Măng Đen (Kon-Tum)

Măng Đen (Kon Tum)

Version française

Được mệnh danh là « Đà Lạt thu nhỏ » với rừng nguyên sinh, hồ thác nước  Pa Sỹ, Măng Đen là một thị trấn nhỏ, rộng 148,07 km2 trên cao nguyên, thuộc huyện Kon Plong, cách thành phố Kon Tum khoảng chừng 60 cây số. Đi từ Pleiku đến  đây bằng ô  tô  thì mất chừng 2 tiếng. Đây là vùng đất linh thiên với bức tượng Đức Mẹ Fatima mà cũng  là  nơi  hành hương mỗi năm của người công giáo ở Tây Nguyên.

Surnommée « Dalat en miniature » avec sa forêt vierge et sa chute d’eau Pa Sỹ, Măng Đen est une petite ville d’une superficie de 148,07 km2. Elle est située environ 60 km de la ville de Kon Tum sur le plateau montagneux dans le district de Kon Plong.  Il faut compter environ deux heures en voiture pour venir de Pleiku. C’est non seulement  un lieu sacré avec sa statue de Notre-Dame de Fatima mais aussi un lieu de pèlerinage annuel pour les catholiques des Hauts Plateaux.

Le lever du soleil ( Bình minh ở vịnh Lan Hạ)

LHB

Myth of the household geniuses

Version vietnamienne

Version française

The myth of the household geniuses is based on the tragic story of a woodcutter and his wife. It has its roots in Taoism. This modest couple lived happily together until the day they discovered they couldn’t have children. The unfortunate husband began to drink and abuse his wife. Unable to bear it any longer, she left him and married a hunter from a neighboring village. But one day, overcome with loneliness and remorse, the woodcutter decided to visit his wife to apologize.

Meanwhile, the hunter returned home. To avoid any misunderstanding, the young woman hid her first husband in a thatched stable near the kitchen where the hunter was smoking his game. By misfortune, an ember escaped from the fireplace and set fire to the barn.

Panic-stricken, the young woman ran to the burning barn to save her ex-husband. The hunter followed to rescue her, and all three perished in the inferno. The Jade Emperor (Ngọc hoàng), deeply moved by this sad fate, divinized the three unfortunates from his celestial throne and entrusted them with looking after the welfare of the Vietnamese people in the advantageous location of the kitchen. From then on, they became the geniuses of the home.

During the week when the genies are in heaven, the Vietnamese fear that their homes will be unprotected. To prevent any incursion of evil spirits into their homes, they erect a tall bamboo pole (cây nêu) in front of their homes, on which clay plates (or khánh in Vietnamese) vibrate sonorously in the wind to ward off the spirits. At the top of the pole floats a piece of yellow cloth bearing the Buddhist emblem.

Vietnamese kitchen

This custom has its origins in a Buddhist legend entitled “The Woodcutter’s Tết”, according to which the Vietnamese have to confront evil spirits.

It’s always on the twenty-third day of the last lunar month that each Vietnamese organizes a ceremony to send the genie of the household to heaven. Not only are fruits, delicacies and flowers placed on his altar, but also appropriate travel equipment (3 pairs of boots, 3 hats, clothes, votive papers) and three carp placed in a small bowl. At the end of the ceremony, the votive papers are burned and the carp released into a pond or river for the genie to use to fly to heaven. The genie must report everything he has seen on earth to the Jade Emperor, particularly in the home of every Vietnamese. His stay in heaven lasts six days. He must return home on New Year’s Eve until the start of the New Year.

(*) cây nêu: This is a cosmic tree linking the earth to the sky, due to the beliefs of ancient sun-worshipping peoples, including the Proto-Vietnamese, but it is also used to demarcate their territory.

Mausolée des trois empereurs Dục Đức, Thành Thái et Duy Tân

Khu lăng mộ  của 3 vị vua triều Nguyễn: Dục Đức, Thành TháiDuy Tân.

Version française

So với lăng tẩm khác của các vua nhà Nguyễn, lăng Dục Đức có kiến trúc đơn giản và khiêm tốn. Khu lăng mộ hình chữ nhật, có diện tích 3.445m2, bên trong không có tượng đá như các lăng vua khác. Muốn vào lăng phải đi qua hai cổng tam quan, có mái giả bằng xi măng. Lăng Dục Đức (An lăng) nằm trên đường Duy Tân, phường An Cựu, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, thuộc Quần thể di tích cố đô Huế.

Đây là nơi yên nghỉ của 3 thế hệ làm vua triều Nguyễn, gồm: Dục Đức (cha, 1852-1883), Thành Thái (con, 1879-1954) và Duy Tân (cháu, 1900-1945). Khu di tích này có diện tích khoảng 6ha, gồm 2 công trình chính là lăng mộ vua Dục Đức cùng hoàng hậu (bên phải) và điện Long Ân (bên trái). Mộ vua Thành Thái và Duy Tân được bao quanh bởi khu tập thể cũ phía sau điện Long Ân. 

Comparable à d’autres mausolées des empereurs de la dynastie des Nguyễn, celui de l’empereur Dục Đức possède une architecture très simple et modeste.  Étant de forme rectangulaire, celui-ci possède  une superficie de 3 445 mètres carrés et ne contient pas  des statues de pierre à l’intérieur comme les mausolées des autres rois. Pour y entrer on doit franchir les deux portails à trois entrées avec les faux toits en ciment. Connu sous le nom An Lăng, ce mausolée est situé sur la rue Duy Tân dans le district An Cựu de la ville Huế de la province Thừa Thiên Huế et fait partie du complexe des vestiges de la ville de Huế. C’est le lieu de repos des  rois des trois générations de la dynastie des Nguyen:  Dục Đức (père, 1852-1883), Thành Thái (fils, 1879-1954) và Duy Tân (petit-fils, 1900-1945). Ce complexe  d’environ 6 hectares comprend deux bâtiments principaux: le mausolée  du roi Dục Đức  et de son épouse (à droite) et le palais de Long An (à gauche). Les mausolées de Thành Thái et Duy Tân sont entourés par l’ancien quartier collectif derrière le palais Long Ân. 

DUC_DUC

 

 

 

Musée des Beaux-arts de Saïgon (Bảo tàng mỹ thuật Saïgon)



Version française
Được tọa lạc tại số 97 Phó Đức Chính, Quận 1, bảo tàng mỹ thuật trước đó là  dinh thự  của một thương gia gốc Hoa  giàu có  bậc nhất ở Saigon tên là Hứa Bổn Hòa. Ông nầy có nhờ kiến trúc sư người Pháp Diego Rivera  thiết kế dinh thự nầy vào năm 1929 và hoàn thành vào năm 1934. Toà nhà nầy được xây cất trên một diện tích có hơn 3000m2 với phong cách kiến trúc độc đáo (kiến trúc Art déco)  và thể  hiện được sự hài hoà giữa nét đẹp mỹ thuật của châu  Âu và châu Á khiến nhờ  đó  nó thu hút hiện nay  không ít  những người   yêu chuộng nghệ  thuật và thích sống ảo.  Bảo tàng mỹ thuật lưu giữ hiện nay rất nhiều tác phẩm có giá trị không những về phương diện lịch sử mà còn luôn cả về điêu khắc và hội họa. Bảo tàng nầy lấy màu vàng làm chủ đạo nên bên ngoài  các tường đều sơn màu vàng còn mái nhà  thì ngói âm dương màu đỏ với diễm mái tráng men màu xanh lục trông rất cầu kỳ lạ mắt. Dinh thư  nầy có 99 cánh cửa lớn nhỏ. Con số nầy  biểu tượng cho sự viên mãn. Mỗi cửa mang phong cách kiến trúc khác nhau. Các ô cửa sổ thì làm bằng kính màu  có trang trí hoa văn. Còn các ban công  thì có cấu trúc  hình vòm  đưa  ra ngoài cùng với hệ thống lan can sắt  trang trí với  nhiều hoa văn độc đáo. Còn bên trong dinh thự  có nhiều gian  được trang trí  như trên trần sảnh với các hoa văn đắp nổi và các đèn chùm theo kiểu Pháp. Cầu thang được lát đá cẩm thạch, sàn nhà được lát gạch bông với hoa văn phong phú. Nhờ có  những cửa lớn của dinh thự  nên lúc nào cũng tràn ngập ánh nắng khiến dễ chụp hình.  Chính ở căn nhà 99 cửa nầy có thang máy đẩu tiên ở  thành phố Saïgon.

Situé au numéro 97 Phó Đức Chính du premier arrondissement, le musée des beaux-arts était auparavant le manoir de l’homme d’affaires chinois le plus riche de Saigon, nommé Hứa Bổn Hòa. Celui-ci  demanda à l’architecte français Diego Rivera de concevoir ce manoir en 1929 et l’acheva en 1934. Ce manoir a été édifié sur une superficie  ayant plus de 3000m2  avec le style architectural unique (Art Déco) et a réussi à montrer l’harmonie entre la beauté artistique de l’Europe et de l’Asie, ce qui permet d’attirer pas mal de gens passionnés de l’art et aimant vivre dans l’illusion. Le Musée des Beaux-Arts conserve actuellement de nombreuses œuvres de grande valeur, non seulement en termes d’histoire mais aussi de sculpture et de peinture. Ce musée utilise le jaune comme couleur principale. Ses murs extérieurs sont peints en jaune et sa toiture est composée de tuiles rouges yin et yang avec des bords en céramique  colorés en vert donnant l’aspect étrange et  fantaisiste. Ce manoir possède 99 grandes et petites portes. Ce nombre symbolise la perfection. Chaque porte a un style architectural différent. Les fenêtres sont en vitraux avec des motifs décoratifs. Quant aux balcons, ils sont en forme d’arc saillant avec un système de balustrades en fer ornées de motifs singuliers. À l’intérieur du manoir, de nombreuses pièces sont décorées avec des motifs en relief et des lustres de style français sur leur plafond. Les escaliers sont carrelés de marbre tandis que  le sol est pavé de riches motifs. Grâce à ses  grandes portes, le manoir est toujours inondé de lumière, ce qui facilite la prise des photos. C’est aussi ici qu’on trouve le premier ascenseur installé à Saïgon.


 

Sa Déc ( Đồng Tháp)

 

Version française

Dưới thời Pháp thuộc  Sa Đéc được xem là  thị trấn nhỏ, yên tĩnh  ở đồng bằng sông Cửu Long.Tên nó có nguồn gốc từ tiếng Khơ Me  Psar Dèk. Nay Sa Déc thuộc về tỉnh Đồng Tháp.  Chính đây là vùng Tây Nam Bộ, nơi có được một bức tranh văn hóa đa sắc với  bốn tộc chính là người Việt, Khơ Me, Hoa và Chăm.  Chính cũng nơi nầy có một chuyện tình lãng mạn, không hồi kết cuộc của một chàng trai người Việt  gốc Hoa  Huỳnh Thủy Lê cùng cô con gái người Pháp lúc còn thiếu niên, trở  thành nhà văn hào Pháp nổi tiếng về  sau với tên Marguerite Duras  qua  quyển sách « Người Tình » của bà,  được giải thưởng  Goncourt 1984 và  đã được chuyển thể thành phim và dịch ra 42 thứ tiếng. Nay chỉ còn dấu ấn của Huỳnh Thủy Lê qua ngôi nhà cổ của ông  được xếp hạng là di sản lịch sử của đất nước.

Durant la période coloniale française, Sa Đéc était considérée comme une petite ville tranquille du delta du Mékong. Son nom est dérivé du mot khmer Psar Dek. Sa Déc appartient désormais à la province de Đồng Tháp. Il s’agit de la région du Sud-Ouest de la Cochinchine, où l’on retrouve un tableau culturel multicolore avec quatre groupes ethniques principaux : les Vietnamiens, les Khmers, les Chinois et les Cham. C’est également ici que se déroule une histoire d’amour romantique sans fin entre un Vietnamien d’origine chinoise Huỳnh Thủy Lê et une adolescente française, qui deviendra plus tard une célèbre écrivaine nommée Marguerite Duras grâce à son best-seller intitulé « L’Amante » ayant remporté le prix Goncourt en 1984 et ayant été adapté en film et traduit en 42 langues. Aujourd’hui il ne reste que la trace de Huỳnh Thủy Lê grâce à sa vieille maison classée désormais comme le patrimoine historique du Vietnam.
 

No Images found.

 

Pagode Từ Hiếu (Huế)

Version française

Pagode de la piété filiale

Nằm trên núi Dương Xuân thuộc làng Thủy Xuân và  cách trung tâm thành phố Huế 5 cây số , chùa Từ  Hiếu tọa lạc trong một khu rừng thông tuyệt  vời ở phía bắc lăng vua Tự Đức. Để tưởng nhớ mẹ của ông, ngôi chùa này được xây dựng vào năm 1843 bởi hòa thượng Nhất Định. Được biết đến với cái tên Từ Hiếu để biểu thị sự tận tâm  của ông và lòng hiếu thảo đối với mẹ. Nhưng đó cũng là ngôi chùa của các hoạn quan ở Tử Cấm Thành Huế.

Perchée sur le mont Dương Xuân dans le village de Thủy Xuân et située à 5km du centre-ville de Huế , la pagode Từ hiếu se trouve dans une belle pinède au nord du mausolée de l’empereur Tự Đức. En l’honneur de sa mère, cette pagode  fut édifiée en 1843 par le moine Nhất Đinh. Elle étai connue sous le nom de Từ Hiếu pour signifier le dévouement et la piété  de ce dernier à sa mère. Mais c’était aussi la pagode des eunuques de la cité pourpre interdite de Huế.

Mausolée de Gia Long

Version française

Thông thường  đến Huế hay gặp trời mưa nhưng  kỳ nầy ba ngày ở Huế (7/11/2024 -9/11/2024) , trời lại không mưa. Nhờ đó mới có dịp đi tham quan lăng của người anh hùng được người dân Nam Bộ ngưỡng mộ, vua Gia Long nhất là nay có đường đất đi đến địa phận phường Long Hồ, quận Phú Xuân, thành phố Huế và tránh được đường bộ  khoảng 16 cây số và  phải qua  sông ở bến đò Kim Ngọc. Thật là mình có duyên kỳ nầy nhất là được đi tham quan năm lăng của các vua nhà Nguyễn và di tích thành Lồi của người Chàm ở trên đồi Long Thọ  cùng một lúc trong một ngày với chú xe ôm mặc dù đường xá không tốt chi cho mấy.

Habituellement,  il fait souvent pluvieux lors de mon passage à Huế mais cette fois, j’ai la chance d’y avoir trois jours  de suite au soleil.  Grâce à cela, j’ai eu l’occasion d’aller visiter le mausolée de celui qui était adulé par les gens de la Cochinchine, le roi Gia Long.  Il y a aujourd’hui une route menant au quartier de Long Hồ dans le district de Phú Xuân  de la ville de Huế. On peut  éviter ainsi de prendre la voie terrestre d’environ 16km et la traversée à l’embarcadère Kim Ngọc. C’est chanceux pour moi cette fois de pouvoir visiter successivement  cinq mausolées  de la dynastie des Nguyễn et la citadelle Lồi des Chams sur la colline Long Thọ  dans la même journée avec un taxi-moto malgré la route mal entretenue.

 

 

 

 

Pont Thanh Toàn avec une toiture en tuiles Yin et Yang

Cầu ngói Thanh Toàn.

Version française

Được tọa lạc ở trong địa phận của xã  Thủy Thanh, thuộc huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế, cầu nầy cách xa trung tâm  thành phố Huế 8 cây số nếu đi theo hướng Đông Nam. Cũng như chùa cầu ở Hội An, cầu nầy được dựng từ năm 1776 nhờ tấm lòng nhân ái của bà Trần Thị Đạo, vợ của một quan thần dưới triều vua Lê Hiển Tông (1740 – 1786). Bà là con cháu thuộc thế hệ thứ sáu của những tộc trưởng ở vùng Thanh Hóa theo chúa Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa.Bà cúng tiền cho làng Thanh Toàn xây dựng cái cầu nầy để cư dân ở nơi nầy qua lại thuận tiện trên con mương nhỏ sau những lúc nhọc nhằn ở ruộng đồng và có nơi ngồi để thư giãn hay câu cá. Dựa về năm tuổi thì cầu nầy dựng sau khi có chùa cầu (Hội An)  và chịu ít nhiều ảnh hưởng của chùa cầu. Chùa ngói Thanh Toàn có một lối kiến trúc cổ khá độc đáo mà thường gọi là « Thượng Gia Hạ Kiều » tức là trên là nhà dưới là cầu. Cầu nầy có mái vòm với ngói lưu ly, dài 18,75m, rộng có 5,82m, chia ra được  7 gian, hai bên thân cầu có hai dãy bục gỗ và lan can dùng để ngồi dựa lưng. Ở giữa cầu có một bàn thờ bà Trần Thị Đào.  Cầu nầy được ghi nhận ngày nay có giá trị lịch sử  và văn hoá được Bộ văn hóa trùng tu  lại từ  năm 1991.  Du khách đến đây không những chiêm ngưỡng được cái cầu nầy mà còn có dịp tìm lại nét đẹp cổ kính của một ngôi  làng xưa ở Việt Nam được thể hiện với sự  hiện diện cây đa ở đầu làng và cổng đình. Để tránh phạm huý vua Thiệu Trị, làng Thanh Toàn  đổi tên thành làng Thanh Thủy nhưng dân gian vẫn giử thói quen gọi là Thanh Toàn.

Version française

Étant situé dans la commune de Thủy Thanh appartenant au  district de Hương Thủy de la province de Thừa Thiên Huế, ce pont se trouve à 8 kilomètres du centre-ville de Huế si on suit la direction Sud-Est. Analogue au pont-pagode de Hội An, il fut construit  en l’an 1776 grâce à la bonté de la dame de nom Trần Thị Đào, l’épouse d’un mandarin sous le règne du roi Lê Hiển Tông (1740 – 1786). Elle appartient à la sixième génération des  chefs de clan issus de  la région de Thanh Hóa et accompagnant le seigneur Nguyễn Hoàng  dans la province Thuận Hóa. Pour implorer le Ciel de lui accorder la faculté d’avoir un enfant, elle  a donné de l’argent au village de Thanh Toàn pour construire ce pont afin que les villageois puissent  traverser facilement le cours d’eau après des moments pénibles dans les rizières et qu’ils puissent se détendre en entamant des discussions ou en faisant la pêche.

En se basant sur l’âge de ce pont, on sait qu’il a été construit à un moment où  le   pont-pagode de Hội An  avait déjà existé et qu’il a reçu plus ou moins l’influence architecturale de ce dernier. Le pont Thanh Toàn possède un style architectural assez unique qui est appelé souvent sous le nom « Thượng Gia Hạ Kiều », ce qui signifie qu’en haut il y a la maison et qu’en bas c’est le pont. Son dôme  est couvert des tuiles Yin et Yang.  Il mesure 18,75 m de long et 5,82 m de large. Il est divisé en 7 compartiments tandis que  des deux côtés du pont se trouvent deux rangées de plates-formes et de balustrades en bois utilisées pour permettre aux gens de s’asseoir et  s’adosser. Au milieu de ce pont il y a  un autel dédié à Mme Trần Thị Đào. Ce pont est aujourd’hui reconnu comme celui ayant une valeur historique et culturelle.  Il fut restauré par le ministère de la Culture en 1991. En venant ici, le touriste a l’occasion d’admirer non seulement ce pont mais aussi la beauté d’un village antique vietnamien,  ce qui se traduit toujours par la présence  d’une maison communale et d’un banian à la sortie du village.  Afin de  ne pas offenser l’empereur Thiệu Trị dans l’emploi de son nom, le village Thanh Toàn  change de nom en prenant celui de Thanh Thủy mais les gens ont l’habitude d’appeler toujours Thanh Toàn.   

 

 

 

Các yếu tố Chàm trong văn hóa Việt (Des éléments chams dans la culture vietnamienne)

Des éléments chams dans la culture vietnamienne

Version française

Trong dân gian, khi nói đến Huyền Trân công chúa, con của vua Trần Nhân Tôn thì người dân Việt không những xót xa cho số phận mà còn chỉ trích thậm tệ qua câu ca dao sau khi vua hứa gã Huyền Trân cho vua Chế Mân (Jaya Simhavarman III)  trong chuyến công du đặc biệt ở  thành Đồ Bàn (Vijaya, Bình Định ngày nay) của Chiêm Thành:

Tiếc thay cây quế giữa rừng, 
để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo.

chớ  nào đâu biết  tổ sư của phái Trúc Lâm có cái nhìn sâu xa của nhà chính trị đa tài muốn mở mang bờ cõi ở phía nam và cố giữ mối quan hệ láng giềng trọng yếu trong việc đấu tranh chống họa phương Bắc. Nhờ sự yểm trợ của Đại Việt ngăn chặn đường bộ  mà quân Nguyên thua lần thứ hai khi tấn công nước Chiêm Thành trước sự chỉ huy dũng cảm  của vua Chế Mân với 20.000 quân lính. Còn về Chế Mân thì Châu Ô Châu Rí khó mà kiểm soát được nữa vì cư dân Chàm bỏ trốn vào rừng hay chạy về các nơi mà chính quyền người Chàm còn cai quản  khi ba châu như Bố Chính, Mã Linh và Địa Lý của Thuận Hóa  đã bị vua chàm Chế Củ (Rudravarman III)  dưng cho vua Lý Thánh Tôn  từ lâu rồi để chuộc tội và cầu hoà. Nay mà dưng thêm hai châu nữa thì khó mà «ăn nói với dân» nhất là ngài là anh hùng dân tộc Chàm đem thắng lợi trong việc chống quân Nguyên. Chỉ có cách xin cưới Huyền Trân là phương kế tuyệt vời  cho một tình thế chính trị lúc bấy giờ. Sự kiện này cũng  minh chứng cho việc sử dụng thuyết “bất bạo động” của sư tổ Trúc Lâm  để giải quyết xung đột trong lý thuyết nhà Phật theo báo Giác Ngộ của Phật Giáo Việt Nam nhưng không ai ngờ với cái chết đột ngột của vua Chế Mân, Huyền Trân phải lên giàn hỏa để tuẩn tiết theo vua theo tập tục người Chàm. Còn theo nhà nghiên cứu Po Dharma thì đây chỉ là việc dàn dựng câu chuyện nhầm giải cứu Huyền Trân và bội ước của nhà Trần  khiến  từ đó sự việc nầy nó trở thành mối bất hòa giữa hai dân tộc dẫn đến suy vong vương quốc Chămpa qua nhiều thế kỷ về sau nầy với sự chiến thắng rực rở của vua Lê Thánh Tông ở thành Đồ Bàn (Vijaya) 

Câu ca dao mĩa mai  nầy, không biết  có đúng hay không? Văn hoá của họ  có kém không để dân gian phải miệt thị như vậy? Chúng ta  cũng cần phải biết họ là ai, họ  từ đâu đến nhất là họ có những tập tục của một nền văn hóa khác biệt mang  những yếu tố văn hóa truyền thống của Ấn Độ. Những đền tháp được thấy mà họ sở hữu trên vùng duyên hải miền trung dài hơn có 1000 cây số với những tượng thần của một tín ngưỡng xa lạ và dị biệt dù đã đổ nát hay còn nguyên vẹn nhưng lúc nào vẫn còn là những mối đe dọa vô hình ăn sâu trong tâm trí của dân tộc ta tựa  như các  tượng thờ  Brahma, Shiva, Visnu khiến tạo ra ít nhiều  sự lo ngại, hoang mang và sợ sệt  cũng như lúc chúa Tiên (Nguyễn Hoàng)  vào trấn thủ đất Thuận Hóa (Bình Trị Thiên) ở Đàng Trong, một  vùng đất đai cằn cỗi, nguy hiểm và xa xôi.

Tới đây đất nước lạ lùng
Con chim kêu cũng sợ, con cá vẫy vùng cũng lo.

Chính vì vậy theo linh mục Léopold  Cadière, để trấn an tâm hồn và có được sự an bình, dân ta không ngần ngại đưa những nơi di tích văn hoá Chàm vào thế giới tôn giáo tín ngưỡng của mình  và biến chúng thành  những nơi thờ cúng của mình cũng như  chùa Thiên Mụ, điện Hòn Chén, đền Po Nagar vân vân…

Suốt thời gian hành trình đến Thuận Hóa, nhóm tùy tùng thân tín  theo Nguyễn Hoàng  toàn bộ  gốc Thanh Hóa và hòa nhập với người Nghệ An đến từ  cuộc di dân  lần đầu ở  thế  kỷ 14 lúc Châu Ô, Châu Rí thuộc về Đại Việt. Vì vậy người ở Thuận Hóa bấy giờ gọi là người  Thanh Nghệ (Thanh Hóa Nghệ An). Biết ra đi không hẹn ngày về, khổ cực gian nan  cũng phải chịu từ  đây nhưng  đôi khi cũng  tự  an ủi mình  để  nung đốt ý chí  của kẻ phiêu lưu ở đất lạ nên  mới  có câu  ca dao dồi dào triết lý như sau: 

Măn giang nấu cá ngạnh nguồn,
Tới đây nên phải bán buồn mua vui.

Những cư dân Thanh Nghệ  tới lúc đầu không có đông ở vùng Quảng Trị ngày nay. Họ  buộc phải hòa đồng sống chung  với những người  Chàm ở lại. Lúc đầu Nguyễn Hoàng còn nói giọng Bắc nhưng chỉ cần vài thế hệ, những người  thừa kế của ngài  cùng cư  dân chịu  ảnh hưởng của môi trường xã hội từ sự sống gần gũi của hai dân tộc nhất là ở thời kỳ không còn quan hệ và giao dịch, lấy sông Gianh làm biên giới giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài, nhất là sau khi có lũy Thầy (Trường Dục) của Đào Duy Từ  nên khiến cư dân có một âm điệu đặc biệt,  có thể nhận ra được ở cư dân Quảng Bình và Quảng Trị. Theo  học giả  Thái văn Kiểm , giọng Huế được thành hình về sau từ khi chúa Nguyễn Phúc Nguyện tức là Chúa Sãi quyết định dời đô về làng Phước Yên, huyện Quảng Điền và chúa Thượng (Nguyễn Phước Lan) về làng Kim Long vào năm 1636. Chính nhờ sự giao thoa của hai văn hóa  cổ Việt Mường  (Thanh Hóa và Nghệ An) và Chàm khiến tạo ra một lối  sống  ăn uống (thích ăn cay, ăn mắm tôm, mắm ruốc vân vân..), cách trị bệnh bằng các cây thuốc phương nam, cách trồng lúa chiêm, cách đóng thuyền (thuyền bầu) đi buôn  trên biển, cách trị thủy đắp đê dọc các dòng sông, cách dùng trong mỹ thuật, ngũ sắc riêng biệt nhất là màu tím, một màu không gây cảm xúc buồn mà cũng là màu mà các phụ nữ  Chàm ưa thích và còn trọng dụng ngày nay. Đấy là những đặc trưng mới của cộng động Việt Chàm mà chúng ta thường thấy ở Bình Trị Thiên và thường được gọi là bản sắc Huế.

Theo sử gia người Mỹ Michael Vickery, dựa trên  sự phân tích ngôn ngữ so sánh  thì biết rằng người Chăm đến từ đão Bornéo bằng đường biển vào cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Ngôn ngữ của họ  thuộc về ngôn ngữ Nam Đảo. Họ hay thường đinh cư  ở những nơi nào thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hóa trên sông. Được mênh danh là người Vikings của Đông Nam Á, họ có thói quen khuấy rối trên biển và hay cướp giật ở vùng cực nam của  quận Nhật Nam trực tiếp thuộc quyền cai trị của Giao Châu thời kỳ nước ta còn bị đô hộ bởi người Hoa. Theo sự nhận xét của nhà khảo cổ học  Việt, Ngô văn Doanh,  họ hay thường ở các vùng đồng bằng ven biển  nằm giữa ba bên là núi cao và một bên còn lại đưa ra biển đều có một hoặc vài thành.

Dựa trên các sử liệu của Trung Hoa và các bi ký cồ người ta mới biết nước Lâm Ấp chuyển thành vương quốc Champa (Champapura)  từ đầu thế kỷ VII với thủ phủ là Simhapura (Trà Kiệu). Chính  nhờ cái tên Champapura mà người ta mới đoán ra được  Champa là một quốc gia được cấu thành từ các thị quốc, có thể gọi là một liên bang  của nhiều thị quốc (pura). Pura nào mạnh nhất  thì được  chọn đóng vai trò làm « thủ lĩnh » (vai trò chủ đạo) và trở thành  là Champapura (Thành của người Chiêm hay Chiêm Thành).  Vương triều của pura đó làm chủ đất nước của dân Chàm. Như vậy Simhapura (Trà Kiệu) là pura mạnh  nhất của thời kỳ đầu sau đó đến pura Vijaya (Đồ Bàn, Bình Định). Có những thời gian ngắn khác trong  niên đại lịch sử Chàm thì thấy có Hoàn Vương ở vùng phiá nam (758 – 659) hay Đồng Dương (Quảng Nam  từ năm 875 đến 983).

Theo nhà khảo cổ học Việt Nam Trần Quốc Vượng, người Chàm hay  sử dụng mô hình văn hóa sau đây gồm có 3 phần: thánh đường (núi), thành cổ (thủ đô) và cảng sông (trung tâm kinh tế) khi được  thành lập. Chính kiểu mẫu này mà chúng ta đã thấy lặp đi lặp lại ở mỗi pura  của người Chàm từ Quảng Trị đến Bình Thuận. Theo sự nhận xét của nhà khảo cổ Trần Kỳ Phương, pura nào  xây dựng đươc những công trình tôn giáo đồ sộ  phải là pura có khả năng trưng tập một  nguồn nhân lực cần thiết mà pura nầy có thể nuôi dưởng được  với  một tiềm năng kinh tế khả dĩ  chớ thông thường người Chàm sống thiên về  thương mại  trên biển nhiều vì đất trồng trọt rất hạn hẹp với những cánh đồng nhỏ của các thung lũng ven sông ở miền trung Việt Nam.

Lịch sử loài người đã bao lần chứng minh một nền văn minh cao hơn hay thường có ít nhiều tác động làm biến đổi nền văn minh kém hơn. Cũng như La Mã mạnh  đến đâu khi xâm lược phải chịu ảnh hưởng của nền văn minh Hy Lạp hay Mông Cổ, Mãn Thanh cũng vậy khi chiếm được Trung Hoa cũng bị đồng hóa bởi nước nầy. Nứớc Đại Cồ Việt của ta cũng không ngoài lệ. Hay thường khinh khi miệt thị người Chàm hay Man,  Đại Việt chúng ta có được tiếp thu cái gì không?. Đại Việt được tiếp thu nhiều thứ lắm nhất là sau khi  cuộc viễn chinh trừng phạt của vua Lê Đại Hành ở Chiêm Thành  vào năm 982. Để nâng cao uy tín và chiến thắng vẽ vang, ngài dắt về không những một tu sĩ Ấn Độ  (Thiên Trúc) đang ở lúc đó trong tu viện Đồng Dương (Quảng Nam ngày nay) mà cả trăm người nhạc công và vũ nữ  chàm (Thái văn Kiểm:64). Có thể nói là từ đó âm nhạc cung đình có mang nhiều yếu tố Chiêm Thành. Năm 1069, vua Lý Thánh Tông truyền lệnh cho các nhạc công ở  triều đình soạn  ra  một  loại âm điệu  chậm đẩy đưa  và than khóc buồn bã theo lối người  Chàm gọi là Chiêm Thành Âm. Sau đó  dưới  thời Lý Cao Tôn về sau thì có các «Điệu Nam (Airs des Méridionaux) »  như  Hà Giang Nam,  Ai Giang Nam, Nam Thương vân vân.. Còn có một nhạc cụ thường gọi  là «Trống Cơm » hay « Phạn sĩ »  mà dân ta dùng  theo An Nam chí lược của Lê Tắc thì cũng của dân tộc Chàm. Còn phần nghệ thuật  điêu khắc thì  dưới hai triều Lý và Trần, dân Việt ta  sống chịu ảnh hưởng phương nam rất nhiều để tạo ra những hiện vật như đầu rồng thời  Lý Trần  tựa như đầu rồng makara  hay  con vịt xiêm (con ngan), ngỗng thần Hamsa  của Champa chẳng hạn được tìm thấy trong hoàng thành Thăng Long từ mái ngói, đầu hồi đến hoa văn trên chén bát (Hồ Trung Tú:264).  Một yếu tố Chàm khác  thời nhà Lý  được trông thấy trong lãnh vực kiến trúc mà ít ai để ý là các chùa thời đó hay thường có bình đồ hình vuông, tựa như khuôn mẫu của các tháp Chàm (kalan). Chùa Diên Hựu (tức là chùa Một Cột)  ban đầu gồm có vỏn vẹn  một gian chính điện vuông vức 3 thước  và một cửa duy nhất  ra vào như tháp chàm, được dựng trên một cột có chiều cao 4  thước  tính từ măt nước.  Còn  các khúc đò đưa ở vùng ven biển như hò mái nhì hay hò máy đẩy tất cả đều có ảnh hưởng của người  Chàm cả. Cố giáo sư Trần Văn Khê  nhận thấy các  bài hát đò đưa của người Huế và các bài hát Pelog của người Chà Và (Nam Dương)  có cùng môt giai điệu. Ông kết luận rằng sau nhiều thế kỷ giao lưu, nhạc Việt đã nhuộm màu chàm.Theo nhà nghiên cứu Charles J.C. MacDonald (CNRS Marseille) tục lệ thờ cá ông là một đặc tính của người Việt ở vùng ven biến miền Trung  chớ ở miền Bắc thì không có tục lệ  nầy nhưng cho đến giờ các nhà học giả Việt như Thái Văn Kiểm, Trần văn Phước hay Trần Hàm Tấn thì nghĩ rằng đây là một tập quán của người Chàm mà người Việt tiếp nhận đấy.

Nhờ các yếu tố chàm nầy, văn hóa Việt trở nên phong phú và đa dạng vì ngoài văn hóa Việt-Mường (Bách Việt), nó còn được thừa hưởng ít nhiều, từ  thời kỳ dựng nước, các tâp tục  đến từ hai nền văn hoá cổ đại: Ấn Độ và Trung Hoa.

AP_CHAM

Dans le folklore vietnamien, en parlant de la princesse Huyền Trân (jaïs de jade), le peuple vietnamien  déplore non seulement le  sort qui lui a été réservé mais aussi la promesse du roi Trần Nhân Tôn  d’accorder la main de sa fille au roi cham Chế Mân (Jaya Simhavarman III) durant son voyage spécial à la capitale  Vijaya (Bình Định) à travers la chanson populaire suivante :

Tiếc thay cây quế giữa rừng, 
để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo.

C’est regrettable de laisser un Mán ou un Mừờng  grimper  sur le cannelier au milieu de la forêt.

Pourtant nous ne savons pas que le fondateur de la secte « Forêt de bambous » était un homme politique talentueux d’une grande perpiscacité voulant  étendre son territoire dans le sud et entretenir de bonnes relations de voisinage dans la lutte contre le danger venant du Nord. Grâce au soutien apporté par le royaume  Đại Việt dans le blocage du passage terrestre, l’armée des Yuan perdait la bataille pour la deuxième fois en attaquant le Champa sous le commandement du vaillant roi Chế Mân avec 20 000 soldats. Quant à Chế Mân, les deux provinces Châu Ô et Châu Ri  n’étaient pas entièrement sous son contrôle  car leurs habitants avaient fui vers la forêt ou  vers des endroits où le gouvernement cham exerçait pleinement encore son autorité, les trois autres  provinces  Bố Chinh, Ma Linh et Địa Lý étant cédées depuis longtemps au roi Lý Thánh Tôn par le roi cham Chế Củ (Rudravarman III)  en échange de la paix et de sa libération. Maintenant, en cédant encore deux autres provinces Châu Ô et Châu Ri, il  lui parut difficile de parler à son peuple, d’autant plus qu’il était le héros de la nation chame ayant eu réussi à gagner la victoire contre l’armée des Yuan. Le mariage de Huyền Trân était une excellente solution pour la situation politique de l’époque. Cet événement démontre également le recours à la méthode de la « non-violence » du fondateur de « Forêt de bambou » pour résoudre les conflits dans le bouddhisme selon le journal  vietnamien Giác Ngộ, mais personne ne s’attend à la mort subite du roi  obligeant Huyền Trân à l’accompagner et à mourir avec lui au bûcher funéraire selon la coutume chame. Selon le chercheur Po Dharma, il s’agit bien d’une mise en scène de l’histoire du sauvetage organisé de Huyền Trân et de la promesse non tenue de la dynastie  des Trần, ce qui a transformé cet incident en une profonde discorde entre les deux peuples, menant ainsi au déclin du royaume de Champa quelques  siècles plus tard avec la victoire  fulgurante du roi Lê Thánh Tông dans la citadelle Đồ Bàn (Vijaya).

Cette chanson populaire  ironique est-elle  vraie ou non? La  culture chame est-elle suffisamment médiocre pour que les gens la méprisent ainsi? Nous devons également savoir qui ils sont, d’où ils viennent avec les pratiques d’une culture différente portant des éléments culturels et  traditionnels propres à l’Inde. Les temples et les tours qu’ils possédaient sur la côte centrale actuelle  s’étalaient sur  plus de 1000 kilomètres avec des statues de dieux d’une religion étrange et différente. Bien  qu’ils fussent  en ruine ou intacts, ils  étaient toujours  des menaces invisibles profondément ancrées dans l’esprit de notre peuple comme les statues de Brahma, Shiva, Visnu, ce qui a crée plus ou moins d’anxiété, de confusion et de peur comme  c’est le cas du Seigneur Tiên (Nguyễn Hoàng) qui était  chargé de gouverner le territoire  de Thuận Hóa (Binh Trị Thiên) à Đàng Trong, une région lointaine, aride et dangereuse.

Tới đây đất nước lạ lùng   
Con chim kêu cũng sợ, con cá vẫy vùng cũng lo.

Voici un lieu bien étrange
Un cri d’oiseau m ‘effraie autant que le frétillement d’un poisson dans le ruisseau.

C’est pourquoi, selon l’abbé Léopold Cadière, afin de pouvoir  rassurer l’âme et gagner la paix, notre peuple n’hésite pas à introduire les sites culturels chams dans son monde de croyance religieuse et à les transformer en lieux de culte comme la Pagode de la Dame céleste (Thiên Mụ), le palais Hòn Chén, le temple Po Nagar etc.

Tout au long du voyage jusqu’à Thuận Hóa, le groupe des fidèles et des hommes de confiance  de Nguyễn Hoàng était tous originaires de Thanh Hóa et intégrés à celui de  Nghệ An lors de la première migration au 14ème siècle lorsque les provinces  Châu Ô et Châu Rí appartenaient au  royaume Đai Việt. Les habitants de Thuận Hóa étaient appelés à cette époque sous le nom « peuple Thanh Nghệ » (Thanh Hóa-Nghệ An). Étant partis sans connaître la date de retour, ils  devaient endurer dès lors toutes les épreuves et les souffrances. Mais,  ayant raffermi la volonté d’un aventurier dans un pays étranger, parfois, ils pouvaient se consoler.  C’est pourquoi il y a donc une chanson populaire teintée de  philosophie comme suit:

Măn giang nấu cá ngạnh nguồn,
Tới đây nên phải bán buồn mua vui.

Rien, ne vaut les pousses de bambou sauvage cuites avec la petite silure,
Une fois qu’on est sur les lieux, il faut bien vendre la tristesse en échange d’un peu d’espérance.

Étant arrivés les premiers, les habitants de Thanh Nghệ n’étaient pas nombreux dans la région actuelle de Quảng Tri. Ils étaient contraints de vivre en harmonie avec les Chams restés sur place. Au début, Nguyễn Hoàng parlait encore avec un accent du Nord, mais au fil de quelques générations seulement, ses héritiers et résidents étaient influencés  par l’environnement social issu de la  mixité des deux peuples, surtout à l’époque de la rupture des relations et des échanges commerciaux en prenant la rivière Gianh comme frontière entre Đàng Trong et Đàng Ngoài et  surtout après la construction du rempart Thầy (Trường Dục) de Đào Duy Từ, ce qui  leur a donné un ton particulier, reconnaissable  aux habitants de Quảng Bình et Quảng Trị.

Selon l’érudit Thái Văn Kiểm, l’accent de Huế  s’est formé plus tard lorsque le seigneur Nguyễn Phúc Nguyên (seigneur Sãi), a décidé de transférer la capitale au village de Phước Yên, district de Quang Điền et le seigneur Thượng (Nguyễn Phước Lan) au village de Kim Long en 1636. Grâce à l’interaction de deux cultures anciennes, Việt Mường (Thanh Hóa et Nghệ An) et Chàm, on voit apparaître  un nouveau mode de vie axé sur l’alimentation (manger épicé, pâte de crevette, pissalat etc. ), le traitement des maladies avec des plantes médicinales du sud, la cultivation du riz cham, la construction des bateaux  avec le modèle  cham (thuyền bầu) pour faire du commerce en mer, la gestion de l’eau et la  construction des digues le long des rivières et  l’utilisation dans les beaux-arts,  des cinq couleurs les plus distinctives parmi lesquelles  figure  le violet, une couleur qui ne provoque pas d’émotions tristes  et que les femmes cham  aiment et utilisent encore aujourd’hui. Ce sont les nouvelles caractéristiques de la communauté Việt-Chàm que l’on voit souvent à Binh Trị Thiên et que l’on appelle désormais l’identité de Huế.

Selon l’historien américain Michael Vickery, en se basant sur l’analyse linguistique comparée, on sait que les Cham étaient venus de l’île de Bornéo par voie maritime à la fin du premier millénaire avant J.C. Leur langue appartenait aux langues austronésiennes. Ils s’installaient souvent dans des endroits propices au transport de marchandises sur le fleuve. Connus sous le nom de Vikings de l’Asie du Sud-Est, ils avaient l’habitude de semer le trouble en mer  en pillant les bateaux dans la région côtière la plus méridionale du district de Nhật Nam dépendant directement de  l’administration de Giao Châu (pays des Vietnamiens)  lorsque ce dernier était encore annexé par les Chinois. Selon l’observation de l’archéologue vietnamien Ngô Văn Doanh, ils préféraient vivre souvent dans des plaines côtières situées entre trois versants de hautes montagnes et un versant menant à la mer, le tout doté d’une ou plusieurs forteresses.

En s’appuyant sur les documents historiques chinois et des inscriptions épigraphiques, on sait que le pays Lâm Ấp (Lin Yi)  s’est transformé en royaume de Champa (Champapura) dès le début du VIIème  siècle avec Simhapura (Trà Kiệu) comme capitale. C’est grâce au nom Champapura que l’on peut deviner que le Champa est un royaume composé de plusieurs cités-états (pura). Il est en quelque sorte une fédération de nombreuses cités-états. La cité-état  la plus puissante est choisie pour assumer  le rôle de « leader » (rôle principal) et devient ainsi Champapura (la capitale du Champa).  La dynastie de cette cité-état  contrôle ainsi  tout le royaume  du Champa.

Selon l’archéologue Trần Quốc Vượng, les Chams avaient l’habitude de se servir du modèle culturel suivant constitué toujours de 3 parties: sanctuaire (montagne), citadelle (capitale) et port ( centre économique ) dans leur cité. C’est ce type de modèle qu’on a vu se répéter dans chaque cité-état cham de Quảng Trị jusqu’à Bình Thuận. D’après l’observation de l’archéologue Trần Kỳ Phương, les cités-états  qui ont édifié des sites religieux grandioses doivent être capables de mobiliser  une ressource humaine nécessaire qu’elles peuvent nourrir  avec un potentiel économique possible. Les Chams sont orientés généralement vers le commerce maritime car leurs terres arables  trouvées   dans les vallées du littoral du centre du Vietnam sont très limitées.

Combien de fois l’histoire de l’humanité a-t-elle démontré qu’une civilisation supérieure a un effet transformateur sur une civilisation inférieure? La Rome ancienne plus puissante, au moment de sa conquête, était soumise à l’influence de la civilisation grecque. De même, les Mongols ou les Mandchous, au moment de leur conquête en Chine étaient assimilés ensuite par cette dernière. Notre royaume Đại Việt ne faisait pas exception non plus. Étant habitué à dénigrer et à mépriser les Chams (ou les Mans), notre Đại Việt pouvait-il avoir quelque chose dans cette conquête?  Il recevait beaucoup de choses lors de l’expédition  militaire punitive du roi Lê Đại Hành au Champa en 982. Pour rehausser son prestige et célébrer sa victoire, il fit revenir non seulement un moine indien (Thiên Trúc) qui se trouvait au monastère de Đ ồng Dương (Quảng Nam actuel ) mais aussi une centaine de musiciens et danseuses (Thai Van. Kiem:64). On peut dire que depuis lors, la musique royale comportait de nombreux éléments du Champa. En 1069, le roi Lý Thánh Tông ordonna aux musiciens de la cour de composer une sorte de mélodie lente et triste, dans le style du peuple cham appelé Chiêm Thành Âm. Puis, sous le règne de Ly Cao Ton, il y eut des « Rimes du Sud (Airs des Méridionaux) » comme Ha Giang Nam, Ai Giang Nam, Nam Thuong etc. Il y avait aussi un instrument de musique  cham appelé «Tambour de riz » ou « Phạn sĩ » que notre peuple utilise  fréquemment, selon le livre intulé « Annam chí lược (Archives abrégées de Lê Tắc).  Quant à la sculpture,  les Vietnamiens vivaient sous l’influence méridionale du Sud pour créer des artefacts tels que la tête d’un dragon de la dynastie Lý-Trần ressemblant à celle d’un dragon makara ou le canard siamois (vịt siêm) à l’oie Hamsa du Champa par exemple, le tout étant retrouvé dans la citadelle impériale Thăng Long sur les toits de tuiles et les pignons des bâtiments jusqu’aux motifs décorés sur les bols (Hồ Trung Tú:264).  Un autre élément cham de la dynastie des Lý que l’on observe dans le domaine de l’architecture et auquel peu de gens prêtent attention c’est que les pagodes de cette époque avaient souvent des plans carrés, semblables au modèle  des tours chams (kalan). La pagode Diên Hựu (la pagode au pilier unique) se composait à l’origine d’un  hall principal carré de 3 mètres seulement et d’une seule entrée semblable à celle d’une tour chame, érigée sur une colonne de 4 mètres de haut au-dessus de la surface de l’eau.Quant aux barcarolles de la région côtière comme le chant de la deuxième rame (hò mái nhì) ou chant de la rame propulsive (hò mái đẩy), elles ont tous reçu l’influence chame. Selon le professeur musicologue Trân Văn Khê, les chants des bateliers de Huế (ou barcarolles) et les chants de Pelog  de Java (Indonésie) présentent tous deux la même ligne mélodique. Il a conclu qu’après des siècles d’échanges, la musique vietnamienne était teintée de la couleur cham. Selon  le chercheur Charles J.C. MacDonald (CNRS Marseille), le culte de la baleine est considérée comme une caractéristique typique trouvée chez les Vietnamiens vivant le long de la côte du Centre et du Sud Vietnam car les gens du Nord ne l’ont pas eu. Certains érudits vietnamiens tels que Thái Văn Kiểm, Trần văn Phước ou Trần Hàm Tấn ont confirmé que ce culte appartient aux Chams.

Grâce  ces éléments chams,  la culture vietnamienne est devenue riche et diversifiée car outre  la culture Việt-Mường (Bai Yue), elle a hérité aussi plus ou moins, depuis la fondation du pays,  des traditions issues des  deux anciennes cultures:  l’Inde et la Chine.

Bibliographie

Thái Văn Kiểm: Việt Nam quang hoa Editeur Xuân Thu, USA
Georges Cœdès: Cổ sử các quốc gia Ấn Độ Hóa ở Viễn Đông. NXB Thế Giới năm 2011
Pierre-Yves Manguin: L’introduction de l’islam au Champa. Études chames II. BEFEO. Vol 66 pp 255-287. 1979
Pierre-Yves Manguin: Une relation ibérique du Champa en 1595. Études chames IV. BEFEO  vol 70 pp. 253-269
Ngô văn Doanh: Văn hóa cổ Chămpa. NXB Dân tộc 2002.
Hồ Trung Tú: Có 500 năm như thế. NXB Đà Nẵng 2017.
Agnès de Féo: Les Chams, l’islam et la revendication identitaire. EPHE IVème section.2004
Thái Văn Kiểm: Panorama de la musique classique vietnamienne. Des origines à nos jours.  BSEI, Nouvelle Série, Tome 39, N° 1, 1964.
Thurgood Graham: From Ancient Cham to modern dialects . Two thousand years of langage contact and change. University of Hawai Press, Honolulu. 1999
Trần Trọng Kim: Việtnam sử lược, Hànội, Imprimerie Vĩnh Thanh 1928.
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Nhà xuất bản Thời Đại. Năm 2013.
Trần Kỳ Phương: Nghệ thuãt Champa. Nghiên cứu kiến trúc và điêu khắc đền tháp. Nhà Xuất Bản Thế Giới
Nguyễn văn Kự- Ngô văn Doanh: Du khảo văn hóa Chăm.  Viện nghiên cứu Đông Nam Á. 2004