la Chine. En résumé, le phénix est l’animal sacré des Bai Yue. C’est pourquoi dans les territoires des Bai Yue, comme à Canton appartenant  autrefois au royaume de Nan Yue, il existe encore un plat célèbre appelé « Griffes de Phénix » (鳳爪), où des pattes de poulet  sont mitonnées avec des haricots noirs.  Il y a également une ancienne ville très célèbre appelée  en vietnamien « Phượng Hoàng cổ  Trấn (ou village ancien Fenghuang » dans la province du Hunan faisant partie du territoire de l’état  Chu d’autrefois où on conserve encore les caractéristiques culturelles uniques du peuple Miao (ou Hmong), l’une des tribus des Bai Yue.

Il est important de rappeler que dans le recueil intitulé  « La Sélection des contes étranges à Lĩnh Nam (Lĩnh Nam Chích Quái », il est dit que sous le règne du  roi Zhu Chengwang (Chu Thành Vương) de l’état Zhou, le roi Hùng ordonna à son ambassadeur de présenter au roi de Zhou  un faisan blanc  pour se lier de bonne relation et d’amitié avec l’état Zhou en temps de paix. Le faisan est-il le phénix évoqué ? Certains pensent que l’oiseau  Lạc sur le tambour de bronze  Đồng Sơn est le précurseur de l’image du phénix des époques ultérieures. Est-ce vrai ou pas? Ce fait n’apporte  pas de réponse jusqu’à aujourd’hui. Par contre nous pouvons  affirmer que les Proto-Vietnamiens croyaient au culte des oiseaux.

 

 

 miranda: ce terme se rapporte aux symboles s’adressant à l’émotivité d’un peuple pour lui imposer le respect ou l’émerveillement.

Analogous to the unicorn that the Chinese used to refer to a pair of animals, the phoenix (Fenghuang) is as well. Phượng (or phụng) designates a male, while Hoàng is reserved for the female. The Vietnamese simply call the phoenix without distinction in their culture. This bird resembles a pheasant with a long hawk-like beak, a pheasant crest, carp scales, eagle claws, and a peacock tail. Its feathers represent the colors of the five elements (Wu Xing): black, white, red, yellow, and green. It is a large prehistoric bird often considered a mythical bird in Eastern culture and completely different from the phoenix found in Western concepts. According to legend, the phoenix appears only in times of peace and hides in times of trouble or disorder. It also represents the harmony between yin and yang. That is why the phoenix is used to evoke both the happy relationship and the power that God grants to the queen (Yin) and the king (Yang). It is also a symbol of virtue and grace. In the legend « The Dragon’s Son and the Immortal’s Grandson » of our people, the bird is the reincarnation of the fairy mother Âu Cơ and the dragon father Lạc Long Quân. So, where does this phoenix come from? Is it the sacred bird of the Chinese or that of the Bai Yue?

It appeared in China but in the Bai Yue area annexed by the Chinese because its image was found earlier on jade objects from the Shiziahé and Liangzhu cultures located respectively in the middle and lower courses of the Yangtze River, where people had an early sedentary lifestyle and a system of irrigation and drainage of rice fields with water stored through canals. Chinese scholars confirm that the people here are Vũ Nhân (羽人) or Vũ Dân. They are worshippers of birds and animals, that is, the Children of the Dragon and the Great Children of the Immortal (Con Rồng Cháu Tiên). According to the Sino-Vietnamese dictionary, the word Vũ (羽) refers to a bird. Why Fairy-Dragon? In ancient times, birds were animals capable of flying over mountains to the place where the Immortals live. As for the dragon, it is certainly a sea monster which, in the history of our country, is called the water dragon (Giao Long). At that time, in the Yangtze River, there was a type of alligator which is now endangered. To avoid attacks from this sea monster, the Proto-Vietnamese used to tattoo themselves. That is why they associated their totem with the couple (Bird/Dragon) with the notion of duality (two in one). The name of the Hồng Bàng clan also comes from the couple (Bird/Dragon).

In the culture of Shijiahé, there are also round jade artifacts (phoenix, dragons) made in such a sophisticated manner. According to American political scientist Charles E. Merriam [1] from the University of Chicago, this is an empirical means of legitimizing power and possessing the « miranda » function to compel people to respect these two sacred animals. That is why the people here like to tattoo dragons on their bodies and wear feathered hats to show them. These customs have been found among our people and on the bronze drum of Đồng Sơn. This is the place that later, during the Warring States period, became the territory of the Chu State after it succeeded in annexing the two states Wu and Yue of Wu Zisu and Goujian. In the legends of our people, the surname Hồng Bàng is often mentioned. This name also finds its origin in the words « Bird » and « Dragon. »

Being bordered to the north by Dongtin Lake, to the east by the East Sea, to the west by the Ba kingdom, and to the south by Champa, the Văn Lang kingdom was entirely located within the geographical area of the Chu state. This coincidence further supports the views of Édouard Chavannes[2] and Léonard Aurousseau[3]: the Proto-Vietnamese and the subjects of the Chu state had common ancestors: the Mi names of the Chu state translated into Hùng () in Vietnamese were considered the names of the kings of the Chu state and those of the Vietnamese kings. According to the historical chronicles of Sima Qian translated by E. Chavannes[2], it is also known that the king of Chu descended from the southern barbarians (Man Di) (or Bai Yue). Hùng Cừ declared: I am a barbarian and I do not accept titles and posthumous names from China. In summary, the phoenix is the sacred animal of the Bai Yue. That is why in the territories of the Bai Yue, such as in Canton, formerly belonging to the Nan Yue kingdom, there still exists a famous dish called « Phoenix Claws » (鳳爪), where chicken feet are stewed with black beans. There is also a very famous ancient town called in Vietnamese « Phượng Hoàng cổ Trấn » (or ancient Fenghuang village) in Hunan province, which was part of the territory of the former Chu state, where the unique cultural characteristics of the Miao (or Hmong) people, one of the Bai Yue tribes, are still preserved.

It is important to recall that in the collection entitled « The Selection of Strange Tales in Lĩnh Nam (Lĩnh Nam Chích Quái), » it is said that during the reign of King Zhu Chengwang (Chu Thành Vương) of the Zhou state, King Hùng ordered his ambassador to present to the King of Zhou a white pheasant to establish good relations and friendship with the Zhou state in times of peace. Is the pheasant the phoenix mentioned? Some believe that the Lạc bird on the Đồng Sơn bronze drum is the precursor of the image of the phoenix in later periods. Is this true or not? This fact remains unanswered to this day. However, we can affirm that the Proto-Vietnamese believed in the worship of birds.

miranda: this term refers to symbols that appeal to the emotions of a people to impose respect or wonder upon them.

Bibliographie:

[1] Charles E. Merriam, Political power : Its composition and incidence, New York-Londres, Whittlesey House/McGraw-Hil, 1934.
[2] Edouard Chavannes :Mémoires historiques de Sseu-Ma Tsien de Chavannes, tome quatrième, page 170).
[3] Léonard Rousseau: La première conquête chinoise des pays annamites (IIIe siècle avant notre ère). BEFO, année 1923, Vol 23, no 1.
[4] Shin’ichi Nakamura: Le riz, le jade et la ville. Évolution des sociétés néolithiques du Yangzi. Éditions de l’EHESS « Annales. Histoire, Sciences Sociales. 2005/5 60 année  pages 1009 à 1034.

Con Lân (La licorne)

Version française

Con Lân (La licorne)

Lân là con linh vật  đứng hàng thứ nhì  trong bốn con vật có sức mạnh siêu phàm hay tứ linh (long, lân, qui, phụng). Trong văn hóa Việt nam, chúng ta thường bị lầm lẫn giữa  con kỳ lân với con nghê. Đặc điểm để phân biệt giữa nghê và lân là ở bộ móng, nghê mang móng vuốt còn kỳ lân mang móng guốc. Lân thường xuất hiện ở đình, chùa, đền, miếu hay những công trình kiến trúc nghệ thuật. Theo nhà nghiên cứu việt Đinh Hồng Hải thì Lân có nguồn gốc Trung Hoa, một linh vật tưởng tượng ngoại nhập. Thật sự khi gọi kỳ lân, tức là nói đến một cặp: con đực gọi là kỳ và lân là con cái. Khi du nhập vào văn hóa việt  thì  người  Việt quên đi « con kỳ » mà chỉ  kêu là  lân thôi.  Chỉ có những vị quân vương hiền minh mới xứng đáng được trông thấy nó. Ở Sân Đại Triều Nghi trước Điện Thái Hòa của Tử Cấm  Thành  (Huế)  có hai con lân được đặt ở hai góc sân mang ý nghĩa thời thái bình mà còn biểu tượng nhắc nhở đến  sự uy  nghiêm giữa chốn triều đình. Lân còn là con vật tiêu biểu báo điềm lành. Nó  còn có khả  năng  nhận ra  được người hiền lành và kẻ gian trá. Người dân Việt  thường biết nó qua múa lân sư được biểu diễn trong các dịp lễ hội, đặc biệt là Tết Nguyên Đán, Tết Trung Thu hay khánh thành cửa hàng mới vì loại thú nầy tượng trưng cho thịnh vượng và hạnh phúc. Còn trong đạo Phật, nó là hiện thân của bát nhã tức là trí tuệ tối cao  hay gíác ngộ.

Version française
La licorne  figure au deuxième rang parmi les quatre animaux sacrés aux pouvoirs surnaturels (dragon, licorne, tortue et phénix). Dans la culture vietnamienne, on  est habitué à confondre souvent la licorne avec le chien-lion (con nghê). La caractéristique permettant de faire la distinction entre  ce dernier et la licorne  se retrouve dans les ongles.  Le chien-lion possède des griffes tandis que  la licorne a des sabots. Les licornes sont visibles  souvent dans les maisons communales, les pagodes, les temples, les sanctuaires ou les œuvres d’art architecturales. Selon le chercheur vietnamien Đinh Hồng Hải, la licorne (ou Lân)  est d’origine chinoise. Il s’agit d’une mascotte imaginaire importée de l’étranger. En fait, lorsqu’on évoque la licorne, on se réfère souvent à un couple d’animaux : le mâle est connu sous le nom « kỳ » tandis que la femelle s’appelle « lân ». Au moment de l’introduction de la licorne dans la culture vietnamienne, on n’a gardé que la femelle (Lân). Seuls les monarques sages sont dignes de pouvoir la voir. Dans l’esplanade des Grands Saluts devant le somptueux palais de la suprême harmonie (Điện Thái Hoà) de la Cité pourpre  interdite (Huế), il y a deux licornes placées dans deux coins différents  pour marquer non seulement  la période de paix mais aussi le caractère hiératique de la cour impériale. La licorne est un animal de bon augure. Elle est capable de discerner la probité  et la malhonnêteté chez un  homme. Les Vietnamiens ont l’habitude de la connaître grâce à la danse de la licorne à l’occasion des fêtes importantes (Le Nouvel An,  la fête de la Mi-Automne, l’inauguration de la nouvelle boutique etc.) car elle est le symbole de la prospérité et du bonheur. Quant au bouddhisme, la licorne est l’incarnation de l’esprit intuitif de la Prajna (l’intelligence suprême ou l’illumination).

Tokyo au fil de la nuit (Tokyo về đêm)

Tokyo về đêm.
Tokyo au fil de la nuit

Version française

Sau khi  viếng thăm chùa Senso-ji và học cách thức pha và uống trà theo phong cách người Nhật thì tối đó tụi nầy được anh HDV dẫn đi tham quan khu Shinjuku ở cách xa khác sạn tụi nầy 3 trạm métro. Nhờ vậy mình mới có dịp biết tàu điện ngầm của Tokyo. Đến nơi này mọi người đều phải mua ticket với máy tự động, giá cả cũng không đắc  mà cũng không có màn leo hàng rào qua cổng như ở Paris. Có thể qua cửa dễ dàng nhưng người Nhật họ có kỹ cương giáo huấn từ thưở nhỏ nên ai cũng tôn trọng luật lệ cả. Không có trò chen lấn như ở Paris hay xô đẩy như ở Việt Nam, mọi người đều nối đuôi chờ tàu điện đến trong một không gian yên lặng. Chỉ có buổi sáng lúc giờ cao điểm thì có  các nhân viên làm nhiệm vu đẩy các hành khách cuối cùng  lên tàu, đảm bảo không ai bị kẹt khi tàu đóng cửa lại. Ở ngoài cửa hầm điện cũng có  dân vô gia cư nhưng không có trò ăn xin cướp bóc, cho thì họ lấy chớ không bám theo người để năn nỉ lạy lục. Thật lạ trong tầm mắt chứ, làm mình ngẩn ngơ khâm phục. Ra khỏi hầm đện thì có cảm giác là mình lọt vào tổ kiến khó mà định ra phương hướng và  không dễ tìm đường ra với sự hiện diện của nhiều hành lang ngầm. Tiếc hai hôm ở Tokyo thời tiết rất xấu nên mình không thể chụp hình vừa ý nhưng có còn hơn không.

Khu Shinjuku là một Tokyo mới, không có nhiều địa điểm lịch sử. Các toà nhà văn phòng chọc trời của Tokyo đều tập trung ở phía tây của ga Shinjuku. Mỗi ngày có đến 250.000 nguời đến đây làm việc. Năm 1991, khi  chính quyền thành phố dời về toà cao ốc Văn phòng Thị Chính Tokyo, 48 tầng do kiến trúc sư Tange Kenzo thiết kế thì mọi người gọi  Shinjuku là shin toshin (trung tâm thành phố mới). Ở đây có luôn hai  đài quan sát  ở tầng 45 của hai tháp đôi (Bắc và Nam) của toà thị chính,  vào cửa miễn phí và  nhìn thấy được núi Phú Sĩ khi trời tốt.  Lúc tụi nầy đến tham quan cũng có 10 giời tối mà còn  thấy các toà nhà văn phòng còn đèn sáng. Người Nhật làm việc  đến khuya và sau đó còn la cà ở các quán ăn dọc theo hai bên đường. Lúc trở về khách sạn, tụi nầy cùng anh HDV đi bộ. Mình mới nhận thấy ra người Nhật họ rất siêng năng làm việc. Mình nhớ lại có một lần một người Nhật đến làm thực tập ở nơi mình làm việc. Mình có dịp hỏi anh nầy vậy ở Pháp có gì anh thích. Anh nầy mới trả lời với nụ cười khoái chí: Ở Pháp tôi thích có ngày nghỉ nhiều nhất là trò nghỉ cầu vòng. Thật vậy người  Nhật đã quen sống khổ cực với động đất, núi lửa, sóng thần và cuồn phong nên họ buộc lòng phải siêng năng, tận tụy với công việc họ có. Nhật Bản là đất nước có nhiều nghịch lý vì ở đó  bạn không chỉ tìm thấy những truyền thống mà còn có cả những điều lập dị. Đây là những gì bạn có thể khám phá ở quán cà phê Neko. Những người thuê nhà  không thể nuôi mèo có thể đến quán cà phê Neko dành  ra 1 giờ ngồi âu yếm khoảng 20 con mèo bằng cách trả phí vào cửa 1000 yen mà không cần đồ uống. Do đó, họ có thể xoa dịu đi tâm trạng ức chế  và áp lực mà họ gặp hằng ngày  trong công việc.

.

 

Version française

Après avoir visité le temple bouddhique Senso-ji et assisté à la séance de préparation du thé à la japonaise, notre guide nous a emmenés  visiter ce soir- là,  le quartier de Shinjuku situé  à 3 stations de métro de notre hôtel. Grâce à cela, j’ai eu l’occasion de connaître le métro de Tokyo. Une fois arrivé sur place, chacun de nous doit acheter un billet avec le distributeur automatique. Le prix n’est pas trop cher et il  n’y a pas non plus la tentation de tricher en sautant la barrière de la porte d’entrée comme à Paris. Il est possible de la franchir illégalement  mais les Japonais sont éduqués de façon plus disciplinée  dès leur jeune âge, chacun devant  respecter les règlements. Il n’y a aucune bousculade comme à Paris ou au Vietnam. Tout le monde se met  dans une file  d’attente à l’arrivée du train dans un espace calme. Il n’y a que le matin où l’on voit aux heures de pointe, les agents de transport chargés de pousser les derniers voyageurs à entrer dans le compartiment avec l’assurance de ne blesser  personne avant le départ du train. À l’extérieur du métro, quelques  gens sans domicile fixe (SDF) sont présents  mais on ne trouve point la mendicité et le vol à la tire. Ceux-ci acceptent de recevoir l’argent avec plaisir mais en aucun  cas ils ne supplient personne pour l’aumône. C’est très étrange à portée de ma vue. Cela me  laisse pantois d’étonnement et d’admiration. En sortant du métro, on a l’impression d’être dans une fourmilière où on n’arrive pas à se repérer  par la présence d’un grand nombre de couloirs souterrains. Il est regrettable  pour moi  de perdre deux  jours d’affilée à cause du mauvais temps. Mieux vaut avoir quelques photos à la place de rien du tout.

Le quartier de Shinjuku est un nouveau Tokyo où on trouve peu de sites historiques. Par contre les gratte-ciel de bureaux de Tokyo sont concentrés du côté ouest de la gare de Shinjuku. Chaque jour, il y a au moins 250 000 personnes venant y travailler. En 1991, lors de la décision du gouvernement de la ville d’effectuer le déménagement dans le bâtiment de 48 étages du « Tokyo Metropolitan Office » conçu par l’architecte Tange Kenzo, les gens ont appelé dès lors Shinjuku en Shin Toshin (nouveau centre-ville). Il y a ici deux observatoires situés au 45ème étage des deux tours jumelles de la mairie   où l’entrée est gratuite et on peut  voir le mont Fuji par beau temps. Lors de notre visite, il était déjà 22 heures et nous voyions encore les immeubles de bureaux éclairés. Les Japonais travaillent jusque tard dans la nuit, puis ils  traînent dans les restaurants du quartier. De retour à l’hôtel, nous préférons de marcher  avec le guide. Je viens de réaliser que les Japonais sont très laborieux dans leur travail. Je me rappelle d’une fois qu’un Japonais  de nom Ono était  venu faire un stage à l’endroit où je travaillais. J’ai eu l’occasion de lui demander ce qu’il aimait en France. Mr Ono m’a répondu avec un sourire heureux: J’aime qu’il y a beaucoup de jours de vacances  en France, en particulier les « ponts ». En effet, les Japonais sont habitués à vivre durement avec les tremblements de terre, les volcans, les tsunamis et les ouragans. Ils sont donc obligés d’être diligents et dévoués entièrement  à leur travail. Le Japon est un pays de paradoxes car on y trouve non seulement les traditions mais aussi les excentricités.  C’est ce qu’on peut découvrir avec les Neko cafés. Les locataires japonais n’ayant pas la possibilité de garder  les chats peuvent venir dans les Neko cafés pour passer tranquillement une heure avec  une vingtaine de chats et les câliner en payant un droit d’entrée de 1000 yens sans boisson. Ils peuvent ainsi calmer leur frustration et leur stress journalier qu’ils subissent dans le travail.

 

 

Marseille, la ville la plus ancienne de la France

 

Vieux port de Marseille au fil de la nuit.

Cảng cổ của Marseille lúc về đêm

 

Hôtel des Invalides (Điên Invalides)

Hôtel des Invalides

Le Dôme reste le bâtiment le plus élevé de Paris jusqu’à l’érection de la tour Eiffel. Il a été conçu par l’architecte  Jules Hardouin-Mansart  sous le règne de Louis XIV. Les nombreuses dorures du dôme rappellent que le Roi-Soleil avait  ordonné la construction de l’Hôtel des Invalides par édit afin d’accueillir les anciens soldats de son armée.  C’est aussi l’endroit où a été déposé le cercueil de l’empereur Napoléon 1er de la France.

Mái vòm Invalides vẫn là tòa nhà cao nhất ở Paris cho đến khi tháp Eiffel được dựng lên.  Nó được  thiết kế bởi  kiến trúc sư  Jules Hardouin-Mansart dưới thời ngự trị của vua Louis XIV.   Các vàng thép được  trông thấy trên mái vòm nhắc lại  vua Mặt Trời ra chỉ thị cho phép xây dựng khách sạn Invalides  qua một sắc lệnh để tiếp nhận các cựu binh trong quân đội. Đây cũng là nơi an nghỉ của Nã Phá Luân Đại Đế  của Pháp quốc.

 

Place de la Concorde (Quảng trường Concorde)

Quảng trường Concorde

Pourquoi les Thaïs ont-ils un bout d’histoire avec le peuple vietnamien ?

Một đọan đường chung lịch sử với dân Việt.

Version vietnamienne

English version

Selon les érudits occidentaux comme l’archéologue Bernard Groslier,  les Thaïs  étaient regroupés avec les Vietnamiens  dans le groupe Thaï-Vietnamien  d’autant plus qu’ils ont fondé leur pays seulement au 14ème siècle et il y a eu au Vietnam la présence des sous-groupes Thai noirs et blancs. Alors, ceux-ci sont-ils des Thaïs trouvés en Thaïlande d’aujourd’hui ?

Refoulés par les Tsin de Shi Huang Di, les Thaïs tentaient de résister maintes fois. Pour l’écrivain vietnamien Bình Nguyên Lôc, les sujets des royaumes Shu et Ba (Ba Thục) annexés très tôt par les Tsin dans le Sichuan  étaient les proto-Thaïs (ou Tày). Selon cet écrivain, ils appartenaient au groupe austro-asiatique de branche Âu (ou Ngu en langage mường ou Ngê U en mandarin chinois (quan thoại)) auquel étaient rattachés les Thaïs et les Tày. Pour lui comme pour d’autres chercheurs vietnamiens Trần Ngọc Thêm, Nguyễn Đình Khoa, Hà Văn Tấn etc., le groupe austro-asiatique comporte 4 sous groupes distincts: sous-groupe Môn-Khmer, sous groupe Việt Mường (branche Lạc) , sous-groupe Tày-Thái (branche Âu) et sous-groupe Mèo-Dao auxquels il faut ajouter le sous-groupe austronésien   (Chàm, Raglai, Êdê  etc.) pour définir la race indonésienne (ou Proto-Malais) (Chủng cổ Mã Lai)

La contribution des Thaïs dans la fondation du royaume Âu Lạc des Viêt de Thục Phán (An Dương Vương) n’est plus mise en doute après que ce dernier a réussi à éliminer le dernier roi Hùng du royaume Văn Lang car le nom « Âu Lạc » (ou Ngeou Lo) évoque évidemment l’union de deux ethnies Yue de branche Âu (Proto-Thaï) et de branche Lạc (Proto-Viet). De plus, Thục Phán   était  un Yue de branche Âu, ce qui montre à tel point l’union et la mission historique  commune de ces deux ethnies face à l’expansion chinoise. Selon Đào Duy Anh, Thục Phán était un prince du royaume Shu. C’est ce qui a été rapporté dans les écrits historiques chinois (Kiao -tcheou wai-yu ki ou Kouang-tcheou ki) , mais il a été réfuté catégoriquement  par certains historiens vietnamiens car le royaume Shu était situé trop loin à cette époque, du royaume Văn Lang. Il fut annexé très tôt (plus d’un demi-siècle avant la fondation du royaume Âu Lạc) par les Tsin. Mais pour l’écrivain vietnamien Bình Nguyên Lôc, Thục Phán ayant eu perdu sa patrie, dut se réfugier très jeune en compagnie de ses fidèles à cette époque dans un pays ayant la même affinité ethnique (culture, langue) que lui càd le royaume Si Ngeou (Tây Âu) situé à côté du royaume Văn Lang des Vietnamiens. De plus, les Chinois n’ont eu aucun intérêt de falsifier l’histoire en rapportant que c’était un prince de Shu dirigeant le royaume de Âu Lạc. L’asile de ce dernier et de ses fidèles dans le royaume de Si Ngeou  dut prendre un certain temps, ce qui explique au moins un demi-siècle dans cet exode avant la fondation de son royaume Âu Lạc. Cette hypothèse ne semble pas très convaincante car il y avait 3000 km à marcher. De plus, il était à la tête d’une armée de 30.000 soldats. C’est impossible pour lui d’assurer la logistique et de rendre son armée invisible durant l’exode en traversant des zones montagneuses de Yunnan administrées par d’autres ethnies ennemies ou fidèles aux Chinois. Il est probable qu’il dut trouver auprès des Si Ngeou (ou des Proto-Thaïs) tout  (armement et effectif militaire, provisions) ce qu’il fallait  avant sa conquête.

Il y a récemment une autre hypothèse qui paraît plus cohérente.  Thục Phán était le leader d’une tribu alliée  de la confédération Si Ngeou et le fils de Thục Chế, roi d’un royaume  nommé Nam Cương localisé dans la région de Cao Bằng et non loin de Kouang Si de la Chine d’aujourd’hui. Il y a une concordance totale entre  tout ce qui est rapporté dans la légende de l’arbalète magique des Vietnamiens et les rites trouvés  dans la tradition des Tày (Proto-Thaïs). C’est le cas de la tortue d’or ou du coq blanc ayant chacun une signification symbolique importante. An Dương Vương (Ngan-yang wang) était un personnage historique. La découverte des vestiges de sa capitale (Cổ Loa, huyện Đông An, Hànội ) ne met plus en doute l’existence de ce royaume établi à peu près trois siècles avant J.C. Celui-ci fut annexé plus tard par Zhao To (Triệu Đà), fondateur du royaume de Nan Yue.

Le mythe Lạc Long Quân-Âu Cơ  a insinué avec adresse l’union et la séparation de deux ethnies Yue, l’une de branche Lạc ( les Proto-Vietnamiens) descendant dans les plaines fertiles en suivant les cours d’eau et les rivières et l’autre de branche Âu  (les Proto-Thaïs) se réfugiant dans les régions montagneuses. Il y a eu les Mường dans cet exode. Proches des Vietnamiens au niveau linguistique, les Mường ont réussi à garder les coutumes ancestrales car ils étaient refoulés et protégés dans les montagnes.  Ceux-ci  avaient  une organisation sociale semblable à celle des Tày et des Thaïs.

Situé dans les provinces Kouang Tong (Quãng Đông ) et Kouang Si (Quãng Tây), le royaume de Si Ngeou (Tây Âu) n’est autre que le pays des proto-Thaïs (les ancêtres des Thaïs). C’est ici que se réfugia Thục Phán avant la conquête du royaume Văn Lang. Il faut rappeler aussi que l’empereur chinois Shi Houang Di dut mobiliser à cette époque plus de 500.000 soldats dans la conquête du royaume de Si Ngeou après avoir réussi à défaire l’armée du royaume de Chu (ou Sỡ) avec 600.000 hommes. On doit penser qu’outre la résistance implacable de ses guerriers, le royaume de Si Ngeou devrait être de taille importante et assez peuplé pour que Shi Houang Di (Tần Thủy Hoàng) engage une force militaire importante.

Malgré la mort prématurée d’un roi Si Ngeou de nom Yi-Hiu-Song (Dịch Hu Tống), la résistance menée par les Yue de branche Thai ou (Si Ngeou)(Tây Âu) réussît à obtenir quelques succès escomptés dans la région du Kouang Si méridional avec la mort d’un général T’ou Tsiu (Uất Đồ Thư) à la tête d’une armée chinoise de 500.000 hommes, ce qui a été noté dans les annales du Maître Houa-nan (ou Houai–nan –tseu en chinois ou Hoài Nam Tử en vietnamien ) écrites par Liu An (Lưu An), petit-fils de l’empereur Kao-Tsou (ou Liu Bang), fondateur de la dynastie des Han entre les années 164 et 173 avant notre ère.

Si Ngeou était connu pour la valeur de ses guerriers redoutables. Cela correspond exactement au tempérament des Thaïs d’autrefois décrit par l’écrivain et photographe français Alfred Raquez: Les Siamois d’autrefois, belliqueux et coureurs d’aventures, furent presque continuellement en guerre avec leurs voisins et souvent virent leurs expéditions couronnées de succès. À la suite de chaque campagne heureuse, ils emmenèrent avec eux des prisonniers et les établirent sur une partie du territoire de Siam, aussi éloignée que possible de leur pays d’origine.

Après la disparition de Si Ngeou  et celle de Âu Lạc, les proto-Thaïs qui restèrent au Vietnam à cette époque sous le giron de Zhao To (un ancien général chinois des Tsin devenu plus tard le premier empereur du royaume de Nanyue) avaient leurs descendants formant bien aujourd’hui la minorité ethnique Thai du Vietnam. Les autres proto-Thaïs s’enfuirent vers le Yunnan où ils s’unirent au VIII ème siècle au royaume de Nanzhao (Nam Chiếu) puis à celui de Dali (Đại Lý) où le bouddhisme du grand véhicule (Phật Giáo Đại Thừa) commença à s’implanter. Malheureusement, leur tentative fut vaine. Les pays Shu, Ba, Si Ngeou, Âu Lạc, Nan Zhao, Dali faisient partie de la longue liste des pays annexés l’un après l’autre par les Chinois durant leur exode. Dans ces pays soumis, la présence des Proto-Thaïs était assez importante. Face à cette pression chinoise sans relâche et à la barrière inexorable de l’Himalaya, les proto-Thaïs furent obligés de redescendre dans la péninsule indochinoise  en s’infiltrant lentement en éventail dans le Laos, le Nord-Ouest du Vietnam (Tây Bắc), le nord de la Thaïlande et la haute Birmanie.

Selon les inscriptions historiques thaï trouvées au Vietnam, il y a trois vagues importantes de migration entamées par les Thaïs de Yunnan dans le Nord-Ouest du Vietnam durant les 9ème et 11ème siècles . Cela correspond exactement à la période où le royaume de Nanzhao fut annexé par le royaume de Dali anéanti à son tour 3 siècles plus tard par les Mongols de Kubilai Khan en Chine. Lors cette infiltration, les proto-Thaïs se divisèrent en plusieurs groupes: les Thaïs du Vietnam, les Thaïs en Birmanie (ou Shans), les Thaïs au Laos (ou Ai Lao) et les Thaïs dans le nord de la Thaïlande. Chacun de ces groupes commence à épouser la religion de ces pays hôtes. Les Thaïs du Vietnam n’avaient pas la même religion que ceux des autres territoires. Ils continuaient  à garder l’animisme (vạn vật hữu linh) ou le totémisme. C’est  pour cette raison qu’ils constituaient ainsi les minorités ethniques du Viet Nam d’aujourd’hui.

Version vietnamienne

Theo các nhà học giả tây phương như nhà khảo cổ Bernard Groslier thì  người Thái được ghép  cùng dân tộc ta trong nhóm Thái-Việt nhất là họ chỉ mới dựng nước chỉ có từ thế kỷ 14 và lại ở Việt Nam có nhóm người Thái trắng và Thái đen. Vậy những nhóm dân tộc nầy có phải là người Thái ờ Thái Lan hiện nay hay không? Họ là môt dân tộc đã có mặt lâu đời ở phía nam của Trung Hoa. Họ thuộc chủng Nam Á (hay đại tộc Bách Việt). Bị xua đuổi bởi quân của Tần Thủy Hoàng, người Thái chống lại mãnh liệt bao lần. Theo nhà văn Bình Nguyên Lộc, những thần dân của các vương quốc Ba và Thục (hay thường gọi là Ba Thục) bị quân Tần thôn tính ở Tứ Xuyên là người Thái cổ (hay người Tày cổ). Họ cũng thuộc về nhánh Âu của chủng Nam Á (hay Ngu theo tiếng nói người Mường hay Ngê U theo tiếng Tàu Quan Thoại) trong đó có người Thái và người Tày. Đối với ông cũng như với các nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm, Nguyễn Đình Khoa, Hà Văn Tấn vân vân thì chủng Nam Á gồm có 4 nhóm riêng biệt như sau: nhóm Môn-Khơ Me, nhóm Việt-Mường, nhóm Tày-Thái và nhóm Mèo -Dao thêm vào đó có thêm nhóm Nam Đảo (Chàm, Raglai, Êdê) để có thể định nghĩa giống chủng Cổ Mã Lai (Indonésien).
 
Sự tham gia của người Thái trong việc thành lập vương quốc Âu Lạc của Thục Phán (hay An Dương Vương) không thể chối cải được sau khi Thục Phán đã thành công đánh bại vua Hùng cuối cùng của nhà nước Văn Lang. Cái tên Âu Lạc phản ánh hiển nhiên sự liên kết chặt chẽ của hai dân tộc Việt, một nhánh Âu (Thái cổ) và một nhánh Lạc (Việt cổ). Hơn nửa, Thục Phán là một người Việt chi Thái, điều nầy cho thấy r õ ràng sự đoàn kết và sứ mệnh lich sử chung của hai dân tộc Việt và Thái trước sự bành trướng của người Hoa. Theo giáo sư Đào Duy Anh, Thục Phán thuộc gia đình qúi tộc nước Thục. Tất cả đều được mách lại trong các thư tịch Tàu (Kiao -tcheou wan-yu ki hay Kouang-tcheou ki) nhưng bị bác bỏ bởi một số sử gia Việt vì vương quốc Shu (Thục) ở quá xa vương quốc Văn Lang nhất là bị thôn tính quá sớm bởi Tần quốc từ 316 trước công nguyên (hơn nửa thế kỷ trước khi lập vương quốc Âu Lạc). Nhưng theo nhà văn Bình Nguyên Lôc, Thục Phán bị mất nước, buộc lòng phải dung thân lúc còn trẻ với các bộ hạ ở môt nước nào mà thời đó phải có quan hệ sắc tộc (ngôn ngữ và văn hóa) cũng như họ có nghĩa là nước Tây Âu ở bên cạnh nhà nước Văn Lang của dân Việt. Hơn nửa người Tàu không có lợi chi viết sai sử học khẳng định đây là một hoàng thân của nước Thục cai trị nước Âu Lạc. Việc tá túc của Thục Phán và bộ hạ ở Tây Âu cần có một thời gian trong cuộc di tản vì vậy có 60 năm sau đó mới có sự sáng lập vương quốc Âu Lạc qua sự giải thích. Nhưng gỉả thuyết nầy không vững vì nhất là thời đó có 3000 cây số phải vượt để đến Tây Âu. Vả lại Thục Phán cầm đầu một đạo binh có 3 vạn quân lính. Không thể nào một đạo quân như vậy có thể tàn hình và di chuyển mà người Tàu không biết được vì không những cần sự tiếp tế lương thực mà còn vượt qua bao nhiêu khu núi rừng quản trị bởi các bộ lạc thù địch hay thân Tàu.
 
Chắc chắn Thục Phán phải tìm được ở Tây Âu tất cả những gì cần thiết (quân bị, lương thực) trước khi thôn tính nước Văn Lang. Theo giả thuyết gần đây, Thục Phán là thổ lĩnh của một bộ lạc liên minh Tây Âu và con của Thục Chế, vua của nước Nam Cương thuộc về vùng Cao Bằng và nam Quảng Tây Trung Quốc ngày nay. Có sự trùng khớp thống nhất giữa những linh vật được mách đến trong truyền thuyết nỏ thần của người dân Việt và những tập tục trong truyền thống của người Tày (Thái cổ). Rùa vàng, gà trắng là những linh vật có ý nghĩa biểu tượng quan trọng. An Dương Vương (Thục Phán)(Ngan-yang wang) là một nhân vật lịch sử. Với sự khám phá các di tích ở Cổ Loa huyện Đông An, Hànội chúng ta có thể khẳng định là vương quốc Âu Lạc có thật và được dựng bởi Thục Phán khoảng chừng 3 thế kỷ trước Công Nguyên. Âu Lạc bị thôn tín về sau bởi Triệu Đà, người sáng lập ra nước Nam Việt.
 
Huyền thoạiLạc Long Quân-Âu Cơ đã khéo léo ám chỉ sự hợp nhất và chia ly của hai dân tộc Việt, một thuộc nhánh Lạc (Việt Cổ) đi xuống vùng đồng bằng màu mỡ theo sông suối và nhánh còn lại từ nhánh Âu (dân tộc Âu tức là người Thái nguyên thủy) đang trú ẩn ở vùng núi. Có người Mường trong cuộc di cư này. Gần gũi với người Việt về mặt ngôn ngữ, người Mường vẫn giữ được phong tục tập quán của tổ tiên vì họ không bị đàn áp và được bảo vệ nhờ ở trên núi. Họ có tổ chức xã hội tương tự như người Tày và người Thái.
 
Nằm ở các tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây , Tây Âu là vương quốc của người Tày và người Thái cổ (Tổ tiên của người Thái ngày nay). Chính ở nơi nầy mà Thục Phán liên minh các bộ lạc trước khi thôn tính nước Văn Lang. Nên nhớ lại Tần Thủy Hoàng phải cổ động thời đó hơn 50 vạn binh lính trước khi xâm chiếm Tây Âu và sau khi diệt nước Sỡ với 60 vạn quân. Ngoài sự chống cự mãnh liệt của các chiến binh, Tây Âu phải là một nước có tầm vóc quan trọng và khá đông dân để Tần Thủy Hoàng phải dùng một binh lực như vậy. Mặc dầu thủ lĩnh Tây Âu Dich Hu Tống bị tử nạn, sự kháng cự của dân Tây Âu cũng thu gặt được vài kết quả đáng kể trong vùng Quảng Tây với cái chết của tướng Tàu Uất Đồ Thư cầm đầu một đạo binh 50 vạn quân và được nhắc đến trong bộ sách Hoài Nam Tử mà hoài nam vương Lưu An, cháu của Hán Cao Tổ Lưu Bang, người sáng lập nhà Hán, biên soạn vào giữa năm 164 và 173 trước Công Nguyên. Tây Âu được nổi tiếng thời đó nhờ có những chiến sĩ gan dạ. Tính tình của
 
Người Thái thưở xưa được nhà văn hào và nhiếp ảnh Pháp Alfred Raquez mô tả như sau:
Người Xiêm La thưở xưa, rất hiếu chiến và thích phiêu lưu, thường hay sinh sự gây chiến tranh không ngớt với các nước láng giềng và hay thường thắng lợi trong các cuộc viễn chinh. Mỗi lần có được một chiến dịch mỹ mãn, họ thường mang về theo họ các tù binh và đày các người nầy ở những vùng đất của Xiêm La càng xa quê quán của họ càng tốt.
 
Khi Tây Âu và Âu Lạc bị Triệu Đà tướng của nhà Tần thôn tính, tất cả người Thái cổ ở lại có con cháu về sau nầy trở thành nhóm người thiểu số Tày ở Việt Nam. Còn những người Thái cổ khác, họ chạy trốn lên Vân Nam mà họ cùng nhau liên hiệp ở thế kỷ thứ 8 để lập vương quốc Nam Chiếu rồi sau đó nước Đại Lý mà Phật Giáo Đại Thừa bắt đầu du nhập. Chẳng may các nước Ba Thục, Tây Âu, Âu Lạc, Nam Chiếu, Đại Lý đều bị người Hoa thôn tính trong cuộc di dân của người Thái. Để đối phó áp lực không ngừng của người Hoa và trước hàng rào thiên nhiên không lay chuyển của Hy Mã Lạp Sơn, nhóm người Thái cổ buộc lòng đi trở xuống và xâm nhập lại bán đảo Đông Dương nhưng di cư lần nầy từ từ theo mô hình nan quạt, chia ra nhiều ngã và nhiều nhóm vào đất Lào, Tây Bắc Việtnam, miền bắc Thái Lan và vùng Thượng Miến Điện.
 
Theo các văn bản lịch sử Thái tìm được ở Việtnam thì có ba đợt di dân quan trọng của dân cư Thái ở Vân Nam vào Tây Bắc Việtnam suốt thế kỷ 9 và 11. Đó là thời kỳ mà vương quốc Nam Chiếu bị Đại Lý thôn tín rồi ba thế kỷ sau đó đến lượt Đai Lý bị hủy diệt bởi quân Mông cổ của Hốt Tất Liệt (Kubilai Khan), cháu nội của Thành Các Tư Hãn (Gengis Khan). Khi lúc xâm nhập, cư dân Thái cổ chia ra nhiều nhóm: nhóm Thái ở Việtnam, nhóm Thái ở Miến Điện (thường gọi là người Shan) , nhóm Thái ở Lào (hay Ai Lao ) và nhóm Thái ở miền bắc của Thái Lan ngày nay. Mỗi nhóm bắt đầu theo đạo của các nước mà họ được cư trú.
 
Vì vậy nhóm người Thái ở Việt Nam không có cùng đạo với các nhóm Thái ở nơi khác. Họ vẫn tiếp tục thờ đa thần và theo tín ngưỡng « vạn vật hữu linh ». Chính vì vây họ trở thành các dân tộc thiểu số của nước Việt.