Pagode Bút Tháp (Bắc Ninh)

English version
Vietnamese version

La pagode Bút Tháp

est située approximativement à 30km de Hànội dans la province de Bắc Ninh.  Selon l’explication trouvée dans le livre intitulé « Địa chí Hà Bắc » (1982), son existence data de l’époque du roi  Trần Thánh Tông  (1258-1278).  Les gens locaux l’appellent fréquemment sous le nom « Pagode Bút Tháp »  car elle a une tour en forme de pinceau à écrire pour la calligraphie.  En dépit des restaurations multiples  entreprises dans le passé, cette pagode continue à garder son charme original.C’est le plus beau et le plus grand temple bouddhiste du Vietnam. C’est ici qu’on trouve les plus belles pièces de sculpture en bois du 17è siècle. (les statues de Tây Thiên Ðông Ðỗ Lịch Ðại Tổ et de Quan Âm) .

English version 

Bút Tháp pagoda is located approximatively at 30km from Hà-Nội in Bắc Ninh province. According to the explanation found in the book intituled ”Địa chí Hà Bắc” (1982), its existence was from the time of Trần Thánh Tông king  (1258-1278). The local people frequently  call it under the name ”Bút Tháp” because it has a tower in the paintbrush shape for calligraphy. Despite multiple restorations undertaken in the past, this pagoda continues to keep its original charm.
It is the most beautiful and largest Buddhist temple of Vietnam. It is here that one finds many beautiful pieces of wood sculpture dating from 17th century. (Tây Thiên Ðông Ðỗ Lịch Ðại Tổ and Quan Âm statues)

Galerie des photos


Chùa Bút Tháp 

Nằm cách xa Hànội khoảng chừng 30 cây số thuộc tỉnh Bắc Ninh.  Theo sách Địa chí Hà Bắc (1982) thì chùa nầy  có từ đời vua Trần Thánh Tông  (1258-1278).  Sở dĩ dân chúng trong vùng gọi thường là chùa Bút Tháp vì chùa nầy có một tháp hình dáng tựa như  bút nghiên dùng trong thư pháp.   Dù bao lần trùng tu, sửa chữa , chùa nầy vẫn giữ được nét đẹp nguyên sơ của nó. Đây cũng là một trong những chùa đẹp   nhất ở miền Bắc. Ở nơi trong, còn có những pho tượng phật điêu khắc bằng gỗ tuyệt đẹp của thế kỹ 17 chẳng hạn như tượng  Tây Thiên Đông Đỗ Lịch Đại Tổ và Phật Bà Quan Âm.

 

 

Pagode Trấn Quốc (Hànội)

 

 

La pagode Trấn Quốc.

Trước khi được biết đến ngày nay với tên gọi là « Trấn Quốc », ngôi chùa này nằm trên bờ hồ Tây (Hồ Tây) và cách Hồ Hoàn Kiếm 3 cây số. Lúc ban đầu được gọi là Khai Quốc (hay Thành lập Quốc gia) vì chùa nầy  được xây dựng vào năm 541 bởi vua Lý Nam Đế (hay Lý Bí). Ngài đã thành công trong việc thành lập vương quốc ngắn ngủi Vạn Xuân (544-548). Đây là một chùa cổ nhất ở Việt Nam. Do đất đá sụt lở vào năm 1600, chùa  đã được chuyển đến vị trí hiện tại. Trước đây, chùa còn là trung tâm đào tạo  các vị sư của giáo phái Vô Ngôn Thông trong đó một số người sau này trở thành các cố vấn của triều đình hoàng gia.

Version française

Avant d’être connue aujourd’hui sous le nom de « Trấn Quốc », cette pagode est située sur la rive du lac de l’Ouest (Hồ Tây) et à trois kilomètres du lac de l’épée restituée (Hồ Hoàn Kiếm).Elle porte à l’origine le nom de Khai Quốc (ou Fondation de la Nation) car elle fut bâtie en 541 par le roi Lý Nam Đế (ou Lý Bí) qui eut réussi à fonder son royaume éphémère   » Mille Printemps » Vạn Xuân (544-548). Elle est la pagode la plus ancienne du Vietnam. À cause des éboulis rocheux en 1600, elle fut transférée à l’emplacement actuel. Jadis, elle fut le centre de formation des bonzes de la secte Vô Ngôn Thông dont certains devinrent plus tard les conseillers de la Cour royale.

Version anglaise

Before being known today as ‘Trấn Quốc’, this pagoda is located on the shore of the Western Lake (Hồ Tây) and three kilometres from the Lake of the Returned Sword (Hồ Hoàn Kiếm). It was originally named Khai Quốc (or Foundation of the Nation) because it was built in 541 by King Lý Nam Đế (or Lý Bí) who had succeeded in founding his short-lived ‘Thousand Spring’ , kingdom Vạn Xuân (544-548). It is the oldest pagoda in Vietnam. Because of rock slides in 1600, it was transferred to its current location. It was once the training centre for bonzes of the Vô Ngôn Thông sect, some of whom later became advisors to the Royal Court.

 Galerie des photos

 

L’île Phú quốc (Đảo Ngọc)

 

Version vietnamienne

Avant de devenir  une île vietnamienne, l’île Phú Quốc  appartint aux Khmers jusqu’au 17ème siècle. C’est pourquoi pour les Khmers, cette île n’est autre que Koh Tral. Elle est plus proche des côtes cambodgiennes que celles du Vietnam. La ville côtière cambodgienne Kep sur mer pourrait être vue en cas du beau temps à partir de l’île de Phú Quốc. Au début du 17ème siècle, elle fut gouvernée à cette époque par un émigré d’origine chinoise Mạc Cửu en accord avec le roi khmer de nom Nặc Ông Thu ( Ang Sur, Jayajettha III). En voyant grandir l’ambition territoriale des Thaïlandais et face à la faiblesse des Khmers, Mạc Cửu se tourna vers le seigneur Nguyễn Phúc Chu et demanda sa protection. Ce dernier lui conféra le titre de commandant des troupes (tổng binh) de la région Mang Khảm incluant Phú Quốc. Celle-ci passera ainsi dans le giron des Vietnamiens. Phú Quốc servit plus tard de refuge pour Nguyễn Ánh  (futur empereur Gia Long) dans sa lutte contre les Tây Sơn du roi Quang Trung.

Đảo Ngọc

Analogue à l’île Poulo Condor (Côn Đảo), elle reste jusqu’alors peu exploitée à part de la ville principale Dương Đông où la concentration des infrastructures touristiques est visible (bungalows, hotels resorts, boutiques destinées à louer  des motos et des scooters etc.. ). Elle est connue sous le nom de l’île des perles (Đảo ngọc) car c’est ici qu’on produit des perles de culture d’une qualité exceptionnelle. Mais sa réputation réside incontestablement dans la fabrication de la sauce « nước mấm » à partir des anchois vietnamiens (cá cơm). Cette sauce ne peut pas être manquante dans la plupart des mets vietnamiens. Ses belles plages de sable blanc avec une eau limpide, ses ruisseaux magnifiques, ses récifs coralliens, sa flore primitive où on recense plus de 929 espèces végétales font de cette île un petit coin paradisiaque pour ceux qui aiment la nature à l’état sauvage. Outre la baignade, on peut citer d’autres activités: la plongée, la pêche ou le trekking. Les destinations touristiques connues de l’île sont les suivantes: Bãi Dài, Bãi Sao, Bãi trường, le village des pêcheurs Hàm Ninh, le temple Nguyễn Trung Trực, le parc national Phú Quốc, la prison Cây Dừa, le roc  Dinh Cậu etc..

Phú Quốc

Galerie des photos

Située dans le golfe de Siam, l’île de Phú Quốc dépendant administrativement de la province de Kiên Giang, est la plus grande île du Vietnam et fait partie d’un archipel de 25 îles. Sa superficie équivalente à Singapore est de 576 km2 avec la longueur de 52km du Nord au Sud et une largeur de 20km de l’Est à l’Ouest. Le point culminant de l’île se trouve au nord de l’île à la montagne Chúa avec 565m de hauteur. La population s’élève à 146028 habitants en accord avec les données statistiques fournies en 2019. Sa démographie  continue à augmenter malgré des restrictions administratives. Phú Quốc devient aujourd’hui la première ville insulaire du Vietnam.

L’accès à cette île peut se faire en avion ou en en ferry à partir des points de départ Rạch Giá ou Hà Tiên. Par avion, il y a actuellement deux compagnies desservant Phú Quốc ( Vietnam Airlines et Air Mékong). Plusieurs vols sont assurés dans la journée. La durée du vol est de 45 minutes. Par contre, par ferry, la durée minimale de la traversée est de 2h30. Mais le port d’arrivée à Phú Quốc est soit sur la côte est de l’île ( Bãi Vòng , Hàm Ninh ) soit au sud de l’île, An Thới. N’oublier pas de vérifier sur le billet le nom du port d’arrivée avant d’éviter des surprises et d’avoir assez du temps en cas de transfert.

Version vietnamienne

 

phuquoc1

 

  • 1°) Le chien de l’île.
  • 2°) Le retour des pêcheurs
  • 3°) Plage Bãi Sao
  • 4°) Le roc de Dinh Cậu
  • 5°) Les fleurs de myrte (Hoa sim)

Trước khi là một hòn đảo của Việt Nam, Phú Quốc thuộc về người Khơ Me cho đến thế kỷ 17. Đây là lý do tại sao đối với người Khơ Me, hòn đảo này không có gì  xa lạ  với cái tên Koh Tral. Nó nằm gần với bờ biển Campuchia hơn so với bờ biển của Việt Nam. Thị trấn ven biển Kép của Campuchia có thể được nhìn thấy khi thời tiết tốt đẹp từ đảo Phú Quốc. Vào đầu thế kỷ 17, Phú Quốc được cai trị vào thời điểm đó bởi một người di cư gốc Hoa, Mạc Cửu theo sự thỏa thuận với vua Khơ Me tên là Nặc Ông Thu (Ang Sur, Jayajettha III). Nhìn thấy sự tham vọng lãnh thổ ngày càng lớn của người Thái và trước tình trạng yếu kém của người Khơ Me, Mạc Cửu đã tìm đến chúa Nguyễn Phúc Chu và xin được bảo hộ. Chính chúa Nguyễn phong cho ông làm tổng binh (tổng binh) ở vùng Mang Khảm (Hà Tiên) trong đó có đảo Phú Quốc. Vì vậy, đảo nầy mới thuộc về Việt Nam. Phú Quốc là nơi ẩn náu sau này của Nguyễn Ánh (vua Gia Long) trong cuộc đấu tranh chống quân Tây Sơn của vua Quang Trung.

Tương tự như Côn Đảo, nó vẫn còn ít được khai thác cho đến ngày nay ngoài thị trấn chính Dương Đông, nơi tập trung nhiều cơ sở hạ tầng du lịch ( boongalô, khách sạn nghỉ dưỡng, các tiệm cho thuê xe máy và xe tay ga vân vân…). Phú Quốc được mệnh danh là Đảo Ngọc vì  ở nơi đây được sản sinh ra những viên ngọc trai nuôi có chất lượng tuyệt vời. Nhưng Phú  Quốc có  tiếng tâm chắc chắn nhờ ở việc sản xuất nước mấm từ các con cá cơm. Món nước chấm này không thể thiếu trong  các món ăn Việt Nam. Những bãi biển cát trắng tuyệt đẹp với làn nước trong vắt, những con suối tráng lệ, những rạn san hô, một hệ thực vật nguyên thủy có hơn 929 loài thực vật khiến hòn đảo này trở thành một góc nhỏ thiên đường cho những ai yêu thiên nhiên hoang dã. Ngoài việc bơi lội, chúng ta có thể kể ra các hoạt động khác như  lặn biển, câu cá hoặc đi du lịch bụi (trekking)  xuyên rừng. Các điểm du lịch nổi tiếng ở đảo là: Bãi Dài, Bãi Sao, Bãi Trường, làng chài Hàm Ninh, đền thờ Nguyễn Trung Trực, vườn quốc gia Phú Quốc, nhà tù Cây Dừa, Dinh Cậu vân vân …

Nằm trong vịnh Xiêm La, đảo Phú Quốc phụ thuộc hành chính tỉnh Kiên Giang là hòn đảo lớn nhất của Việt Nam và là một phần của quần đảo gồm 25 hòn đảo. Diện tích của nó tương đương với Singapore là 576 kilomet vuông với chiều dài 52 cây số từ Bắc đến Nam và chiều rộng 20 cây số từ Đông sang Tây. Điểm cao nhất của đảo nằm ở phía bắc của đảo là núi Chúa với độ cao 565 t ước. Dân số là 146028  người theo dữ liệu thống kê được cung cấp vào năm 2019. Dân số vẫn tiếp tục tăng bất chấp có các hạn chế hành chính và nay Phú Quốc trở thành thành phố biển đảo đầu tiên của Việt Nam.

Bạn có thể đến hòn đảo này bằng máy bay hoặc phà từ các điểm xuất phát từ Rạch Giá hoặc Hà Tiên. Bằng máy bay, hiện nay có hai hãng phục vụ Phú Quốc (Vietnam Airlines và Air Mékong). Một số chuyến bay được khai thác trong ngày. Thời gian bay là 45 phút. Ngược lại, bằng phà, thời gian vượt biển tối thiểu là 2 tiếng 30 phút. Nhưng cảng đến Phú Quốc  nằm ở bờ biển phía đông của đảo (Bãi Vòng, Hàm Ninh) hoặc ở phía nam của đảo, An Thới. Nên kiểm tra tên cảng đến trên vé trước khi đến để tránh sự bất ngờ và có đủ thời gian trong trường hợp chuyển phà.

Văn Miếu (Temple de la littérature)

Temple de la littérature 

Un des joyaux au cœur de Hànội (Một bảo vật giữa lòng thủ đô)

Version française

Trường Đại học Quốc gia đầu tiên của Việt Nam, Quốc Tử Giám, làm lễ kỷ niệm được 940 năm tồn tại vào năm 2016. Trường nầy có thể tự hào vì nó  đã có trước được một thế kỷ tốt đẹp  so với các trường đại học phương Tây lâu đời và nổi tiếng như Bologne, Oxford và Paris. Được xây dựng sau Văn Miếu nơi mà thờ  Đức Khổng Tử, ở cùng chung một khu vực, trường đại học nầy là một trong những di tích của thủ đô đã vượt qua mười thế kỷ hỗn loạn, nội chiến và xâm lược của ngoại bang. Nó có cùng thời với các chùa Trấn Quốc, Một Cột và Kim Liên.  Được bảo tồn ở giữa lòng  thủ đô Hà Nội, quần thể kiến ​​trúc bề thế gồm có những bộ phận  rất cũ xưa còn mang màu thời gian và những giá trị của một thời quá khứ  phong phú như chưa biết đến bao lâu nay.

Sự cũng cố quốc gia Việt Nam

Chính vua Lý Nhân Tông của nhà triều đại nhà Lý vĩ đại thành lập ra Quốc Tử Giám vào năm 1076. Kể từ khi giành lại được độc lập vào năm 939, nhiệm vụ mà các nhà cầm quyền Việt Nam được có thật là nặng nề và gian khổ. Trước đó, các triều đại Ngô, Ðinh và Lê đã kiệt sức với sự chia rẽ nội bộ và các cuộc chinh phạt ở lúc đầu về  phía nam. Vào đầu thế kỷ 11, sau đó được đổi tên là Đại Việt, Việt Nam là một nước có nền văn hóa nguyên thủy cổ đại trong một quốc gia non trẻ. Ở bên trong các địa phận biên giới mà còn chưa được ổn định ở phía Nam, thì cần phải củng cố sự thống nhất quốc gia và  kiềm chế  các cuộc ganh đua của các đại gia đình hay thường đe dọa giày xéo đất nước. Bên ngoài, cần phải duy trì quan hệ chư hầu tốt đẹp với nước láng giềng hùng mạnh Trung Quốc. Nhà Lý cần phải vượt qua những thách thức này. Việc đắp đê khắc phục lũ lụt ở sông Hồng đã tạo ra được điều kiện ổn định dân cư và thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp.

Việc mua bán đất đai đã được quy định hóa từ nay và dẫn đến sự xuất hiện một tầng lớp của các tiểu địa chủ bên cạnh các lãnh chúa phong kiến. Thủ công nghiệp được phát triển (dệt, đồ bạc, gốm, sứ) và nhờ đó có được hoạt động thương mại. Theo lời chỉ dẫn của các quản trị viên nho giáo thông thạo, nhà Lý đã thành công trong việc thiết lập một chính quyền tập trung mạnh mẽ và có thể trao cho giai cấp cầm quyền tính hợp pháp. Lấy cảm hứng từ mô hình hành chính của Trung Quốc, vua Lý Nhân Tông đã tổ chức vào năm 1075, một cuộc thi cử đầu tiên để tuyển chọn các quan lại để « cầm quyền cai trị ». Năm sau, ông bổ sung thêm vào Văn Miếu một trường cao đẳng nhầm để đào tạo các viên chức cấp cao. Trên vùng đất bao dung này, Quốc Tử Giám được tồn tại một cách êm đềm ngay bên cạnh nơi thờ tự. Qua việc tập hợp lại ngôi đền thờ Đức Khổng Tử và nơi giảng dạy trong một tổng thể duy nhất, thì thấy công trình xây dựng này là một công trình duy nhất làm nổi bật lên nét độc đáo của Việt Nam so với Trung Quốc. Trong những ngày đầu thành lập, Đại học Quốc gia chỉ đào tạo được những « người đứa con »  được lựa chọn từ các gia đình hoàng gia và các gia đình quan lớn, tựa như các triều đại trước đó dựa vào giới quý tộc. Sự lựa chọn khởi đầu qua các cuộc thi cử  tạo ra một sự thay đổi đáng kể: thông qua các kỳ thi gian nan,  chính quyền còn dựa trên tài năng, kỹ năng và  lòng trung thành với triều đình. Và nhờ đó  đề  phòng ​​được những đại gia đình quý tộc có khả năng phủ nhận thẩm quyền.

Sự vương lên của một nền văn hóa dân tộc.

Trong gần mười thế kỷ đô hộ của Trung Quốc, người dân Việt đã bảo tồn được bản sắc văn hóa của mình và tiếp thu một phần lớn văn hóa Trung Quốc. Trường Cao Đẳng Quốc Gia do đó đã phổ biến được các nhân văn  Nho giáo: các kinh điển Nho giáo, triết học, văn học, lịch sử và chính trị. Các ứng cử viên ưu tú phải thuộc lòng Tứ thư, lịch sử của Việt Nam và Trung Quốc. Họ phải nghiên cứu các quy luật sáng tác thơ, họ học cách soạn tất cả các loại văn bản: chiếu chỉ hoàng gia, diễn văn, báo cáo sứ mệnh, phân tích, tiểu luận. Ngôn ngữ được sử dụng chắc chắn là tiếng Hán, tuy nhiên vào đầu thế kỷ 12, người Việt đã sử dụng rất sớm, một loại chữ viết biểu tượng đặc biệt, gọi là nôm, để phiên âm chữ quốc ngữ phổ biến tên là kinh. Dưới sự cai trị của Trung Quốc, người dân Việt đã học được những gì cần thiết để trở thành một bày tôi « ngoan ngoản ». Cho đến thế kỷ 10, không còn thấy dấu vết nào của văn học Việt Nam. Chỉ còn những huyền thoại mới có thể kết tinh được ký ức tập thể  bị ngăn cản phát biểu  một cách tự do dưới áp lực của kẻ xâm lược. Chữ  nôm có nguồn gốc từ hệ thống chữ viết Trung Quốc thể hiện ra phản ứng dân tộc và phổ biến đối với sự thống trị văn hóa nước ngoài. « Linh hồn của một dân tộc được sống trong ngôn ngữ của mình », nhà văn hào người Đức  Goethe hay thường nói. Đây là một  điều hiển nhiên ở Việt Nam. Ngôn ngữ được phiên âm bằng tiếng nôm có được một sự phát triển mạnh mẽ mỗi khi phong trào quốc gia và quần chúng đạt được phát triển rộng. Sau khi vĩ nhân Nguyễn Trãi ở thế kỷ 14 làm thơ bằng chữ nôm thì văn tự đã trở nên nổi tiếng và không có học giả nào dám coi thường việc viết bằng chữ  nôm nữa. Một nhân vật vĩ đại khác Việt Nam, Nguyễn Huệ, đã làm được một cuộc cách mạng thực sự vào cuối thế kỷ 18 khi ngài trị vị bằng cách  dùng chữ nôm làm ngôn ngữ chính thức trong hành chính và trong các cuộc thi cử quan lại. Các cuộc thi cử hoàng gia đã tạo ra một nỗ lực quan trọng cho nền giáo dục trong nước. Trong một thời gian dài, đại học quốc gia đã trở thành nền tảng của hệ thống giáo dục.  Các trường học được thành lập ra để chuẩn bị cho các ứng cử viên tham gia vào các cuộc thi quan trọng.

Bên cạnh các điền trang lớn của các lãnh chúa thì có một hệ thống các công xã nông thôn được tổ chức chặt chẽ. Phần đông trong số công xã nông thôn nầy  hay thường có một trường tư thục bên cạnh các trường công lập ở cấp quốc gia cũng như ở  cấp tỉnh và cấp địa phương. Các bậc thầy là những người có học thức nhưng bị  thi trượt, hoặc những người thi đỗ tú  tài, cử nhân và tiến sĩ, những người không muốn trở thành quan lại hoặc những người chán ghét làm chính trị. Thanh thế  kiến ​​thức, trọng nễ các bậc thầy và tài năng đã được lan rộng qua nhiều thế kỷ ngay cả trong những tầng lớp nông dân nghèo. Mẹ nào mà không mơ ước có một ngày được nhìn thấy đứa con trai của mình tham gia vào  các cuộc thi khó khăn nầy.

Câu ca dao nầy đã ăn sâu vào tâm trí của mọi người dân Việt: « Không thầy, đố mầy làm nên ». Văn chương và công vụ không hề khác biệt trong hệ thống giáo dục truyền thống ở Việt Nam. Các nhà thơ đã tham gia đóng góp vào đời sống kinh tế. Nhiều chính khách và chiến lược gia lỗi lạc nhất đã từng là những nhà thi sĩ.  Những người nổi tiếng nhất trong số họ, được toàn dân kính nể là  các vị anh hùng dân tộc:

Trần Hưng Đạo (1213-1300) là người chiến thắng giặc Nguyên của Hốt Tất Liệt.
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là một nhà thơ, một chính khách lớn đã chấm dứt một cuộc đô hộ mới của nhà Minh ở Việt Nam.
Nguyễn Du là một nhà ngoại giao dưới triều đại nhà Lê. Ông là tác giả  của cuốn tiểu thuyết nổi tiếng « Kim Vân  Kiều », đã  đưa chữ nôm  đến mức độ hoàn hảo. Ông và Nguyễn Trãi  được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO)  liệt kê vào danh sách của những nhà văn hóa của nhân loại.

Hành trình đầy chông  gai của một ứng cử viên trong cuộc thi cử hoàng gia.

Các cuộc thi quốc gia được tổ chức lúc ban đầu theo chu kỳ thất thường, còn tùy thuộc vào nhu cầu của chính quyền hoàng gia. Từ năm 1434 cho đến năm 1919 với khóa họp cuối cùng được tổ chức, các cuộc thi được tổ chức ba năm một lần. Khi vua Lê Thần Tông xác định lại luật lệ vào thế kỷ 14, thì kỳ thi cử được diễn ra ở hai cấp độ liên tiếp: cấp ở khu vực và cấp ở toàn quốc, mỗi cấp độ có bốn đợt, tổng cộng có thể kéo dài trong vài tháng. Mỗi bước phải được thành công để đủ điều kiện cho bước tiếp theo. Bài thi kiểm tra cuối cùng được diễn ra tại hoàng cung trước mặt nhà vua, ngài tự đích thân kiểm tra đợt cuối cùng của các tiến sĩ tương lai.

Các  con số cho ta có cái nhìn sâu sắc hùng biện về nhu cầu và tầm quan trọng của các cuộc thi hoàng gia:

Trung bình có 70.000 đến 80.000 thí sinh tham gia các cuộc thi trong khu vực.

Từ 450 đến 6.000 thí sinh được chọn trong số này để tham dự kỳ thi quốc gia tại Hà Nội. Họ yên vị trong suốt thời gian làm bài kiểm tra trong khu viên trường đại học ở trung tâm thành phố với chiếc giường tre, bàn chải và lọ mực. Đến năm 1777, Đại học Quốc gia và Khu phố Tiến sĩ đã trở thành một tổ chức uy nghiêm bao gồm 300 phòng học, một thư viện khổng lồ và một nhà xuất bản. Khu rộng lớn phức tạp này đã bị chiến tranh tàn phá vào năm 1946. Sau kỳ thi cuối cùng tại hoàng cung, chỉ có 15 ứng cử viên được cấp bằng Tiến sĩ với độ tuổi trung bình là 32 tuổi. Trong khoảng thời gian từ năm 1076 đến năm 1779, ngày diễn ra kỳ họp cuối cùng ở Thăng Long (Hà Nội), có 2313 người được phong làm Tiến sĩ. 1306 vị được khắc tên và hạng bằng chữ Hán trên 82 tấm bia (mỗi bên có 41 tấm) ở gian thứ ba  của Văn Miếu-Quốc Tự Giám tại Hà Nội. 82 tấm bia này lưu giữ kỷ niệm  các vị danh nhân được phong trong khoảng thời gian từ năm 1442 đến năm 1779. Chính vua Lê Thánh Tông có công bày tỏ lòng kính trọng đối với các công thần đã có công với đất nước. 116 kỳ thi cấp quốc gia diễn ra trong thời kỳ này, nghĩa là còn thiếu 34 tấm bia, không rõ nguyên nhân do đâu mà không dựng hoặc biến mất. Từ năm 1802, với triều đại của vua Gia Long, các kỳ thi ba năm được tổ chức ở Huế cho đến khi bãi bỏ vào năm 1919. Quốc Tự Giám lại trở thành Văn Miếu, nhưng vẫn được bảo tồn. Truyền thống đặt các vị Tiến sĩ của Quốc gia vào danh sách vinh dự cũng được lưu giữ. Tại Tử Cấm Thành, trên tầng  một của cổng Ngọ Môn, tên của họ được đề cập rất rõ ràng trên một tấm bảng lớn bằng đá cẩm thạch đen, có ghi quê quán của họ. Các kỳ thi năng lực đã được tăng  gấp đôi nhất là với một thử thách về  thể xác  đáng sợ  cho các  thí  sinh ở tỉnh. Con đường đến thủ đô đầy rẫy nguy hiểm.

Đến từ một tỉnh xa xôi, những học viên tốt nghiệp tương lai đôi khi phải đi xa hơn 300 cây số, mang theo cùng họ thức ăn, lều, giường tre chật hẹp và những gì cần  để viết. Trên đường đi, họ rất sợ những tên cướp đường cũng như những cuộc tấn công của hổ và rắn. Nếu họ vượt qua được tất cả những trở ngại này, họ hầu hết muốn ở lại một vài năm để học tập, nhằm bảo đảm có được sự may mắn trong việc thi cử. Hình ảnh phổ biến của các tiến sĩ hân hoan trở về quê thường thấy vẽ  là có một  diễu hành biểu ngữ, cờ, kiệu, đồ vật nghi lễ mà được dẫn đầu bởi gia đình và bạn bè. Tiếng trống vang lên dọc đường đánh dấu sự xuất hiện của người con của quê hương cùng với tấm bằng tiến sĩ do vua ban tặng đã mang lại vinh quang cho cả làng. Giờ đây làng tự xem là “vùng đất của văn học ”.

Sau đó, người mới thi đỗ  không quên cúi đầu trước bàn thờ tổ tiên và Đức Khổng Tử, trước khi mời mọi người tham gia vào một bữa tiệc tốn kém. Trong suốt thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên trong lịch sử, Việt Nam đã có  được tầng lớp trí thức đến từ các kỳ thi quốc gia, cùng với các nhà chiến lược, nhà toán học, chính khách lỗi lạc, nhà triết học, văn nhân, cùng với những quan chức bình thường và các quan lại tham nhũng. Theo truyền thống Nho giáo, không một phụ nữ nào được đi học chính thức. 

Chỉ có một người đủ can đảm để thách thức sự cấm đoán nầy. Cô nầy cải trang thành một người đàn ông và trình diện ở  các kỳ thi hoàng gia. Điều này diễn ra dưới triều đại nhà Mạc vào thế kỷ 16. Cô ấy tên là Nguyễn Thị Duệ. Cố chấp, thông minh, bà đã hoàn thành việc học của mình và đạt được bằng tiến sĩ. Bà là một trong những người phụ nữ Việt Nam có đức tính đặc biệt, có công nuôi dưỡng nguồn sống của tài năng và làm nên đức hạnh của  dân tộc.

Quốc Tử Giám qua những thăng trầm của lịch sử

Quần thể kiến ​​trúc tuyệt đẹp  được lan rộng  giữa phố Quốc Tử Giám và Nguyễn Thái Học, bao gồm các di tích được xây dựng chủ yếu vào thế kỷ 17 và 18. Việc trùng tu Văn Miếu chỉ có gần đây từ những năm cuối của thế kỷ 20. Còn về việc khôi phục lại Đại học Quốc gia, thì được xây dựng lại từ năm 2000, kỷ niệm 990 năm Thăng Long (Hà Nội). Những người thợ thủ công đã sử dụng các kỹ thuật cổ xưa để khôi phục lại ở «nơi cao này»  tính chất  chân thực. Tuy nhiên, họ không thể xây dựng lại tòa nhà này giống hệt như lúc trước. Toàn bộ phần này đã phải hứng chịu sự tàn phá do thiên nhiên gây ra và thậm chí còn nhiều hơn bởi sự tàn phá của con người trong thời kỳ người Pháp thuộc vào thế kỷ 19 và các bản phác thảo của kiến ​​trúc ban đầu đã bị mất. Năm 1946, chiến tranh giáng xuống một đòn chí mạng ở Quốc Tử Giám. Có lẽ một trong những tình tiết thảm thương nhất xảy ra vào năm 1903, khi một trận dịch bệnh kinh hoàng tấn công thành phố Hà Nội. Người bệnh đông đến nỗi  ở  Bệnh viện Phú Doãn (nay là bệnh viện Đức-Việt) khiến bệnh viện bị quá tải sớm nên định cư ở  trong vòng thành của  Văn Miếu Quốc Tử Giám, nơi có các hàng rào chặn lại sự  lây lan dịch bệnh. Căn bệnh này đã được kiểm soát nhờ một loại vắc-xin do bác sĩ Yersin tìm ra và sự tận tâm của các bác sĩ. Nhưng ngôi đền nầy đã ở trong tình trạng như vậy nên các nhà chức trách Pháp lấy quyết định chuyển nó thành một bệnh viện. Họ bắt đầu tìm một địa điểm khác để xây dựng một tòa nhà mới.

Nhận ra đây  là việc va chạm đến « tòa thánh văn hóa » của người dân Việt, đại diện toàn quyền Đông Dương, Pasquier, trước đó có hỏi ý kiến ​​một nhà học giả lỗi lạc, và sau đó có  được sự kết luận dứt khoát: « Những hoàn cảnh trái ngược đã làm ô uế các tấm bia và làm rỉ máu trái tim của nhân dân. Nhà Nguyễn khi dời đô ra Huế đã tôn trọng sự nguyên vẹn của ngôi đền. Muốn dời thì dân chúng sẽ nổi loạn. Vài ngày sau, chính phủ Pháp đã phân bổ 20.000 đồng để khôi phục lại ngôi đền như ban đầu. Người dân Hà Nội, ở những thời điểm khác trong lịch sử, đã bày tỏ sự gắn bó với di tích này.  Nó biểu tượng cho sự tò mò trí tuệ, sự say mê học tập, sự sáng tạo, đặc biệt là vào thời điểm xảy ra các cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn giữa hai nhà Trịnh-Nguyễn. Tuy nhiên, trong tình trạng hiện tại, Văn Miếu chiếm một không gian nhỏ hơn so với thời kỳ ở  đỉnh cao của nó.

Version française

Hiền tài là nguyên khí của quốc gia.
Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh.
Nguyên khí suy thì nước yếu

Le talent est la source de vie d’une nation.
 Une source jaillissante fait la force d’un pays.
Une source tarissant l’affaiblit.

La première Université Nationale du Vietnam, Quốc Tử Giám, vint de fêter en 2016 ses 940 ans d’existence. Elle peut s’enorgueillir d’avoir précédé d’un bon siècle les anciennes et prestigieuses universités occidentales de Bologne, Oxford et Paris. Erigée six ans après le Văn Miếu, le Temple de la Littérature dédié à Confucius, dans la même enceinte, elle compte parmi les monuments de la capitale ayant surmonté dix siècles de tourmentes, de guerres civiles et d’invasions étrangères. Elle est contemporaine des pagodes Trấn Quốc, Một Cột et Kim Lien. Le complexe architectural imposant et bien conservé en plein cœur d’Hanoi renferme des parties très anciennes qui portent la couleur du temps et les valeurs d’un passé aussi riche que méconnu.

Consolidation de la nation vietnamienne

C’est en 1076 que fut créé le Collège des fils de la Nation, Quốc Tử Giám par le roi Lý Nhân Tông, de la grande dynastie des Lý postérieurs. Depuis la reconquête de l’indépendance en 939, la tâche qui s’imposait aux souverains vietnamiens était immense et ardue. Les dynasties précédentes des Ngô, des Ðinh et des Lê antérieurs s’étaient épuisées dans les divisions intestines et dans des guerres de conquête au début de la marche victorieuse vers le sud. Au début du 11ème siècle, le Viêtnam, alors rebaptisé Đại Việt, était une nation de culture originale ancienne dans un état jeune. A l’intérieur de frontières encore mal établies au Sud, il restait à fortifier l’unité nationale et à dominer les rivalités de grandes familles qui menaçaient de déchirer le pays. A l’extérieur, il fallait maintenir de bonnes relations de vassalité avec le puissant voisin chinois. Les Lý se montrèrent à la hauteur de ces défis. La construction de digues pour remédier aux crues du Fleuve Rouge permit de fixer la population et favorisa l’essor de l’agriculture.

L’achat et la vente des terres furent réglementées, ce qui entraîna l’apparition d’une classe de petits propriétaires terriens à côté des grands seigneurs féodaux. L’artisanat se développa (tissage, orfèvrerie, poterie, porcelaine), et par voie de conséquence, le commerce. Sur le conseil d’administrateurs confucéens compétents, les Lý parvinrent à mettre en place un gouvernement centralisé fort et purent donner à l’élite dirigeante une légitimité. S’inspirant du modèle administratif chinois, le roi Lý Nhân Tông organisa en 1075 le premier concours pour recruter les mandarins qui allaient exercer le pouvoir. L’année suivante, il adjoignait au Văn Miếu une école supérieure pour y former les hauts fonctionnaires, le Quốc Tử Giám. L’établissement d’enseignement, dans ce pays de tolérance, exista sans heurt juste à côté du lieu de culte. Regroupant un temple dédié à Confucius et un lieu d’enseignement en un seul ensemble, cette construction est une œuvre unique qui souligne l’originalité du Vietnam par rapport à la Chine. L’Université Nationale, à ses débuts, formait uniquement des fils recrutés dans la famille royale et parmi les grands mandarins, tout comme les dynasties antérieures s’appuyaient sur la noblesse. L’introduction du mode de sélection par concours présenta un changement significatif : par le biais d’examens difficiles, l’administration se fondait sur le talent, sur la compétence et sur l’engagement loyal envers le pouvoir impérial. Et celui-ci évitait l’écueil de voir se constituer des grandes familles nobles susceptibles de lui contester l’autorité.

Essor d’une culture nationale

Durant presque dix siècles de colonisation chinoise, les Vietnamiens avaient sauvegardé leur originalité culturelle et assimilé une large part de la culture chinoise. Le Collège des fils de la nation diffusa donc les humanités confucéennes : les classiques confucéens, philosophie, littérature, histoire et politique. Les candidats brillants apprenaient par cœur les Quatre livres du Confucianisme, mais aussi l’histoire du Vietnam et de la Chine. Ils étudiaient en outre les règles de la composition poétique, ils apprenaient à préparer toutes sortes de documents : édits royaux, discours, rapports de missions, analyses, essais. La langue en usage était certes le chinois ou hán, cependant les Vietnamiens très tôt, probablement dès le XIIe siècle, se servirent d’une écriture iconographique spéciale, le nôm, pour transcrire la langue nationale populaire, le kinh. Sous la férule chinoise, les Vietnamiens avaient appris juste ce qui était nécessaire pour devenir de bons serviteurs. Jusqu’au dixième siècle, il n’y a aucune trace de littérature vietnamienne. Seules les légendes ont peut-être cristallisé la mémoire collective, empêchée de s’exprimer librement sous la pression de l’occupant. L’écriture nôm dérivée de l’écriture idéographique chinoise représenta une réaction nationale et populaire face à une domination culturelle étrangère. « L’âme d’un peuple vit dans sa langue » disait Goethe. Ceci est un fait patent au Vietnam. La langue transcrite en nôm connut un essor vigoureux chaque fois que le mouvement national et populaire prenait de l’ampleur. Après que le grand Nguyễn Trãi au 14ème siècle eut écrit ses poèmes en nôm, l’écriture démotique conquit ses lettres de noblesse et plus aucun lettré ne dédaigna d’écrire en nôm. Une autre grande figure vietnamienne, Nguyễn Huệ, accomplit une véritable révolution en imposant durant son règne, à la fin du XVIIIème siècle, le nôm comme langue officielle dans l’administration et dans les concours mandarinaux.

Les concours royaux ont donné une impulsion décisive à l’enseignement dans le pays tout entier. L’Université Nationale devint pour longtemps la clé de voûte du système éducatif Des écoles se créèrent pour préparer les candidats aux concours mandarinaux.

À côté des grands domaines seigneuriaux existait un système bien organisé de communes rurales. Dans nombre d’entre elles il y avait une école privée à côté des écoles publiques, tant au niveau national que provincial et local. Les maîtres étaient des hommes instruits qui avaient échoué aux concours, ou bien encore les titulaires d’un baccalauréat, d’une licence, et les lauréats docteurs qui n’avaient pas voulu devenir mandarins ou qui étaient dégoûtés de la politique. Le prestige du savoir, le respect des maîtres et du talent s’était répandu au fil des siècles jusque dans la paysannerie la plus pauvre. Quelle mère ne rêvait pas de voir ses fils un jour se présenter aux difficiles concours. Le dicton populaire était bien ancré dans les mentalités : « Sans un maître, je te défie d’arriver à quelque chose. » (Không thầy, đố mầy làm nên). Littérature et service public n’étaient pas distincts dans le système éducatif traditionnel vietnamien. Les poètes contribuaient à la vie économique de leur pays. Parmi les hommes d’Etat et les stratèges les plus brillants, un bon nombre était des poètes. Les plus célèbres d’entre eux, révérés comme des héros dans la population toute entière, furent :

Trần Hưng Đạo (1213-1300) qui a triomphé des Mongols en défaisant Kubilai Khan
Nguyễn Trãi (1380 – 1442), grand poète et homme d’Etat qui mit un terme à une nouvelle occupation chinoise des Ming.
Nguyễn Du, diplomate sous la dynastie des Lê, qui avec son roman en vers, le Kiều, porta le nôm à la perfection. Ces deux derniers sont inscrits par l’UNESCO au Panthéon des hommes de culture de l’humanité.

Le parcours semé d’obstacles d’un candidat aux examens royaux.

Initialement, les concours nationaux se déroulaient selon une périodicité irrégulière, en fonction des besoins de l’administration impériale. A partir de 1434, jusqu’en 1919, date de la dernière session, ils eurent lieu tous les trois ans. Lorsque le roi Lê Thần Tông redéfinit les règles au 14ème siècle, l’examen se déroula à deux niveaux successifs : régional, puis national, chacun en quatre phases qui pouvaient au total durer plusieurs mois. Il fallait franchir avec succès chaque étape afin de se qualifier pour la suivante. L’ultime épreuve se déroulait au palais impérial devant le roi qui examinait en personne le dernier lot des futurs docteurs.

Quelques chiffres donnent un aperçu éloquent des exigences et de l’importance des concours royaux:

En moyenne, 70 000 à 80 000 candidats disputaient les compétitions régionales. 

De 450 à 6000 candidats étaient sélectionnés parmi ceux-ci pour prendre part à Hanoi à l’examen national. Ils s’installaient pour la durée des épreuves sur le campus universitaire du centre ville avec leur lit de bambou, leurs pinceaux, leur encrier.  En 1777, l’Université Nationale et le Quartier Doctoral étaient devenus une institution imposante comprenant 300 salles de classes, une immense bibliothèque et une maison d’édition. Ce vaste complexe fut détruit par la guerre en 1946.  A l’issue de l’examen final au palais impérial, seulement 15 candidats se voyaient décerner le titre de Docteur (tiến sĩ), avec une moyenne d’âge de 32 ans.  Entre 1076 et 1779, date de la dernière session tenue à Thăng Long (Hanoi), 2313 candidats ont reçu le titre de Docteur.  1306 d’entre eux ont leur nom et grade gravés en caractères chinois sur les 82 stèles (41 de chaque côté) du troisième espace du Văn Miếu Quốc Tự Giám à Hanoi. Ces 82 stèles conservent la mémoire des lauréats reçus entre 1442 et 1779. C’est le roi Lê Thánh Tông qui prit l’initiative de rendre ainsi hommage aux grands serviteurs du pays. 116 examens nationaux eurent lieu durant cette période, cela signifie qu’il manque 34 stèles dont on ignore les raisons pour lesquelles elles n’ont pas été érigées ou ont disparu.  A partir de 1802, avec le règne de Gia Long, les examens triennaux se déroulèrent à Hué jusqu’à leur abolition en 1919. Le  Quốc Tự Giám redevint le Văn Miếu, Temple de la Littérature, mais fut préservé. La tradition d’inscrire les Docteurs de la Nation au tableau d’honneur fut également conservée.

A la Cité Interdite de Hué, au premier étage de la Porte Ngọ Môn, leurs noms sont mentionnés très lisiblement sur un grand tableau de marbre noir, avec leur village et leur province d’origine. Les examens de capacité se doublaient d’une redoutable épreuve physique pour les provinciaux. Le chemin à parcourir pour se rendre dans la capitale était semé de dangers. Venant d’une lointaine province, les futurs diplômés devaient parfois parcourir jusqu’à 300 km ou plus, emmenant avec eux la nourriture, la tente, l’étroit lit de bambou et de quoi écrire. En cours de route, ils avaient à redouter aussi bien les bandits de grand chemin que l’attaque des tigres et les morsures de serpents. S’ils parvenaient à triompher de tous ces obstacles, la plupart d’entre eux préféraient rester quelques années sur place pour étudier, afin s’assurer les meilleures chances de succès. L’imagerie populaire a souvent peint le retour triomphal des docteurs dans leur village natal, annoncés par une procession de bannières et d’oriflammes, de palanquins, d’objets de cérémonie, précédés par la famille et les amis. Tout au long du parcours retentissaient les tambours marquant l’arrivée de l’enfant du pays qui rapportait, en même temps que le certificat doctoral délivré par le roi, la gloire à tout le village. Celui-ci se voyait désormais distingué comme « une terre de littérature (đất văn chương) ». Ensuite le lauréat ne manquait pas de s’incliner devant l’autel des ancêtres et de Confucius, avant de convier tout le monde à un banquet parfois ruineux. Au cours du deuxième millénaire A.C. de l’histoire du Vietnam, l’élite intellectuelle issue des concours nationaux, produisit, à côté de brillants stratèges, mathématiciens, hommes d’Etat, philosophes, hommes de lettres, son lot de simples bureaucrates et de mandarins corrompus. Selon la tradition confucéenne, aucune femme n’avait accès à l’enseignement officiel. Une seule eut l’audace de braver l’interdit. Elle se présenta aux examens royaux, déguisée en homme. Cela se passait sous la dynastie des Mạc, au 16ème siècle. Elle s’appelle Nguyễn Thị Duệ ; obstinée, intelligente, elle mena ses études à leur terme et obtint le titre de docteur. Elle est une de ces femmes vietnamiennes de caractère exceptionnel qui ont contribué à alimenter la source vive du talent et fait la vertu de cette nation.

Le Quốc Tử Giám à travers les vicissitudes de l’histoire.

Le bel ensemble architectural qui s’étend entre les rues Quốc Tử Giám et  Nguyễn Thái Học comprend des monuments érigés principalement aux 17ème et 18ème siècles. La toute récente restauration du Temple de la Littérature remonte aux dernières années du 20ème siècle. Quant à la reconstruction de l’Université Nationale, elle date de l’an 2000 et marqua le 990ème anniversaire de Thăng Long (Hanoi). Les artisans recoururent à des techniques anciennes afin de restituer à ce haut lieu un caractère d’authenticité. Toutefois il leur était impossible de reconstruire cet édifice à l’identique. Toute cette partie avait trop souffert des destructions infligées par la nature et encore plus par les hommes durant la présence française au 19ème siècle, et les croquis de l’architecture originale avaient été perdus. En 1946, la guerre avait porté un coup fatal au Quốc Tử Giám. L’un des épisodes probablement les plus dramatiques se situe en 1903, quand une épidémie foudroyante frappa la ville d’Hanoi. Les malades étaient si nombreux que l’hôpital Phú Doãn (l’actuel hôpital germano-vietnamien) fut bientôt débordé. Il s’installa dans l’enceinte du Văn Miếu Quốc Tử Giám dont les remparts représentaient un barrage à la contagion. La maladie fut jugulée grâce à un vaccin mis au point par le docteur Yersin et au dévouement des médecins. Mais le Temple était dans un tel état que les autorités françaises décidèrent de le transformer en hôpital. Ils se mirent en quête d’un nouvel endroit pour y construire le nouvel édifice.

Conscient de s’attaquer au Saint Siège de la culture vietnamienne, le représentant du Gouverneur Général de l’Indochine, Pasquier, consulta préalablement un éminent érudit, et la conclusion de ce dernier fut sans appel : « Les circonstances contraires ont souillé les stèles et font saigner le cœur du peuple. Les Nguyễn, en transférant la capitale à Huế, ont respecté l’intégrité du Temple. Si vous voulez le déplacer, la population se révoltera. » Quelques jours plus tard, le Gouvernement français allouait une somme de 20 000 piastres afin de rendre le Temple à son état initial. La population d’Hanoi avait à d’autres moments de son histoire troublée manifesté son attachement pour ce monument, symbole de sa curiosité intellectuelle, de sa passion pour l’étude, de sa créativité, notamment à l’époque des guerres fratricides entre les Trịnh et les Nguyễn. Néanmoins, dans son état actuel, Le Temple de la Littérature occupe un espace plus restreint qu’à son apogée.

Toàn cảnh nội văn từ
Thử địa vi thủ, thiên thu cần tạo thương lưu phương

De tous les temples consacrés à la littérature, celui-ci constitue le haut lieu;
le parfum de la culture y flotte par delà des millénaires

Galerie des photos

Le temple de la littérature (Văn Miếu)

Chu Văn An

Ông tổ của các nhà nho nước Việt


 

Érection des stèles des lauréats

Ouvrages recommandés:

  • Le temple de la littérature. Editions Thế Giới.
  • Văn Miếu Quốc Tử Giám. Edition Thông Tấn. 2001

Lăng Cô au pied du Col des Nuages (Làng cò)

English version

French version

 

Version vietnamienne

Nằm dưới chân đèo  Hải Vân, ranh giới giữa tỉnh Thừa Thiên Huế và tỉnh Đà Nẵng, trải dài hơn chục cây số, bãi biển Lăng Cô xinh đẹp được biết đến với những cồn cát mịn và đầm phá với làn nước xanh biếc. Cách đó không xa là một làng chài, nơi thường xuyên có sự hiện diện của đàn cò. Đó là lý do tại sao vào thời nhà Nguyễn, làng này được gọi với cái tên “Làng cò” hay (làng cò). Vì lý do phát âm, nó đã trở thành Lăng Cô trong thời kỳ Pháp chiếm đóng. Không tựa như những bãi biển khác ở Việt Nam, bên cạnh vẻ đẹp trời phú cho, bãi biển này vẫn giữ được một môi trường hoang sơ và nguyên vẹn. Đáng nên dừng lại cho những ai ưa thích thư giãn  trong yên tĩnh.

Version française

Située au pied du col des Nuages (ou Hải Vân) marquant la frontière entre la province Thừa Thiên Huế et celle de Đà Nẵng et s’étirant sur une dizaine de kilomètres, la belle plage Lăng Cô est connue pour ses dunes de sable fin et son lagon aux eaux turquoises. Elle n’est pas loin d’un village des pêcheurs où la présence des cigognes est très fréquente. C’est pour cela qu’à l’époque de la dynastie des Nguyễn, ce village fut appelé sous le nom de « Làng cò » ou (village des cigognes). À cause de  la défaillance dans la prononciation, il devint ainsi Lăng Cô lors de l’occupation française. Contrairement à d’autres plages du Vietnam, outre son charme paradisiaque, cette plage garde encore un environnement intact et sauvage. Cela vaut un détour pour ceux qui aiment se détendre dans la tranquillité.

English version

Located at the bottom of Hải Vân Pass marking the border between Thừa Thiên Huế province and Đà Nẵng province and stretching over ten kilometres, the beautiful Lăng Cô beach is known for its fine sand dunes and its lagoon with turquoise waters. It is not far from a fishing village where the presence of storks is very frequent. That  is why at the time of the Nguyễn dynasty, this village was called under the name of “Làng cò” or (stork village). Because of the faltering pronunciation, it thus became Lăng Cô during the French occupation. Unlike other beaches in Vietnam, besides its heavenly charm, this beach still keeps an intact and wild environment. It is worth a detour for those who like to relax in tranquility.

  1. Đầm Lập An (Lagon Lập An)
  2. Suối mơ  (Cascade de rêve)

Bến Tre (Quê dừa)

bentre

Située tout près de l’embouchure du delta du Mékong, la province Bến Tre est connue depuis longtemps comme le pays des cocotiers. Bến Tre est en tête de la production nationale des noix à coco avec 400 millions de fruits cueillis sur une superficie de 52.000 ha. Bến Tre est réputée comme le point de départ du soulèvement et de la formation du front national de libération contre le régime sud-vietnamien du président Ngô Đình Diệm. Mais elle est aussi la terre natale du moine illustre aux noix de coco (Đạo Dừa) de nom Nguyễn Thành Nam emprisonné plusieurs fois pour sa propagande pacifique.

Située à 85 km de Saïgon ou (Hồ Chí Minh Ville), Bến Tre est considérée souvent par les touristes comme le point de passage obligatoire pour partir à l’exploration en bateau ou en pirogue des vergers du delta du Mékong.

Galerie des photos

Châu Đốc (Carrefour des contrastes)

 

chau_doc

Pays des contrastes

Version française

Có đi trên sông Hậu (hay Hậu Giang) và kênh Vĩnh Tế mới nhận thấy được Châu Đốc là một thành phố có tầm quan trọng về mặt kinh tế và chiến lược.  Nhờ là cửa ngõ của đồng bằng Cửu Long nên Châu  Đốc  được thu thập lợi ích không ít về nghề đánh cá và thương mại giữa ba quốc gia Lào, Cao Miên và Việtnam. Châu Đốc được biết đến nhờ các  nhà bè  xem như  các căn hộ nẳm san sát nhau dọc theo hai bờ sông  và  nuôi cá hồi to có thể từ 5 đến 7 kí hay các loại cá khác. Các cá nầy đươc nuôi giữa  môi trường thiên nhiên trong các lưới  cài duới  hầm nhà.  Tất cả loại cá nầy được bán ở trong nước hay xuất khẩu qua các nước ở Thái Bình Dương và Hoa Kỳ.  Trên vùng đất có sự tương phản nầy, cảnh nghèo nàn vẫn được thấy  ở mấy  nhà sàn của các gia đình chài lưới  với một cuộc sống bấp bênh.  

Ở Châu Đốc ăn uống rất ngon,  thức ăn rất cân bằng nào mực, nào hải sản, thịt và rau cỏ nhiều thứ khác nhau. Chợ búa cũng đầy các món ăn ngon  được gói sẵn với  loại lá dầy mà  trước đó được nấu qua nhiều giờ khiến có thể bảo hành vệ sinh và giữ được vài ngày.  Ở thành phố, từ bờ sông đến chợ, thường gặp các thiếu nữ người Chămpa duyên dáng và thanh tao  trong bộ  y phục cổ truyền và màu sắc giản dị. Cộng đồng chàm ở đậy bị hồi giáo hóa  nên họ có đến 5 thánh đường mà thánh đường  cuối cùng được xây cất vào năm 1992. Dân tộc nầy ở môt khu riêng biệt với các nhà rất xinh xắn.  Họ sống với nghề dệt truyền thống,  trồng lúa, chài cá và chuyên chở nhờ các chiếc xe mô tô. Họ thường mời khách mua các khăn vải bông màu (hay  rằn), túi xách với mức giá rất rẻ. Chính ở đây mới thấy sự hổn hợp của  các cư dân  nghèo  giàu lẫn lộn và  các tôn giáo cùng kề bên nhau.

Ở đây có lễ hội miếu Bà Chúa Xứ thường được diễn ra mỗi năm  ở duới chân  núi Sam. Tuy chưa đến ngày lễ nhưng ở đây lúc nào cũng có một bầu không khí cá biệt với các người buôn bán, các kẽ ăn xin và  các phép màu  nhiệm ở chùa. Chùa Bà Xứ rất rộng lớn nhưng mùi nhan hoà lẫn cùng mùi của các lễ vật cúng  khiến làm  không gian ngột ngạt  và khó mà ở lâu được nếu không có lòng tôn kính. Ngược lại có một bầu không khí tĩnh tâm và mật thiết ở trên đỉnh núi Sam,  ở chùa Hang mà Bà Xứ cũng được thờ kính. Du khách có thể ngắm nhìn toàn cảnh đồng bằng  đến cuối chân trời  về phiá Cao Miên trong tầm mắt với ánh sáng xanh độc đáo. Ở đây, thường thấy dọc theo đồng bằng có 2 loại cây cọ:  cây dừa, một biểu tượng quen thuộc của Vietnam và cây thốt nốt làm ta nghỉ đến cây ngọc giá kết xù với cụm hoa dạng bông lớn mọc thẳng đứng giữa đám lá. Thứ nước được lấy  từ các bông thốt nốt  qua các ống tre buộc  vào đầu cụm hoa, uống rất ngọt mát và bổ  còn các quả thốt nốt xem như quả óc chó  vỏ màu đen có nhiều  múi, mỗi múi thịt trắng ngần, có nước ngọt mát  và mềm.   Đối với người  hướng dẫn, các quả nầy biểu tượng của Cao Miên. Nơi mà hai loại cây nầy mọc gần nhau thì phải xem đó là tình hữu nghị của hai dân tộc yêu chuộng hoà bình mà biên thùy cũng không xa  chi cho mấy và cũng  không có gì rõ rệt cả. Lìa xa  miền nam của sông Cửu Long thì cảm nhận chết trong lòng một ít.

Chính ở nơi nầy nó có cái gì quyến rũ ta và  làm ta bỡ ngỡ hơn mọi nơi khác và nó có mang tính chất huyền bí.   

Chúng ta tự thầm nhủ mỗi lần  ra đi để hẹn ngày trở về.

 

Chau_Doc_2

Galerie des photos

 
Version française

En naviguant sur le fleuve Bassac, affluent du Mékong, et le canal Vĩnh Tế, on a le loisir de percevoir toute l’importance stratégique et commerciale de la ville Châu Đốc. Commandant l’embranchement du grand delta du Mékong, elle tire son profit de la pêche et du commerce, licite ou non, entre trois pays, deux du Haut Mékong : le Laos et le Cambodge, et celui du Delta : le Vietnam. Châu Đốc est réputée par les  nombreuses fermes aquacoles qui, montées sur des radeaux et accolées l’une contre l’autre,  permettent l’élevage, dans des nasses fixées sous le plancher, en milieu naturel, de truites pesant cinq à sept kilos ou d’autres poissons, le tout destiné au marché local et à l’exportation dans les pays du Pacifique, jusqu’aux Etats-Unis.  Sur cette terre de contrastes, la pauvreté s’étale sur les rives du fleuve, où les familles de pêcheurs, dans leurs cabanes sur pilotis, continuent de vivre – survivre – dans des conditions de grande précarité.  

On mange bien à Châu Ðốc, une nourriture équilibrée, savoureuse, à base de seiches, fruits de mer, viande et légumes variés. Le marché regorge de ces préparations succulentes fraîchement cuisinées. Emprisonnées dans leurs corsets de feuilles épaisses, dans lesquelles elles ont bouilli plusieurs heures, elles présentent la garantie d’hygiène requise et se conservent quelques jours. En ville, entre le port et le marché, il arrive de croiser des jeunes filles chames, revêtues de leur costume traditionnel aux couleurs sobres, modèles d’élégance et de raffinement. La communauté chame a été islamisée, cinq mosquées y ont été érigées pour le culte, la dernière en 1992. Cette ethnie habite, dans un quartier réservé, des maisons proprettes. Elle vit du traditionnel tissage des tissus, de l’agriculture rizicole, de la pêche et du transport qu’elle assure au moyen de petites motos. Elle vous invite volontiers à venir acheter ses cotonnades colorées, un geste qui ne se refuse ni ne s’oublie.

Métissage des populations, côtoiement de richesse et de pauvreté, juxtaposition des religions. Un culte bouddhique, voué à la Reine du Pays, se déroule au pied du Mont Sam. Il y règne déjà l’ambiance propre aux lieux de pèlerinage, ses marchands du temple, ses mendiants, sa cour des miracles. La pagode Chùa BÀ XỨ est vaste, mais l’odeur de l’encens qui se consume, généralement si agréable, se mêle à celle des offrandes diverses, dans la cohue des grands débordements de ferveur ; elle devient étouffante et nous empêche d’y rester si on n’a pas vraiment la foi. L’ambiance est plus intime et recueillie au sommet du Mont Sam, à la Pagode de la Caverne où est aussi vénérée la Souveraine; celle-ci mérite d’autant plus le détour que le panorama qui s’offre sur la plaine jusqu’au Cambodge nous gratifie de vues imprenables sur des terres rejoignant l’horizon dans une lumière bleutée unique.

Dans cette plaine empreinte de mélancolie, les palmiers qui la jalonnent sont de deux sortes : le cocotier, symbole familier du Vietnam, et le palmier à sucre qui fait penser à un yucca géant, avec sa couronne perchée tout en haut d’une longue tige. Le suc de ses fleurs, récolté dans des tuyaux de bambou, fournit un fondant délicieux et très nourrissant, tandis que ses fruits, des noix d’aspect noir à maturité, de taille moyenne, livrent une chair translucide, aqueuse et douce. Ces derniers, nous explique le guide, sont le symbole du Cambodge et à l’endroit où poussent côte à côte les deux variétés, il y faut voir le signe de l’amitié entre les deux peuples pacifiques. La frontière n’est pas loin non plus, elle est immatérielle.

Quitter le Sud Mékong, « c’est mourir un peu ». L’envoûtement et le dépaysement y sont plus forts qu’ailleurs et d’une nature mystérieuse. A chaque fois, on se dit au fond de soi qu’on part pour revenir.

Hà Tiên (Mang Khảm)

Version vietnamienne

Face au golfe de Siam, Hà Tiên est située à peu près de 8 kilomètres de la frontière cambodgienne. C’est aussi la ville marquant la fin de la longue marche vers le Sud entamée par les Vietnamiens. Avant d’être connue sous le nom Hà Tiên, elle fut appelée d’abord Phương Thành puis Mang Khảm dans le passé. Son essor économique a été dû à l’arrivée massive des Chinois, partisans de l’ancienne dynastie des Ming (ou Minh Hương en vietnamien) dont le plus connu était Mạc Cửu (Mac King Kiou).

Celui-ci, hostile à la nouvelle dynastie des Mandchous (Qing) et quittant la Chine à l’âge de 17 ans, s’établît avec sa famille au Cambodge en 1671. Il fut nommé quelques années plus tard par le roi cambodgien comme chef de province de Mang Khảm. Grâce à sa générosité et à son talent commercial, il réussît à transformer Mang Khảm en une ville portuaire florissante et animée dans cette région. Pour contrer l’ambition des Siamois, il avait besoin de la protection des Vietnamiens, en particulier celle des seigneurs Nguyễn au détriment des Cambodgiens. Ceux-ci ont accepté de lui conférer le titre de commandant des troupes (tổng binh) de cette région. Dès lors, Mang Khảm fit partie du territoire vietnamien et changea de nom en devenant Hà Tiên. Selon la légende, on vit apparaître sur le fleuve, la ballade des Immortelles (Hà c’est le fleuve en vietnamien). C’est aussi la raison du choix de ce nom. Hà Tiên devint quelques années plus tard le point de départ de la conquête des districts cambodgiens: Long Xuyên (Cà Mau d’aujourd’hui), Kiên Giang (Rạch Giá), Trán Giang (Cần Thơ), Trấn Di (Bạc Liêu) avec son fils Mạc Thiên Tứ. Ce dernier était un personnage hors du commun. Son destin était lié étroitement à celui de Nguyễn Ánh, futur empereur de la dynastie des Nguyễn. Il devint l’illustre rempart des Nguyễn contre les Tây Sơn. Avec les années de vicissitudes de Nguyễn Ánh, il dut se réfugier en Thailande avec toute la famille et son adjoint Tôn Thất Xuân, l’un des oncles de Nguyễn Ánh. Pour semer le doute chez les Siamois, les Tây Sơn n’hésitèrent pas à falsifier les documents et à les rendre responsables d’un complot ourdi contre le roi siamois Trịnh Tân (Phraya Tak Sin).

Toute sa famille fut exécutée ainsi que Tôn Thất Xuân. Pour préserver son honneur et sa fidélité, il se suicida en septembre 1780. Mạc Thiên Tứ était aussi un grand poète de son temps. Il a rendu célèbre Hà Tiên par son volume de poèmes intitulé « Hà Tiên Thập vịnh » vantant la beauté de ses sites naturels et merveilleux. 

Ce volume continua à grossir dans les années suivantes avec l’ajout de 10 poèmes écrits par chacun des 31 poètes faisant partie du club des poètes « Chiêu Anh Các » crée sous l’initiative de Mạc Thiên Tứ. Cela a constitué en tout 320 poèmes auxquels Nguyễn Cư Trinh ajouta les dix derniers poèmes pour donner une valeur inestimable à ce volume qui continue de se transmettre à la postérité.

 

 

Hà Tiên

 

 

On n’oublie pas non plus son célèbre poème en Six-Huit pour taquiner une jeune fille de Quãng Nam (Centre du Vietnam) déguisée en un jeune étudiant participant à la soirée de la fête de l’illumination.

En voyant ce jeune homme, il n’hésite pas à lui adresser les quatre vers suivants :

Bên kia sen nở nhiều hoa
Người khen hoa đẹp nõn nà hơn em
Trên bờ em đứng em xem
Mọi người sao bỗng không thèm nhìn hoa

De l’autre côté, le lotus a beaucoup de fleurs
La personne qui les admire est plus jolie que vous.
Sur terre, vous continuez à les admirer
Tout le monde ne s’intéresse pas à admirer votre « fleur »

Sans hésitation, celui-ci lui réplique promptement par les 4 vers suivants:

Mặt ao sen nở khắp
Trông hoa lẫn bóng người
Trên bờ ai đứng ngắm
Sao chẳng thấy hoa tươi?

La surface de la mare est remplie de fleurs de lotus
On y trouve à la fois celles-ci et les ombres des gens
Sur terre, quiconque est en train de les admirer
Pourquoi ne trouve –t- on pas une belle fleur ?

Cet échange poétique lui a permis d’avoir la sympathie et de découvrir que ce jeune étudiant n’était qu’une fille déguisée en garçon pour éviter les pirates, venue du Centre du Vietnam en suivant son père pour faire le commerce et portant le nom Nguyễn Thi Xuân. Mạc Thiên Tứ la prît plus tard comme femme de second rang. Mais cette dernière a failli mourir à cause de la jalousie de sa femme. Elle fut obligée de se retirer dans un pagodon pour finir ses derniers jours. Avant son décès, elle a laissé un poème montrant sa pureté et sa noblesse dans un monde nauséabond et rempli de turpitudes en la comparant à une fleur de lotus:

Vươn khỏi bùn nhơ thoát vươn lên
Phỉ lòng trong trắng giữa thiên nhiên
Xuân thu đậm nhạt bao hồng tía
Ðừng sánh thanh cao với đóa sen.

Sortant de la boue, la fleur de lotus continue à s’épanouir.
Elle est contente d’être pure dans la nature
Son périanthe devient plus ou moins pourpre au fil du temps
Mais il ne faut pas comparer la noblesse à cette fleur.

Lotus

 

Galerie des photos

Cet échange poétique lui a permis d’avoir la sympathie et de découvrir que ce jeune étudiant n’était qu’une fille déguisée en garçon pour éviter les pirates, venue du Centre du Vietnam en suivant son père pour faire le commerce et portant le nom Nguyễn Thi Xuân. Mạc Thiên Tứ la prît plus tard comme femme de second rang. Mais cette dernière a failli mourir à cause de la jalousie de sa femme. Elle fut obligée de se retirer dans un pagodon pour finir ses derniers jours. Avant son décès, elle a laissé un poème montrant sa pureté et sa noblesse dans un monde nauséabond et rempli de turpitudes en la comparant à une fleur de lotus: 

Vươn khỏi bùn nhơ thoát vươn lên
Phỉ lòng trong trắng giữa thiên nhiên
Xuân thu đậm nhạt bao hồng tía
Ðừng sánh thanh cao với đóa sen.

Sortant de la boue, la fleur de lotus continue à s’épanouir.
Elle est contente d’être pure dans la nature
Son périanthe devient plus ou moins pourpre au fil du temps
Mais il ne faut pas comparer la noblesse avec cette fleur.

Mausolées de Mạc Cửu et de sa famille

hatien_2


Quand on évoque Hà Tiên, on n’oublie pas de penser à Mạc Cửu et à son fils Mạc Thiên Tứ car c’est grâce à eux que le Viêt-Nam réussit à achever sa longue marche vers le Sud. Rien n’est plus étonnant de voir l’attachement profond et le respect que les Vietnamiens ont réservé à Mạc Cửu et à sa famille par le biais de son temple à Hà Tiên