Paris au crépuscule (Paris lúc chiều tàn)

Các tia nắng ở cuối ngày cùng dòng nước óng ánh lên sắc cam rực rỡ của sông Seine  tạo ra một quan cảnh tuyệt vời khi thành phố bắt đầu lên đèn. Bạn sẽ ngẩn ngơ và cảm nhận thích thú rạo rực trong lòng ít nhiều  khi có được những khoảnh khắc kỳ diệu nầy. Đây cũng là những kỷ niệm khó quên khi bạn có dịp đến với kinh đô ánh sáng Ba Lê. 

Les derniers rayons du soleil couchant et les eaux  irisées de la Seine vous offrent un spectacle merveilleux lorsque la ville commence à s’illuminer. Vous serez abasourdi et vous sentirez une légère excitation dans votre cœur lorsque vous aurez des moments magiques. Ce sont des souvenirs inoubliables lors que vous avez l’opportunité de visiter la ville lumière qu’est Paris.

The last rays of the setting sun and the iridescent waters of the Seine offer you a marvelous spectacle when the city starts to light up. You will be stunned and feel a slight excitement in your heart when you have these magical moments. These are unforgettable memories when you have the opportunity to visit the city of light that is Paris.

Hanoï c’est quoi en chacun de nous?

 

Hà Nội là gì trong mỗi chúng ta?
Hanoï c’est quoi en chacun de nous?

Hà Nội là bát bún ngan giản dị ? Là những ghế nhựa ngồi bệ? Là gánh hàng rong với chiếc đòn gánh là cầu Long Biên còn người gánh lại là một cô robot ? Hay là Hànội là… Đây là cuộc thi vẽ minh họa thuộc dự án Hanoi Rethink được tổ chức bởi UNESCO với sự đồng hành của nhóm Vietnam local Artist Group.

Hanoï c’est quoi en chacun de nous ? Hanoï est-elle un simple  bouillon de canard  aux vermicelles ? Ou ce sont les  chaises basses en plastique ? Ou le vendeur ambulant dont  la palanche est le pont Long Bien et qui est en fait un robot ?  Ou bien Hanoi est … C’est le concours d’illustration appartenant au  projet Hanoi Rethink organisé par UNESCO en collaboration avec le groupe Vietnam local Artist.

Un bistro au cœur du vieux quartier de Hanoï

Quán ăn Hanoï 1930 Bistro
Le restaurant Hanoï 1930 Bistro
 
Kỳ nầy trở ra Hànôi lúc hè 2022 mới khám phá ra các quán ăn mà tụi nầy thích ăn ở phố cổ phần đông đều đóng cửa sau khi bệnh dịch Covid. Tuy nhiên tụi nầy cũng kiếm ra một quán ăn Việt có tiêu chuẩn Châu Âu ăn cũng ngon và có một góc nhìn xuống quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục rất đẹp về đêm ở giữa lòng phố cổ Hanoï.
 
De retour à la capitale Hanoï en été 2022, nous avons constaté la disparition d’un grand nombre important de restaurants préférés durant l’épidémie de COVID. Cependant nous avons réussi à trouver un nouveau restaurant conforme aux normes européens où la cuisine vietnamienne est assez bonne et ayant une vue superbe au fil de la nuit sur la place célèbre Đông Kinh Nghĩa Thục au cœur du vieux quartier de Hanoï.

Jupe des femmes Hmong (Váy của phụ nữ Hmong)

 

Version française

Chiếc váy xoè  có hơn 200 xếp ly  của người phụ nữ Hmong được xem trong tự điển hiện vật văn hoá các dân tộc Việt Nam là cầu kỳ nhất trong việc trang trí thêu các họa tiết. Tùy theo mỗi nhóm người  Hmong (Hmong Hoa,  Hmong Đen, Hmong Trắng hay Hmong Đỏ) mà hoa văn họa tiết lại khác nhau. Thường thấy trên váy các chấm tròn xen lẫn đường kẻ thẳng hay là hình hoa lá  hoặc hình xoán ốc  nhưng các hoa văn họa tiết nầy  phản ánh đời sống của người Hmong với thiên nhiên. Váy nầy được may bằng vải lanh nhuộm chàm. Màu nầy  là màu căn bản  thường được trọng dụng bởi các phụ nữ Hmong trong việc may quần áo. Màu xanh tuyệt vời này  tô điểm cuộc sống của họ  từ lúc còn bé (6 hay 7 tuổi).  Bởi vậy  các phụ nữ Hmong được xem là  những phụ nữ khéo tay. Những chiếc váy sặc sỡ,  những tác phẩm thêu thùa  trang nhã  và những trang sức tinh xảo  làm họ  có tiếng tăm ở  khắp vùng Đông Nam Á. Đây cũng là biểu tượng độc đáo của bản sắc dân tộc Hmong. Họ thường được đa số người ở thế giới tiếp tục gọi họ là  «dân tộc đa sắc » như chiếc cầu  vồng.

Version française

Dans le dictionnaire des artefacts culturels des ethnies vietnamiennes, la jupe de la femme Hmong comportant de nombreux plis est considérée toujours comme la plus sophistiquée dans la décoration et la broderie de motifs. En fonction de chaque groupe des Hmong (Hmong fleuri, Hmong Noir, Hmong Blanc ou Hmong Rouge) les modèles de texture sont  très variés.  On est habitué à voir sur les jupes  des points ronds  entrecoupés de lignes droites ou de fleurs ou de spirales, mais ces motifs de texture reflètent  bien la vie des Hmong avec la nature.

Cette jupe est en lin et teint à l’indigo. Cette couleur est la couleur primaire couramment utilisée par les femmes Hmong dans la confection de leurs vêtements. Cette superbe bleu indigo colore bien leur vie depuis leur enfance. (6 ou 7 ans). C’est pour cette raison qu’on dit qu’elles ont la main bleue. Les jupes bigarrées, les broderies élégantes et les bijoux fins font incontestablement leur réputation à travers l’Asie du Sud -Est. C’est aussi le symbole unique de leur identité. Les Hmong sont toujours appelés par la majorité des gens dans le monde sous la dénomination « peuple-arc-en-ciel »

Le tigre dans l’art ancien du Vietnam (Hổ trong mỹ thuật cổ Việt nam)

Hổ trong mỹ thuật cổ Việt Nam

Version française

Đối với đại đa số  người Việt, hổ là  một con vật  đáng kính sợ. Vì sợ  hổ trả thù nên họ dành cho hổ những dấu hiệu tôn thờ qua những ngôi miếu dành riêng cho hổ  hay thường thấy được nằm rải rác ở  khắp khu rừng sâu thẩm ở miền núi. Đến nay  còn thấy nhiều dân tộc  ở miền núi còn thờ hổ.  Có  thể có liên quan đến tín  ngưỡng vạn vật hữu linh  của cư dân thưở xưa. Ngoài sức manh  uy phong  lẫm liệt của hổ, nó còn thường được xem là con vật có khả năng nghe lén các cuộc đàm thoại của họ. Vì vậy hổ được gọi là ông thính. Để tránh gọi tên hổ, người dân Việt  hay thường ám chỉ hổ với cái  tên là « ông ba mươi ».

Ngay cả trước khi giết hổ  sau khi bắt được nó,  họ cũng không quên bày tỏ lòng tôn kính lần cuối bằng cách tổ chức một buổi  nghi lễ trước đó.  Họ thường so sánh  họ với hổ qua câu châm ngôn như sau:

Hùm chết để da, người chết để tiếng.

Rất tiếc ngày nay hổ  ở  Đông Dương không còn nhiều nữa và đang ở trong tình trạng nguy cơ  tuyệt chủng vì các bộ phận của hổ được dùng làm thuốc đông y,  được bán với giá cao trên thị trường chợ đen, giá 100 gram cao hổ cốt bán tới 1.000 đôla.

Sự xuất hiện hình ảnh hổ trong nghệ thuật  cổ  được thấy từ  thời kỳ Đồng Sơn qua các chuôi dao gâm thường   được kết hợp  với voi hay rắn được thấy ở di chỉ Làng Vạc  ở  Nghệ An chẵng hạn  hay các thạp đồng như thạp VạnThắng (Cẩm Xuyên, Phú Thọ).  Thạp nầy được trưng bày ở bảo tàng lịch sử quốc gia với  bốn tượng  hổ cập mồi rất sinh động quay vòng trên nấp thạp hay chiếc qua đồng có hình hổ  được  khắc  hai mặt  với  những chấm trên thân được  nhà khảo cứu Pháp Louis Pajot sưu tầm và đưa về  trưng bày  ở  bảo tàng Finot (nay là bảo tàng lịch sử quốc gia  ở  Hànội). Ngoài ra còn có các hình hổ trang trí bằng họa tiết chìm. Điều nầy thể hiện  được  nghệ thuật điêu khắc và trang trí của người Đồng Sơn mang tính tả thực và ước lệ. So với các hình ảnh rồng, phượng, hưu, cá, vịt vân vân  thì  hình ảnh hổ rất hiếm hoi trên đồ gốm. Tuy nhiên thạp gốm hoa nâu nổi tiếng nhất là thạp hoa nâu khắc hình ba con hổ đuổi nhau được thấy  ở bảo tàng Guimet (Paris).

Những hình hổ được thấy ngày nay không còn mang ý nghĩa tâm linh, tín ngưỡng hay sợ hải nữa mà chỉ dùng để thể hiện  sự phong phú đa dạng trong việc trang trí trên các đồ gốm hay tạo ra  bằng đá nhầm để lại một dấu ấn riêng biệt theo sở thích của người đặt mua hàng.

Version française

Pour la grande majorité des Vietnamiens, le tigre est un animal redoutable. Par peur de vengeance, ils donnent aux tigres des signes d’adoration à travers des temples dédiés aux tigres, souvent dispersés dans la forêt profonde des montagnes. Jusqu’à présent, de nombreux groupes ethniques des régions montagneuses vénèrent encore les tigres. Cela peut être lié aux croyances animistes des anciens habitants. Outre la force imposante et majestueuse du tigre, il est aussi souvent considéré comme un animal capable d’écouter leurs conversations, ce qui fait de lui connu sous le nom « Monsieur l’écouteur (Ông thính) ». Pour éviter de l’appeler sous son propre nom « Hổ ou cọp), les Vietnamiens se réfèrent aux tigres avec le nom « Monsieur Trente ». Avant même de le tuer  après l’avoir attrapé, ils n’ont pas oublié de lui rendre un dernier hommage en lui organisant au préalable un rituel. Ils se comparent souvent aux tigres à travers le proverbe suivant:

Le tigre mort laisse sa peau et l’homme décédé sa réputation.

Malheureusement, il n’y a pas beaucoup de tigres en Indochine aujourd’hui. Ces derniers sont en voie d’extinction car toutes les organes de leur corps  sont utilisés dans la médecine traditionnelle chinoise et sont vendues à prix d’or sur le marché noir.  C’est le cas  de la poudre issue d’os de tigre et proposée avec un prix élevé de 100 grammes  à 1 000 dollars.

On voit apparaître les images des tigres souvent associées à des éléphants ou des serpents dans l’art ancien à  l’époque de  Đồng Sơn,  sur les lames des poignards trouvés sur le site de Làng Vạc à Nghệ An par exemple, ou  bien des situles en bronze comme la situle  Vạn Thắng. (Cẩm Xuyên, Phú Thọ). Cette dernière est exposée au musée national de l’histoire  avec quatre blocs de statues de tigres capturant la proie et  répartis de manière circulaire sur le couvercle de la situle  ou la hache en bronze (qua đồng) recueillie par le chercheur français Louis Pajot qui a eu le mérite  de l’offrir au musée Finot (*). On trouve  l’image d’un tigre gravée sur les  deux faces  de la hache avec des points.  Il existe également des images de tigre décorées de motifs en creux. Cela montre que l’art de la sculpture et de la décoration du peuple dôngsonien  est réaliste et conventionnel. Comparées aux figures de dragons, de phénix, de cerfs, de poissons, de canards etc., celles des tigres sont très rares sur la céramique. Pourtant  le vase à glaçure brune le plus célèbre est celui de trois tigres dans la poursuite,  trouvé au musée Guimet (Paris). Les images des tigres vues aujourd’hui ne  reflètent plus le caractère  spirituel, religieux ou de peur. Elles sont utilisées uniquement dans le but de montrer la richesse et la diversité de la décoration dans la céramique ou dans la pierre et de laisser  ainsi  une  marque particulière selon le goût et les préférences de l’acheteur.

(*) C’est le musée national de l’histoire de Hanoï.

Giải mã các truyền thuyết của dân tộc Việt.

Giải mã những thông điệp mà người Việt cổ để  lại trong truyền thuyết.
Văn hóa Lương Chử và Thạch Gia Hà.

Décrypter les messages laissés par les Proto-Vietnamiens dans leurs légendes. Cultures de Lianzhu et Shijahé.

Version française

Tại sao dân tộc Việt có nhiều chuyện cổ tích và truyền thuyết hơn mọi dân tộc khác trong vùng Đông Nam Á? Đôi khi làm người đọc tự hỏi các truyền thuyết nầy có thật hay không hay là  được viết ra do sự tưởng tượng của con người, có phần kì ảo và không có thật. Thật sự  nguồn gốc của người Việt rất mơ hồ trong lịch sử bởi vì chỉ dựa trên  các truyền thuyết đôi khi còn làm ta khó tin và phi lý như truyền thuyết «Lạc Long Quân-Âu Cơ » với cái bọc nở ra một trăm trứng.

Đối với nhà nghiên cứu Paul Pozner [1], thuật chép sử Việt Nam đều dựa trên truyền thống lịch sử lâu dài và vĩnh cửu và được thể hiện bởi cách truyền miệng kéo dài  từ nhiều thế kỷ của thiên niên kỷ đâu tiên trước công nguyên  dưới hình thức các truyền thuyết lịch sử được phổ biến  ở trong các đền thờ cúng tổ tiên. Tại sao dân tộc ta không có được sử sách như người Trung Hoa tuy có sự hiện diện lâu đời ở Đông Nam Á. Nơi nầy còn được xem là cái nôi của nền văn minh nhân loại qua sự nhận xét của nhà vật lý người Anh Stephen Oppenheimer trong tác phẩm  «Địa đàng ở phương Đông» [2]. Chính cũng ở đất nước ta với các cuộc khai quật ở đầu thế kỷ 20 mà nhà nữ khảo cổ Pháp Madeleine Colani khám phá  được văn hoá Hòa Bình (18000-10000 TCN) vào năm 1922.  Đây cũng là một nền văn hoá khởi nguồn cho nền văn minh của người Việt cổ, một nền văn minh trồng lúa nước. Sở dĩ  dân ta không có sử sách mà còn bị  người Hoa thống trị có gần một ngàn năm.  Lúc nào họ  cũng cố tình xóa  bỏ nguồn gốc của dân tộc ta từ thời nhà Hán với Hán Vũ Đế. Sử ký của Tư Mã Thiên [3] đều viết có ý đồ chính trị  và tham vọng của kẻ xâm lăng nhầm  Hán hoá  các dân  tộc bị thống trị và  tăng cường quyền lực và uy tín con của Trời (thiên tử) trong một  quốc gia đa dạng về mặt dân tộc học và để  phù  hợp sau cùng với ý nghĩa hai chữ Trung Quốc ((zhōngguó) (中華)(centre de l’univers).  Bởi vậy trong lịch sử Trung Hoa có nhiều chuyện hoang đường khó tin nổi lấy râu thằng A cắm qua thằng B nhất là thời tam hoàng ngủ đế. Tất cả điều này một phần lớn là do sự vay mượn các truyền thống, phong tục và các nhân vật thần thoại hoặc động vật từ các dân tộc mà họ đã thành công trong việc hán hóa. Các  nhà nho giáo người Việt  đôi khi cũng nhầm lẫn dựa trên sách  vở  của người Hán như trong  Đại Việt Sử Ký Ngoại Kỷ Toàn Thư mà nói người Giao Chỉ (Việt cổ) (Jiaozhi)  không biết cày cấy cần nhờ  thái thú  Cửu Chân thời nhà Tây Hán Nhâm Diên (Ren Yan) dạy dân khai khẩn ruộng đất, hàng năm cày trồng để  cho trăm họ no đủ. Luôn cả các nhà khảo cổ phương Tây  thì cũng vậy, cho rằng người Việt Cổ  chỉ là những người sống bằng nghề đánh cá, săn bắn và hái lượm dựa trên sách vở của Trung Hoa.

May thay nhờ các tài liệu  nghiên cứu di truyền của Hugh McColl cùng nhóm đồng nghiệp [4] và các cuộc khai quật khảo cổ  trong thời gian qua thì biết rõ ngày nay cư dân Hoà Bình là những người đầu tiên biết rõ về kỷ thuật  trồng lúa  nước và nông nghiệp khác như ngũ cốc vân vân…(Hang Ma chẳng hạn). Sau đó có một trận lụt lớn đã xảy ở  thời điểm 12000 năm trước  khiến làm một phần lớn đất đai mà các nhóm cư dân tiền sử sinh sống như lưu vực sông Hồng đã chìm xuống dưới biển khiến buộc lòng họ phải mạo hiểm di tản khắp mọi nơi phía nam ở Châu Đại Dương, phía đông ở Thái Bình Dương hoặc phía tây ở Ấn Độ hay  phía bắc ở vùng sông Dương Tử mang theo đặc trưng văn hóa Hòa Bình với di chỉ Tiên Nhân động (Xian Ren Dong) chẳng hạn ở Giang Tây (Jiangxi). Họ có dừng chân ở lưu vực  sông Dương Tử vì nơi nầy thuận lợi ở thời điểm đó cho việc phát triển  trồng lúa nước.  Rồi có một nhóm người vẫn tiếp tục hành trình đi lên vùng Đông Á, đem theo lúa đã được họ  thuần hóa (di chỉ Thường Sơn, Shangshan) qua ngã Chiết Giang (Zhejiang) và kê để rồi định cư  không những ở  đồng bằng sông Hoàng Hà mà còn lên đến tận vùng sông Liêu (Nội Mông). Chính họ hợp nhất  ở nơi nầy vớí cư dân cổ Bắc Á, những người du mục có dấu tích ở hang Devil’s Gate  thuộc  vùng lãnh thổ Nga giáp ranh giới  với Triều Tiên (Tây Bá Lợi Á) mà tạo ra người Mongoloid phương Bắc điển hình và văn hoá  Hồng Sơn được tìm thấy từ khu Nội  Mông đến Liêu Ninh (Hoa Bắc).

Những  người Mông Cổ phương Bắc còn  tiến xuống vùng sông Hoàng Hà, nơi có  người Miêu tộc cư trú và gỉỏi về làm ruộng. Họ được gọi là  bộ tộc « Yi » Bởi vậy chữ tượng hình Yiđược có nguồn gốc từ hình chữ  người  có mang một cây cung   Họ được nổi bật trong việc cởi ngựa bắn cung và họ rất thiện chiến.  Bởi vậy họ dành thắng lợi với Hoàng Đế (Yandi)  trong cuộc chiến tranh với người Miêu tộc do Xi Vưu (Chiyou) cầm đầu tại Trác Lộc (Zhuolu) ở Hà Bắc (Hebei)  vào năm 2704 TCN, dẫn đến sự thành hình nền văn minh Hoa Hạ (Ngưỡng Thiều (Yangshao)  và Đại Vấn Khẩu (Dawenkou)) và tạo ra chủng Mongoloïd phương Nam với cư dân cổ  Đông Nam Á. Người Mongoloïd phương Nam càng ngày càng tăng số lượng và trở thành chủ nhân của lưu vực Hoàng Hà từ  đó. Họ cũng là tổ tiên của người Hán (Trung Hoa) hiện đại. Ở lưu vực sông Dương Tử có sự thành hình cộng đồng tộc Việt Tai-Kadai từ sự gần gũi của các cư dân bản địa thuộc hệ ngữ Nam Á và cư dân tiền Nam Đảo, Tai-Kadai đến sau. Từ  các yếu tố di truyền do sự hoà huyết  giữa các cư dân bản địa và di cư mới đến với các làn sóng di cư từ Bắc Á xuống Nam Á và ngược lại qua cả nghìn năm khiến có sự thay đổi ở trong cấu trúc của gen nhất là có sự ảnh hưởng của môi trường sinh sống khiến  có  sự  thay đổi dĩ nhiên về dáng vóc cũng như màu da và dẫn đến sự thành hình người Hoa Bắc, Hoa Nam cùng người Việt thuộc chủng Nam Á.

Chủng nầy là chủng tộc hợp nhiều sắc tộc ở Đông Á. Chính cũng ở nơi  nầy mà tộc Việt  nhận thức họ khác biệt rõ ràng với các tộc du mục ở khu vực sông Hoàng Hà. Họ tự xưng họ là Yue. Chữ  « Việt (Yue  (rìu)) » mà họ dùng để tự xưng họ là cư dân sống  ở khu vực  sông Dương Tử hay có  thói quen dùng chiếc rìu để canh tác trồng trọt và tự vệ  khi có sự xâm lựợc của người Hoa Hạ chớ những người nầy lúc nào vẫn xem họ là Man Di. Chính họ dẫn đến sự thành hình các nền văn hóa lớn như Lương Chử (Liangzhu)  và Thạch Gia Hà (Shijiahé) ở sông Dương Tử. Chính nhờ những cuộc khai quật khảo cổ ở phía hạ lưu sông Dương Tử vào thập kỷ 1970 mà chúng ta được biết đến văn hóa Lương Chử.  Văn hoá nầy  còn tiến bộ hơn nhiều lần so với văn hoá Ngưỡng Thiều (Yangshao)  vì nó có  từ 3.300 đến 2500 TCN với sự khám phá  chữ tượng hình được  khắc trên đá, yếm rùa, xương thú trong bói toán và cúng tế. Chữ nầy có sớm hơn Giáp cốt văn Ân Khư 2.000 năm.

Được  biết người cư dân Lương Chử có một lối sống định cư ổn định cùng một hệ thống tưới tiêu bằng nguồn nước lưu giữ qua các kênh mương và một tổ  chức xã hội cần nhiều nhân lực cho việc sản xuất và phân phối. Theo  tài liệu khảo cổ và truyền thuyết nói về Thần Nông (sống khoảng 3320-3080)  thì có sự trùng hợp hoàn toàn  với nền văn hóa nầy.

Vua  Thần Nông  là vị vua đầu tiên  ở phương nam còn phương bắc  thì các tộc du mục được vua Hoàng Đế (người Hoa Hạ) cai trị. Theo học giả Hà Văn Thùy thì khoa học xác nhận, từ vật chứng ADN lấy trực tiếp trên di cốt Lương Chử thì dân cư xứ nầy gồm có hai dạng có mã di truyền M122 (chủng Indonesian) và M119 (chủng Melanesian). Hai chủng người nầy đa số đều người từ Đông Nam Á di cư lên Hoa lục cách đây 12000 năm trước. Hai chủng người nầy làm nên dân cư người Lương Chử. Các đồ tạo tác đặc trưng nhất của nền văn hóa Lương Chử là các đĩa bi có lỗ ở giữa và  các tông mà tông lớn nhất được khai quật nặng 3,5 kg hay là những vật bằng ngọc thạch mang tính lễ nghi được làm một cách tinh xảo và thường được chạm khắc theo mô dạng thao thiết (taotie) hay là rìu. Những lưỡi cày bằng đá đạt đến kích thước lớn hơn nhiều, trong một số trường hợp dài tới 60 cm. Những chiếc máy cày thì chắc chắn do gia súc kéo (có thể là trâu). Liềm, dụng cụ dùng để thu hoạch, cũng được trọng dụng  đáng kể. Nền văn hóa nầy có hệ thống phân cấp xã hội thể hiện ở sự khác biệt về chôn cất trong các mộ đất của những người có quyền lực và qúi phái và những người nghèo.Trong các mộ của giới qúi phái  thì các đồ vật dùng bằng ngọc bích, ngà, lụa hay sơn mài trong khi đó ở giới hạ  lưu thì chỉ  có  đồ  gốm. Các  đĩa bi được sử dụng trong bối cảnh nghi lễ và thường  có nhiệm vụ bảo vệ người về thế giới bên kia. Bi thường được kết nối với trời và màu xanh, trong khi tông, với hình dạng hình ống vuông ở bên ngoài và hình tròn bên trong, được liên kết với đất và màu vàng.  Quan niệm nầy  làm chúng ta nhớ đến  hình dáng bánh chưng bánh dày của tộc Việt nhân dịp Tết nguyên đán.

Ngoài ra trên những hình thao thiết  hay thường  thấy «Thần nhân thú diện» tức là biểu hiệu của thần Xi Vưu thể hiện lòng can đảm theo học giả Hà Văn Thùy [5]. Còn theo nhà khảo cổ người Pháp Alain Thote thì  đây là một biểu tượng nhận dạng  mang  tính cách ma lực tôn giáo và có ý tưởng liên quan đến cái chết  khi ông nghiên cứu các thanh gươm của người Việt cổ (Ngô -Việt) ở thời  Đông Châu Liệt Quốc [6]. Tuy thời gian quá cách xa từ văn hoá Lương Chử đến thời nhà Đông Châu có cả nhiều thế kỷ, việc  chạm khắc trang trí «Thần nhân thú diện» trên các gươm không phải ngẫu nhiên nhất là chỉ trang trí một mặt và theo chiều hướng từ cán ra đến đầu lưởi gươm chắc chắn có ngụ ý cần  đến  sự che chở của thần nhân tức  là thần  Xi Vưu. Sau khi  bị giết, ông được trở thành một vị thần chiến tranh nhầm bảo hộ các tộc người Việt trên đất Trung Hoa ở phương nam cùng  chung một gốc trong đó có người Lương Chử  được các học giả Trung Hoa xác nhận là Vũ Nhân (羽 人)  hay Vũ dân, những người  thờ vật  Chim và Thú tức là Tiên Rồng (truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên). Theo tự điển Hán nôm, chữ Vũ (羽) chỉ chung một loại chim. Tại sao Tiên Rồng? Từ thưở xưa, chim  là  loại  vật có thể   bay cao vượt núi đến bồng lai tiên cảnh, nơi  cư ngụ của các tiên nữ. Còn rồng chắc chắn là thủy quái  mà trong sử nước ta  gọi là con thuồng luồng (giao long). Thời đó ở sông Dương Tử có  một loại cá sấu  nay đang ở  trong tình trạng bị đe dọa tuyệt chủng.  Để tránh sự tấn công của thủy quái, tộc Việt hay có tục lệ xâm mình. Bởi vậy tộc Việt ghép cho vật tổ của họ là Chim và Rồng với quan niệm song trùng lưỡng hợp  (hai thành một). Còn tên thị tộc  Hồng Bàng  cũng từ vật tổ Chim Rồng mà ra.  Văn hóa Lương Chử nằm ở hạ  lưu  sông Dương Tử  trong khi đó nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương  thì  tới bắc Hồ Động Đình, đông thì Biển Đông, tây giáp với Ba Thục, nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành). Theo học giả Hà Văn Thùy thì ta thừa biết ranh giới quốc gia và ranh giới văn hóa  chỉ tương đối mà thôi vì hay thường có sự chồng lấn lên nhau. 

Lý do gì mà văn hoá Lương Chử  lại biến mất và được thay sau đó bởi văn hóa Thạch Gia Hà (Shijiahé). Văn hóa nầy được xem thừa kế  của văn hoá Khuất Gia Lĩnh (Qujialing (3400-2500 TCN)  phát triển  ở mức độ cao hơn qua các đồ bằng ngọc hình tròn tượng trưng cho trời như rồng hay chim phượng hoàng  và  được  tập trung  chung quanh khu vực  Động Đình Hồ.  Như vậy ta thấy rõ hơn nước Xích Quỷ của tộc Việt bao  gồm các khu vực của hai nền văn hóa Lương Chử và Thạch Gia Hà. Tại sao gọi nước ta là Xích Quỷ? Thuật ngữ Xích được dùng để chỉ màu đỏ và ngụ  ý  chỉ phương nam. Còn Quỷ thì nói đến ngôi sao đỏ Yugui Qui, một chòm sao rực  rỡ trong  Nhị thập bát tú theo cách chia trong thiên văn học phương Đông. 

Sự sụp đổ của nền văn hóa Lương Chử đã gây ra rất nhiều tranh cãi trong cộng đồng khảo cổ học. Một giả thuyết được phổ biến mạnh mẽ là thiên tai lũ lụt khiến tàn phá nhà cửa ở vùng đất nầy suốt một thời gian dài và buộc lòng cư dân ở đây phải di cư ẩn trốn ơ ở  nơi khác. Họ đem đi với họ ngọc bích,  nghề trồng lúa, nuôi tầm và sơn mài. Cũng có thể là đúng vì theo truyền thuyết Tam Hoàng Ngũ Đế của Trung Hoa thì Đại Vũ (vua đầu tiên của nhà Hạ) có công trị thủy để ổn định cuộc sống và  phát triển việc cày cấy nên được vua Thuấn truyền ngôi lập ra nhà Hạ (2255 TCN – 2207 TCN)  lúc mà văn hoá Lương Chử biến mất.  Nhưng cũng khó tin nỗi vì đây là truyền thuyết được ghi chú lại trong sử ký của Tư Mã Thiên ở  thời Tây Hán và cũng  chưa có gì chứng minh xác thực  nhà Hạ có thật hay không? Nhưng gần đây, giả thuyết nầy được  nhà địa chất học người Áo, Christophe Spötl [7] của đại học Innsbruck  cùng các đồng nghiệp xác nhận trong tạp chí Science Advances qua một nghiên cứu ngày 24 tháng 11 2021. Sự sụp đổ của văn hoá Lương Chử và các nền văn hóa ở thời kỳ đồ đá mới khác ở vùng hạ lưu sông Dương Tử là do sự biến đổi khí hậu, mưa lũ không  ngừng khiến cư dân ở đây phải bỏ trốn ra đi.

 

Nhưng theo nhà nghiên cứu Nhật Bản Shin’ichi Nakamura [8] của đại học Kanazawa thì văn hóa Lương Chử biến mất vì sự cạn kiệt tài nguyên ngọc bích. Đối với văn hóa Lương Chử, toàn bộ nguồn sức mạnh  chính trị đều dựa  trên ngọc bích. Chỉ có những người sở hữu những thứ này mới có thể nắm giữ  được quyền lực và tính hợp pháp của nó. Bởi vậy ở giai đoạn cuối cùng của nền văn hóa Lương Chử thì thấy các hiện vật như cong ngọc không còn được xuyên suốt nửa.  Ngược lại ở trung lưu sông Dương Tử thì  văn hóa Thạch Gia Hà (Shijiahe) được  có  kỷ thuật điêu khắc ngọc ở mức độ hoàn hảo và vượt trội  hơn hai nền văn hoá Lương Chử và Hồng sơn qua 250 di chỉ bằng ngọc bích được các nhà khảo cổ  tìm thấy ở địa điểm Tanjialing (Hồ Bắc) vào năm 2015. Văn hóa nầy  trở thành một nơi trung tâm có tầm quan trọng hơn với  sự thành hình của đại tộc Bách Việt (百越).

Tương tự thành phố Lương Chử, thành phố Thạch Gia Hà có  một hệ thống kênh mương được đào xung quanh các khu đô thị và kết nối với các con sông gần đó. Trong số các hiện vật được tìm thấy ở văn hóa nầy ngoài  đĩa bi, ngọc tông và rìu còn có một hiện vật cần có sự chú ý của mọi người đó là chiếc bình gốm lại có hình một thủ lỉnh mà trên đầu có cái gù trang sức  với lông chim rất phù hợp với hình người  nhảy múa mặc bộ đồ bằng lông chim trên các trống đồng (Ngọc Lũ chẳng hạn) của nền văn hoá Đồng Sơn. Cũng chính là biểu tượng của tộc Việt. Trong văn hóa Thạch Gia Hà còn thấy các hiện  vật  hình tròn bằng ngọc thể hiện chim phượng hoàng hay rồng được tạo tác một cách tinh vi. Theo nhà khoa học chính trị người Mỹ Charles E. Merriam của đại học Chicago thì đây là một phương  pháp thực nghiệm quyền lực và đóng giữ vai trò «miranda» để buộc dân chúng phải kính trọng  hai loại vật linh thiêng nầy  [9]. Bởi vậy  cư dân ở đây thích xâm hình rồng trên người  và  đội mũ lông chim để thể hiện điều nầy. Tâp tục xâm mình nầy  dân tộc ta chỉ  bỏ đi dưới thời vua Trần Anh Tôn. Văn hóa Thạch Gia Hà  nằm ở trong địa bàn của nước Văn Lang tộc Việt. Qua sự mô tả địa lý trong truyền thuyết thì được biết nước Văn Lang thời đó đóng đô ở Phong Châu,  có đất đai rộng lớn giáp ranh bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba Thục (Tứ Xuyên).  Tên Văn Lang có nguồn gốc từ tiếng Việt cổ là Blang hay Klang mà các dân tộc miền núi thường dùng để ám chỉ vật tổ, có thể  đây là một loài chim nước  thuộc họ chim Diệc. Có thể xem thời đó nước  Văn Lang như một liên bang của các cộng đồng tộc Việt. Đây cũng là nhà nước đầu tiên của tộc Việt  theo truyền thuyết trong lịch sử Việt Nam. 

(miranda:  danh từ dùng nói đến những biểu tượng gắn liền với cảm xúc của một dân tộc nhằm thể hiện sự tôn trọng và ngạc nhiên đối với họ.

Bình rượu bằng đồng

Theo truyền thuyết Phù Đổng Thiên Vương (hay Thánh Gióng)  thì có một cuộc xung đột xảy ra giữa  nước Văn Lang  và nhà Thương dưới thời vua Hùng vương thứ  VI. Trong Kinh Dịch được dịch bởi giáo sư  Bùi Văn Nguyên thì tác giả có nói đến một cuộc viễn chinh quân sự được thực hiện trong vòng ba năm bởi vua hiếu chiến của nhà Thương tên là Wuding (Vũ Định) ở lãnh thổ của Ðộng Ðình Hồ  (Kinh Châu) chống lại các dân du mục, thường gọi là  « Quỷ ». Bởi vậy nước Văn Lang không có thiết lập bất kỳ mối quan hệ thương mại nào với nhà Thương cả. Những khám phá về  các đồ vật bằng đồng ở Ninh Hương (Hồ Nam) vào những năm 1960 đã dẫn chứng cho ta thấy trong các chiến lợi phẩm được mang về trong cuộc viễn chinh ở phía nam Trung Quốc  nầy thì có  sự hiện diện  một chiếc bình rượu bằng đồng được trang trí với khuôn mặt hình người Melanesian mà không có sự giải thích nào cả.  Còn ở những nơi  khác cùng thời thì có sự thành hình các nền văn hóa  Nhị Lý Đầu của nhà Hạ ở Hà nam (Erlitou, Henan)  hay của nhà Ân-Thương  ở thung lũng sông Hoàng Hà thì thấy được có sự ảnh hưởng của  các nền văn hoá Lương Chử và Thạch Gia Hà nầy  ít nhiều qua các mẫu hình thao thiết  tượng trưng cho khuôn mặt động vật (Taotie) hay phượng rồng.

Đến  thời điểm 2000 TCN  thì  có hạn hán ở vùng trung lưu của sông Dương Tử  qua các cuộc nghiên cứu khảo cổ và khí tượng khiến làm cư dân  ở Thạch  Gia Hà cũng noi gót  cư dân Lương Chử phải  di tản vì không còn tiếp tục hoạt động trồng lúa được nửa. Dựa trên các nghiên cứu gen của Hugh McColl và các đồng nghiệp thì cư dân nông nghiệp ngữ hệ Nam Á nầy  lại quay trở về lại Đông Nam Á cách đây 2000 năm TCN và hoà hợp một số ít  với dân cư bản xứ sống nghề hái lượm và săn bắn. Liên bang của các tộc Việt  ở sông Dương Tử cũng bị tan rã [10]. Sự việc nầy làm biến mất đi hai nền văn hóa Lương Chử và Thạch Gia Hà. Có thể xem sự tan rã nầy nó rất phù hợp với truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ lúc chia tay: 50 đứa con theo cha đi xuống đồng bằng (Lạc Việt), 50 đứa con theo mẹ  Âu Cơ  lên núi (Âu Việt hay Tây Âu). Được cai trị bởi các Hùng Vương, nước Văn Lang cũng bị thu hẹp lại sau đó  với 15 bộ lạc từ 1879 TCN.

Có một điều đáng làm ta chú ý đến là ở văn hoá Thạch Gia Hà nầy có  một hiện vật được gọi là nha chương mà nó có ý nghĩa là cái răng bằng ngọc dùng để  tế núi sông và  được phát hiện sớm nhất từ văn hóa Đại Vấn Khẩu (4100 -2600 TCN)(Dawenkou)  ở khu vực tỉnh Sơn Đông (Shandong) mà được các nhà khảo cổ công nhận hiện nay. Nha chương (lame de jade) nầy  được tìm thấy ở các ngôi mộ của các người có quyền lực và cấp bậc cao ở trong xã hội. Riêng ở Việt Nam hiện nay tìm được 8  nha chương ở Phùng Nguyên và Xóm Rền  (tỉnh Phú Thọ, Việt Nam) có niên đại vào khoảng 1700-1400 TCN tức là thuộc về văn hóa Phùng Nguyên  của dân tộc ta mà giáo sư Hà văn Tấn chứng minh chính xác luôn có sự liên tục không bị phá vở với các nền văn hóa Đồng Đậu-Gò Mun[11]  trước văn hóa Đồng Sơn qua các niên đại carbon phóng xạ và tương ứng với thời kỳ của các vua Hùng (Hồng Bàng). Như vậy các nha chương nầy nó có phải đến từ văn hóa Thạch Gia Hà ở sông Dương Tử,  trên dòng di cư của tộc Việt quay về lại Đông Nam Á (Vietnam) cách đây 4000 năm trước qua cuộc nghiên cứu  nhân  chủng học của nhà nghiên cứu Hirofumi Matsumura cùng các đồng nghiệp vào năm 2019  hay không  [12] hay  các hiện vật nầy là đến từ văn hoá Tam Tinh Đôi  ở Tứ Xuyên (Sichuan)?

Chắc chắn là không đến từ văn hoá Tam Tinh Đôi ở Tứ Xuyên  vì văn hoá nầy chỉ  có niên đại vào khoảng 1200 TCN tức là sau văn hoá Phùng Nguyên  có đến khoảng 500 năm. Như vậy nha  chương  Phùng Nguyên phải có nguồn gốc từ vùng Dương Tử với văn hóa Thạch Gia Hà. Nha chương được sử dụng như một dụng cụ lễ khí trong các dịp tế lễ  được tìm thấy ở văn hoá Tam Tinh Đôi (Tứ Xuyên) hay dùng  với chức năng đại diện quyền lực ở giai đọan đầu của thời Hùng Vương? Một câu hỏi chưa có phần giải đáp chính xác. Nhưng dù sao đi nửa chúng ta cũng tự hào là con Rồng cháu Tiên vì chính nhờ  các truyền thuyết mà ông cha ta khéo léo dựng ra để ta tìm lại được chính xác  cội nguồn qua các cuộc nghiên cứu di truyền và các cuộc khai quât khảo cổ trong thời gian qua.

Version française

Pourquoi le peuple vietnamien a-t-il plus de contes  et de légendes que tout autre peuple d’Asie du Sud-Est ? Parfois, le lecteur se demande si ces légendes sont vraies ou non  ou bien écrites par l’imagination humaine, quelque peu « magique » et irréelle. En fait, l’origine du peuple vietnamien est volontairement vague dans l’histoire car elle ne repose que sur ces légendes qui la rendent parfois difficile à croire et absurde comme la légende du « Lạc Long Quân- Âu Cơ  » avec un sac qui a fait éclore une centaine d’œufs.

Pour le chercheur Paul Pozner [1], l’historiographie vietnamienne s’appuie sur une tradition historique longue et éternelle et s’exprime par une tradition orale se répétant  sur plusieurs siècles du premier millénaire avant J.-C. sous la forme de légendes historiques qui se sont diffusées dans les temples ancestraux. Pourquoi notre nation n’a-t-elle pas de recueils d’histoire comme les Hans (les Chinois) malgré  notre longue présence en Asie du Sud-Est ? Ce lieu est également considéré comme le berceau de la civilisation humaine à travers les commentaires du physicien britannique Stephen Oppenheimer dans l’ouvrage « Paradis à l’Est » [2].

C’est aussi dans notre pays que l’archéologue française Madeleine Colani a découvert, lors des fouilles archéologiques au début du 20ème siècle,  la culture de Hoà Bình (18000-10000 avant JC) en 1922. C’est aussi la culture  donnant naissance à la  civilisation des Proto-Vietnamiens, une civilisation du riz inondé. La raison pour laquelle notre peuple n’a pas de recueil d’histoires  est due à la domination chinoise durant presque mille ans. Ils ont toujours délibérément effacé l’origine de notre peuple à partir de la dynastie  des Han de l’Ouest avec l’empereur Wudi. Les mémoires historiques de Si Ma Qian [3] ont été  toutes écrites avec l’intention politique et les ambitions de l’agresseur de siniser les peuples gouvernés et de renforcer le pouvoir et le prestige du fils  du Ciel (empereur) dans un pays  multi-ethnies et se conformer enfin à la signification de deux caractères chinois ((zhōngguó) (中華)(centre de l’univers). C’est pour cela que dans l’histoire de la Chine qu’il y a  une incohérence visible dans de nombreux mythes.  On est habitué à prendre l’habit de A pour recouvrir B en particulier à l’époque des Trois Augustes et Cinq Empereurs. Tout cela est dû en grande partie à l’emprunt de traditions, de coutumes et de figures mythologiques ou animales aux autres peuples que les Han ont réussi à siniser durant leur conquête. Les lettrés vietnamiens ont eu tort de s’appuyer sur les recueils d’histoire chinois comme  le cas du livre intitulé « Đại Việt Sử Ký Toàn Thư » où les Giao Chỉ (les Proto-Vietnamiens)  avaient besoin de l’aide du préfet chinois Ren Yan (Nhâm Diên) de  Cửu Chân à l’époque des Han de l’Ouest pour savoir labourer la terre et cultiver le riz.  Il en va de même pour les archéologues occidentaux. En s’appuyant sur les livres chinois, ces derniers  pensaient également que les  Giao Chỉ (Jiaozhi) n’étaient que des gens vivant de la pêche, de la chasse et de la cueillette.

Heureusement, grâce aux documents de recherche génétique de Hugh McColl et ses collègues [4] et aux fouilles archéologiques dans le passé, on sait maintenant  que les habitants de Hoà Bình étaient  les premiers à connaître la culture du riz irrigué et d’autres techniques agricoles comme la culture des céréales etc. (La cave des esprits par exemple).

Puis il y a  une grande inondation (un déluge) ayant eu lieu il y a 12.000 ans. Cela a fait s’enfoncer dans la mer une grande partie des terres habitées par des populations préhistoriques comme le bassin du Fleuve Rouge.  Ces dernières  étaient obligées  de le quitter et de s’enfuir en se réfugiant  partout dans le monde:  à l’est dans l’océan Pacifique, à l’ouest en Inde ou au nord dans la région du fleuve Yang Tsé en emmenant avec  elles les objets caractéristiques de la culture Hoà Binh trouvés dans le site  Xian Ren Dong (Tiên Nhân động) de la province  Jiangxi (Giang Tây) par exemple. D’après les travaux de recherche génétique, il s’agit bien  d’anciens habitants de l’Asie du Sud-Est (ou les gens de Hoà Bình) faisant leur arrêt  dans le bassin du fleuve Yangtze car cet endroit était propice à l’époque au développement de la riziculture irriguée. Mais  il y a  encore un autre  groupe de personnes qui aimaient à continuer leur migration vers l’Asie de l’Est en emmenant  leur riz domestiqué (site de Shangshan, Thượng Sơn) et leur millet  et en  empruntant le passage à Zhejiang (Chiết Giang) pour s’installer non seulement dans le delta du Fleuve Jaune mais aussi  jusqu’à la région du Fleuve  Liao dans la Mongolie intérieure de la Chine d’aujourd’hui (Liêu Hà, Nội Mông Trung Hoa). C’est dans cette dernière qu’ils  s’étaient unis aux autochtones  nomades de l’Asie du Nord dont les vestiges étaient trouvés dans la grotte de la Porte du Diable sur le territoire russe limitrophe de la Corée (Sibérie occidentale) pour donner naissance à une  race mongoloïde du Nord typique et une culture nommée « Hong Shan (Hồng Sơn) » découverte de la région de la Mongolie intérieure  jusqu’à Liaoning. Ces Mongoloïdes du Nord étaient descendus dans la région du fleuve Jaune où vivaient les Hmongs  qui étaient très doués en agriculture. Ils faisaient partie de la tribu Yi.
Étant à l’origine le dessin d’un homme   portant un arc , ce caractère « Yi »   nous donne une idée précise sur la particularité de ces  gens du Nord. Ils se distinguaient par le tir à l’arc et ils étaient très habiles au combat. C’est pourquoi ils réussirent à gagner les victoires contre les Hmong dirigés par leur leader Chiyou (Xi Vưu) à Zhuolu (Trác Lộc) en l’an 2704 B.C. dans la province Hebei (Hà Bắc) et Shennong (Thần Nông) trois fois de suite, ce qui donna naissance ensuite à la civilisation chinoise (Yangshao (Ngưỡng Thiều) et Dawenkou (Đại Vấn Khẩu) et à la nouvelle race mongoloïde du Sud avec les anciens habitants de l’Asie du Sud Est. Étant de plus en plus nombreux, ces  nouveaux mongoloïdes du Sud  devenaient ainsi les sujets du bassin du fleuve Jaune et les ancêtres des Chinois d’aujourd’hui.
Dans le bassin du fleuve Yang Tsé, la formation de la communauté ethnique Yue-Tai-Kadai avait lieu du fait de la proximité des habitants autochtones de la famille linguistique austro-asiatique et des Pré-Austronésiens -Tai-Kadai venus plus tard. Compte-tenu des facteurs génétiques dus à la fusion des autochtones et des nouveaux venus issus des vagues de migration de l’Asie du Nord vers l’Asie du Sud et vice versa sur des milliers d’années, il y a eu des modifications dans la structure des gènes, notamment sous l’influence de l’environnement, cela a provoqué une changement naturel de la taille et de la couleur de la peau et a conduit à la formation des Mongoloïdes du Nord et du Sud et des Yue de la famille austro-asiatique. Celle-ci est constituée de plusieurs ethnies dans l’Asie de l’Est. C’est ici que les Yue  se rendaient compte qu’ils étaient clairement différents des tribus nomades de la région du fleuve Jaune. Ils se disaient Yue (). Le mot « Yue (hache) » qu’ils utilisaient pour se désigner eux-mêmes en tant que les gens vivant dans la région du fleuve Yang Tsé ou ayant l’habitude d’utiliser la hache pour cultiver les céréales  et se défendre lorsqu’il y avait  l’invasion des gens du Nord (les Chinois).  Ceux-ci les considéraient  toujours comme des Man Di (des Sauvages). Pourtant ce sont eux qui ont conduit à la formation des grandes civilisations comme  Liangzhu et Shijìahé. C’est grâce aux fouilles archéologiques  entamées dans le cours inférieur du fleuve Yangtsé dans les années 1970 que l’on connaît la culture de Liangzhu. Celle-ci était bien plus avancée que la culture de Yang Shao puisqu’elle remonta à 3300 ans  avant J.C. avec la découverte des pictogrammes  sculptés sur  la pierre,  les plastrons de tortue,  les os des animaux dans les séances de divination et des offices religieux. Ces dessins figuratifs étaient antérieurs  de plus de 2 000 ans aux inscriptions oraculaires des Shang. On sait que les habitants de Liangzhu avaient un mode de vie sédentaire stable avec un système d’irrigation avec de l’eau emmagasinée par des canaux et une organisation sociale  nécessitant beaucoup de main-d’œuvre pour la production et la distribution. Selon les documents archéologiques et la légende du roi Shennong (ayant eu vécu vers 3320-3080), il y a une coïncidence parfaite avec la culture de Liangzhu).

Le roi  Shennong était le premier roi du Sud  tandis que dans le Nord les tribus nomades étaient gouvernées par l’empereur jaune des Chinois Huang Di. Selon l’érudit vietnamien  Hà Văn Thùy, les travaux scientifiques  ont confirmé, à partir des preuves ADN effectuées directement sur les restes  des habitants de Liangzhu, la présence de deux halo-groupes  génétiques M122 (souche indonésienne) et M119 (souche mélanésienne). Ces deux races sont principalement des personnes originaires d’Asie du Sud-Est qui ont émigré en Chine il y a 12 000 ans. Ces deux races constituent la population de Liangzhu. Les artefacts les plus caractéristiques de la culture Lianzhu  sont les disques en jade avec un trou circulaire  au centre,  les Cong  dont le plus grand excavé pèse jusqu’à  3,5 kg et des objets de jade finement sculptés portant le caractère cérémoniel  et présentés  sous la forme d’un taotie ou d’une hache. Les socs en pierre ont des tailles beaucoup plus grandes, jusqu’à 60 cm de long dans certains cas. Les charrues sont certainement tirées par des animaux domestiques  (éventuellement des buffles). La faucille, l’outil utilisé pour la récolte, est également d’une utilité considérable. Cette culture a une hiérarchie sociale qui se reflète par les différences d’inhumation dans les tombes des gens détenant le pouvoir, des aristocrates et des pauvres. Dans les tombes des aristocrates, les objets utilitaires sont en jade, ivoire, soie ou laque tandis que dans le milieu pauvre, on ne trouve que des objets en céramique. Les disques bi sont employés dans le cadre d’un rituel et ont le rôle de protéger les trépassés dans le monde des morts. Le disque bi est souvent associé au Ciel et a la couleur verte tandis que le Cong  dont la forme est tubulaire à l’extérieur et cylindrique à l’intérieur,  est assimilé à la Terre et a la couleur jaune. Ce concept nous fait penser à la forme du gâteau de riz gluant à l’occasion de notre nouvel an (Tết).

De plus, sur les objets  de masque taotie on voit souvent  l’emblème du dieu Chiyou faisant preuve de courage  à travers son visage animalier d’après l’érudit Hà Văn Thùy [5]. Mais selon l’archéologue français Alain Thote, il s’agit  bien d’un symbole  ayant une valeur magico-religieuse liée à la mort lorsqu’il étudie les épées des anciens Yue  (Wu-Yue) à l’époque  des Zhou orientaux [6]. Bien que la distance  dans le temps soit trop éloignée  entre  la culture de Liangzhu et la dynastie des Zhou orientaux  au fil de nombreux siècles, la décoration du masque taotie sur les épées n’est pas fortuite. Elle  est effectuée seulement  sur une face tournée vers la lame. Cela implique certainement l’intercession et la protection d’une divinité, est ce le dieu Chiyou ? Après avoir été tué par Huang Di, Chiyou est devenu le dieu de la guerre et protège ainsi tous  les groupes ethniques Yue  vivant  dans le sud  de la Chine, y compris les gens de Liangzhu  reconnus par les érudits chinois comme  les adorateurs des oiseaux et des animaux Vũ Nhân ( 羽 人) ou Vũ Dân càd les Enfants du Dragon et les Grands Enfants de l’Immortelle (Con Rồng Cháu Tiên).

Selon le dictionnaire sino-vietnamien, le mot Vũ () fait référence à un oiseau. Pourquoi Fée-Dragon ? Dans les temps anciens, les oiseaux sont  des animaux pouvant  voler au-dessus des montagnes jusqu’à l’endroit où vivent les Immortelles. Quant au dragon, il est certainement un monstre marin qui, dans l’histoire de notre pays, s’appelle le dragon d’eau (Giao Long). À cette époque, dans le fleuve Yang Tse, il y avait un type d’alligator  qui est maintenant en danger d’extinction. Afin d’éviter l’attaque de  ce monstre marin, les Proto-Vietnamiens avaient  coutume de se tatouer. C’est pourquoi ils  associaient  à leur totem   le couple (Oiseau /Dragon) avec la notion de dualité (deux en un). Le nom du clan Hồng Bàng provient également du couple (Oiseau/Dragon). La culture de Lianzhu est localisée dans le cours inférieur du fleuve Yang Tsé, tandis que le pays  Xích Qủi de Kinh Dương Vương est délimité  au nord  par le  lac Động Đình, à l’est par  la mer de Hainan, à l’ouest par le royaume Ba Shu (Ba Thục) et au  sud  par  le Champa (Hồ Tôn). Selon le chercheur Hà Văn Thùy, on sait bien que les frontières nationales et les frontières culturelles ne sont que relatives car elles se chevauchent souvent les unes sur les autres.
Pour quelle raison  la culture  de Liangzhu  a-t-elle disparu pour être  remplacée plus tard par la culture de Shijiahé ?  Cette  dernière  a été considérée comme l’héritière de la culture  de Qujialing (3400-2500 av. J.-C.). Elle s’est développée  aussi à un niveau supérieur à travers des objets ronds en jade représentant le ciel comme les dragons ou les phénix et s’est concentrée  communément  autour du lac. On voit donc plus clairement que le pays de Xich Gui du peuple vietnamien englobe les zones de deux cultures  de Liangzhu et de Shijiahé. Pourquoi notre pays s’appelle-t-il Xích Quỷ?  Xích désigne la couleur rouge et fait allusion au sud, tandis que le terme Quỷ fait référence à l’étoile brillante de couleur rouge Yugui Qui parmi les 28 loges nocturnes stellaires organisées  dans un système de subdivision du ciel  utilisé dans l’astronomie orientale.
L’effondrement de la culture de Liangzhu  a suscité de nombreuses controverses  et de débats dans la communauté des archéologues. On retient la thèse  la plus répandue selon laquelle  les catastrophes naturelles ont provoqué des inondations dévastant ainsi les habitations  de cette région pendant longtemps et forçant  les habitants d’ici à migrer et à se cacher ailleurs. Ils ont emporté avec eux le jade, la riziculture, l’élevage des vers à soie et la laque. C’est peut-être vrai  car  selon la légende des Trois Augustes et des Cinq Empereurs de Chine, You le Grand (le premier monarque de la dynastie des Xia) avait le mérite d’inventer les techniques d’irrigation pour maîtriser les fleuves, stabiliser la vie  de ses habitants et développer l’agriculture. C’est  pour cela que l’empereur Shun (vua Thuấn) lui céda le trône pour fonder la  dynastie des  Xia (2255 avant JC – 2207 avant JC) lors de la disparition de la culture Liangzhu. Mais c’est difficile d’accepter aussi cette version  car il s’agit bien d’une légende recopiée dans  les mémoires historiques  de Sima Qian sous la dynastie des Han occidentaux et rien n’apporte la preuve de l’existence de la  dynastie des  Xia. Mais récemment, cette hypothèse a été confirmée par le géologue autrichien Christophe Spötl [7] de l’université d’Innsbruck et ses collègues dans la revue « Science Advances» au  travers d’une étude datée du 24 novembre 2021. L’effondrement de la culture Liangzhu et d’autres cultures néolithiques dans la région du cours inférieur du fleuve Yang Tsé ont été dues au changement climatique, aux pluies incessantes et aux inondations incitant les habitants à fuir. 

Mais selon le chercheur japonais Shin’ichi Nakamura [8] de l’université de Kanazawa, la culture Liangzhu a disparu à cause de l’épuisement des ressources en jade. Pour la culture Liangzhu, toute la source du pouvoir politique était basée sur le jade. Seuls ceux qui possèdent ces ressources peuvent détenir leur pouvoir et leur légitimité. À la dernière étape de la culture de Liangzhu, des artefacts en  jade comme les Cong ne sont plus translucides et contiennent des impuretés. En revanche, au milieu du fleuve Yang Tse, la culture Shijiahé possède  une technique de sculpture de jade à un niveau de perfection  supérieur  à  celui de deux cultures Liangzhu et Hongshan au  travers de 250 objets en jade que les archéologues ont trouvés lors des fouilles  sur le site de Tanjialing (Hubei) en 2015. Cette culture occupe désormais une grande place importante avec la formation des Cent Yue.

Dans la culture de  Shijiahé, il y a également des artefacts ronds en jade (phénix, dragons) représentant le Ciel et fabriqués de manière tellement sophistiquée. Selon le politologue américain Charles E. Merriam de l’université de Chicago, il s’agit d’un moyen de légitimation empirique du pouvoir et de possession de la fonction «miranda» pour forcer les gens à respecter ces deux animaux sacrés.[9]. C’est pourquoi les gens d’ici aiment tatouer des dragons sur leur corps et porter des chapeaux de plumes pour les montrer. Cette coutume de tatouage n’a été abandonnée que sous le règne du roi Trần Anh Tôn.

  un leader de Shijiahé

(miranda: se rapporte aux symboles liés à l’émotivité d’un peuple pour lui imposer le respect et l’émerveillement.)

La culture de Shijiahé est localisée  dans l’aire du royaume des Proto-Vietnamiens  Văn Lang. À travers la description géographique de la légende, on sait qu’à cette époque le royaume Văn Lang avait  Phong Châu pour capitale. Il était délimité au nord par  le lac Dongting (Hunan) (Động Đình, Hồ Nam),  au sud par le Champa  (Hồ Tôn), à l’est par la mer de Hainan et à l’ouest par le royaume  Ba Shu (Sichuan). Le nom Văn Lang est dérivé de l’ancien mot Yue Blang ou Klang que les montagnards  utilisent souvent pour désigner le totem, c’est peut-être un oiseau aquatique de la famille des hérons. Le royaume de Văn Lang peut être considéré à cette époque comme une fédération de communautés ethniques Yue. C’est aussi le premier état de l’ethnie Yue selon la légende de l’histoire vietnamienne.

Selon la légende du Seigneur Phù Đổng (ou Thánh Gióng), il y eut un conflit entre le royaume Văn Lang et la dynastie des Shang sous le roi Hùng Vương VI. Dans le Yi King traduit par le professeur Bùi Văn Nguyên, l’auteur mentionne une expédition militaire menée en trois ans par le roi guerrier de la dynastie des Shang nommé Wuding (Vũ Định) dans le territoire du lac Động Đình (Kinh Châu, Jīngzhōu ) contre les nomades souvent appelés « Diables ». Ce conflit  pourrait expliquer la raison principale pour laquelle le royaume de Văn Lang n’a établi aucune relation commerciale avec les Shang. Les découvertes d’objets en bronze à Ningxiang (Hunan) dans les années 1960 ont montré que dans le butin ramené lors de cette expédition dans le sud de la Chine, il y avait la présence d’un vase à vin en bronze orné d’un visage humain mélanésien sans aucune explication.

un vase à vin en bronze

Dans d’autres endroits à la même époque, il y a la formation des cultures Erlitou de la dynastie des Xia dans le Henan  ou de la dynastie des Shang dans la vallée du fleuve Jaune. L’influence de ces cultures Liangzhu et Shijiahé y est plus ou moins visible  à travers les modèles ayant des visages d’animaux (Taotie) ou des animaux phénix et dragon. Au moyen des études archéologiques et météorologiques, on sait qu’en l’an 2000 avant J.C, il y avait une sécheresse dans la région moyenne du fleuve Yang Tsé, ce qui obligea  les habitants de Shijiahé à suivre les traces des habitants de Liangzhu  à évacuer la région car ils ne pouvaient plus continuer à faire la riziculture. Sur la base d’études génomiques de Hugh McColl et de ses collègues, cette population agraire austro-asiatique Yue était obligée de revenir en Asie du Sud-Est il y a 2 000 ans et  d’effectuer la fusion  en une infime partie  avec la population indigène vivant  sur place  de la cueillette et de la chasse. L’union des tribus Yue  du fleuve Yang Tsé  a également été dissoute [10]. Cet incident a causé la disparition de deux cultures Liangzhu et Shijiahé. On voit que cette dissolution est très conforme à la légende du roi Lạc Long Quân et de la princesse Âu Cơ au moment de la séparation: 50 enfants ont suivi le père dans les plaines (Luo Yue) et  50 autres enfants ont accompagné  la mère Âu Cơ dans les montagnes (Si Ngeou). Dirigé par les rois Hung, le royaume Văn  Lang se rétrécit plus tard avec ses 15 tribus à partir de 1879 av. J.C.

Une chose à laquelle il convient de prêter attention est que dans cette culture Shijiahé, il existe un artefact appelé nha chương (ou une dent de jade) utilisée pour faire des offrandes aux montagnes et aux rivières et  reconnue et attribuée   jusque-là  à la culture Dawenkou (Đại Vấn Khẩu) dans la région de la province du Shandong (Shandong) par les archéologues. Cette lame de jade se trouve dans les tombes des personnes détentrices du pouvoir  et de haut rang dans la société. Particulièrement au Vietnam, il y a actuellement 8 lames trouvées à Phùng Nguyên et Xóm Rèn (province de Phú Thọ, Vietnam) datant d’environ 1700-1400 avant J.C. Cela signifie qu’elles appartiennent à la culture Phùng Nguyên de notre  peuple. Le professeur Hà Văn Tấn a prouvé avec précision qu’il existe toujours  la continuité ininterrompue de cette culture  avec celles de Đồng Dậu et Gò Mun[11] qui sont antérieures à la culture Đồng Sơn au moyen des datations au radiocarbone et qu’il correspond ainsi à la période des rois Hùng (Hồng Bàng). Ces lames de jade doivent donc provenir de la culture Shijiahé du fleuve Yang Tsé lors de la migration des Proto-Vietnamiens  vers l’Asie du Sud-Est (Vietnam) il y a 4000 ans rapportée par l’étude anthropologique du chercheur Hirofumi Matsumura et ses collègues en 2019 [12] ou elles sont issues de la culture Sanxingdui de Sichuan ?

Certainement elles ne viennent pas de la culture Sanxingdui  au Sichuan car cette dernière  ne date que d’environ 1200 avant J.C., soit environ 500 ans de décalage avec la culture Phùng Nguyên. Ainsi, la lame de jade  de Phùng Nguyên doit provenir de la région du Yang Tse avec la culture Shijiahé. La lame de jade est utilisée comme un outil rituel dans les occasions cérémonielles de la culture Sanxingdui (Sichuan) ou comme un objet du pouvoir au début de la période des rois Hùng? C’est une question dont on n’a pas encore la réponse juste. Mais quoi qu’il en soit, nous sommes toujours fiers d’être les descendants du Dragon et les Grands Enfants de l’Immortelle  car  grâce aux légendes que nos ancêtres ont savamment inventées  et aux études génétiques et aux fouilles archéologiques dans un passé récent nous réussissons à retrouver notre origine avec exactitude.  

Miranda se rapporte aux symboles s’adressant à l’« émotivité » d’un peuple pour lui imposer le respect ou l’émerveillement.

Paris le 28/02/2023

Bibliographie

[1]  Paul Pozner: Le problème des chroniques vietnamiennes, origines et influences étrangères. BEFO, année 1980, vol 67, no 67, p275-302
[2] Stephen Oppenheimer: Địa đàng ở Phương Đông.  Lịch sử huy hoàng của lục địa Đông Nam Á bị chìm ? NXB Lao Động; 2005.
[3] Edouard Chavannes: Mémoires historiques de Se-Ma Tsien de Chavannes, tome quatrième.
[4] Hugh McColl, Fernando Racimo, Lasse Vinner, et al. (2018). The prehistoric peopling of Southeast Asia. Science;361(6397) 88-92.
[5] Hà Văn Thùy: Phát hiện di vật văn hóa Lương Chữ tại Viêt Nam. Nghiên cứu lịch sử.
[6]  Alain Thote: Note sur la postérité du masque de Liangzhu à l’époque des Zhou orientaux, Arts asiatiques. Tome 51, 1996. pp. 60-72.
[7] Christoph Spotl, Haiwei Zhang, and all (2021) Collapse of the Liangzhu and other Neolitic cultures in the lower Yantze region in response to climate change. Science Advances Vol 7, Issue 48.
[8] Shin’ichi Nakamura: Le riz, le jade et la ville. Évolution des sociétés néolithiques du Yangzi. Éditions de l’EHESS « Annales. Histoire, Sciences Sociales. 2005/5 60e année | pages 1009 à 1034.
[9] Charles E. Merriam, Political power : Its composition and incidence, New York-Londres, Whittlesey House/McGraw-Hil, 1934.
[10] Lang Linh: Lịch sử hình thành và tan rã của cộng đồng tộc Viêt. Lược sử tộc Việt.
[11] Hà văn Tấn: Theo dấu các văn hóa cổ.  Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội. Hànội 1998.
[12] Hirofuma Matsumura, Hsiao-chun Hung, Charles Higham et al. (2019). Craniometrics reveal « Two Layers » of Prehistoric Human Dispersal in  Eastern Eurasia. Scientifics reports; 9(1): 1451.
Dominique Lelièvre: La grande époque de Wudi. Editions You Feng. 2001
Bai Shouyi: Précis d’histoire de Chine. Editions en langues étrangères. Beijing, 1988
René Grousset: Histoire de la Chine. Des origines  à la seconde guerre mondiale. France-Loisirs, Paris 1997
Norman Jerry- Mei tsulin 1976 The Austro asiatic in south China : some lexical evidence, Monumenta Serica 32 :274-301
Sun, Jin & Li, Yingxiang & Ma, Pengcheng & Yan, Shi & Cheng, Hui-Zhen & Fan, Zhi-Quan & Deng, Xiao-Hua & Ru, Kai & Wang, Chuan-Chao & Chen, Gang & Wei, Ryan. (2021). Shared paternal ancestry of Han, Tai-Kadai-speaking, and Austronesian-speaking populations as revealed by the high resolution phylogeny of O1a-M119 and distribution of its sub-lineages within China. American journal of physical anthropology. 174. 10.1002/ajpa.24240.
Corinne Debaine-Francfort : La redécouverte de la Chine ancienne.  Editions Gallimard  1998.
Léonard Rousseau: La première conquête chinoise des pays annamites (IIIe siècle avant notre ère). BEFO, année 1923, Vol 23, no 1.
Bình Nguyên Lộc: Lột trần Việt ngữ. Talawas.

Chim Lạc có phải vật tổ của người dân Việt không?

 L’oiseau Lạc est -il l’oiseau totémique des Proto-Vietnamiens?

Chim Lạc có phải vật tổ của người dân Việt không ?

Version française

Câu hỏi  nầy thường được nêu ra sau thời kỳ các nhà khảo cổ học thuộc Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp (Louis Pajot, Olov Jansen)  phát hiện ra một số đồ đồng cổ ở  thung lũng Mã, đặc biệt là ở làng Đồng Sơn (Thanh Hóa) vào năm 1924. Sau đó với sự đề xuất của nhà khảo cổ học ngừời Áo R. Heine-Geldern thì  văn hóa này được gọi là « Văn hóa Ðồng Sơn » tức là văn hóa  của người Việt cổ.

Ngoài việc tranh dành về nguồn gốc trống đồng giữa hai nước Việt Nam và Trung Hoa, còn có thêm cuộc tranh luận về các hình tượng trang trí được thấy nhiều trên mặt trống đồng nhất là con chim chi không biết là loại chim gì chân cao mỏ dài  trong tư thế bay hay ngồì. Học giả Đào Duy Anh đã ngộ nhận và kết luận trong quyển Lịch sử cổ đại Việt Nam  rằng đây là con chim lạc chỉ một loại hậu điểu tương tự như ngỗng trời  là vật tổ của người Lạc Việt. Thưở  xưa, các thị tộc ở xã hội nguyên thủy hay thường lấy tên thị tộc mà đặt tên cho vật tổ tức là con chim lạc. Nhưng dù thuyết vật tổ của ông là lý thuyết sai lầm theo sư nhận xét của sử gia Trần Gia Phụng hay nhà văn Đinh Hồng Hải nhưng vì ông là một trong những học giả uyên thâm  hàng đầu Việt Nam ở  thời đó nên dễ thuyết phục dư luận. Sự nhận định nầy khiến ít ai  dám phủ nhận cả mà còn tạo ra một ý niệm về mối quan hệ mật thiết giữa người Lạc Việt và loài chim nầy. Rồi ý niệm nầy  trở thành từ đó quan niệm chim Lạc, vật tổ  của người  Lạc Việt. Theo sử gia Trần Gia Phụng tất cả tài  liệu có nói đến chữ Lạc  như Thủy kinh chú của Lịch Đạo Nguyên (thế kỷ thứ 6) hay An Nam chí lược  của Lê Tắc (thế kỷ 13)  đều dựa trên  sách cổ « Giao Châu ngoại vực ký » của Trung Hoa  được xuất hiện khoảng giữa đời nhà Tấn (265-420) trong đó có  một đoạn văn viết như  sau: Giao Chỉ tích hữu quận huyện chi thời, thổ địa hữu lạc điền.  Kỳ điền tòng thủy triều thượng hạ.  Dân khẩn thực kỳ điền, nhân các vị Lạc dân, thiết Lạc vương, Lạc hầu chủ chư quận huyện.  Đa vi Lạc tướng, đồng ấn thanh thụ. Xưa, khi Giao Chỉ chưa thành quận huyện, đất đai có ruộng gọi là ruộng lạc, ruộng đó tùy thủy triều lên xuống mà làm.  Dân khẩn ruộng đó mà ăn, vì thế tất cả gọi là dân Lạc.  Họ lập Lạc vương, Lạc hầu để coi quận huyện.  Có nhiều Lạc tướng, có ấn đồng lụa xanh.
Chữ Lạc đọc  ở  trên đây  theo âm Hán Việt chớ người Hoa họ đọc theo âm Trung Hoa thì là « lo, ló, lô » như  thành Lạc Dương thủ đô nhà Châu thì  được phiên âm theo chữ Latin ra là Loyang. Như vây chữ có  âm « lo, ló, lô » trong  tiếng Việt cổ là gì ? Nó chỉ là lúa gạo. Bởi vậy từ Thừa Thiên đến Nghệ An, mọi người hay thường dùng chữ ló để ám chỉ  lúa.  Tại vùng Quảng Bình ở miền trung  mới có câu tục ngữ « Cơm mô cho vừa bụng chó, ló mô cho vừa bụng gà». Như vậy chữ Lạc là từ ngữ phát âm theo lối Hán Việt chớ chữ Lạc mà cố tìm sự giải thích nào khác cũng hoàn toàn vô nghĩa vì nó không phải là chữ phiên âm từ tiếng của người Việt cổ. Có thể nói chữ Lạc mà tìm hiểu nghĩa theo chữ Trung hoa thì sẽ bị lạc hướng. Người Hoa  dùng chữ Lạc đễ phiên âm tiếng Ló của người Giao Chỉ và để chỉ tộc người có nền văn minh lúa nước.
Bởi vậy bất cứ chữ Lạc nào  với bất cứ bộ thủ nào, họ cũng đọc là Lo  cả theo sự nhận xét  của  cố học giả Hoàng Văn Chí trong sách  Duy văn sử quan. Ngày nay có nhiều dân tộc miền núi hay nhiều điạ phương ở nước ta vẫn còn dùng từ ngữ ló để nói lúa gạo như Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình hay từ ngữ lọ ở Thanh Hóa.  Còn người Mường thì  gọi  với một âm tiết khá nặng giữa chữ lỏ và lọ (như cơm mường vó, lọ mường vang)   (Đinh Hồng Hải, trang 72). Như vậy  con chim Lạc  là con chim không có thật sự trong môi trường thiên nhiên ở đất nước ta. Nó cũng không có ghi chú  trong các từ điển của nước ta để ám chỉ con chim lạc cả.  Nó không phải là con vật tổ của người  Việt cổ thì nếu không nó được nằm ở vị trí trung tâm của mặt trống đồng. Tuy nhiên nó phải sống, gần gũi  mật thiết hằng ngày  với người trồng lúa nước ở trên đồng  cũng như  con trâu đi trước cái cày theo sau  trong nền văn hóa  Đồng Sơn. Nó được xem như là mô típ trang trí được ghi khắc trên trống đồng làm cho ta liên tưởng đến con cò, con hạc hay con sếu. Các  chim nầy đều có mỏ dài  và chân cao cả nhưng xét dưới gốc độ gần gũi và thân thiết với người  nông dân Việt thì cò ở đâu cũng có hiên diện không những trên ruộng đồng Viêt Nam mà luôn cả trong tục ngữ ca dao Việt Nam. Còn xét duới gốc độ tín ngưỡng   thì  hạc là loại chim có tính biểu tượng cao  thượng được thấy ở các nơi thờ  tự như ở Văn Miếu  (Hànội). Nhìn lại lịch sử và truyền thuyết thì người Việt cổ  (hay Lạc Việt) đã thừa nhận họ  là thị tộc Hồng Bàng (tức là chim và rắn tức là Tiên Rồng).  Như vậy họ đã ghép cho vật tổ của họ là Chim và Rắn rồi với quan niệm song trùng lưỡng hợp  (hai trong một) theo  học giả Hà Văn Thùy. Bởi vậy họ tự cho họ là con Rồng cháu Tiên. Tên Văn Lang có nguồn gốc từ tiếng Việt cổ là Blang hay Klang mà các dân tộc miền núi thường dùng để ám chỉ vật tổ, có thể  đây là một loài chim nước thuộc họ chim Diệc. Có thể xem thời đó nước  Văn Lang như một liên bang của các cộng đồng tộc Việt. Đây cũng là nhà nước đầu tiên của tộc Việt  theo truyền thuyết trong lịch sử Việt Nam. Nói như nhà văn Đinh Hồng Hải thì cần có những phương pháp nghiên cứu sâu hơn để làm rõ danh tính của loại  chim nầy. Còn sử  gia Trần Gia Phụng,  những hình ảnh trên trống đồng đều là hình “câm”. Bởi  vậy  giả thuyết nầy chỉ  là sự phỏng đoán  chưa có phần   kết luận.  Giả thuyết nào hợp lý sẽ đứng vững  mà thôi.

CHIM_LAC

Version française

Cette question est souvent posée après la découverte d’ un grand nombre d’objets datant de l’âge de Bronze dans la vallée de Mã, notamment dans le village de Ðồng Sơn en 1924 par les archéologues de l’Ecole Française d’Extrême-Orient (BEFO) (Louis Pajot, Olov Jansen). Puis, sur la proposition de l’archéologue autrichien R. Heine-Geldern, cette culture a été appelée « culture de  Đồng Sơn », c’est-à-dire la culture des Proto- Vietnamiens. (ou des Luo Yue)

En outre,  à cause du différend de longue date sur l’origine du tambour de bronze entre le Vietnam et la Chine, il y a aussi un débat sur les images décoratives trouvées sur la surface du tambour, en particulier  un oiseau de quelle famille il s’agit.  On n’arrive pas à l’identifier  avec ses longues pattes et son long bec  en posture volante ou assise.  L’érudit Đào Duy Anh l’a reconnu par erreur dans son livre intitulé   « Histoire ancienne du Vietnam » en affirmant que cet oiseau Lạc (Luo) semblable à une oie sauvage était  l’oiseau totémique des Lo Yue (ou des Proto-Vietnamiens)? Autrefois, les clans de la société primitive avaient l’habitude de prendre souvent le nom du clan pour l’attribuer à leur totem. C’était le cas de l’oiseau Lạc (ou Luo). Selon l’historien Trần Gia Phụng ou l’écrivain Đinh Hồng Hải, malgré sa fausse théorie, l’érudit  Đào Duy Anh continua à convaincre l’opinion publique  car il fut l’un des érudits  de renom  au Vietnam à cette époque. Personne n’osa contester sa capacité de discernement mais par contre cela créa en revanche une idée de relation  très étroite entre les Luo Yue et cet oiseau. Puis cette idée devint ainsi un jour sans même en rendre compte l’acceptation du nom « Luo » (ou Lạc) en vietnamien pour cet échassier, l’oiseau totémique des Luo Yue.  Selon l’historien Trần Gia Phụng, tous les livres historiques contenant le mot « Lạc » ou (Luo) » comme  « Thủy kinh chú » de Lịch Đạo Nguyên ( 6ème siècle) ou « Les archives abrégées d’An Nam » de  Lê Tắc (13ème siècle) sont basées essentiellement sur le livre ancien chinois « Giao Châu ngoại vực ký » dont la date d’édition a lieu à l’époque des Jin (265-420) et dans lequel figure un paragraphe écrit en caractères Han-Viet comme suit: Giao Chỉ tích hữu quận huyện chi thời, thổ địa hữu lạc điền.  Kỳ điền tòng thủy triều thượng hạ.  Dân khẩn thực kỳ điền, nhân các vị Lạc dân, thiết Lạc vương, Lạc hầu chủ chư quận huyện. 

Autrefois, lorsque Jiaozhi (ou Viet Nam) n’était pas encore un district, sa terre possédait  des champs des riz appelés  des champs « Luo ».  En fonction de la montée ou la descente  des marées, ces derniers étaient labourés. Les gens qui y travaillaient étaient appelés  les Luo Yue (Les gens de Luo). Leur  roi  était connu sous le nom «Roi Luo (Lạc Vương », leurs marquis « Luo » étaient appelés « Lạc hầu » et ils avaient la mission de  contrôler les districts. Il y a beaucoup de généraux ayant des sceaux en bronze avec la soie  bleue. 

Le mot « Lạc »  ci-dessus  est prononcé en caractère sino-vietnamien (Hán Việt) par les Vietnamiens. Par contre les Chinois le prononcent en recourant à la transcription phonétique.  Ce mot phonétique  devient ainsi « lo, ló, lô ». C’est le cas du nom de la capitale Lạc Dương des Chu qui devient  Loyang lors de la  transcription phonétique en chinois. Que  devient-il  le mot « lo, ló, lô » employé par le Chinois dans la langue des Proto-Vietnamiens ?  Il désigne le paddy ou le riz. C’est pourquoi de la région Thừa Thiên jusqu’à la province Nghệ An du Viet Nam, tout le monde est habitué à employer le mot « ló » pour faire allusion au riz.  Dans la région Quảng Bình du Centre-Vietnam, il y a un proverbe suivant « Cơm mô cho vừa bụng chó, ló mô cho vừa bụng gà»(Le riz cuit donne satisfaction au ventre du chien tandis que le grain de riz remplit bien l’estomac du poulet). Étant en caractère sino-vietnamien, le mot « Lạc » n’a aucune signification car il s’agit bien d’une transcription phonétique  employée par les Chinois à partir du mot ló des Proto-Vietnamiens (ou des gens de Jiaozhi) pour les désigner comme des gens ayant la culture du riz inondé. C’est pourquoi quel que soit le radical employé avec le mot « Lạc », les Chinois continuent à le prononcer en  Ló selon la remarque du feu érudit Hoàng Văn Chí dans son livre intitulé «Duy văn sử quan ». Aujourd’hui,  il reste pas mal des montagnards ou des gens locaux de notre Vietnam continuent à employer le mot « ló» pour évoquer le riz comme  les gens de  Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình ou le mot «lọ» dans la région de Thanh Hóa. Selon l’écrivain Đinh Hồng Hải, les cousins proches des Vietnamiens, les Mường  le prononcent avec un accent situé entre les mots  lỏ et lo (cơm mường vó, lọ mường vang) pour évoquer  le riz de la région Mường Vó et le paddy  de Mường Vang. Ainsi on peut dire que l’oiseau Lạc n’existe pas réellement dans la nature de notre pays. On ne trouve pas non plus son nom  dans les dictionnaires vietnamiens.  Il n’est en aucun cas l’oiseau totémique des Proto-Vietnamiens sinon on doit le trouver au centre de la surface du tambour de bronze.

La grue au temple de la littérature

Cependant, il doit être proche des riziculteurs et vivre quotidiennement avec eux dans le champ comme  le buffle précédant la charrue dans la culture de Đồng Sơn. Il est considéré comme un motif de décoration gravé sur le tambour en bronze.  Cela nous fait penser à une aigrette ou une grue. Ces oiseaux ont tous de longs becs et de hautes pattes, mais compte tenu de la proximité et de l’intimité  journalière avec les riziculteurs vietnamiens, les aigrettes sont présentes partout non seulement dans les champs mais aussi dans les chansons populaires. Du point de vue religieux, la grue est une sorte d’oiseau afférent au caractère noble que l’on retrouve dans les lieux de culte comme au Temple de la Littérature (Văn Miếu, Hanoï). En  jetant un regard dans  l’histoire et les légendes des Lo Yue (Lạc Việt)  ou Proto- Vietnamiens (ou Lac Viet), ils se  reconnurent depuis la nuit des temps  comme des gens appartenant au clan Hồng Bàng (Hồng  désignant  l’oiseau et Bàng le serpent càd l’Immortelle et le dragon). C’était pourquoi ils avaient associé à leur totem le couple (Oiseau/Dragon) avec la notion de dualité (deux en un) selon l’érudit Hà Văn Thùy. Ils étaient fiers d’être Enfants du Dragon et Grands Enfants de l’Immortelle (Con Rồng cháu Tiên). Le nom Văn Lang est dérivé de l’ancien mot Yue Blang ou Klang que les montagnards  utilisent souvent pour désigner le totem, c’est peut-être un oiseau aquatique de la famille des hérons. Le royaume de Văn Lang peut être considéré à cette époque comme une fédération de communautés ethniques Yue. C’est aussi le premier état de l’ethnie Yue selon la légende de l’histoire vietnamienne. Selon l’écrivain Đinh Hồng Hải, il faut des méthodes de recherche approfondies pour clarifier l’identification de cet échassier. Pour l’historien Trần Gia Phung, les images trouvées sur les tambours sont toutes « muettes ». Par conséquent, cette hypothèse n’est qu’une conjecture sans conclusion. Toute hypothèse logique sera debout  seulement.

Références bibliographiques

  • Đinh Hồng Hải.   Những biểu tượng  đặc trưng trong văn hóa truyền thống Việt Nam. Tập 3. Các con vật linh. Nhà xuất bản Thế Giới.
  • Trần Gia Phụng: Hình chim trên trống đồng Lạc Việt.
  • Hoàng văn Chí. Duy văn sử quan. Nhà Xuất bản  Cành Nam, Hoa Kỳ,1990  tt 78-79
  • Đào Duy Anh: Lịch sử Việt Nam. Nhà Xuất Bản  Văn hóa thông Tin 2002

Danse du lion ou de la licorne (Múa lân sư)

Version française

Múa Lân Sư

Nhắc đến Tết không có ai có thể không nhắc đến múa Lân. Đây là môn nghệ thuật múa dân gian được thấy trên đường phố ở Việt Nam. Nó được gọi là múa lân ở trong Nam còn ở ngoài Bắc thì gọi là múa sư (tức là sư tử (hay  wǔshī ). Lân là con linh vật  đứng hàng thứ nhì  trong bốn con vật có sức mạnh siêu phàm hay tứ linh (long, lân, qui, phụng). Trong văn hóa Việt nam, chúng ta thường bị lầm lẫn giữa  con kỳ lân với con ghê. Đặc điểm để phân biệt giữa nghê và lân là ở bộ móng, nghê mang móng vuốt còn kỳ lân mang móng guốc. Thật sự khi gọi kỳ lân, tức là nói đến một cặp: con đực gọi là kỳ và lân là con cái. Múa Lân thường được biểu diễn trong các dịp lễ hội, đặc biệt là Tết Nguyên Đán, Tết Trung Thu hay khánh thành cửa hàng mới vì các loại thú nầy tượng trưng cho thịnh vượng và hạnh phúc. Con lân có cái đầu được trang trí  trông rất đẹp mắt và thân thể của nó được nâng lên bởi một số vũ công uốn lượn theo nhịp điệu âm thanh của các tiếng trống. Nó luôn luôn đi cùng với một vũ công bụng phệ, vui cười hay vẫy quạt, thường đeo mặt nạ  và mặc áo choàng màu vàng nghệ (Ông Địa). Đây là cuộc khiêu chiến giữa người và động vật, giữa Thiện và Ác, luôn luôn kết thúc bằng chiến thắng của con người trên động vật.

Danse de la licorne ou du lion.


 

En évoquant le Têt, personne n’oublie de mentionner la danse de la licorne ou du lion. C’est un art de la danse folklorique que l’on trouve dans les rues du Vietnam. On l’appelle la danse de la licorne  dans le Sud et la danse du lion dans le Nord (ou wǔshī bính âm). La licorne  occupe la deuxième place parmi les  quatre animaux au pouvoir surnaturel (tứ linh)(long, lân, qui, phụng). Dans la culture vietnamienne, on a l’habitude de confondre la licorne avec le chien-lion (con nghê).  La principale caractéristique permettant de faire la  distinction entre la licorne  et le chien-lion  réside dans les doigts de pied, la licorne étant armée  des sabots et le chien-lion des griffes. Quand on parle de la licorne (Kỳ Lân), on a affaire à un couple d’animaux : kỳ c’est le mâle tandis que Lân est une femelle. La danse de la licorne  est souvent pratiquée lors des fêtes traditionnelles, notamment le Nouvel An lunaire, la fête de la Mi-Automne ou l’inauguration d’un nouveau magasin (ou une boutique) car ces animaux sacrés symbolisent la prospérité et  le bonheur. Cet animal légendaire dont la tête est  décorée magnifiquement et dont tout  le corps est porté par plusieurs danseurs, ondule au rythme des sons des tambourins. Il est toujours accompagné par un autre danseur hilare et ventru agitant son éventail et portant une robe de couleur safran (Ông Ðịa). C’est la danse-combat entre l’homme et l’animal, entre le Bien et le Mal qui se termine toujours par le triomphe de l’homme sur l’animal.