Ước gì (J’aimerais)

Ước gì (J’aimerais)

Ước gì đời được có em
Để đời ấm áp, để đêm bớt dài
Ước gì tình có cánh bay
Để tình cao vút như mây giữa trời
Ứớc gì hồn được thảnh thơi
Để hồn mơ mộng tuổi thơ ngày nào
Ước gì biển cả trời cao
Được người tri kỷ cùng nhau kiếp nầy.

 

Tình nào (Quel amour)

  Tình nào

Tình nào thương tiếc nhớ nhung
Tình nào quên lãng muôn trùng xa nhau
Tìn nào ngắn gũi đớn đau
Tình nào ấp ủ khát khao tháng ngày
Tnh nào ray rứt đọa đày
Tìn nào đấm đuối lung lay kiếp người
Tình nào ngao ngán đổ lười
Tình nào giữ mãi nụ cười yêu đương

Ru tình (Bercer mon amour)

 
Ru tình nổi nhớ đêm thâu
Tình đâu có biết muôn sầu nào vơi
Ru tình chẳng nói nên lời
Tình đâu còn nữa ngàn đời ru ai
Ru tình thơ thẩn tháng ngày
Tình càng sâu đậm miệi mài vết thương
Ru tình luyến tiếc vấn vương
Tình càng quanh quẩn trăm đường khổ nhau
Ru tinh vất vả đớn dau
Tình nào không tiếc tình nào dễ quên
Ru tình bài hát không tên
Hát cho tình nhớ hát lên tình gần
Hát cho tình chớ bâng khuâng
Cho tình trở lại lân lân với đời
Ru tình yêu nhớ một thời
Ngậm ngùi thương xót một đời xa nhau.
 

 

 

Cathédrale principale de Bùi Chu (Nam Định)


Nhà thờ chính tòa Bùi Chu (Nam Định)

Version française

Version anglaise

Dù nguyên vật liệu lấy tại địa phương là gạch, vôi vữa rất đơn giản, nhà thờ nầy có kiến trúc độc đáo với phong cách chính là  Ba-rốc Tây Ban Nha, kết hợp với cách thức xây dựng truyền thống Việt Nam. Nhà thờ chính tòa Bùi Chu cách thị trấn Xuân Trường 3 km, cách thành phố Nam Định 31 km và cách thủ đô Hà Nội  115 km. Hàng năm vào ngày 8 tháng 8 có rất nhiều giáo dân tập trung về dự lễ kính Thánh Đa Minh quan thầy của giáo phận, quen gọi là lễ đầu dòng.

Malgré l’utilisation des matériaux locaux comme les briques et le mortier, cette église présente une architecture unique, dominée par le baroque espagnol, mêlé aux méthodes de construction traditionnelles vietnamiennes. La cathédrale de Bùi Chu se trouve à 3 km de la ville de Xuân Trường, à 31 km de la ville de Nam Định et à 115 km de la capitale Hanoï. Chaque année, le 8 août, de nombreux paroissiens se rassemblent pour assister à la fête de Saint Dominique, patron du diocèse, communément appelée la première messe.

Despite the use of local materials such as bricks and mortar, this church features a unique architecture dominated by Spanish Baroque, blended with traditional Vietnamese construction methods. Bùi Chu Cathedral is 3 km from the town of Xuân Trường, 31 km from the town of Nam Định and 115 km from the capital Hanoi. Every year, on August 8, many parishioners gather to attend the feast of St. Dominic, patron saint of the diocese, commonly known as the First Mass.

BCHU_EGLISE

Argot vietnamien (Tiếng lái)

Nói lái

Version française

Không biết nói lái  nó có từ bao giờ ở  Việt Nam nhưng ở thời Pháp thuộc được  nhà nghiên cứu của trường học Pháp ở Viễn Đông  M.A. Chéon nhận định rằng  nói lái là một ngôn ngữ được sáng tạo « một cách máy móc (thuộc lòng) » và giã tạo từ việc hỗn hợp hoặc đảo ngược các yếu tố của hai hoặc ba đơn âm liên tiếp trong một câu. Nó được xem như một lối chơi chữ thực sự và có đặc điểm là trong cuộc  đàm thoại. Khi một người nói ra một đường thì  người  nghe phải hiểu một nẻo, một cách khác theo một qui ước ngầm chỉ có một giới nào trong nghề nghiệp hay bạn bè mới thấu hiểu mà thôi. Nay nó trở thành thông dụng của dân gian, mang tính đùa giỡn và bông lơn trong nhóm bàn bè thân thiết chẳng hạn như khoái ăn sang (sáng ăn khoai), chà đồ nhom (chôm đồ nhà), hạ cờ  tây (hạ cầy tơ) vân vân…

Từ những từ thanh nhã nó có thể trở thành những từ thô tục mang tính cách vô tư hay cố ý để trêu nghẹo hay chọc quê người khác  nhất là về tên tuổi mà cha mẹ đặt ra cho con rất đẹp  như Cảnh hu, Thu đạm, Thái đức  vân vân.Trong câu, đôi khi nó không  có nghĩa chi cả mà một khi đảo ngược lại thì nó có nghĩa  như  mán cài  trở thành  cái màn hay là ngược lại như đơi chi lại thành đi chơi.

Theo nhà nghiên cứu Pháp M.A. Chéon,  người Việt hay có thói quen tách ra một cách dễ dàng các yếu tố (phụ âm và nguyên âm) của các từ. Chính nhờ  dựa trên sự tách rời nầy cả qui tắc của nói lái  được thiết lập. Cái từ đầu tiên nó cho từ  sau mượn phần kết  và đổi lại nó lấy lại phần kết của từ sau.

Như vậy  đi chơi được chia thành đ+i và ch+ơi và trở thành đơi chi bằng cách đảo ngược. Đây là qui luật rất đơn giản nhưng nó  cũng có  qui luật rất phức tạp mà ta hay thường thấy trong cách nói lái với ba nguyên tắc dưới đây:

Cách thức thứ nhất:

1°) Hoán đổi (đảo ngược) khuôn âm, trước ra sau, sau ra trước.
2°) Giữ nguyên hai thanh (dấu) của hai âm gốc.

Thí dụ: cờ tây  thành cầy tơ. Cách thức  nầy nghe êm tai và thông dụng nhất. Cờ và cầy vẫn giữ hai dấu huyền (bằng)  của hai âm gốc  cũng như tây và tơ (không dấu).

Cách thứ nhì:

1°) Hoán đổi trọn âm tiết (syllabes).
2°) Giữ nguyên hai thanh (dấu) của hai âm gốc.

Thí dụ: đấu  tranh thành tránh đâu. Cách thức nầy không nghe êm tai và ít được sử dụng.

Cách thứ ba:

1°) Hoán đổi khuôn âm.
2°) Hoán đổi cả hai thanh (dấu)  của hai âm tiết.

Thí dụ: khó đi thành khi đó. Cách thức nầy gượng ép không xuôi tai và cũng ít được sử dụng.

Theo nhà văn Phụng Nghi, trong một từ có 3 hoặc 4 âm tiết, muốn nói lái ta giữ nguyên những âm nối kết (kết tự) hoăc những âm có nghĩa phụ. Những âm tiết có nghĩa chánh được hoán đổi theo ba cách thức ở trên.

Thí dụ: khoái ăn sang (sáng ăn khoai)
cái trâm em cài->  (cái trài em câm)-> (cái chai em cầm)
làm sương cho sáo->  (làm sao cho sướng)
cầu gia đạo  (cạo da đầu)

Nói lái thường dùng có  hữu ý phản ảnh một thực trạng của xã hội như:

Ban lãnh đạo (Bao lãnh đạn)

Thủ tục đầu tiên tức là  thủ tục tiền đâu (tức là hối lộ).

Chiều 30 Tết thầy giáo tháo giầy đi chợ, mồng một giáo chức (giức cháo) dứt  cháo  vui Xuân. Trong câu nầy thì có sự châm chước trong lỗi chính tả như hai chữ  giức và dứt.

Với đặc điểm « biến tục thành thanh », tiếng lái là một thủ pháp đi vào các loại văn chương bác học và  các câu đối dân gian.  Nó  còn châm biến  mĩa mai  như  bài thơ  kiếp tu hành của Hồ Xuân Hương:

Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Vị gì một chút tẻo tèo teo (quá nhỏ)
Thuyền từ muốn về Tây trúc
Trái gió phải nên phải lộn lèo

hay châm chước  các phát âm hỏi ngã  trong bài thơ «Hè đợi tình nhân» của Nguyễn Khoa Vy :

Nực cổi chỉ ra nỗi cực lòng
Dòng châu lai láng đĩa dầu chong
Khó đi tìm hiểu nhau khi đó
Công khó chờ ai biết có không

Ta cũng thường nghe  câu đố nói lái như sau :

-Chè gì không ngán chỉ ngán chè ghim (chìm nghe)

-Bằng ngón tay trên bàn Phật
 Tụng kinh rồi búng cánh bay xa (bánh cúng)

-Cái bông trên cành, cái trái cận mây (cây mận)

-Cục đo đỏ bỏ vô giường (Cục đường bỏ vô giỏ)

hay trong các câu đối dân gian:

Con mèo cái nằm mãi trên mái kèo
Con cá đối nằm trong cối đá
Con chim mỏ kiến đậu trên miếng cỏ

Có những  kiểu nói lái, lúc ban đầu người nghe tưởng tiếng tây, tiếng tàu gì đó  gây ra sự  khó hiểu, làm cho người nghe  ngớ ngẫn một hồi  trước khi  vỡ lẽ ra  bật  tức cười thú vị như

Quýt xơ măng bông sên (Quăng xơ mýt (mít) bên sông).

Chúng mình đập chuông nhé?->Chúng mình đuông chập nhé ? ->Chúng mình đuông chậm nhé ?-> ? Chúng mình đâm  chuột  nhé?-> Chúng mình đâm tí nhé ?-> Chúng mình đi tấm nhé?

On ne connait pas exactement la date d’apparition de la contrepèterie au Vietnam, mais durant la période coloniale française, elle a été découverte par un chercheur de l’École française d’Extrême-Orient, M.A. Chéon. Ce dernier  soutient qu’elle  est un langage de formation mécanique et artificielle  à partir du mélange ou de l’inversion d’éléments de deux ou trois monosyllabes consécutifs dans une phrase. Il est considéré comme un véritable gymnastique linguistique  et il est caractéristique dans la conversation.   Quand quelqu’un dit quelque  chose, celui qui lui écoute doit  savoir l’interpréter d’une autre manière  selon une convention tacite que seul un groupe restreint de gens  dans la profession ou  dans  le cercle d’amis peut comprendre. Aujourd’hui, il est devenu populaire parmi la population  et il est  utilisé  dans le but de plaisanter de manière ludique entre les amis proches, comme « khoái ăn sang  (éprouver le plaisir de manger dans l’abondance)» (sáng ăn khoai «manger des patates douces au petit-déjeuner »), (chà đồ nhom « frotter les objets en aluminium »)( chôm đồ  nhà « voler des choses à la maison »), (hạ cờ  tây «descendre le drapeau français ») (hạ cầy tơ « manger la viande du chien »)

Des mots d’une extrême élégance peuvent devenir des mots vulgaires dans l’insouciance ou dans l’intention de  taquiner quelqu’un  ou de se moquer des autres, en particulier des beaux noms que les parents ont donnés  à leurs enfants tels que Cảnh hu, Thu đạm, Thái Đức, etc. Parfois dans un énoncé, aucun sens n’est trouvé  mais lorsqu’on y inverse les mots, cela  lui donne  un sens  comme « man cái » devient cái màn (rideau)  ou vice versa comme đơi chi devient đi chơi (balader).

Selon le chercheur français M.A. Cheon, les Vietnamiens ont souvent l’habitude de séparer facilement les éléments (consonnes et voyelles) des mots. C’est sur cette séparation que s’établit toute la règle du jeu de mots. Le premier mot prête sa terminaison finale au mot suivant et en retour, il reprend la terminaison finale  du mot suivant.

Ainsi, đi chơi (balader)  est divisé en d+ i et devient đơi chi par inversion. C’est une règle très simple mais elle comporte aussi des règles très complexes que l’on retrouve souvent dans les jeux de mots avec les trois principes ci-dessous.

 Première méthode:

1°) Échanger (inverser) le motif sonore, d’avant en arrière et d’arrière en avant.

2°) Conserver les deux tons (accents) des deux sons d’origine.

Exemple : cờ  tây (drapeau français) devient  cầy tơ  (un jeune chien). Cette méthode s’avère harmonieuse et plus fréquemment rencontrée. Cờ et cầy conservent toujours les deux tons (bằng) des deux sons originaux comme tây et tơ.

Deuxième méthode.

1°) Échanger complètement des syllabes.

2°) Conserver les deux tons (accents) des deux sons d’origine.

Par exemple: đấu tranh (lutter) devient tránh đâu (éviter). Cette méthode ne semble pas agréable à l’écoute  et elle est rarement utilisée.

Troisième méthode.

1°) Inverser le motif sonore.

2°) Échanger les deux tons (accents) de deux syllabes.

Par exemple : khó đi (difficile d’aller) devient khi đó (à cet instant). Cette méthode n’est pas non plus agréable à l’écoute et son emploi est aussi rare.

Selon l’écrivain Phụng Nghi, dans un mot de 3 ou 4 syllabes, si on veut le dire « à l’envers », on doit  garder les sons de liaison (conjonctions) ou les sons à sens secondaire. Les syllabes ayant le sens correct sont échangées des trois manières ci-dessus.

Exemple:  khoái ăn sang (éprouver le plaisir de manger dans l’abondance)» (sáng ăn khoai «manger des patates douces au petit-déjeuner »)

 cái trâm em cài (la broche que je porte)->  (cái trài em câm)-> (cái chai em cầm « la bouteille que je tiens)

làm sương cho sáo (faire la rosée pour la flûte : aucun sens) ->(làm sao cho sướng “comment me rendre heureux »)

cầu gia đạo (prière en famille)-> (cạo da đầu « rasage du cuir chevelu »)

Ce jeu de mots est souvent utilisé dans l’intention de refléter une réalité sociale telle que

 Ban lãnh  đạo « équipe dirigeante »->Bao lãnh đạn (étui à cartouches »)

Thủ tục đầu tiên « la première procédure à prendre »->   (thủ tục tiền đâu« procédure monétaire (corruption)» ).

L’après-midi du 30 du Têt, les enseignants enlèvent leurs chaussures pour aller au marché. Le premier jour du Têt, les enseignants terminent leur potage et célèbrent le printemps. Dans cet énoncé, il y a une certaine tolérance dans les fautes d’orthographe telles que les deux mots « giức (aucun sens) » et «dứt (cesser)».

Avec la caractéristique de « transformer le « vulgaire » en « distingué », la contrepèterie  est une technique qui apparaît dans la littérature savante et les distiques populaires.  Elle est également satirique et ironique comme le poème intitulé  « La vie monastique » de Hồ Xuân Hương:

Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Vị gì một chút tẻo tèo teo (quá nhỏ)
Thuyền từ muốn về Tây trúc
Trái gió phải nên phải lộn lèo.

La vie monastique  est chargée  de fardeaux.
Quel  petit goût  (trop petit)?
Le bateau veut retourner vers l’Inde
Le vent  contraire nous oblige de nous retourner.

ou ne pas tenir en rigueur la prononciation des tons montants et descendants dans le poème « L’été attend l’amant » de Nguyễn Khoa Vy:

Nực cổi chỉ ra nỗi cực lòng
Dòng châu lai láng, đĩa dầu chong
Khó đi tìm hiểu nhau khi đó
Công khó chờ ai biết có không

Le débarras de la chaleur n’est que le désespoir
Les larmes coulent abondamment sur l’assiette de l’huile de la veilleuse.
Il est difficile de se connaître à cet instant
L’effort d’attendre quelqu’un, quiconque le sait ?

On est habitué à écouter les énigmes suivants:

Je ne me dégoûte pas  des compotes sauf chè ghim (chìm nghe « bateau coulé »)

-Juste à la taille d’un doigt sur l’autel de Bouddha

Une fois terminée la prière, le gâteau  qui lui est offert  s’envole très loin (búng cánh « bánh cúng »)

-Cái bông trên cành, cái trái cận mây (cây mận).

La fleur étant sur la branche, le fruit se trouve  tout proche du nuage (cận mây) càd sur le « cây mận (prunier)»)

-Le morceau de couleur rougeâtre est sur le lit (Cục đo đỏ bỏ vô giường)  (Cục đường bỏ vô giỏ « le morceau de sucre est dans le panier »)

ou  à retrouver la contrepèterie dans  les sentences parallèles suivantes:

Con mèo cái nằm mãi trên mái kèo
Con cá đối nằm trong cối đá
Con chim mỏ kiến đậu trên miếng cỏ.

La chatte repose éternellement sur la charpente du toit.
Le mulet repose dans le mortier de pierre.
Le pivert se perche sur une parcelle d’herbe.

Il existe certains jeux de mots de la contrepèterie auxquels  l’auditeur pense avoir affaire comme des mots occidentaux ou chinois lors de son écoute, ce qui  lui provoque d’abord une confusion et le laisse  abasourdi pendant un  moment avant de s’en rendre compte et d’éclater de rire. C’est le cas de l’exemple suivant:

Quýt xơ măng bông sên (Quăng xơ mýt (mít) bên sông « jeter les filaments du jacquier au bord du fleuve »).

Chúng mình đập chuông nhé?->Chúng mình đuông chập nhé ? ->Chúng mình đuông chậm nhé ?-> ? Chúng mình đâm  chuột  nhé?-> Chúng mình đâm tí (tý) nhé ?->( Chúng mình đi tắm nhé? « Nous allons nous baigner »)

 

Bibliographie:

 

Phụng nghi:100 năm phát triển tiếng Việt.NXB Văn Nghệ 1999.
Lê Trung Hoa, Hồ Lê : Thú chơi chữ. Nhà xuất bản xã hội.
A. Chéon : Argot annamite. EFEO,  année 1905, vol 5, no 1
Hoàng văn Hành : Tự điển tự lái tiếng Việt.NXB Văn hóa Sàigòn 2006

Souriez-vous même si la vie est comme ça

Version française

Rất tiếc là nhà xuất bản Hồng Đức ở Việt Nam không in lại các quyễn sách của Phật sống Gyatso Rinpoche  của chùa Zhaga ở Tây Tạng. Mình có dịp mua được nguyên bộ cũa ngài viết mà nhà xuất bản Hồng Đức in lại nên mình không những thích thú mà nhận thấy ngài có một triết lý quá sâu sắc, giúp chúng ta vượt những khó khăn trong cuộc sống hằng ngày bằng cách buông bỏ những gì không thuộc về mình. Chỉ vậy thôi mà ta sẽ có hạnh phúc và có niềm vui trọn vẹn trong cuộc sống. Tất cả  đều nằm trong tay ta cả. Ta không có được  tại vì ta đòi hỏi quá nhiều và  không thương bản thân mình. Đừng để tâm trạng nó điều khiển chúng ta, mà cần trở về với những gì thuộc về ta như niềm vui và hạnh phúc đấy.

Đối với Gyatso Rinpoche, niềm vui là việc của bản thân. Nó là nhịp điệu của trái tim đến từ cảm giác mãn nguyện mà bản thân ta cảm nhận được và đến từng những cảm giác quyến luyến đối với cuộc sống.Chỉ cần ta muốn là ta có nó ở mọi lúc mọi nơi. Ta cần học cách sống vui vẻ, ta làm sao giữ được cho minh tâm thái lạc quan để cảm giác dễ chịu mỗi ngày, đấy là hạnh phúc. Chớ chỉ  mãi lo lắng đến những việc không may đến ngày mai và chưa thoát đươc sự ưu phiền của ngày hôm qua thì làm sao ta vui vẻ được ngày nay ? Tâm trạng của ta làm sao có thể thanh tịnh được ngày hôm nay nếu ta cứ đua đòi những điều ta không thể có hay không thể thiết thực  được. Chính đó là sự đau khổ của ta khởi nguồn sự không đầy đủ trong cuộc sống hằng ngày. Đây là sự ngẫm nghĩ của Phật sống Tây Tạng  Gyatso Rinpoché  về niềm vui trong quyển có tựa đề «  Mĩm cười dù cuộc đời là thế »

Il est  regrettable d’apprendre que l’éditeur Hong Duc au Vietnam ne réimprime plus les bestsellers du Bouddha vivant  Gyatso Rinpoché de la pagode  Zhaga au Tibet. J’ai  la chance  de les acquérir au bon moment.  Je les  apprécie tellement. Je me suis rendu compte qu’il a une philosophie profonde permettant de nous aider à surmonter les difficultés de la vie quotidienne en nous demandant de laisser tomber tout ce qui ne nous appartient pas.  C’est tout ce qu’il  nous  demande pour retrouver la joie de vivre dans la vie.  Normalement,  tout est  dans nos mains.  Nous ne l’obtenons pas parce que nous voulons le réclamer plus et nous  n’aimons pas nous-mêmes. Il ne faut pas laisser notre état d’âme nous  contrôler mais il faut nous ressaisir avec ce  qui nous  appartient comme la joie et le bonheur.

Pour Gyatso Rinpoché, la joie de vivre est une affaire personnelle. C’est le rythme du cœur provenant du sentiment de satisfaction que nous ressentons et de celui d’attachement à la vie. Si nous le voulons, nous  l’avons  partout et tout le temps. Nous devons apprendre à vivre heureux et à garder une attitude optimiste pour nous sentir bien à l’aise chaque jour, c’est ça le bonheur. Si  nous continuons à nous soucier seulement des malheurs de demain et  à penser aux chagrins d’hier, comment pouvons-nous vivre heureux aujourd’hui ? Comment notre esprit peut-il être en paix aujourd’hui si nous continuons à nous efforcer d’obtenir des choses qui ne sont pas à notre portée ou qui ne sont pas  réalisables? C’est là notre souffrance commençant à partir de l’insuffisance  dans notre vie quotidienne.

C’est la réflexion de Gyatso Rinpoché au sujet de la joie de vivre dans le livre intitulé « Souriez-vous-même si la vie est comme ça ».

Le crapaud (Con cóc)

Con cóc (The toad)

Version française

Version anglaise

Lúc khai quật tìm kiếm các trống đồng ở miền bắc Việt Nam vào thế kỷ 19  thì các nhà khảo cổ Pháp và Việt tìm  thấy trên mặt của vài trống  lạị có 4 tượng  cóc (hay nhái)  được cách điệu  và thường đi ngược với kim đồng hồ.Theo sự nhận xét của các nhà khảo cổ đây là các trống đồng có liên quan  đến với những nông dân của nền văn hoá trồng lúa nước như người Việt cổ. Con cóc (hay nhái) cũng được thấy thường ở trên trống đồng nhất là thuộc loại Heger 1 thời kỳ muộn (thế kỷ 1 và 2 sau công nguyên). Các nhà khảo cứu người Hoa xem các con cóc  (hay nhái) nầy dùng để trang trí cho đẹp mặt trống đồng chớ không có ý nghĩa gì sâu xa cả. Ngược lại, với người dân Việt, sự hiện diện của nó trên mặt trống  thì  đây là các trống để cầu khẩn thần mưa cho màu mỡ đất đai và thụ hoạt thuận lợi. Theo phong tục của người dân việt thì có sự liên hệ mật thiết giữa các con vật nầy với ông Trời qua câu chuyện cổ tích hóm hỉnh nên mới có câu tục ngữ như sau:

Cóc nhái là cậu ông Trời
Ai mà đánh nó ông Trời đánh cho.

Các con cóc, nhái  nầy khi chúng nó kêu lên  thì  báo hiệu trời sẻ sấp mưa khiến chúng nó trở thành những vật linh thiêng. Chúng được đưa vào thế giới tín ngưỡng của các dân tộc ở miền nam Trung Quốc như đồng bằng Bắc Bộ, Quảng Đông và Quảng Tây  và trở thành từ đó một chủ đề riêng: tín ngưỡng thờ động vật. Chúng còn thường được nhắc đến trong các ca dao hay những câu từ ngữ mang ý nghĩa xâu xa như

Ăn cóc bỏ gan, ăn trầu nhả bã
Ăn cơm lừa thóc, ăn cóc bỏ gan

để nói lên sư thận trọng và kinh nghiệm trong việc ăn uống vì gan của cóc có chứa nhiều chất độc.

Cóc còn biểu hiện của cuộc sống tự lập, không dựa vào ai cả.

Con cóc cụt đuôi
Ở bờ ở bụi
Ai nuôi mày lớn ?
Dạ thưa Thầy, con lớn mình ên

“Mình ên,” tiếng địa phương là một mình, một mình tự kiếm sống và trưởng thành.

Con ếch ám chỉ người dốt nát và có tầm nhìn hiểu biết kém nên mới có câu ca dao dưới đây:

Ếch ngồi đái giếng coi trời đất bằng vung.

cũng như nhà ngụ ngôn  Pháp nổi tiếng  Jean de la Fontaine  khiển trách  thậm tệ kẻ khoác lác trong chuyện « Con ếch muốn to bằng con bò ». Chúng ta hay thường  nghe nói « Ếch mọc lông nách » để  ám chỉ những kẻ tự phụ.

Ếch hay cóc đều là động vât lưỡng cư. Sau khi nở trứng  chúng là những con nòng nọc không tay hay chân cho đến khi trưởng thành, chỉ thở bằng mang và nhờ có một cái đuôi mà chúng dùng để bơi như cá. Môt khi trưởng thành, có  tứ chi và mất đuôi.  Để phân biệt ếch và cóc, động vật lưỡng cư có dáng ngắn, mập với chân nhỏ hơn cơ thể là cóc còn có dáng thanh mảnh với chân dài có khả năng là ếch. Ếch hay thường thích sống trong nước hay thích nhảy trên đất liền còn cóc thì không. Vã lại về kích thước của ếch thì có sự chênh lệch lớn giữa con  đực và con cái như ở nước ta  loài cái  có 10 cm nhưng loài  đực chỉ 3-4 cm nên lúc giao phối chúng bám chặc với nhau  và di chuyển, đẻ trứng ở những nơi có nước chảy khá mạnh. Trong những năm qua, các nhà khoa học Úc và  Việt  đã khám phá ra được nhiều loại ếch quá kỳ lạ. Một loài ếch biết bay mới thuộc chi Rhacophorus vừa được phát hiện ở rừng nhiệt đới  miền nam Việt Nam, chỉ cách xa thành phố Saigon một trăm cây số. Khả năng bay lượn của Rhacophorus helenae từ cây này sang cây khác đã bảo vệ con ếch bay này tránh  khỏi bất cứ thứ gì bò trên mặt đất. Nó sống chủ yếu trên tán cây (canopée). Với đôi chân và bàn tay hình cọ, nó bơi và bay trong không khí  theo lời tường thuật của nhà sinh học Úc Jodi Rowley. Còn có một loại khác được phát hiện tại khu bảo tồn thiên nhiên Pu Hoat, loài mới này được gọi là  Gracixalus Quangi, sống trong rừng ở độ cao từ 600 đến 1300 mét. Loai nầy nó biết  hót như chim  chớ  không phải quạ  quạ  như  các loại ếch khác và nó có nhiều tiếng kêu khác nhau.

Chử oa   trong tiếng nôm ta  dùng  chỉ con ếch và nhái. Còn cóc thì  ta gọi là thiềm thừ  được nói nhiều trong phong thủy. Còn các tranh  Đông Hồ thì  có một tấm tranh được gọi  là thầy đồ  cóc. Trên tranh có dòng chữ  « Lão Oa độc giảng« , có nghĩa là ông Ếch một mình giảng dạy. Đáng lý ra phải  nói Ếch nhưng trong dân gian không quen phân biệt nên gọi Cóc nhất là  hình con cóc thể hiện trên trống đồng và trên các  đồ vật thời Đồng Sơn vã  lại còn là cậu ông Trời. Ngụ  ý của bức tranh không phải  dùng để chỉ là thầy cóc đang ngồi dạy học mà muốn nhắc nhở cho hậu thế biết dân ta từ ngày xưa có chữ khoa đẩu, một  loại chữ ấy giống như con nòng nọc có đầu lớn, đuôi nhỏ.Vi vậy  trong tranh dù chỉ có  hiện diện của các sinh vật  nhưng chúng nó có  những hành động như con người. Có lẽ nghệ nhân khi vẽ tấm tranh muốn nhắn nhủ  điều gì cho hậu thế biết dân tộc ta cũng có chữ viết và nên nhớ  về  cội nguồn của dân tộc. Vì là chữ giống như con nòng nọc nên mới biến người thành ếch vì ếch là mẹ của con nòng nọc.

Nhắc  đến chữ Oa củng nên nhắc đến chuyến công du của sứ thần Mạc Đĩnh Chi  khi lúc ông sang Tàu dưới thời ngự trị của vua Nguyên Thế Tổ (Kubilai Khan). Ông được vua Nguyên Thế Tổ công nhận tài năng của ông và trao cho ông danh hiệu « Trạng Nguyên đầu tiên » (Lưỡng Quốc Trạng Nguyên) ở cả Trung Hoa và Việt Nam, khiến một số quan lại ganh tị. Một trong số người nầy cố tình làm bẽ mặt ông ta vào một buổi sáng đẹp trời bằng cách ví ông ta như một con chim bởi vì âm điệu đơn âm của ngôn ngữ, người dân Việt khi họ nói cho cảm giác người nghe như họ luôn luôn hót líu lo:

Quích tập chi đầu đàm Lỗ luận: tri tri vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri
Chim đậu cành đọc sách Lỗ luận: biết thì báo là biết, chẳng biết thì báo chẳng biết, ấy là biết đó.

Đây là một cách để khuyên Mạc Ðỉnh Chi nên khiêm tốn hơn và cư xử như một người đàn ông có phẩm chất Nho giáo (Junzi). Mạc Đỉnh Chi trả lời bằng cách ví anh nầy như một con ếch. Người Trung Hoa thường có thói nói to  và tóp tép lưỡi  qua tư cách họ uống rượu.

Oa minh trì thượng đọc Châu Thư: lạc dữ đọc lạc nhạc, lạc dữ chúng lạc nhạc, thục lạc.
Châu chuộc trên ao đọc sách Châu Thu: cùng ít người vui nhạc, cùng nhiều người vui nhạc, đằng nào vui hơn.

Đó là một cách để nói lại với người quan lại nầy nên có một tâm trí lành mạnh để hành xử một cách công bằng và phân biệt nghiêm chỉnh.

Theo đặc tính của đại tộc Bách Việt mà trong đó có tộc Lạc Việt thì các tộc nầy thích ăn sò hến và ếch. Chưa kể số lượng ếch dùng ở trong nước nhưng được biết ngày nay từ  2010–2019 Việt Nam đã cung cấp cho EU hơn 8400 tấn đùi ếch, trở thành nhà cung cấp đùi ếch lớn thứ hai  sau Nam Dương vào EU (theo tin Tia Sáng). Pháp nhập khẩu hơn 2.500 tấn đùi ếch từ nước ngoài mỗi năm để đáp ứng nhu cầu trong nước. Nhu cầu lên cao tại châu Âu đang gây rắc rối lớn cho các nước cung cấp vì  không biết có bao nhiêu con ếch được xuất khẩu trong các trại  nuôi ếch và bao nhiêu con còn lại trong tự nhiên.

Đây là mối lo ngại lớn nhất  của các nhà sinh học hiện nay vì ếch giữ  một vai trò cực kỳ quan trọng trong chuỗi thức ăn. Ếch vừa là thợ săn mà vừa  là con mồi. Nhờ có ếch mà  số lượng châu chấu và muỗi được giảm. Ếch là thuốc trừ sâu tự nhiên. Nếu ngày nào không còn  ếch  thì  phải dùng thuốc trừ  sâu  nhiều  hơn thì có  hại cho sức khoẻ  và môi trường. Theo cơ  quan Humance Society International, số lượng ếch ở Việt Nam đã giảm đáng kể trong những thập kỷ gần đây vì nó cũng là con mồi của con người. Nó không những là nguồn lợi đáng kể trong việc xuất khẩu mà còn là món ăn dân dã  ở nước ta nhất là thịt nó thơm như thịt gà nên được gọi là gà đồng.  Chổ nào có nước có sông ngòi là có sự hiện diện của ếch thì  có  các món đặc sản từ ếch như đùi ếch chiên giòn, ếch xào măng, ếch nấu cà ri, ếch xào chua ngọt, ếch xào xã ớt  vân vân.

 Ở miền tây Nam Bộ, vào cuối tháng 8, lúc mùa nước nổi  hay thường có thú vui giải trí là trò đi câu  hay soi bắt  ếch.  Lũ  ếch  thường tụ hợp ở những nơi  có nhiều côn trùng và sâu bọ. Chỉ  cần có cây trúc dài khoảng bốn năm mét, cước dài với mồi rồi thả mồi xuống các hang hay các vùng trũng nước. Khi có tiếng động thì phải nhanh tay giật mạnh cái cần trúc lên bờ vì ếch đã cắn câu. Đây là thú điền viên, một nghệ thuật câu ếch tinh vi và nhanh nhẹn của những  đứa trẻ sống ở miền tây. Còn soi ếch cần tránh làm ồn ào lúc trời lại tối và dùng  đèn pin soi  vào mắt ếch  thì nó lại ngồi im lìm trên bờ  không di chuyển còn không khi nghe tiếng động, nó  biến mất nhanh nhẹn dưới nước liền theo lời tường thuật của những kẻ rành đi bắt ếch đồng.

Lors de fouilles de tambours de bronze dans le nord du Vietnam au XIXème siècle, des archéologues français et vietnamiens ont découvert sur les faces de certains tambours de bronze quatre crapauds stylisés (ou grenouilles) se déplaçant souvent dans le sens inverse des aiguilles d’une montre. Selon les archéologues ces tambours en bronze sont liés étroitement aux agriculteurs de la culture du riz inondé comme les Proto-Vietnamiens. Les crapauds (ou grenouilles) sont également fréquemment trouvés sur les tambours de bronze, en particulier ceux du type Heger 1 tardif (1er et 2ème siècles après J.-C.). Les chercheurs chinois considèrent que ces crapauds (ou grenouilles) sont utilisés pour décorer les tambours de bronze et n’ont aucune signification particulière. Au contraire, pour le peuple vietnamien, leur présence sur la surface du tambour a pour but d’implorer  le génie  de la pluie de rendre  les terres plus fertiles et des  récoltes fructueuses. Selon la coutume vietnamienne, il existe évidemment un lien étroit entre ces amphibiens  et Dieu à travers un conte  humoristique. C’est pourquoi on a le proverbe suivant :

Le crapaud (ou grenouille) est l’oncle maternel de Dieu.
Celui qui ose le battre, Dieu le battra.

Lorsque ces crapauds et ces grenouilles coassent, ils  signalent qu’il est sur le point de pleuvoir, ce qui les rend en fait des animaux sacrés. Ils ont été introduits dans le monde religieux des peuples vivant au sud de la Chine comme ceux du delta de Tonkin, du Guangdong et du Guangxi et ils sont devenus désormais  un sujet à part entière  dans le culte des animaux. Ils sont souvent mentionnés dans des chansons folkloriques ou des expressions ayant des significations profondes.

Ăn cóc bỏ gan, ăn trầu nhả bã
Ăn cơm lừa thóc, ăn cóc bỏ gan

Lorsqu’on mange une grenouille, il faut jeter son foie. Lorsqu’on chique le bétel, il faut cracher les résidus ;
Lorsqu’on mange du riz, il faut rejeter les cosses de riz. Lorsqu’on mange une grenouille, il faut jeter son foie.

Ce sont des expressions notant  la prudence et l’expérience en matière de consommation car le foie d’un  crapaud contient de nombreuses substances toxiques.

Le crapaud est la représentation d’une vie indépendante et n’ayant  pas besoin de l’aide de personne.

Con cóc cụt đuôi
Ở bờ ở bụi
Ai nuôi mày lớn ?
Dạ thưa Thầy, con lớn mình ên

Crapaud sans queue,
Tu vis au bord du rivage et dans le ruisseau
Qui t’a élevé ?
Oui monsieur, je grandis tout seul.

La grenouille incarne  souvent  un ignorant et a   une vision assez étroite  et limitée.  Il y a donc un proverbe ci-dessous:

Ếch ngồi đái giếng coi trời đất bằng vung.
La grenouille assise au fond d’un puits considère le ciel comme un couvercle.

comme le célèbre fabuliste français Jean de la Fontaine a l’ occasion de réprimander le vantard dans l’histoire « La grenouille  veut être aussi grosse que le bœuf ». On entend souvent l’expression Ếch mọc lông nách « grenouille qui prétend avoir des poils sous les aisselles » pour désigner les personnes vaniteuses.

Les grenouilles et les crapauds sont tous deux des amphibiens. Après l’éclosion, ils sont des têtards sans bras ni jambes jusqu’à l’âge adulte, respirant uniquement grâce à  des branchies et une queue qui leur permet de nager comme des poissons. Une fois adulte, il possède quatre membres et perd sa queue.  Pour distinguer les grenouilles des crapauds, les amphibiens au corps court et gras et aux pattes plus petites que leur corps sont des crapauds, tandis que ceux au corps mince et aux pattes longues sont probablement des grenouilles. Ces dernières aiment généralement vivre dans l’eau ou sauter sur terre, mais pas les crapauds. De plus, il existe une grande différence dans la taille des grenouilles entre les mâles et les femelles. Dans notre pays, les femelles mesurent 10 cm de long, mais les mâles n’ont que 3 à 4 cm. Ainsi, lors de l’accouplement, elles s’accrochent  les unes aux autres dans leur déplacement et  pondent leurs œufs dans des endroits à fort courant d’eau. Au fil des années, les scientifiques australiens et vietnamiens ont découvert de nombreuses espèces étranges de grenouilles. Une nouvelle espèce de grenouille volante appartenant au genre Rhacophorus vient d’être découverte dans les forêts tropicales du sud du Vietnam,  seulement à cent kilomètres de la ville de Saigon. La capacité de Rhacophorus helenae de  planer d’arbre en arbre protège cette grenouille volante de tout ce qui rampe sur le sol. Il vit principalement dans la canopée. Dotée de pattes et de mains en forme de paume, elle nage et vole dans les airs, selon la biologiste australienne Jodi Rowley. Une autre espèce a été découverte dans la réserve naturelle de Pu Hoat. Cette nouvelle espèce s’appelle Gracixalus Quangi, vivant dans les forêts à des altitudes de 600 à 1300 mètres. Cette espèce peut chanter également  comme un oiseau.  Contrairement au corbeau et aux autres grenouilles  elle possède de nombreux cris différents.

Dans la langue Nôm  le mot « oa » est utilisé pour désigner les grenouilles et les crapauds. Quant au crapaud, on l’appelle « Thiêm thù » 蟾蜍 et il est souvent mentionné en feng shui. En ce qui concerne les estampes de Đông  Hồ, il existe un tableau  intitulé « L’érudit crapaud » sur lequel  il y a la ligne «Lão Oa độc giảng», ce qui signifie que le vieux crapaud  enseigne  seul. Normalement on devrait l’appeler « Grenouille ». Comme  les gens  ne sont pas habitués à faire la distinction, ils l’appellent Crapaud quand même  du fait  que le crapaud figure  sur les tambours de bronze et sur les artefacts de la période de Đồng Sơn et qu’il est aussi l’oncle maternel de Dieu. La signification du tableau n’est pas  dans l’intention de montrer le crapaud professeur assis et enseignant, mais de rappeler aux générations futures que notre peuple possédait l’écriture Khoa Đẩu dans le passé, un type d’écriture ressemblant  à un têtard avec une grosse tête et une petite queue. Ainsi, bien qu’il n’y ait que des créatures présentes dans le tableau, celles-ci agissent comme les humains. Peut-être au moment  de la réalisation de ce tableau, l’artiste voulait dire aux générations futures que notre peuple possédait aussi une langue écrite et qu’il devrait s’en souvenir. Comme la lettre ressemblait à un têtard, il voulait transformer les gens en grenouilles  car ces dernières étaient la mère des têtards.

En mentionnant le mot Oa, nous devons  évoquer également le voyage de l’ambassadeur Mạc Đỉnh Chi lorsqu’il se rendit en Chine sous le règne du roi Nguyên Thế Tổ  (Kubilai Khan). Ce dernier dut reconnaître son talent et lui accorda ainsi le titre  » Premier docteur » ( Lưỡng Quốc Trạng Nguyên ) aussi bien en Chine qu’au Viêt-Nam, ce qui rendit jaloux quelques mandarins chinois. L’un d’eux tenta de l’humilier un beau matin en le traitant comme un oiseau car à cause de la tonalité monosyllabique de la langue, les Vietnamiens donnent l’impression de gazouiller toujours lorsqu’ils parlent:

Quích tập chi đầu đàm Lỗ luận: tri tri vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri
Chim đậu cành đọc sách Lỗ luận: biết thì báo là biết, chẳng biết thì báo chảng biết, ấy là biết đó.

L’oiseau s’agrippant sur une branche lit ce qui a été écrit dans le livre Les Entretiens : Si nous savons quelque chose, nous disons que nous la savons. Dans le cas contraire, nous disons que nous ne la savons pas. C’est ainsi que nous disons que nous savons quelque chose.

C’est une façon de recommander Mạc Ðỉnh Chi de se montrer plus humble et de se comporter comme un homme de qualité confucéenne ( junzi ). Mạc Ðỉnh Chi lui répliqua en le traitant comme une grenouille car les Chinois ont l’habitude de clapper à cause de leur manière de boire ou de parler bruyamment:

Oa minh trì thượng đọc Châu Thư: lạc dữ đọc lạc nhạc, lạc dữ chúng lạc nhạc, thục lạc.
Châu chuộc trên ao đọc sách Châu Thu: cùng ít người vui nhạc, cùng nhiều người vui nhạc, đằng nào vui hơn.

La grenouille barbotant dans la mare lit ce qui a été écrit dans le livre Livre des Documents Historiques (Chou Ching): certains jouent seuls de la trompette, d’autres jouent ensemble de la trompette. Lesquels paraissent en jouer mieux.

C’est une façon de dire au mandarin chinois d’avoir un esprit sain pour pouvoir avoir un comportement juste et un discernement équitable.

Selon les caractéristiques des Bai Yue dont fait partie la tribu Lo Yue, ils aiment manger des palourdes et des grenouilles. Sans parler du nombre de grenouilles consommées dans le pays, on sait qu’entre 2010 et 2019, le Vietnam a fourni à l’UE plus de 8 400 tonnes de cuisses de grenouilles. Il devient ainsi le deuxième grand fournisseur de cuisses de grenouilles après l’Indonésie à l’UE (selon  le journal Tia Sáng). La France importe chaque année plus de 2 500 tonnes de cuisses de grenouilles de l’étranger pour répondre à sa consommation  interne. La forte demande en Europe pose de gros problèmes aux pays fournisseurs car on ne sait pas combien de grenouilles  exportées des fermes d’élevage et combien de grenouilles prises dans la nature.

C’est la plus grande préoccupation des biologistes d’aujourd’hui, car les grenouilles jouent un rôle extrêmement important dans la chaîne alimentaire. Les grenouilles sont à la fois des chasseurs et des proies. Grâce aux grenouilles, le nombre de criquets et de moustiques est réduit. Les grenouilles sont des « pesticides naturels ». S’il n’y a plus de grenouilles, nous devrons utiliser davantage de pesticides, ce qui est nocif pour la santé et l’environnement. Selon la Humance Society International, le nombre de grenouilles au Vietnam a considérablement diminué au cours des dernières décennies, car elles sont également la proie des humains. Ce n’est pas seulement une source importante d’exportation mais c’est aussi une  spécialité populaire  dans notre pays, en particulier sa chair parfumée comme celle du  poulet. C’est pourquoi on appelle  la grenouille  avec le vocable « poulet des champs ».

Partout où il y a de l’eau et des rivières, il y a des grenouilles. Il existe donc des spécialités locales de grenouilles telles que les cuisses de grenouilles frites, les  cuisses de grenouilles sautées aux pousses de bambou, les cuisses de grenouilles au curry, les cuisses de grenouilles sautées aigre-douce, les grenouilles sautées à la citronnelle et au piment etc.

Dans la région du sud-ouest du Viet Nam, à la fin du mois d’août, durant la saison des inondations, les gens aiment aller  pêcher ou attraper des grenouilles.  Celles-ci  se rassemblent souvent dans des endroits où il y a beaucoup d’insectes et de bestioles. Il suffit d’avoir un bâton de bambou d’environ quatre à cinq mètres de long, muni  d’une longue ligne avec un appât et  de déposer le tout dans des grottes ou des zones basses. Lorsqu’il y a du bruit, il faut rapidement tirer la perche en bambou jusqu’au rivage car la grenouille a mordu à l’hameçon. Il s’agit  bien d’un passe-temps rural, un art de pêche à la grenouille sophistiqué et agile des enfants vivant dans l’ouest du Vietnam. Pour attraper les grenouilles, on doit devez éviter de faire du bruit. Lorsqu’il fait sombre la nuit, on doit se servir d’une lampe de poche pour éblouir les yeux de la grenouille. Celle-ci  reste  « tétanisée » et  immobile sur le rivage  sinon en cas de bruit, elle  disparaîtra rapidement sous l’eau selon les gens qui sont habitués à attraper les grenouilles.

Version anglaise

During excavations of bronze drums in northern Vietnam in the 19th century, French and Vietnamese archaeologists discovered four stylized toads (or frogs) on the faces of some bronze drums, often moving counterclockwise. According to archaeologists, these bronze drums are closely related to flooded rice farmers such as the Proto-Vietnamese. Toads (or frogs) are also frequently found on bronze drums, especially those of the late Heger 1 type (1st and 2nd centuries A.D.). Chinese researchers consider these toads (or frogs) to be used to decorate bronze drums and have no particular significance. On the contrary, for the Vietnamese people, their presence on the drum surface is intended to implore the rain spirit to make the land more fertile and harvests fruitful. According to Vietnamese custom, there is obviously a close connection between these amphibians and God through a humorous tale. This is why we have the following proverb:

The toad (or frog) is God’s maternal uncle.
Whoever dares to beat him, God will beat him.

 When these toads and frogs croak, they signal that it is about to rain, which actually makes them sacred animals. They were introduced into the religious world of people living in southern China such as those in the Tonkin Delta, Guangdong, and Guangxi, and have now become a separate subject in animal worship. They are often mentioned in folk songs or expressions with deep meanings.

Ăn cóc bỏ gan, ăn trầu nhả bã
Ăn cơm lừa thóc, ăn cóc bỏ gan.

When you eat a frog, you must discard its liver. When you chew betel, you must spit out the residue;
When you eat rice, you must discard the rice husks. When you eat a frog, you must discard its liver.

These are expressions that denote caution and experience when consuming food, as a toad’s liver contains many toxic substances.

The toad represents an independent life that requires no help from anyone.

Con cóc cụt đuôi
Ở bờ ở bụi
Ai nuôi mày lớn ?
Dạ thưa Thầy, con lớn mình ên.

Tailless toad,
You live by the shore and in the bush.
Who raised you?
Yes sir, I’m growing up all alone.

The frog often embodies an ignoramus and has a rather short and limited vision. Therefore, there is a proverb below:

Ếch ngồi đái giếng coi trời đất bằng vung.

The frog sitting at the bottom of a well considers the sky as a lid.

as the famous French fabulist Jean de la Fontaine has occasion to reprimand the boaster in the story « The frog wants to be as big as the ox. » We often hear the expression Ếch mọc lông nách « frog who claims to have hair under his armpits » to refer to vain people.

Frogs and toads are both amphibians. After hatching, they are tadpoles without arms or legs until adulthood, breathing only through gills and a tail that allows them to swim like fish. Once adult, it has four limbs and loses its tail. To distinguish frogs from toads, amphibians with short, fat bodies and legs smaller than their bodies are toads, while those with thin bodies and long legs are probably frogs. The latter generally like to live in water or hop on land, but toads do not. Furthermore, there is a large difference in the size of frogs between males and females.

In our country, females are 10 cm long, but males are only 3 to 4 cm. Therefore, during mating, they cling to each other as they move and lay their eggs in places with strong water currents. Over the years, Australian and Vietnamese scientists have discovered many strange species of frogs. A new species of flying frog belonging to the genus Rhacophorus has just been discovered in the tropical forests of southern Vietnam, just 100 kilometers from the city of Saigon. Rhacophorus helenae’s ability to glide from tree to tree protects this flying frog from anything crawling on the ground. It lives primarily in the canopy. Equipped with palm-like legs and hands, it swims and flies through the air, according to Australian biologist Jodi Rowley. Another species has been discovered in the Pu Hoat Nature Reserve. This new species is called Gracixalus quangi, which lives in forests at altitudes of 600 to 1300 meters. This species can also sing like a bird. Unlike the crow and other frogs, it has many different calls.

In the Nôm language, the word « oa » is used to refer to both frogs and toads. The toad is called « Thiem thù » (蟾蜍) and is often mentioned in feng shui. Regarding Dong Ho’s prints, there is a painting titled « The Scholarly Toad » with the line « Lão Oa độc giảng, » which means that the old toad teaches alone. Normally, he should be called « Frog. » Since people are not used to making the distinction, they call him Toad anyway, because the toad appears on bronze drums and artifacts from the Dong Son period and he is also the maternal uncle of God. The meaning of the painting is not to show the toad teacher sitting and teaching, but to remind future generations that our people had Khoa Đẩu writing in the past, a type of writing resembling a tadpole with a big head and a small tail. Thus, although there are only creatures present in the painting, they act like humans. Perhaps at the time of making this painting, the artist wanted to tell future generations that our people also had a written language and should remember it. Since the letter resembled a tadpole, he wanted to turn people into frogs because frogs were the mother of tadpoles.

Mentioning the word Oa, we must also mention the journey of Ambassador Mạc Đỉnh Chi when he went to China during the reign of King  Kubilai Khan. The latter recognized his talent and thus granted him the title of « First Doctor » (Lưỡng Quốc Trạng Nguyên) both in China and in Vietnam, which made some Chinese mandarins jealous. One of them tried to humiliate him one fine morning by treating him like a bird because due to the monosyllabic tone of the language, the Vietnamese give the impression of always chirping when they speak:

Quích tập chi đầu đàm Lỗ luận: tri tri vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri
Chim đậu cành đọc sách Lỗ luận: biết thì báo là biết, chẳng biết thì báo chảng biết, ấy là biết đó.

The bird clinging to a branch reads what was written in the book « The Conversations »: If we know something, we say that we know it. If we don’t, we say that we don’t know it. This is how we say that we know something.

This is a way of recommending Mạc Ðỉnh Chi to be more humble and to behave like a man of Confucian quality (junzi). Mạc Ðỉnh Chi replied by treating him like a frog because the Chinese have the habit of clapping because of their way of drinking or speaking loudly:

Oa minh trì thượng đọc Châu Thư: lạc dữ đọc lạc nhạc, lạc dữ chúng lạc nhạc, thục lạc.
Châu chuộc trên ao đọc sách Châu Thu: cùng ít người vui nhạc, cùng nhiều người vui nhạc, đằng nào vui hơn.

The frog splashing in the pond reads what was written in the Book of Historical Documents (Chou Ching): some play the trumpet alone, others play the trumpet together. Which one seems to play it better?

This is a way of telling the Chinese Mandarin to have a sound mind so as to be able to behave justly and discern justly.

According to the Bai Yue people, who include the Lo Yue tribe, they enjoy eating clams and frogs. Not to mention the number of frogs consumed in the country, it is known that between 2010 and 2019, Vietnam supplied the EU with more than 8,400 tons of frog legs. This makes it the second largest supplier of frog legs to the EU after Indonesia (according to the Tia Sáng newspaper). France imports more than 2,500 tons of frog legs from abroad each year to meet its domestic consumption. The high demand in Europe poses major problems for supplying countries because it is unclear how many frogs are exported from breeding farms and how many are taken from the wild.

This is the biggest concern of biologists today because frogs play an extremely important role in the food chain. Frogs are both hunters and prey. Thanks to frogs, the number of locusts and mosquitoes is reduced. Frogs are « natural pesticides. » If there are no more frogs, we will have to use more pesticides, which is harmful to health and the environment. According to the Humance Society International, the number of frogs in Vietnam has decreased significantly in recent decades because they are also preyed on by humans. It is not only an important source of export but also a popular specialty in our country, especially its fragrant meat like that of chicken. That is why the frog is called « field chicken. »

Wherever there is water and rivers, there are frogs. Therefore, there are local frog specialties such as fried frog legs, stir-fried frog legs with bamboo shoots, curry frog legs, sweet and sour stir-fried frog legs, stir-fried frog legs with lemongrass and chili etc. In the southwest region of Vietnam, at the end of August, during the flood season, people like to go fishing or catching frogs. These often gather in places where there are many insects and creatures. All you need is a bamboo stick about four to five meters long, equipped with a long line with bait, and drop it into caves or low-lying areas. When there is noise, you must quickly pull the bamboo pole to the shore because the frog has taken the bait. This is indeed a rural pastime, a sophisticated and agile frog fishing art of children living in western Vietnam. To catch frogs, you must avoid making noise. When it is dark at night, you must use a flashlight to dazzle the frog’s eyes. This one remains « frozen » and motionless on the shore otherwise in case of noise, it will quickly disappear underwater according to people who are used to catching frogs.

Làng Việt Nam (Village vietnamien)

Portail du village

Version française

Version anglaise

Làng (), từ nầy  nó dùng để chỉ  một đơn vị cư trú mà nó còn là  một hình thức tổ chức xã hội quan trọng ở nông thôn Việt Nam. Nó được thành hình từ những người trong gia tộc cùng huyết thống hoặc đến từ cộng đồng cư dân cùng làm một nghề chung. Từ thưở ban đầu, Việt Nam là môt nước nông nghiệp nên lúc nào cũng chịu nhiều  ảnh hưởng thiên nhiên. Lũ lụt hay thường có  không ai tránh khỏi nên cần có nỗ lực chung của cộng đồng mới có thể có  kết quả hữu hiệu. Bởi vậy mới có câu tục ngữ nầy nói lên tình láng giềng đôi khi còn quí trọng hơn tình anh em xa. (Bán anh em xa mua láng giềng gần).  Còn  đến mùa gặt lúa thì cần có nhân lực, cần có sự trợ giúp của cộng đồng. Vì thế làng cần có tổ chức chặt chẽ nên có những đặc thù riêng,  có sự  gần gũi và  gắn bó với nhau giữa  cư dân  làng hơn. Bao giờ cũng thường nghe gọi một câu «  Ối làng nước ơi » một khi phụ nữ bực tức phẫn nộ chi đó ở nông thôn miền Bắc. Luôn luôn nhớ đến làng trước khi nhắc đến nước.

Theo nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm, không  phải có sự ngẫu nhiên trùng hợp trong tiếng nước ta lại có khái niệm « làng nước »[ibid 238]  còn « nhà nước » chỉ là  sự chuyển  đổi tóm tắt của khái niệm Trung Hoa « quốc gia » hay « nhà nước ». Có nói đến gia đình từ khi đạo Khổng du nhập vào xứ ta. Ta cũng thường nghe nói đến các tổ hợp từ đình làng, ao làng, giếng làng, hương ước làng vân vân. Đây cũng là những nét đặc tính làng ta đều có cả. Uy quyền của vua tuy lớn nhưng quá ở xa nên không có hiệu lực bằng  tục lệ làng nên mới có câu tục ngữ  nầy: Phép vua thua lệ làng hay là  Áo cứ tràng, làng cứ xã  để khẳng đinh vai trò chính yếu của làng, chỗ nương tựa cần thiết trong việc giải quyết mọi việc hằng ngày  tuy ảnh hưởng nó nhỏ và lấy nó làm căn cứ như  vạt áo khi cắt may trong đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Làng ̣được xem có tính tự trị, khép kín, độc lập, là một vương quốc nhỏ trong vương quốc lớn nên mới có câu « Hương đảng (), tiểu triều đình ». Chính vì có tính tự  trị nên lúc đầu có những qui ước miệng sơ sài nhưng về sau trở thành hương ước đôi khi còn nặng nề  và đối lập với  luật của triều đình. Vì thế nhà nước phong kiến hạn chế lại việc lập tư ước với đạo dụ của vua Lê Thánh Tôn. Luật nhà nước đối với làng  như nước đổ lá khoai theo lời trích dẫn của  nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến [ibid 33]. Tục lệ  hay hương ước được chép thành văn bản và được khắc trên bia và được phổ  biến rộng rải từ thế kỷ 17. Có nhiều tục lệ lạ thường trớ trêu như thách cưới bằng bánh giầy. Làng có bao nhiêu gia đình thì bên đàn trai phải biếu bao nhiêu cái bánh. Còn có tục lệ gái đi lấy chồng thiên hạ để bắt cheo có nghĩa là muốn cưới vợ phải nộp cho làng gạch đế lát đường. Có nhiều tục lệ bám con người từ lúc trẻ cho đến khi qua đời khiến làm người nghèo càng nghèo thêm khiến đôi khi nhân phẩm của họ bị chà đạp nên phải bỏ làng mà đi như ở làng Chèm. Ngay nay với những qui định của nhà  nước và sự hiểu biết  của người dân trong xã hội tân tiến nên tục lệ trong làng cũng được rút gọn để  phù hợp với nguyện vọng của  cư dân ở trong làng.

Làng có một tổ chức độc đáo gọi là « giáp » chỉ dành cho nam giới và có đặc tính là cha truyền con nối.Trong  tổ chức nội bộ, có ba giai cấp : tì ấu (đến 18 tuổi), đinh tráng  và lão (từ 60 tuổi trở lên). Khi đứa trẻ mới sinh, người cha có nhiệm vụ thông báo với giáp và xin gíáp thừa nhận cháu bé vào cấp tì ấu với một quà nhỏ. Đến lúc 18 tuổi, có một buổi lễ công nhận đứa bé được đổi cấp, sang thành hội viên chính thức của cấp đinh tráng. Còn công việc làm cho làng, ai cũng như nhau và hưởng tất cả quyện lợi của cấp nầy cũng như có  miếng đất của công xã để trồng trọt và  một phần lợi tức thu hoạt phải đóng cho làng xã. Còn một khi sang cấp lão thì có một danh dự không nhỏ, được xem là người nhiều kinh nghiệm và được ngồi ngang hàng  vớc các bậc tú tài, cử nhân và tiến sĩ của triều đình. Bởi vậy mới có câu tục ngữ như sau: Triều đình trọng tước, hương đảng trọng xỉ (xỉ là răng  tức là những nguời lớn tuổi trong làng  bị mất răng) nhưng ngược lại  mất đi quyền hưởng thụ đất ai của làng, không còn làm những việc nhọc nhằn  mà làng giao phó. Chỉ có những người chính cư hay nội tịch mới có quyền vào tổ chức nầy chớ  những người ngụ cư hay ngoại tịch thì không có quyền, chỉ làm những nghề thấp kém.

Đây cũng  là ví dụ điển hình của sự phân biệt  đối xử dưới thời phong kiến trong làng.Theo nhà khảo cứu Trần Ngọc Thêm, đây là một  phương tiện để đảm bảo sự ổn định của các làng mạc.[ Trần Ngọc Thêm , ibid 248]. Cụ thể sự khác biệt được thấy rõ trong viêc cưới hỏi. Nếu cô dâu chú rể cùng chung  làng thì tiền cheo đóng cho làng rất tối thiểu và tượng trưng  (cheo nội) còn không thi tiền cheo có thể gấp đôi hay gấp ba lần. Cư dân ở làng chia ra thành năm hạng: chức sắc, chức dịch, lão, đinh tráng và tì ấu.Những nguời thuộc  ba hạng trên được chọn cử vào Hội đồng kì mục để có nhiệm vụ quản trị làng qua các hương ước sau khi có sự đồng ý của các hội nghị và thảo luận chung. Việc thu thuế cũng được rỏ ràng.Thay vì có sổ thuế má cho mỗi cá nhân thì làng đây có tính cách cộng đồng và của một nhóm người nên chỉ  cần đặt mức thuế cho làng và làng tự lo liệu trong việc nầy. [ Trần Ngọc Thêm, ibid 253]

Chính nhờ có tính cộng đồng cùng các hương ước, tính tự trị của làng xã được thể hiện được  tính độc lập và  sự đa dạng về  các quyết định liên quan đến  đời sống xã hội và tâm linh của  dân làng. Ngoài các đặc trưng mà làng Việt nào cũng  có như cổng làng, đình, giếng nước, thành hoàng thì làng  lại còn được biết đến nhờ lễ hội mỗi năm. Thông thường lễ hội thường hay tổ chức ở cửa đền, đình hay miếu chớ ở chùa thì ít có lắm chỉ dành cho lễ Phật. Trong lễ hội, làng hay diễn lại sử tích hay hành vi đặc trưng nào của thành hoàng chính đó là tiết mục chính cho nghi lễ. Ngoài nét đặt thù của làng, làng còn là một thành lũy tự trị, độc lập và kép kính sau lũy tre xanh. Nó còn là « yếu tố cơ bản » trong việc  xây dựng » quốc gia. Bởi vậy nhà Đông Phương học Pháp Paul Mus mới nói rằng Việt Nam là xã hội làng mạc.

Village (), ce mot est utilisé pour désigner une unité résidentielle mais il est également une structure importante d’organisation sociale dans le Vietnam rural. Il est formé des gens issus  d’une même lignée ou d’une communauté de résidents  partageant un métier commun. Dès le début, le Vietnam est un pays agricole, il a donc toujours été influencé par les aléas de la nature. Les inondations sont fréquentes et  inévitables. Cela  nécessite évidemment un effort conjoint de la communauté pour obtenir des résultats efficaces. C’est pourquoi il existe un  proverbe rappelant  que l’amour  réservé aux gens vivant  à proximité est parfois plus précieux que celui donné aux frères et sœurs vivant trop lointain.  À l’approche de la saison de la récolte du riz, on a besoin de la main-d’œuvre et du soutien de la communauté. Le village doit donc être bien  organisé, afin qu’il ait ses propres caractéristiques et qu’il y ait plus de cohésion et d’attachement entre les villageois. Il est courant d’entendre la phrase « Oh village-pays » lorsque la femme est  en colère ou contrariée par quelque chose dans la campagne du Nord. Elle pense tout de suite à son village avant de mentionner son pays.

Selon le chercheur Trần Ngọc Thêm, ce n’est pas par hasard que dans notre langue il y a la notion  « village-pays » [ibid 238] tandis que  «nhà nước » n’est qu’une transposition  sommaire de la notion chinoise  « quốc gia » . On parle de la famille depuis l’introduction du confucianisme dans notre pays. On entend aussi souvent parler de la combinaison  des mots   « maison communale -village »,  « étang- village », « puits -village », « règlements internes-village » etc. Ce sont aussi les caractéristiques que possède notre village. L’autorité du roi, bien que elle soit  grande, est trop éloignée pour être aussi efficace que les coutumes du village. C’est pourquoi il y un  proverbe: L’autorité du roi cède devant les coutumes du village ou « La tunique  suit son corps, le village la commune » pour affirmer le rôle important du village et le soutien nécessaire dans la résolution de toutes les difficultés quotidiennes. Malgré que  son influence soit faible dans la vie matérielle et spirituelle du peuple mais il est  utilisé comme le point de repère  dans   la coupe et  la couture d’une tunique.

Le village est toujours considéré comme autonome, fermé et indépendant. C’est  un petit royaume dans un grand royaume. C’est pourquoi on dit « Hương đảng (鄉黨), petite cour« . En raison de son autonomie, il n’existe au début que des accords oraux simples mais ils deviennent plus tard des règlements internes  parfois trop lourds et contraires aux lois de la cour impériale.  C’est pourquoi l’état féodal a restreint l’établissement des règlements privés par l’édit du roi Lê  Thánh Tôn. La loi de l’État pour le village est considérée  comme l’eau versée glissant  sur le dos d’une feuille (inefficace) , selon la  citation de l’écrivain Nguyen Ngoc Tien [ibid 33]. Les coutumes ou les règlements internes étaient  consignés et gravés sur des stèles et furent largement diffusés à partir du XVIIème  siècle.

Il existe de nombreuses coutumes étranges et ironiques, comme la dot de gâteaux de riz. En fonction du nombre de familles dans le village,  le marié doit donner autant de gâteaux de riz. Il existe également une coutume selon laquelle si une fille veut épouser quelqu’un venant de l’extérieur, elle doit offrir au  village des briques pour  paver la route. Il existe de nombreuses coutumes qui suivent les gens depuis l’enfance jusqu’à la mort, ce qui appauvrit encore les pauvres,  piétine parfois leur dignité et  les force à quitter le village comme dans le village de Chem. De nos jours, avec les réglementations de l’État et la compréhension des gens dans la société moderne, les coutumes villageoises sont également moins contraignantes  pour répondre aux souhaits des villageois.

Le village possède une organisation unique appelée « giáp » qui est réservée uniquement aux hommes et qui a un caractère héréditaire. Dans l’organisation interne, il existe trois classes: les benjamins (jusqu’à 18 ans), les hommes d’âge moyen et les hommes âgés (60 ans et plus). À la naissance de l’enfant, le père a le devoir d’informer le « giáp »  et de lui demander d’inscrire  l’enfant  à la première classe avec un petit cadeau. À l’âge de 18 ans, une cérémonie a lieu pour reconnaître le changement de classe de l’enfant. Il  devient ainsi un membre officiel de la classe  des « hommes forts et utiles ». En ce qui concerne le travail pour le village, tout le monde est égal et bénéficie de tous les avantages à ce niveau ainsi que la possession d’un lopin  de terre communale pour la culture. Une partie  des revenus lors de la récolte doit être versée au village. Une fois entré dans la dernière classe, on a le  grand honneur d’être considéré comme une personne expérimentée et on a le droit de s’asseoir au même niveau que  les bacheliers, les licenciés et les docteurs de la cour royale. C’est pourquoi il existe un proverbe : La cour royale honore les grades, le village les personnes âgées (ce sont les personnes âgées du village ayant perdu leurs dents) mais en contrepartie, elles perdent le droit de jouir des terres communales du village et ne peuvent plus faire le dur travail assigné par le village. Seuls les natifs et les résidents ont le droit d’entrer dans cette organisation, tandis que les immigrants ou les étrangers n’ont pas ce droit et ne peuvent occuper que des emplois subalternes.

C’est aussi l’exemple typique de  la discrimination féodale dans le village. Selon le chercheur Trần Ngọc Thêm, il s’agit d’un moyen d’assurer la stabilité des villages. [Trần Ngôc Thêm, ibid 248]. Cette discrimination  est particulièrement visible dans le mariage. Si les mariés sont du même village, la dot du mariage  « cheo » versée au village est minime et symbolique (cheo nội), sinon la somme  d’argent (cheo) peut être doublée  ou triplée.

Les habitants du village sont divisés en cinq classes : les dignitaires diplômés (Chức sắc), les dignitaires administrateurs (Chức dịch), les anciens (lão), les actifs et les benjamins. Les gens  des trois  premières classes ci-dessus sont élus au conseil des notables  ayant la mission d’administrer le village par le biais des règlements internes  après avoir reçu l’approbation unanime lors des réunions  et des discussions générales. La collecte des impôts est également claire.   Au lieu d’avoir un livre d’impôts pour chaque individu, il suffit donc de fixer un taux d’impôt pour le village car il a le caractère communautaire et il appartient   à un groupe de personnes.  Il doit  s’en charger lui-même. [Trần Ngọc Thêm, ibid 253]

Grâce au caractère communautaire et aux règlements internes, l’autonomie du village s’exprime dans son indépendance et sa diversité dans les décisions liées à la vie sociale et spirituelle des villageois. En plus les caractéristiques possédées par  chaque village vietnamien, telles que le portail, la maison commune, le puits et le génie tutélaire, il est également connu pour son festival annuel.

Les festivals ont généralement lieu à l’entrée des temples, des maisons communales ou des sanctuaires, mais rarement dans les pagodes réservées  uniquement pour vénérer Bouddha. Durant le festival, le village reconstitue souvent des événements historiques ou des actions typiques du génie tutélaire, ce qui constitue le numéro principal du rituel.

Outre ses caractéristiques uniques, le village est également une citadelle autonome, indépendante et fermée derrière la haie de bambous  à la végétation luxuriante. C’est aussi un « élément fondamental » dans la formation de la  nation.

C’est pourquoi l’orientaliste français Paul Mus a l’occasion de dire que

le Vietnam est une société des villages.

Village (廊), this word is used to refer to a residential unit but it is also an important structure of social organization in rural Vietnam. It is formed by people from the same lineage or a community of residents sharing a common occupation. From the beginning, Vietnam has been an agricultural country, so it has always been influenced by the vagaries of nature. Floods are frequent and inevitable. This obviously requires a joint effort from the community to achieve effective results.

This is why there is a proverb reminding us that love for a neighbor nearby is sometimes more precious than that given to brothers and sisters living too far away. As the rice harvest season approaches, the community’s workforce and support are needed. The village must therefore be well organized, so that it has its own characteristics and there is more cohesion and attachment among the villagers. It is common to hear the phrase « Oh village-country » when a woman is angry or upset about something in the northern countryside. She immediately thinks of her village before mentioning her country.

According to researcher Trần Ngọc Thêm, it is not by chance that in our language there is the notion « village-country » [ibid 238] while « nhà nước » is only a summary transposition of the Chinese notion « quốc gia ». We have been talking about the family since the introduction of Confucianism in our country. We also often hear about the combination of the words « communal house-village », « pond-village », « well-village », « internal regulations-village » etc. These are also the characteristics that our village has. The authority of the king, although it is great, is too distant to be as effective as the customs of the village. This is why there is a proverb: The authority of the king yields to the customs of the village or « The tunic follows its body, the village the commune » to affirm the important role of the village and the necessary support in solving all daily difficulties. Although its influence is weak in the material and spiritual life of the people, it is used as a reference point in the cutting and sewing of a tunic.

The village is always considered autonomous, closed and independent. It is a small kingdom within a large kingdom. That is why we say « Hương đảng (鄉黨), small court ». Due to its autonomy, at first there were only simple oral agreements but later they became internal regulations that were sometimes too cumbersome and contrary to the laws of the imperial court. That is why the feudal state restricted the establishment of private regulations by the edict of King Lê Thánh Tôn. The state law for the village is considered like poured water sliding down the back of a leaf (inefficiency), according to the quote from the writer Nguyen Ngoc Tien [ibid 33]. Customs or internal regulations were recorded and engraved on steles and were widely disseminated from the 17th century.

There are many strange and ironic customs, such as the rice cake dowry. Depending on the number of families in the village, the groom must offer that many rice cakes. There is also a custom that if a girl wants to marry someone from outside, she must offer the village bricks to pave the road. There are many customs that follow people from childhood until death, making the poor even poorer, sometimes trampling on their dignity, and forcing them to leave the village, as in Chem Village. Nowadays, with state regulations and people’s understanding of modern society, village customs are also less restrictive in meeting the villagers’ wishes.

The village has a unique organization called « giáp » which is reserved exclusively for men and is hereditary. Within the internal organization, there are three classes: the youngest (up to 18 years old), the middle-aged, and the elderly (60 years and older). Upon the birth of a child, the father is responsible for informing the « giáp » and asking him to enroll the child in the first class with a small gift. At the age of 18, a ceremony is held to recognize the child’s change of class. He thus becomes an official member of the « strong and useful men » class. Regarding work for the village, everyone is equal and enjoys all the benefits at that level, as well as the possession of a plot of communal land for cultivation. A portion of the harvest proceeds must be paid to the village. Once one reaches the last grade, one has the great honor of being considered an experienced person and is entitled to sit on the same level as the bachelors, licentiates, and doctors of the royal court. Therefore, there is a proverb: The royal court honors the ranks, the village the elderly (these are the elderly people of the village who have lost their teeth), but in return, they lose the right to enjoy the village’s communal land and can no longer do the hard work assigned by the village. Only natives and residents are entitled to join this organization, while immigrants or foreigners do not have this right and can only hold menial jobs.

This is also a typical example of feudal discrimination in the village. According to researcher Trần Ngọc Thêm, it is a way to ensure village stability. [Trần Ngôc Thêm, ibid 248]. This discrimination is particularly visible in marriage. If the bride and groom are from the same village, the marriage dowry « cheo » paid to the village is minimal and symbolic (cheo nội), otherwise the sum of money (cheo) can be doubled or tripled.

The villagers are divided into five classes: qualified dignitaries (Chức sắc), administrative dignitaries (Chức dịch), elders (lão), active members, and youngest members. The people in the first three classes above are elected to the council of notables whose mission is to administer the village through internal regulations after receiving unanimous approval at meetings and general discussions. Tax collection is also clear. Instead of having a tax book for each individual, it is sufficient to set a tax rate for the village because it has a community character and belongs to a group of people. It must take care of it itself. [Tran Ngoc Them, ibid 253].

Thanks to its community-based nature and internal regulations, the village’s autonomy is expressed in its independence and diversity in decisions related to the villagers’ social and spiritual lives. In addition to the characteristics that each Vietnamese village possesses, such as the village gate, the communal house, the well, and the guardian spirit, the village is also known for its annual festival. Festivals usually take place in temples, communal houses, or shrines, but rarely in pagodas reserved solely for worshipping Buddha. During the festival, the village often reenacts historical events or typical actions of the guardian spirit, which constitutes the ritual’s number one feature.

In addition to its unique characteristics, the village is also an autonomous citadel, independent and enclosed behind a hedge of green bamboo. It is also a « fundamental element » in the formation of the nation.

This is why the French orientalist Paul Mus has the opportunity to say that

Vietnam is a village society.

Tài liệu tham khào

Bibliography

Nguyễn Ngọc Tiến: Làng làng phố phố Hà Nội. Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 2024
Trần Ngọc Thêm: Recherche sur l’identité de la culture vietnamienne . Editions Thế Giới. 2008.
[10] Paul Mus: Sociologie d’une guerre. Editions Seuil 1952.

Le tatouage (Tập tục xăm minh)

Tục lệ xăm mình

Version française

English version

Theo sách Lĩnh Nam Chích Quái, tục lệ  xăm mình có từ thời Hồng Bàng. Lúc đó dân ta thường sống trong nước để đánh cá hay bắt sò nên thường bị giống giao long làm hại bèn tâu với vua. Vua ta mới nói giống sơn man và giống thủy man có thù với nhau, thưòng  ghét nhau cho nên hại nhau đó. Nhờ lấy mực xăm vào mình theo hình Long Quân dạng thủy quái nên từ đó không bị hại. Tục xăm mình có từ lâu từ thời dân tộc ta thuộc  đại tộc Bách Việt và  còn cư trú ở vùng hạ và trung lưu  của sông Dương Tử, nơi có một loại cá sấu lớn  thích sống ở những khúc sông nước chảy chậm mà dân ta gọi là giao long. Ngày nay loại cá sấu nầy trong tình trạng bị đe dọa tuyệt chủng. Tục xăm mình chỉ là một hình thức văn hóa tâm linh trong việc ghép cho vật tổ của họ, Tiên-Rồng với  quan niệm song trùng lưỡng hợp (hai thành một) của tộc Việt nên mới có việc vẽ hình Rồng trên người và đội mũ lông chim.(Con Rồng Cháu Tiên).

Tục xăm mình vẫn được duy trì dưới hai triều  đại nhà Lý và Trần. Dưới thời nhà Lý thì chỉ có qúi tộc mới có quyền vẽ hình rồng trên ngực và đùi. Đến đời nhà Trần, để  tỏ ra ý chí can đảm diệt quân Nguyên  với tinh thần bất khuất, dân ta không ngần ngại thích xăm  trên cánh tay hai chữ  Sát Thát  như Trần Quốc Toản dưới thời nhà Trần.  Tục lệ nhà Trần, khi lên ngôi  vua phải xăm hình rồng ở đùi để nhớ nguồn gốc của mình nhưng vua Trần Anh Tôn không thích nên tục lệ nầy  bị mất dần từ đó trong giới hoàng tộc. Xăm mình ngày nay ở  Việt Nam được giới trẻ  xem như là một phương pháp làm đẹp cơ thể theo sở thích  của mình và thể hiện được cá tính dù xã hội ngày nay đôi khi có cái nhìn không thân thiện nhất là còn ảnh hưởng đạo Khổng ít nhiều. Điều nầy cũng không  quan trọng chi cho mấy  trong cuộc sống hiện nay nhất là ta biết  ta,  sống cho ta và ta có quyền tự chủ  con người của ta. Với cái ý nghĩ nầy , hình xăm đã được dân chủ hóa phần lớn và đã trở thành một hiện tượng xã hội thực sự.

Selon le livre intitulé  « Sélection des contes étranges à Lingnan », le tatouage remonte à la période de la dynastie des Hồng Bàng. À cette époque, notre peuple vivait souvent dans l’eau pour pêcher ou attraper des palourdes. Ils étaient donc souvent attaqués par les alligators. Alors ils le signalaient au roi.  Ce dernier venait de leur dire que les gens des montagnes et ceux de l’eau étaient  hostiles les uns envers les autres, se détestaient souvent et se faisaient donc du mal. Grâce au tatouage effectué « en forme de monstre marin » avec de l’encre, ils n’étaient plus blessés depuis lors. Le tatouage exista depuis l’époque où notre peuple faisant partie de la  grande tribu « Cent Yue ( Bai Yue) » vivait encore dans les cours inférieur et moyen du fleuve Yang Tse.  Il y avait  un grand type de crocodile aimant  vivre dans les cours d’eau  à débit lent de ce fleuve. Notre peuple l’appelait souvent sous le nom Giao Long. Aujourd’hui cette espèce vivant dans ce fleuve est menacée d’extinction. Le tatouage n’est qu’une forme de culture spirituelle dans l’association du couple (Oiseau /Dragon)(Fée-Dragon)   à leur totem avec la notion de dualité (deux en un) des Proto-Viet. C’était pour cela qu’ils aimaient à se faire tatouer le dragon sur leur corps et porter le chapeau à plumes (Enfants du Dragon et Grands Enfants de l’Immortelle).

Cette coutume continuait à exister sous les deux dynasties des Lý et des Trần. Sous la dynastie des Lý, il n’y avait que les gens de la noblesse ayant le droit de  se faire tatouer le dragon au niveau de la poitrine et des cuisses.  Puis sous la dynastie des Trần, afin de montrer le courage de vaincre les Mongols avec l’esprit indomptable de résistance, les Vietnamiens n’hésitaient pas à se faire tatouer sur le bras deux mots « Sát Thát (Tuer les Mongols) comme le jeune général Trần Quốc Toản. Selon la tradition des Trần, une fois monté au trône, le roi devait  se faire tatouer sur les cuisses  le dragon pour rappeler son origine. Mais le roi Trần Anh Tôn n’appréciait pas cette coutume et refusait de le faire. Le tatouage disparut ainsi auprès de la noblesse.

Aujourd’hui, le tatouage est  considéré au Vietnam par les jeunes comme une méthode d’embellissement de leur corps selon la préférence et la possibilité d’exprimer leur personnalité  bien que la société ait parfois une vision défavorable car elle est encore influencée dans une certaine mesure par le confucianisme.  Ce n’est pas si important dans la vie d’aujourd’hui car on sait qu’on peut vivre pour soi-même et on a le droit de disposer librement de son corps. Avec cette idée, le tatouage réussit  à se démocratiser largement  et devient ainsi un phénomène de société.

 

According to the book entitled “Selection of Strange Tales in Lingnan”, the tattoo dates back to the period of the Hồng Bàng dynasty. Back then, our people often lived in the water to fish or catch clams. So they were often attacked by alligators. So they reported it to the king.  The king had just told them that the mountain people and the water people were hostile to each other, often hated each other and therefore did each other harm. Thanks to a tattoo in the shape of a “sea monster” with ink, they have not been hurt since. The tattoo has existed since the time when our people, part of the great “Cent Yue ( Bai Yue)” tribe, still lived in the lower and middle reaches of the Yang Tse River.

There was a large type of crocodile that liked to live in the slow-moving streams of this river. Our people often called it Giao Long. Today this species living in this river is threatened with extinction. Tattooing is only a form of spiritual culture in the association of the couple (Bird / Dragon) (Fairy-Dragon) to their totem with the notion of duality (two in one) of the Proto-Viet. That was why they liked to have the dragon tattooed on their body and wear the feathered hat (Children of the Dragon and Great Children of the Immortal).

This custom continued to exist under both the Lý and Trần dynasties. Under the Lý dynasty, only the nobility were allowed to have the dragon tattooed on their chest and thighs. Then under the Trần dynasty, in order to show the courage to defeat the Mongols with the indomitable spirit of resistance, the Vietnamese did not hesitate to have two words « Sát Thát (Kill the Mongols) » tattooed on their arms like the young general Trần Quốc Toản. According to Trần tradition, once ascended to the throne, the king had to have the dragon tattooed on his thighs to recall his origin. But King Trần Anh Tôn did not appreciate this custom and refused to do so. The tattoo thus disappeared among the nobility.

Today, tattooing is considered by young people in Vietnam as a method of beautifying their bodies according to their preferences and the possibility of expressing their personality, although society sometimes has an unfavorable view of it because it is still influenced to some extent by Confucianism. This is not so important in today’s life because we know that we can live for ourselves and we have the right to freely dispose of our bodies.

With this idea, tattooing has managed to become widely democratized and thus becomes a social phenomenon.

Tài liệu tham khảo:

Lĩnh Nam Chích Quái . Trần Thế Pháp. Nhà xuất bản Hồng Bàng.
Đai Việt Sử Ký Toàn Thư Toàn Bộ. Nhà xuất bản Thời Đại.
Văn Lang Dị Sử. Nguyễn Lang. Lá Bối.