Rùa (Qui)

Rùa (Qui)

Version française

Trong kho tàng thần thoại Việt Nam, chúng ta thường thấy thần hay biến hoá thành rùa. Loại vật sống nầy rất hiếm  ở đất nước ta nhất là rùa có mai mềm ở sông Hồng và được xem coi là một linh vật trong tứ linh (Long, Li, Qui, Phụng). So với ba con vật kia, rùa là con vật duy nhất có thật  trong tự nhiên. Vã lại, nó có tuổi thọ rất  cao và có thể sống trong một thời gian dài không cần thức ăn nên được tượng trưng cho cuộc sống thanh tao thoát tục và thể hiện được sự trường thọ vĩnh cửu. Trong lĩnh vực tâm linh thì rùa được xem là một loại động vật hội tụ trời và đất hay là Âm và Dương. Bụng thì bằng phẳng  nên tượng trưng cho mặt đất (Âm)  còn phần gù (hay mai) của nó thì cho vòm trời (Dương). Nó thường được dân ta xem là một loại vật thiêng biết tiên tri và được thần thánh hóa trong tâm trí của người dân Việt. Dân tộc ta là một trong những dân tộc sống gần sông biển ở vùng Đông Nam Á và phiá nam sông Dương Tử. Bởi vậy  theo sự nhận xét của nhà khảo cứu Pháp Jean Przyluski thì trong các truyền thuyết của các dân tộc nầy thì thường thấy được các loại vật hiển linh của miền sông nước giúp đỡ các vua chúa chống giặc ngọai xâm hay dựng nước mà trong đó có rùa, rồng, rắn hay cá. Ngược lại không có ở trong các truyền thuyết của các dân tộc sống ở lục đia như Trung Hoa và Ấn Độ những loại vật hiển linh nầy.  Bởi vậy rùa thần đã hai ba lần xuất hiện trong truyền thuyết của dân tộc ta. Lần đầu rùa được ghi chép lại trong sách Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp, một tập sách viết bằng chữ Hán thu thập lại những chuyện kỳ lạ ở nước ta, có lẽ có từ đời nhà Trần.

 Sau khi Thục Phán diệt được nước Văn Lang của Hùng Vương, Thục Phán lấy tên là  An Dương Vương và đổi tên nước thành Âu Lạc và xây thành ở đất Việt Thường. Nhưng vua  không thành công trong dự án vì thành nầy đã nhiều lần bị băng lở. Một hôm trên mặt biển hiện lên một  con rùa vàng tự xưng sứ Thanh Giang , nói sõi tiếng người  và biết về tương lai. Nhờ sự giúp đỡ của rùa nên vua xây  thành xong  trong nửa tháng sau khi  Thanh Giang bày kế giết được con yêu quái Bạch Kê Tinh (một con gà trống  tu luyện được nghìn năm thành tinh). Thành nầy rộng hơn ngàn trượng xoán như hình trôn ốc nên được gọi là Loa Thành. Trước khi từ biệt vua thì rùa thần có dặn vua rằng xã tắc an nguy đều do mệnh trời nhưng nếu vua có thể tu đức thì kéo dài được thời vận. Sau đó còn tặng cho vua một cái vuốt để làm lẫy nỏ và để giử thành rồi trở về sông. Nhờ có nỏ thần nầy mà An Dương Vương giử được thành lúc tướng Triệu Đà cử binh sang đánh. Nhưng sau đó bị trúng kế của Triệu Đà mà An Dương Vương mới mất nước về sau khi gả nàng công chúa Mỵ Châu cho Trọng Thủy, con của Triệu Đà.

Rùa vàng còn giúp vua Lý Thái Tông khôi phục lại ngai vàng sau khi Lý Thái Tổ qua đời. Lý Thái Tông lên ngôi nhưng  chưa được bao lâu phải bỏ kinh thành phải ẩn trốn trong một hang động ở Tuyên Quang vì các em của ngài làm phản và tranh giành cướp ngôi (loạn Tam Vương). Rùa vàng hiện lên trong giấc mơ cho ngài biết sẽ giúp ngài lấy lại được ngôi vua. Bởi vậy  sau khi  dẹp loạn và nhớ đến công ơn của rùa nên vua phong cho rùa tước hiệu là Minh Phúc Đại Vương. Cho đến ngày nay còn thấy có miếu thờ rùa vàng tại làng Nghiêm Sơn ở tỉnh Tuyên Quang.

Rùa vàng còn được nhắc đến thời giặc Minh xâm chiếm nước ta ở đầu thế kỷ 15. Một người tên là Lê Thận có một hôm chài được một thanh gươm và rồi đem tặng thanh gươm nầy cho Lê Lợi sau khi ông theo Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa chống giặc Minh cùng Nguyễn Trãi. Sau khi đuổi được giặc Minh, một hôm vua Lê Lợi cưỡi thuyền rồng đi dạo quanh hồ Tả Vọng (nay là Hồ gươm ở Hà Nội) thì tự nhiên giữa hồ nhô lên khỏi mặt nước một con rùa to lớn. Vua thấy lạ nên truyền lệnh cho thuyền đi chậm lại. Rùa không chút chi sợ sệt cả  mà ngóng cổ nói: Bê hạ hoàn gươm lại cho ta để ta đem về cho Long quân.  Chính Long quân giúp ngài  ổn định lấy lại được đất nước. Vua vừa rút thanh gươm ra thì nhanh như chớp rùa hé miệng đớp lấy ngang lưỡi gươm. Rồi rùa lặn xuống nước biến mất. Rùa được xem là cận thần của Lạc Long Quân, người cha của dân tộc Việt trong các truyền thuyết và có nhiệm vụ giúp đỡ luôn luôn các  con cháu Việt tộc.  Từ đó hồ nầy được lấy tên là Hồ Hoàn Kiếm.  

Trong tín ngưỡng dân gian, thường thấy có cặp hạc hay cặp phụng  đứng trên lưng mai rùa ở hai bên cạnh án hương trong các chùa và các đình. Đây là  một cặp biểu tượng cho sự điều hoà Âm Dương. Còn ở Văn Miếu thì có 82  tượng rùa đội bia tiến sĩ trên lưng. Đây là  thể hiện sự trường tồn vì các tên của tiến sĩ được ghi danh từ đời nầy qua đời khác  theo thời gian  mà  còn biểu tựợng cho sức mạnh mà họ có vì họ là hiền tài,  là nguyên khí của quốc gia. Không vua nào không xây dựng chăm lo hiền tài vì khi nguyên khí mạnh thì quốc gia mới được  thịnh vượng. Còn nguyên khí suy thì nước sẽ yếu.

Rùa được xem là loại động vật rất linh ứng nên người Việt cho rằng rùa thường  mang lại sự may mắn cho ai gặp được. Họ hay thường gọi rùa bằng “cụ” và thương hại bản thân của cụ qua câu ca dao như sau:

Thương thay cái kiếp con rùa
Lên đình đội hạc, xuống đình đội bia.

Hiện nay giống rùa khổng lồ nầy được  liệt kê như  cấp cực kỳ nguy cấp trong sách đỏ IUCN từ năm2006 và được biết với cái tên khoa học là Rafetus swinhoei. Đây là loại rùa mai mềm sống ở sông Dương Tử hay ở sông Hồng. Sau khi cụ rùa ở Hồ Gươm qua đời thì trên thế giới hiện nay còn lại ba cá thể, một con đực già sống ở Trung Quốc và ở Việt Nam  một cá thể cái của loài này ở hồ Đồng Mô (Ba Vì) và một cá thể nữa ở hồ Xuân Khanh (Sơn Tây) gần đó. Hy vọng có  cơ hội ghép đôi sinh sản theo cơ quan chức năng bảo tồn nếu cá thể ở hồ Xuân Khanh là con đực còn không thì loại nầy sẽ bị tuyệt chủng trong tương lai.

Galerie des photos

TORTUE

La tortue géante à carapace molle

 Dans le trésor de la mythologie vietnamienne, on voit souvent le dieu de la mer se transformer en tortue marine. Cette espèce aquatique géante  est rare dans notre pays, en particulier la tortue à carapace molle du fleuve Rouge (sông Hồng) et elle  fait partie des quatre animaux au pouvoir surnaturel (dragon, licorne, tortue, phénix). Par rapport aux trois autres animaux, la tortue est le véritable animal existant dans la nature. En outre, elle a une durée de vie plus longue  et peut vivre longtemps sans nourriture. C’est pour cela elle est synonyme de l’évasion de la vie trépidante et de la longévité éternelle.

Dans le domaine spirituel, la tortue est considérée comme  l’animal symbolique de l’union du ciel et de la terre ou du Yin et du Yang. Son abdomen est tellement plat qu’il représente la terre (Yin) et sa carapace représente le dôme du ciel (Yang). Elle est souvent considérée par les Vietnamiens  comme un quadrupède sacré sachant faire des prophéties et elle est sanctifiée dans leur esprit. Celui-ci est l’un des peuples vivant tout près des fleuves et des mers de l’Asie du Sud-est et dans le sud du fleuve Yangzi. C’est pourquoi le chercheur français  Jean Przyluski est amené à conclure dans ses études qu’on voit souvent dans leurs légendes, des héros ou  des forces sacrées (ou esprits sous la forme des poissons, tortues, reptiles, tortues etc…) issus des eaux, aider les rois à consolider leur nation ou à résister aux envahisseurs. Par contre on ne trouve pas ces animaux sacrés dans les légendes venant des peuples vivant sur le continent comme la Chine ou l’Inde.

C’est pourquoi  on constate l’apparition de la tortue deux ou trois fois dans les légendes vietnamiennes. Pour la première fois, la tortue est  rapportée dans le livre intitulé « Histoires extraordinaires de Lĩnh Nam » de Trần Thế Pháp écrit en caractères Han et paru probablement à l’époque des Trần. Après avoir conquis le royaume Văn Lang des rois Hùng, Thục Phán décida de prendre le titre An Dương Vương et décida de construire la citadelle dans le territoire Việt Thường. Mais il ne réussit pas à achever son projet car la citadelle continua à s’éroder à plusieurs reprises. Un jour, à la surface de la mer, apparût une tortue d’or prétendant être l’ambassadeur Thanh Giang. Celui-ci savait  parler couramment  le langage humain et prédire l’avenir. Le roi réussit à construire la citadelle après que la tortue d’or lui avait suggéré un stratagème pour tuer le monstre Bạch Kê Tinh (un coq blanc réussissant à se métamorphoser en un être humain après mille ans). Cette citadelle était assez large et portait le nom « la citadelle en colimaçon » à cause de la présence de neuf spirales de terre. Avant de dire au revoir au roi, la Tortue d’Or recommanda  au roi de gouverner avec sagesse et vertu car cela permit de prolonger son règne. Puis elle lui remit une griffe dont le roi se servait pour faire la gâchette de son arbalète et retourna à la mer. Grâce à cette arme magique, le roi réussit à garder la citadelle et résister à l’armée d’invasion de Zhao Tuo (ou Triệu Đà). Mais An Dương Vương fut plus tard victime de la ruse de Zhao Tuo et perdit son royaume en acceptant de laisser sa fille Mỵ Nương épouser Trọng Thủy, le fils de son adversaire. La Tortue d’Or aida également le roi Lý Thái Tông à reprendre son trône après la mort de son père, le roi Lý Thái Tổ. Monté sur le trône, Lý Thái Tông dut abandonner bientôt la capitale et se réfugier dans une grotte à Tuyên Quang parce que ses jeunes frères s’étaient révoltés pour lui disputer le trône. La Tortue d’Or fut apparue dans son rêve pour lui faire savoir qu’elle l’aidera à reprendre le trône. Après avoir maté la révolte, le roi se souvint du mérite de la tortue, il n’hésita pas à accorder à  cette dernière le titre de « Minh Phúc Đai Vương ». À ce jour, il existe encore le sanctuaire dédié à cette Tortue d’Or dans le village de Nghiêm Sơn de la province de Tuyên Quang.

 La tortue d’Or  fut mentionnée également lors de l’invasion des Ming (ou Chinois) au début du XVe siècle. Un pêcheur  nom de Lê Thân repêcha un jour une épée et la donna à Lê Lợi, le futur roi de la dynastie des Lê postérieurs  lors de son soulèvement contre les envahisseurs chinois. Après avoir chassé les Ming, le roi Lê Lợi entama un jour une promenade sur un bateau-dragon autour du lac Tã Vọng (connu aujourd’hui sous le nom « Lac de l’épée restituée »). Au milieu du lac, une énorme tortue émergea subitement de la surface de l’eau. Le roi  trouva étrange cette apparition. Il ordonna à ses subordonnés de ralentir la barque royale.  La tortue s’en approcha et lui dit avec sa voix humaine: Seigneur, vous devez me rendre l’épée pour que je puisse la ramener au roi Dragon (*). C’est lui qui vous a donné cette épée pour pacifier le pays. Juste au moment où le roi sortit son épée,  la tortue d’or ouvrit sa bouche, la happa d’une rapidité effarante et disparut immédiatement sous l’eau. La tortue d’or est considérée toujours dans les légendes vietnamiennes comme le prétorien du roi Dragon, le père du peuple vietnamien et elle est chargée de veiller à la protection des Vietnamiens.  De ce jour, le lac Tã Vọng devient le lac Hồ Hoàn Kiếm (ou le lac de l’épée restituée). 

Dans les croyances populaires, on est habitué à trouver une paire de grues ou phénix debout sur le carapace des  tortues rangées de chaque côté du brûleur d’encens dans les temples et les maisons communales. C’est un couple d’animaux reflétant le rôle du fonctionnement de l’harmonie du Yin et du Yang. Dans le temple de la littérature (Văn Miếu) à Hànội, il y a 82 statues de tortues portant les stèles des lauréats sur leur carapace. C’est une façon d’immortaliser les noms des gens ayant obtenu le titre tiến sĩ (degré de docteur)  ainsi que ceux de leurs villages où ils étaient nés  car ceux-ci continuent à rester honorés au fil des générations et des années et ils symbolisent la force qu’ils ont  car ils sont les hommes de talent et la source de vie de la nation.  Aucun roi ne pense à négliger le recrutement de ces  hommes de talent car la source jaillissante fait la force d’un pays. Une source tarissant l’affaiblit.

On est habitué à considérer la tortue comme un quadrupède sacré. C’est pourquoi quand quelqu’un a l’occasion de la rencontrer sur le chemin, on dit qu’il est chanceux. On l’appelle sous le nom « Cụ (Oncle) » pour marquer le respect. On prend pitié de son sort à travers l’adage suivant:

Thương thay cái kiếp con rùa
Lên đình đội hạc, xuống đình đội bia.

On ne cesse pas de se lamenter sur le sort de la tortue
Obligée de porter les grues dans les maisons communales et les stèles ailleurs.

Actuellement, cette espèce aquatique géante est classée en danger critique d’extinction sur la liste rouge de l’UICN depuis 2006 et connue sous le nom scientifique « Rafetus swinhoei ». C’est une espèce de tortue à carapace molle vivant dans le fleuve Yanzi (Chine) ou le fleuve Rouge du Vietnam. Après le décès de la tortue du lac de l’épée restituée, il existe actuellement 4 individus dont l’un est très vieux et mâle vivant en Chine, le deuxième (une femelle confirmée grâce à l’analyse du gène) et le troisième (en cours de récupération)  sont au lac Đồng Mô (Ba Vì) et le dernier vit dans le lac Xuân Khanh tout proche (Sơn Tây). L’organisme vietnamien chargé de protéger les espèces entretient l’espoir de réaliser la fécondation avec succès si l’individu récupéré au lac Đồng  Mô ou Xuân Khanh est un mâle sinon cette espèce sera éteinte dans l’avenir.

La roseraie de l’Hay-les-Roses (Val de Marne)

Version française

Trước khi trở thành khu vườn công cộng được thủ  phủ  Val de Marne quản lý, vườn hoa hồng  L’Hay-les-Roses tọa lạc cách xa Paris 5 cây số  về  phía nam và từng là lãnh địa riêng tư của một doanh nhân tên là Jules Gravereaux. Để thỏa mãn niềm đam mê hoa hồng, ông không ngần ngại thu thập, sưu tầm và trồng  hàng trăm loại giống hoa hồng từ năm 1894 ở vườn rau của mình. Sau đó, nhờ sự giúp đỡ của nhà thiết kế cảnh quan nổi tiếng Édouard André, ông đã thành công trong việc tạo ra khu vườn của mình có được một phong cách  hoa viên mới theo kiểu Pháp, trong đó thành phần trang trí chỉ gồm có hoa hồng. Hiện nay, ở trong vườn hoa nầy có gần 3.300 loại hoa hồng trên một diện tích tổng cộng là 1,52 héc-ta.

 

 

Version française

Avant de devenir le jardin public administré par le département du Val de Marne, la roseraie était l’ancien domaine privé d’un homme d’affaires de nom Jules Gravereaux.  Pour assouvir sa passion pour les roses, il n’hésita pas à réunir, collectionner et planter des centaines de variétés de rosiers dès 1894 dans son potager. Puis, grâce à l’aide apportée par le célèbre paysagiste Édouard André, il réussit à donner à son jardin un nouveau  style de jardinage à la française où l’élément de décoration est constitué uniquement des rosiers. Il y a actuellement près de 3300 variétés de rosiers sur une surface totale 1,52 hectares.

Galerie des roses

Le Clos Normand de Claude Monet (Giverny)

Version française

Nhờ việc nới rộng khu vườn « Clos Normand » và sửa đổi nguồn nước sông  Ru, Monet đã thành công tạo cho khu vườn nầy  có được một diện tích 1000 m2 và một hình dáng tuyệt vời mà du khách có cơ hội chiêm ngưỡng ngày nay  khi đến tham quan Giverny. Năm 1895, ông bắt đầu vẽ khu vườn của mình.  Khu nầy  không ngừng sung túc và phong phú thêm với các loài cây cỏ mà ông chọn trồng theo ý mình. Nhờ  đó, ông thực hiện hơn 250 bức tranh tuyệt vời từ nhiều góc độ nhìn khác nhau. Nhưng các hoa súng vẫn là chủ đề chính và quyén rũ ông đến nổi  qua các bức tranh của ông, các cảnh vật chỉ được vẽ sơ sài để nổi bật các hoa súng ưa thích.  Khu vườn nầy giúp ông có nguồn cảm hứng vô tận và  được xem từ đây như là một tuyệt phẩm nghệ thuật vẹn toàn 

Grâce à l’agrandissement du Clos Normand et à la modification du cours d’eau du Ru, Monet réussit à donner à son jardin d’eau couvrant désormais 1000m2 l’aspect actuel que le visiteur a l’occasion de contempler avec admiration  lors de sa visite à Giverny. Il se mit à peindre en 1895 son jardin d’eau renouvelé incessamment par de nouvelles plantations et par l’abondance de la végétation choisie avec soin par lui-même. Cela lui permit de réaliser  avec ingéniosité un ensemble de plus de 250 tableaux  sous de nombreux angles de vue différents. Mais les nymphéas constituent le sujet  principal dans ses tableaux  et captent son attention si bien que le paysage y est dessiné  simplement pour dégager  la beauté de ses fleurs préférées.   Son jardin d’eau lui donna  ainsi une source d’inspiration inépuisable et s’intégra désormais comme une œuvre d’art à part entier. 

Une ballade mémorable dans le jardin de Monet (Giverny, Haute Normandie)

Cùng nhau đi dạo trong vưòn của họa sỹ tài hoa Monet (Giverny)

Hanoï c’est quoi en chacun de nous?

 

Hà Nội là gì trong mỗi chúng ta?
Hanoï c’est quoi en chacun de nous?

What is Hanoi in each of us?

Pictures gallery

Hà Nội là bát bún ngan giản dị ? Là những ghế nhựa ngồi bệ? Là gánh hàng rong với chiếc đòn gánh là cầu Long Biên còn người gánh lại là một cô robot ? Hay là Hànội là… Đây là cuộc thi vẽ minh họa thuộc dự án Hanoi Rethink được tổ chức bởi UNESCO với sự đồng hành của nhóm Vietnam local Artist Group.

Hanoï c’est quoi en chacun de nous ? Hanoï est-elle un simple  bouillon de canard  aux vermicelles ? Ou ce sont les  chaises basses en plastique ? Ou le vendeur ambulant dont  la palanche est le pont Long Bien et qui est en fait un robot ?  Ou bien Hanoi est … C’est le concours d’illustration appartenant au  projet Hanoi Rethink organisé par UNESCO en collaboration avec le groupe Vietnam local Artist.

What is Hanoi in each of us? Is Hanoi just a simple duck broth with vermicelli? Or is it the low plastic chairs? Or the street vendor whose carrying pole is the Long Bien Bridge and who is actually a robot? Or is Hanoi… It is the illustration contest belonging to the Hanoi Rethink project organized by UNESCO in collaboration with the Vietnam Local Artist group.

Pictures Gallery

[RETURN]

Depuis quand, Paris devient-elle la ville lumière?

Từ bao giờ Paris trở thành kinh đô ánh sáng?
Depuis quand, Paris devient-elle la ville lumière?

Version française

Được xem là kinh đô ánh sáng của Âu Châu, Paris đã có nét đẹp lung linh nầy từ bao giờ nhỉ? Qua nhiêu thế kỷ, Paris cũng như các thành phố Âu Châu đều chìm lặn trong bóng tối một khi màn đêm buông xuống khiến làm người qua đường áy náy lo sợ vì thiếu an ninh nhất là với một mùa đông lạnh buốt. Bởi vậy nhà thi sỹ Boileau có nhắc đến vấn đề nầy trong quyển sách ông viết có tựa đề : Les Embarras de Paris vào năm 1666. Chính vì vậy mới có các nhóm người tuần tra đi khắp nẽo đường Paris với các bó đuốc nhưng khó mà kiểm soát được Paris nhất là ở thế kỷ 17 có đến 500.000 cư dân. Thời đó, muốn đi đêm phải có đuốc hay đèn lồng. Các người giàu có thì có người nô bộc dẫn đường với chiếc đèn lồng. Sau đó ở giữa thế kỷ 17 có những người chuyên môn sinh sống với nghề cầm đuốc dẫn đường, họ đón khách ở những nơi có nhà hát hay vũ trường. Mãi cho đến đầu thế kỷ 19 nghề nầy vẫn còn thấy ở Paris. Tuy nhiên những người giàu có hay ngưởi buôn bán vẫn sợ sệt vì đường không được sáng tỏ chi cho lắm. Trong lúc đó ở Âu Châu thì các thành phố đã có hệ thống đèn đường công cộng với các lồng đèn đốt trước nhà. Dựa trên chỉ dụ của vua mặt trời của Pháp, Louis XIV thì trung tướng cảnh sát La Reynie mới ra chỉ thị bắt buộc các chủ nhà đặt đèn trước nhà khiến nhờ vậy có hơn 2700 đèn lồng được đặt ở 900 đường của thành phố. Đèn nầy được đốt từ tháng mười cho đến tháng ba, từ 6 giờ chiều đến 12 giờ đêm. Từ đó hệ thống đèn đường làm người du khách ngoại quốc đến Paris đều thán phục và say mê nhưng loại đèn lồng nầy dễ bị gió làm tắt ngọn lửa của lồng đèn. Sau đó được thay thế bằng cột đèn đường (réverbère) được sáng tạo bởi người thợ đồng hồ xứ Bourgogne tên là Bourgeois de Châteaublanc để tránh được nạn gió và soi sáng đường xá tỏ hơn đèn lồng. Hiện nay còn thấy các cột đèn nầy ở nhiều nơi sang trọng của Paris như ờ quảng trường Vendôme chẳng hạn hay dọc theo các cầu sông Seine. Chính nhờ vậy một khi hoàng hôn phủ xuống thành phố, thì các đèn đường được đốt lên thưở đầu bằng khí đốt nay thì bằng điện cả khiến Paris đẹp lung linh về đêm.

« of 13 »

Version française

Étant connue comme la capitale européenne de la lumière, Paris a-t-elle eu depuis quand cette beauté chatoyante? Au fil des siècles, Paris comme tant d’autres villes européennes ont été plongées dans l’obscurité une fois la nuit tombée. Cela faisait peur surtout aux passants en raison du manque de sécurité avec un hiver froid et rude. Le poète Boileau eut l’occasion d’évoquer ce problème dans son livre intitulé « Les Embarras de Paris » en 1666. C’était pourquoi il y avait des groupes de patrouilleurs constitués parcourant les rues de Paris avec des torches ou des lanternes mais malheureusement c’était difficile de contrôler Paris au 17ème siècle avec plus de 500 000 habitants. À cette époque, si on voulait sortir la nuit, il fallait avoir des torches ou des lanternes. Les riches étaient précédés dans leurs pas par un serviteur avec une lanterne. Puis au milieu du XVIIème siècle, il y avait des porteurs de flambeau vivant avec le métier de guide d’éclairage. Ils se postaient devant les lieux connus comme les théâtres et les salles de bal à la recherche des clients. Jusqu’au début du XIXème siècle, ce métier exista encore à Paris. Cependant, les riches ou les commerçants avaient encore peur car les rues n’étaient pas bien éclairées. Pendant ce temps en Europe, les villes avaient déjà possédé un système d’éclairage public avec des lanternes installées devant les maisons.

En se basant sur le décret du Roi Soleil de France, Louis XIV, le lieutenant général de police La Reynie a émis une directive ordonnant aux propriétaires de mettre en place les lanternes sur les façades de leurs maisons. Plus de 2 700 lanternes étaient installées ainsi dans les 900 rues de la ville. Cette lanterne devait être allumée, de 18h jusqu’à minuit, depuis le mois d’octobre jusqu’au mois de mars. Depuis, le système d’éclairage public commença à émerveiller les touristes étrangers lors de leur passage à Paris mais la lanterne s’éteignit facilement au gré du vent. Elle fut remplacée ensuite par le réverbère inventé par un horloger bourguignon de nom Bourgeois de Châteaublanc et ayant pour but d’éviter le vent et d’éclairer mieux encore la rue. Aujourd’hui, ce type de réverbère est encore visible dans de nombreux endroits luxueux à Paris, comme par exemple à la place Vendôme ou le long des ponts traversant la Seine. C’est pourquoi dès le coucher de soleil, les réverbères d’abord allumés autrefois au gaz et maintenant à l’électricité rendent Paris plus chatoyante toute la nuit.

Références bibliographiques:

Alain Cabantous: Histoire de la nuit. XVème-XV IIIème siècle Editeur Fayard, 2009.
Alfonso Lopez : Eclairage public : une lueur dans les villes.
Revue mensuelle: Histoire N°76. Octobre 2021

Un bistro au cœur du vieux quartier de Hanoï

Quán ăn Hanoï 1930 Bistro
Le restaurant Hanoï 1930 Bistro
 
Kỳ nầy trở ra Hànôi lúc hè 2022 mới khám phá ra các quán ăn mà tụi nầy thích ăn ở phố cổ phần đông đều đóng cửa sau khi bệnh dịch Covid. Tuy nhiên tụi nầy cũng kiếm ra một quán ăn Việt có tiêu chuẩn Châu Âu ăn cũng ngon và có một góc nhìn xuống quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục rất đẹp về đêm ở giữa lòng phố cổ Hanoï.
 
De retour à la capitale Hanoï en été 2022, nous avons constaté la disparition d’un grand nombre important de restaurants préférés durant l’épidémie de COVID. Cependant nous avons réussi à trouver un nouveau restaurant conforme aux normes européens où la cuisine vietnamienne est assez bonne et ayant une vue superbe au fil de la nuit sur la place célèbre Đông Kinh Nghĩa Thục au cœur du vieux quartier de Hanoï.
 

Back in the capital Hanoi in the summer of 2022, we noticed the disappearance of a significant number of favorite restaurants during the COVID epidemic. However, we managed to find a new restaurant that meets European standards where the Vietnamese cuisine is quite good and has a superb view throughout the night of the famous Đông Kinh Nghĩa Thục square in the heart of Hanoi’s old quarter.

Pictures gallery

[RETURN]

Jupe des femmes Hmong (Váy của phụ nữ Hmong)

 

Version française

English version

Chiếc váy xoè  có hơn 200 xếp ly  của người phụ nữ Hmong được xem trong tự điển hiện vật văn hoá các dân tộc Việt Nam là cầu kỳ nhất trong việc trang trí thêu các họa tiết. Tùy theo mỗi nhóm người  Hmong (Hmong Hoa,  Hmong Đen, Hmong Trắng hay Hmong Đỏ) mà hoa văn họa tiết lại khác nhau. Thường thấy trên váy các chấm tròn xen lẫn đường kẻ thẳng hay là hình hoa lá  hoặc hình xoán ốc  nhưng các hoa văn họa tiết nầy  phản ánh đời sống của người Hmong với thiên nhiên. Váy nầy được may bằng vải lanh nhuộm chàm. Màu nầy  là màu căn bản  thường được trọng dụng bởi các phụ nữ Hmong trong việc may quần áo. Màu xanh tuyệt vời này  tô điểm cuộc sống của họ  từ lúc còn bé (6 hay 7 tuổi).  Bởi vậy  các phụ nữ Hmong được xem là  những phụ nữ khéo tay. Những chiếc váy sặc sỡ,  những tác phẩm thêu thùa  trang nhã  và những trang sức tinh xảo  làm họ  có tiếng tăm ở  khắp vùng Đông Nam Á.

Đây cũng là biểu tượng độc đáo của bản sắc dân tộc Hmong. Họ thường được đa số người ở thế giới tiếp tục gọi họ là  «dân tộc đa sắc » như chiếc cầu  vồng.

Version française

Dans le dictionnaire des artefacts culturels des ethnies vietnamiennes, la jupe de la femme Hmong comportant de nombreux plis est considérée toujours comme la plus sophistiquée dans la décoration et la broderie de motifs. En fonction de chaque groupe des Hmong (Hmong fleuri, Hmong Noir, Hmong Blanc ou Hmong Rouge) les modèles de texture sont  très variés.  On est habitué à voir sur les jupes  des points ronds  entrecoupés de lignes droites ou de fleurs ou de spirales, mais ces motifs de texture reflètent  bien la vie des Hmong avec la nature.

Cette jupe est en lin et teint à l’indigo. Cette couleur est la couleur primaire couramment utilisée par les femmes Hmong dans la confection de leurs vêtements. Cette superbe bleu indigo colore bien leur vie depuis leur enfance. (6 ou 7 ans). C’est pour cette raison qu’on dit qu’elles ont la main bleue. Les jupes bigarrées, les broderies élégantes et les bijoux fins font incontestablement leur réputation à travers l’Asie du Sud -Est.

C’est aussi le symbole unique de leur identité. Les Hmong sont toujours appelés par la majorité des gens dans le monde sous la dénomination « peuple-arc-en-ciel »

English version

In the dictionary of cultural artifacts of Vietnamese ethnic groups, the Hmong woman’s skirt, featuring many pleats, is always considered the most sophisticated in decoration and embroidery of patterns. Depending on each Hmong group (Flower Hmong, Black Hmong, White Hmong, or Red Hmong), the texture patterns are very varied. We are used to seeing round dots on the skirts interrupted by straight lines or flowers or spirals, but these texture patterns truly reflect the life of the Hmong with nature.

This skirt is made of linen and dyed with indigo. This color is the primary color commonly used by Hmong women in making their clothes. This beautiful indigo blue colors their life well from childhood (6 or 7 years old). That is why it is said that they have a blue hand. The multicolored skirts, elegant embroidery, and fine jewelry undoubtedly make their reputation throughout Southeast Asia.

It is also the unique symbol of their identity. The Hmong are still called by the majority of people worldwide the « rainbow people. »

 

Le tigre dans l’art ancien du Vietnam (Hổ trong mỹ thuật cổ Việt nam)

Hổ trong mỹ thuật cổ Việt Nam

The tiger in ancient Vietnamese art

Version française

English version

Đối với đại đa số  người Việt, hổ là  một con vật  đáng kính sợ. Vì sợ  hổ trả thù nên họ dành cho hổ những dấu hiệu tôn thờ qua những ngôi miếu dành riêng cho hổ  hay thường thấy được nằm rải rác ở  khắp khu rừng sâu thẩm ở miền núi. Đến nay  còn thấy nhiều dân tộc  ở miền núi còn thờ hổ.  Có  thể có liên quan đến tín  ngưỡng vạn vật hữu linh  của cư dân thưở xưa. Ngoài sức manh  uy phong  lẫm liệt của hổ, nó còn thường được xem là con vật có khả năng nghe lén các cuộc đàm thoại của họ. Vì vậy hổ được gọi là ông thính. Để tránh gọi tên hổ, người dân Việt  hay thường ám chỉ hổ với cái  tên là « ông ba mươi ».

Ngay cả trước khi giết hổ  sau khi bắt được nó,  họ cũng không quên bày tỏ lòng tôn kính lần cuối bằng cách tổ chức một buổi  nghi lễ trước đó.  Họ thường so sánh  họ với hổ qua câu châm ngôn như sau:

Hùm chết để da, người chết để tiếng.

Rất tiếc ngày nay hổ  ở  Đông Dương không còn nhiều nữa và đang ở trong tình trạng nguy cơ  tuyệt chủng vì các bộ phận của hổ được dùng làm thuốc đông y,  được bán với giá cao trên thị trường chợ đen, giá 100 gram cao hổ cốt bán tới 1.000 đôla.

Sự xuất hiện hình ảnh hổ trong nghệ thuật  cổ  được thấy từ  thời kỳ Đồng Sơn qua các chuôi dao gâm thường   được kết hợp  với voi hay rắn được thấy ở di chỉ Làng Vạc  ở  Nghệ An chẵng hạn  hay các thạp đồng như thạp VạnThắng (Cẩm Xuyên, Phú Thọ).  Thạp nầy được trưng bày ở bảo tàng lịch sử quốc gia với  bốn tượng  hổ cập mồi rất sinh động quay vòng trên nấp thạp hay chiếc qua đồng có hình hổ  được  khắc  hai mặt  với  những chấm trên thân được  nhà khảo cứu Pháp Louis Pajot sưu tầm và đưa về  trưng bày  ở  bảo tàng Finot (nay là bảo tàng lịch sử quốc gia  ở  Hànội). Ngoài ra còn có các hình hổ trang trí bằng họa tiết chìm. Điều nầy thể hiện  được  nghệ thuật điêu khắc và trang trí của người Đồng Sơn mang tính tả thực và ước lệ. So với các hình ảnh rồng, phượng, hưu, cá, vịt vân vân  thì  hình ảnh hổ rất hiếm hoi trên đồ gốm. Tuy nhiên thạp gốm hoa nâu nổi tiếng nhất là thạp hoa nâu khắc hình ba con hổ đuổi nhau được thấy  ở bảo tàng Guimet (Paris).

Những hình hổ được thấy ngày nay không còn mang ý nghĩa tâm linh, tín ngưỡng hay sợ hải nữa mà chỉ dùng để thể hiện  sự phong phú đa dạng trong việc trang trí trên các đồ gốm hay tạo ra  bằng đá nhầm để lại một dấu ấn riêng biệt theo sở thích của người đặt mua hàng.

Version française

Pour la grande majorité des Vietnamiens, le tigre est un animal redoutable. Par peur de vengeance, ils donnent aux tigres des signes d’adoration à travers des temples dédiés aux tigres, souvent dispersés dans la forêt profonde des montagnes. Jusqu’à présent, de nombreux groupes ethniques des régions montagneuses vénèrent encore les tigres. Cela peut être lié aux croyances animistes des anciens habitants. Outre la force imposante et majestueuse du tigre, il est aussi souvent considéré comme un animal capable d’écouter leurs conversations, ce qui fait de lui connu sous le nom « Monsieur l’écouteur (Ông thính) ». Pour éviter de l’appeler sous son propre nom « Hổ ou cọp), les Vietnamiens se réfèrent aux tigres avec le nom « Monsieur Trente ». Avant même de le tuer  après l’avoir attrapé, ils n’ont pas oublié de lui rendre un dernier hommage en lui organisant au préalable un rituel. Ils se comparent souvent aux tigres à travers le proverbe suivant:

Le tigre mort laisse sa peau et l’homme décédé sa réputation.

Malheureusement, il n’y a pas beaucoup de tigres en Indochine aujourd’hui. Ces derniers sont en voie d’extinction car toutes les organes de leur corps  sont utilisés dans la médecine traditionnelle chinoise et sont vendues à prix d’or sur le marché noir.  C’est le cas  de la poudre issue d’os de tigre et proposée avec un prix élevé de 100 grammes  à 1 000 dollars.

On voit apparaître les images des tigres souvent associées à des éléphants ou des serpents dans l’art ancien à  l’époque de  Đồng Sơn,  sur les lames des poignards trouvés sur le site de Làng Vạc à Nghệ An par exemple, ou  bien des situles en bronze comme la situle  Vạn Thắng. (Cẩm Xuyên, Phú Thọ). Cette dernière est exposée au musée national de l’histoire  avec quatre blocs de statues de tigres capturant la proie et  répartis de manière circulaire sur le couvercle de la situle  ou la hache en bronze (qua đồng) recueillie par le chercheur français Louis Pajot qui a eu le mérite  de l’offrir au musée Finot (*). On trouve  l’image d’un tigre gravée sur les  deux faces  de la hache avec des points.  Il existe également des images de tigre décorées de motifs en creux. Cela montre que l’art de la sculpture et de la décoration du peuple dôngsonien  est réaliste et conventionnel. Comparées aux figures de dragons, de phénix, de cerfs, de poissons, de canards etc., celles des tigres sont très rares sur la céramique. Pourtant  le vase à glaçure brune le plus célèbre est celui de trois tigres dans la poursuite,  trouvé au musée Guimet (Paris). Les images des tigres vues aujourd’hui ne  reflètent plus le caractère  spirituel, religieux ou de peur. Elles sont utilisées uniquement dans le but de montrer la richesse et la diversité de la décoration dans la céramique ou dans la pierre et de laisser  ainsi  une  marque particulière selon le goût et les préférences de l’acheteur.

(*) C’est le musée national de l’histoire de Hanoï.

English version

For the vast majority of Vietnamese people, the tiger is a formidable animal. Out of fear of revenge, they show signs of worship to tigers through temples dedicated to tigers, often scattered deep in the mountain forests. To this day, many ethnic groups in mountainous regions still venerate tigers. This may be related to the animist beliefs of the ancient inhabitants. Besides the imposing and majestic strength of the tiger, it is also often considered an animal capable of listening to their conversations, which is why it is known as « Mr. Listener (Ông thính). » To avoid calling it by its own name « Hổ or cọp, » the Vietnamese refer to tigers as « Mr. Thirty. » Even before killing it after catching it, they do not forget to pay it a last tribute by organizing a ritual in advance. They often compare themselves to tigers through the following proverb:

The dead tiger leaves its skin and the deceased man his reputation.

Unfortunately, there are not many tigers in Indochina today. They are endangered because all the organs of their bodies are used in traditional Chinese medicine and are sold at exorbitant prices on the black market. This is the case with powder made from tiger bones, which is offered at a high price of $1,000 per 100 grams.

Images of tigers often appear alongside elephants or snakes in ancient art from the Đông Sơn period, such as on the blades of daggers found at the Làng Vạc site in Nghệ An, or on bronze situlas like the Vạn Thắng situla (Cẩm Xuyên, Phú Thọ). The latter is exhibited at the National History Museum along with four blocks of tiger statues capturing prey, arranged in a circular manner on the lid of the situla, or the bronze axe (qua đồng) collected by the French researcher Louis Pajot, who had the merit of donating it to the Finot Museum (*). The image of a tiger is engraved on both sides of the axe with dots. There are also images of tigers decorated with incised patterns.This shows that the art of sculpture and decoration of the Đông Sơn people is realistic and conventional. Compared to figures of dragons, phoenixes, deer, fish, ducks, etc., those of tigers are very rare on ceramics. However, the most famous brown-glazed vase is the one with three tigers in pursuit, found at the Guimet Museum (Paris). The images of tigers seen today no longer reflect spiritual, religious, or fearsome characteristics. They are used solely to showcase the richness and diversity of decoration in ceramics or stone and thus leave a particular mark according to the taste and preferences of the buyer.

(*) This is the National Museum of History in Hanoi.

Chim Lạc có phải vật tổ của người dân Việt không?

 L’oiseau Lạc est -il l’oiseau totémique des Proto-Vietnamiens?

Chim Lạc có phải vật tổ của người dân Việt không ?

Is the Lạc bird the totemic bird of the Proto-Vietnamese?

Version française

English_version

Câu hỏi  nầy thường được nêu ra sau thời kỳ các nhà khảo cổ học thuộc Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp (Louis Pajot, Olov Jansen)  phát hiện ra một số đồ đồng cổ ở  thung lũng Mã, đặc biệt là ở làng Đồng Sơn (Thanh Hóa) vào năm 1924. Sau đó với sự đề xuất của nhà khảo cổ học ngừời Áo R. Heine-Geldern thì  văn hóa này được gọi là « Văn hóa Ðồng Sơn » tức là văn hóa  của người Việt cổ.

Ngoài việc tranh dành về nguồn gốc trống đồng giữa hai nước Việt Nam và Trung Hoa, còn có thêm cuộc tranh luận về các hình tượng trang trí được thấy nhiều trên mặt trống đồng nhất là con chim chi không biết là loại chim gì chân cao mỏ dài  trong tư thế bay hay ngồì. Học giả Đào Duy Anh đã ngộ nhận và kết luận trong quyển Lịch sử cổ đại Việt Nam  rằng đây là con chim lạc chỉ một loại hậu điểu tương tự như ngỗng trời  là vật tổ của người Lạc Việt. Thưở  xưa, các thị tộc ở xã hội nguyên thủy hay thường lấy tên thị tộc mà đặt tên cho vật tổ tức là con chim lạc. Nhưng dù thuyết vật tổ của ông là lý thuyết sai lầm theo sư nhận xét của sử gia Trần Gia Phụng hay nhà văn Đinh Hồng Hải nhưng vì ông là một trong những học giả uyên thâm  hàng đầu Việt Nam ở  thời đó nên dễ thuyết phục dư luận. Sự nhận định nầy khiến ít ai  dám phủ nhận cả mà còn tạo ra một ý niệm về mối quan hệ mật thiết giữa người Lạc Việt và loài chim nầy. Rồi ý niệm nầy  trở thành từ đó quan niệm chim Lạc, vật tổ  của người  Lạc Việt.

Theo sử gia Trần Gia Phụng tất cả tài  liệu có nói đến chữ Lạc  như Thủy kinh chú của Lịch Đạo Nguyên (thế kỷ thứ 6) hay An Nam chí lược  của Lê Tắc (thế kỷ 13)  đều dựa trên  sách cổ « Giao Châu ngoại vực ký » của Trung Hoa  được xuất hiện khoảng giữa đời nhà Tấn (265-420) trong đó có  một đoạn văn viết như  sau: Giao Chỉ tích hữu quận huyện chi thời, thổ địa hữu lạc điền.  Kỳ điền tòng thủy triều thượng hạ.  Dân khẩn thực kỳ điền, nhân các vị Lạc dân, thiết Lạc vương, Lạc hầu chủ chư quận huyện.  Đa vi Lạc tướng, đồng ấn thanh thụ. Xưa, khi Giao Chỉ chưa thành quận huyện, đất đai có ruộng gọi là ruộng lạc, ruộng đó tùy thủy triều lên xuống mà làm.  Dân khẩn ruộng đó mà ăn, vì thế tất cả gọi là dân Lạc.  Họ lập Lạc vương, Lạc hầu để coi quận huyện.  Có nhiều Lạc tướng, có ấn đồng lụa xanh.

Chữ Lạc đọc  ở  trên đây  theo âm Hán Việt chớ người Hoa họ đọc theo âm Trung Hoa thì là « lo, ló, lô » như  thành Lạc Dương thủ đô nhà Châu thì  được phiên âm theo chữ Latin ra là Loyang. Như vây chữ có  âm « lo, ló, lô » trong  tiếng Việt cổ là gì ? Nó chỉ là lúa gạo. Bởi vậy từ Thừa Thiên đến Nghệ An, mọi người hay thường dùng chữ ló để ám chỉ  lúa.  Tại vùng Quảng Bình ở miền trung  mới có câu tục ngữ « Cơm mô cho vừa bụng chó, ló mô cho vừa bụng gà».

Như vậy chữ Lạc là từ ngữ phát âm theo lối Hán Việt chớ chữ Lạc mà cố tìm sự giải thích nào khác cũng hoàn toàn vô nghĩa vì nó không phải là chữ phiên âm từ tiếng của người Việt cổ. Có thể nói chữ Lạc mà tìm hiểu nghĩa theo chữ Trung hoa thì sẽ bị lạc hướng. Người Hoa  dùng chữ Lạc đễ phiên âm tiếng Ló của người Giao Chỉ và để chỉ tộc người có nền văn minh lúa nước. Bởi vậy bất cứ chữ Lạc nào  với bất cứ bộ thủ nào, họ cũng đọc là Lo  cả theo sự nhận xét  của  cố học giả Hoàng Văn Chí trong sách  Duy văn sử quan.

Ngày nay có nhiều dân tộc miền núi hay nhiều điạ phương ở nước ta vẫn còn dùng từ ngữ ló để nói lúa gạo như Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình hay từ ngữ lọ ở Thanh Hóa.  Còn người Mường thì  gọi  với một âm tiết khá nặng giữa chữ lỏ và lọ (như cơm mường vó, lọ mường vang)   (Đinh Hồng Hải, trang 72). Như vậy  con chim Lạc  là con chim không có thật sự trong môi trường thiên nhiên ở đất nước ta. Nó cũng không có ghi chú  trong các từ điển của nước ta để ám chỉ con chim lạc cả.  Nó không phải là con vật tổ của người  Việt cổ thì nếu không nó được nằm ở vị trí trung tâm của mặt trống đồng.

Tuy nhiên nó phải sống, gần gũi  mật thiết hằng ngày  với người trồng lúa nước ở trên đồng  cũng như  con trâu đi trước cái cày theo sau  trong nền văn hóa  Đồng Sơn. Nó được xem như là mô típ trang trí được ghi khắc trên trống đồng làm cho ta liên tưởng đến con cò, con hạc hay con sếu. Các  chim nầy đều có mỏ dài  và chân cao cả nhưng xét dưới gốc độ gần gũi và thân thiết với người  nông dân Việt thì cò ở đâu cũng có hiên diện không những trên ruộng đồng Viêt Nam mà luôn cả trong tục ngữ ca dao Việt Nam. Còn xét duới gốc độ tín ngưỡng   thì  hạc là loại chim có tính biểu tượng cao  thượng được thấy ở các nơi thờ  tự như ở Văn Miếu  (Hànội).

Nhìn lại lịch sử và truyền thuyết thì người Việt cổ  (hay Lạc Việt) đã thừa nhận họ  là thị tộc Hồng Bàng (tức là chim và rắn tức là Tiên Rồng).  Như vậy họ đã ghép cho vật tổ của họ là Chim và Rắn rồi với quan niệm song trùng lưỡng hợp  (hai trong một) theo  học giả Hà Văn Thùy. Bởi vậy họ tự cho họ là con Rồng cháu Tiên. Tên Văn Lang có nguồn gốc từ tiếng Việt cổ là Blang hay Klang mà các dân tộc miền núi thường dùng để ám chỉ vật tổ, có thể  đây là một loài chim nước thuộc họ chim Diệc.

Có thể xem thời đó nước  Văn Lang như một liên bang của các cộng đồng tộc Việt. Đây cũng là nhà nước đầu tiên của tộc Việt  theo truyền thuyết trong lịch sử Việt Nam. Nói như nhà văn Đinh Hồng Hải thì cần có những phương pháp nghiên cứu sâu hơn để làm rõ danh tính của loại  chim nầy. Còn sử  gia Trần Gia Phụng,  những hình ảnh trên trống đồng đều là hình “câm”. Bởi  vậy  giả thuyết nầy chỉ  là sự phỏng đoán  chưa có phần   kết luận.  Giả thuyết nào hợp lý sẽ đứng vững  mà thôi.

CHIM_LAC

Version française

Cette question est souvent posée après la découverte d’un grand nombre d’objets datant de l’âge de Bronze dans la vallée de Mã, notamment dans le village de Ðồng Sơn en 1924 par les archéologues de l’Ecole Française d’Extrême-Orient (BEFO) (Louis Pajot, Olov Jansen). Puis, sur la proposition de l’archéologue autrichien R. Heine-Geldern, cette culture a été appelée « culture de  Đồng Sơn », c’est-à-dire la culture des Proto- Vietnamiens. (ou des Luo Yue)

En outre,  à cause du différend de longue date sur l’origine du tambour de bronze entre le Vietnam et la Chine, il y a aussi un débat sur les images décoratives trouvées sur la surface du tambour, en particulier  un oiseau de quelle famille il s’agit.  On n’arrive pas à l’identifier  avec ses longues pattes et son long bec  en posture volante ou assise.  L’érudit Đào Duy Anh l’a reconnu par erreur dans son livre intitulé   « Histoire ancienne du Vietnam » en affirmant que cet oiseau Lạc (Luo) semblable à une oie sauvage était  l’oiseau totémique des Lo Yue (ou des Proto-Vietnamiens)? Autrefois, les clans de la société primitive avaient l’habitude de prendre souvent le nom du clan pour l’attribuer à leur totem. C’était le cas de l’oiseau Lạc (ou Luo).

Selon l’historien Trần Gia Phụng ou l’écrivain Đinh Hồng Hải, malgré sa fausse théorie, l’érudit  Đào Duy Anh continua à convaincre l’opinion publique  car il fut l’un des érudits  de renom  au Vietnam à cette époque. Personne n’osa contester sa capacité de discernement mais par contre cela créa en revanche une idée de relation  très étroite entre les Luo Yue et cet oiseau. Puis cette idée devint ainsi un jour sans même en rendre compte l’acceptation du nom « Luo » (ou Lạc) en vietnamien pour cet échassier, l’oiseau totémique des Luo Yue.  Selon l’historien Trần Gia Phụng, tous les livres historiques contenant le mot « Lạc » ou (Luo) » comme  « Thủy kinh chú » de Lịch Đạo Nguyên ( 6ème siècle) ou « Les archives abrégées d’An Nam » de  Lê Tắc (13ème siècle) sont basées essentiellement sur le livre ancien chinois « Giao Châu ngoại vực ký » dont la date d’édition a lieu à l’époque des Jin (265-420) et dans lequel figure un paragraphe écrit en caractères Han-Viet comme suit: Giao Chỉ tích hữu quận huyện chi thời, thổ địa hữu lạc điền.  Kỳ điền tòng thủy triều thượng hạ.  Dân khẩn thực kỳ điền, nhân các vị Lạc dân, thiết Lạc vương, Lạc hầu chủ chư quận huyện.Đa vi Lạc tướng, đồng ấn thanh thụ.

Autrefois, lorsque Jiaozhi (ou Viet Nam) n’était pas encore un district, sa terre possédait  des champs des riz appelés  des champs « Luo ».  En fonction de la montée ou la descente  des marées, ces derniers étaient labourés. Les gens qui y travaillaient étaient appelés  les Luo Yue (Les gens de Luo). Leur  roi  était connu sous le nom «Roi Luo (Lạc Vương », leurs marquis « Luo » étaient appelés « Lạc hầu » et ils avaient la mission de  contrôler les districts. Il y a beaucoup de généraux ayant des sceaux en bronze avec la soie  bleue. 

Le mot « Lạc »  ci-dessus  est prononcé en caractère sino-vietnamien (Hán Việt) par les Vietnamiens. Par contre les Chinois le prononcent en recourant à la transcription phonétique.  Ce mot phonétique  devient ainsi « lo, ló, lô ». C’est le cas du nom de la capitale Lạc Dương des Chu qui devient  Loyang lors de la  transcription phonétique en chinois. Que  devient-il  le mot « lo, ló, lô » employé par le Chinois dans la langue des Proto-Vietnamiens ?  Il désigne le paddy ou le riz. C’est pourquoi de la région Thừa Thiên jusqu’à la province Nghệ An du Viet Nam, tout le monde est habitué à employer le mot « ló » pour faire allusion au riz.  Dans la région Quảng Bình du Centre-Vietnam, il y a un proverbe suivant « Cơm mô cho vừa bụng chó, ló mô cho vừa bụng gà»(Le riz cuit donne satisfaction au ventre du chien tandis que le grain de riz remplit bien l’estomac du poulet).

Étant en caractère sino-vietnamien, le mot « Lạc » n’a aucune signification car il s’agit bien d’une transcription phonétique  employée par les Chinois à partir du mot ló des Proto-Vietnamiens (ou des gens de Jiaozhi) pour les désigner comme des gens ayant la culture du riz inondé. C’est pourquoi quel que soit le radical employé avec le mot « Lạc », les Chinois continuent à le prononcer en  Ló selon la remarque du feu érudit Hoàng Văn Chí dans son livre intitulé «Duy văn sử quan ».

Aujourd’hui,  il reste pas mal des montagnards ou des gens locaux de notre Vietnam continuent à employer le mot « ló» pour évoquer le riz comme  les gens de  Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình ou le mot «lọ» dans la région de Thanh Hóa. Selon l’écrivain Đinh Hồng Hải, les cousins proches des Vietnamiens, les Mường  le prononcent avec un accent situé entre les mots  lỏ et lo (cơm mường vó, lọ mường vang) pour évoquer  le riz de la région Mường Vó et le paddy  de Mường Vang. Ainsi on peut dire que l’oiseau Lạc n’existe pas réellement dans la nature de notre pays. On ne trouve pas non plus son nom  dans les dictionnaires vietnamiens.  Il n’est en aucun cas l’oiseau totémique des Proto-Vietnamiens sinon on doit le trouver au centre de la surface du tambour de bronze.

La grue au temple de la littérature

Cependant, il doit être proche des riziculteurs et vivre quotidiennement avec eux dans le champ comme  le buffle précédant la charrue dans la culture de Đồng Sơn. Il est considéré comme un motif de décoration gravé sur le tambour en bronze.  Cela nous fait penser à une aigrette ou une grue. Ces oiseaux ont tous de longs becs et de hautes pattes, mais compte tenu de la proximité et de l’intimité  journalière avec les riziculteurs vietnamiens, les aigrettes sont présentes partout non seulement dans les champs mais aussi dans les chansons populaires. Du point de vue religieux, la grue est une sorte d’oiseau afférent au caractère noble que l’on retrouve dans les lieux de culte comme au Temple de la Littérature (Văn Miếu, Hanoï).

En  jetant un regard dans  l’histoire et les légendes des Lo Yue (Lạc Việt)  ou Proto- Vietnamiens (ou Lac Viet), ils se  reconnurent depuis la nuit des temps  comme des gens appartenant au clan Hồng Bàng (Hồng  désignant  l’oiseau et Bàng le serpent càd l’Immortelle et le dragon). C’était pourquoi ils avaient associé à leur totem le couple (Oiseau/Dragon) avec la notion de dualité (deux en un) selon l’érudit Hà Văn Thùy. Ils étaient fiers d’être Enfants du Dragon et Grands Enfants de l’Immortelle (Con Rồng cháu Tiên). Le nom Văn Lang est dérivé de l’ancien mot Yue Blang ou Klang que les montagnards  utilisent souvent pour désigner le totem, c’est peut-être un oiseau aquatique de la famille des hérons.

Le royaume de Văn Lang peut être considéré à cette époque comme une fédération de communautés ethniques Yue. C’est aussi le premier état de l’ethnie Yue selon la légende de l’histoire vietnamienne. Selon l’écrivain Đinh Hồng Hải, il faut des méthodes de recherche approfondies pour clarifier l’identification de cet échassier. Pour l’historien Trần Gia Phung, les images trouvées sur les tambours sont toutes « muettes ». Par conséquent, cette hypothèse n’est qu’une conjecture sans conclusion. Toute hypothèse logique sera debout  seulement.

This question is often raised after the discovery of a large number of objects dating from the Bronze Age in the Mã Valley, particularly in the village of Ðồng Sơn in 1924 by archaeologists from the French School of the Far East (EFEO) (Louis Pajot, Olov Jansen). Then, upon the proposal of the Austrian archaeologist R. Heine-Geldern, this culture was called the « Đồng Sơn culture, » that is, the culture of the Proto-Vietnamese (or the Luo Yue).

Furthermore, due to the long-standing dispute over the origin of the bronze drum between Vietnam and China, there is also a debate about the decorative images found on the surface of the drum, particularly about which family the depicted bird belongs to. It has not been possible to identify it with its long legs and long beak in a flying or sitting posture. The scholar Đào Duy Anh mistakenly identified it in his book titled « Ancient History of Vietnam, » asserting that this Lạc (Luo) bird, resembling a wild goose, was the totemic bird of the Lo Yue (or the Proto-Vietnamese)? In the past, the clans of primitive society often used the clan’s name to attribute it to their totem. This was the case with the bird Lạc (or Luo).

According to historian Trần Gia Phụng or writer Đinh Hồng Hải, despite his false theory, the scholar Đào Duy Anh continued to convince public opinion because he was one of the renowned scholars in Vietnam at that time. No one dared to challenge his discernment, but on the other hand, this created a very close idea of a relationship between the Luo Yue and this bird. Then this idea eventually became, without even realizing it, the acceptance of the name « Luo » (or Lạc) in Vietnamese for this wading bird, the totemic bird of the Luo Yue. According to historian Trần Gia Phụng, all historical books containing the word « Lạc » or « Luo, » such as « Thủy kinh chú » by Lịch Đạo Nguyên (6th century) or « The Brief Annals of An Nam » by Lê Tắc (13th century), are essentially based on the ancient Chinese book « Giao Châu ngoại vực ký, » which was published during the Jin period (265-420) and contains a paragraph written in Han-Viet characters as follows: Giao Chỉ tích hữu quận huyện chi thời, thổ địa hữu lạc điền. Kỳ điền tòng thủy triều thượng hạ. Dân khẩn thực kỳ điền, nhân các vị Lạc dân, thiết Lạc vương, Lạc hầu chủ chư quận huyện. Đa vi Lạc tướng, đồng ấn thanh thụ.

In the past, when Giao Chỉ had not yet become a district, the land with fields was called Lạc fields, and those fields were cultivated according to the rise and fall of the tides. The people cultivated those fields to live, so all were called the Lạc people. They established Lạc kings and Lạc marquises to oversee the districts. There were many Lạc generals, who had bronze seals with blue silk.

The word « Lạc » above is pronounced in Sino-Vietnamese characters (Hán Việt) by the Vietnamese. However, the Chinese pronounce it by using phonetic transcription. This phonetic word thus becomes « lo, ló, lô. » This is the case with the name of the Chu capital Lạc Dương, which becomes Loyang when phonetically transcribed into Chinese. What does the word « lo, ló, lô » used by the Chinese become in the language of the Proto-Vietnamese? It designates paddy or rice. That is why from the Thừa Thiên region to Nghệ An province in Vietnam, everyone is accustomed to using the word « ló » to refer to rice. In the Quảng Bình region of Central Vietnam, there is a proverb: « Cơm mô cho vừa bụng chó, ló mô cho vừa bụng gà » (Cooked rice satisfies the dog’s stomach, while the grain of rice fills the chicken’s stomach well).

Being in Sino-Vietnamese characters, the word « Lạc » has no meaning because it is indeed a phonetic transcription used by the Chinese based on the word ló of the Proto-Vietnamese (or the people of Jiaozhi) to designate them as people with a flooded rice culture. That is why, regardless of the radical used with the word « Lạc, » the Chinese continue to pronounce it as Ló according to the late scholar Hoàng Văn Chí‘s remark in his book entitled « Duy văn sử quan. »

Today, quite a few of the highlanders or local people of our Vietnam continue to use the word « ló » to refer to rice, like the people of Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình, or the word « lọ » in the Thanh Hóa region. According to the writer Đinh Hồng Hải, the close cousins of the Vietnamese, the Mường, pronounce it with an accent between the words lỏ and lo (cơm mường vó, lọ mường vang) to refer to the rice of the Mường Vó region and the paddy of Mường Vang. Thus, it can be said that the Lạc bird does not actually exist in the nature of our country. Its name is also not found in Vietnamese dictionaries. It is by no means the totemic bird of the Proto-Vietnamese; otherwise, it should be found at the center of the surface of the bronze drum.

However, he must be close to the rice farmers and live daily with them in the field like the buffalo preceding the plow in the Đồng Sơn culture. He is considered a decorative motif engraved on the bronze drum. This makes us think of an egret or a crane. These birds all have long beaks and tall legs, but considering the closeness and daily intimacy with Vietnamese rice farmers, egrets are present everywhere not only in the fields but also in folk songs. From a religious point of view, the crane is a type of bird associated with nobility found in places of worship such as the Temple of Literature (Văn Miếu, Hanoi).

Looking into the history and legends of the Lo Yue (Lạc Việt) or Proto-Vietnamese (or Lac Viet), they recognized themselves since time immemorial as people belonging to the Hồng Bàng clan (Hồng meaning bird and Bàng meaning serpent, i.e., the Immortal and the dragon). That is why they associated their totem with the couple (Bird/Dragon) with the notion of duality (two in one) according to the scholar Hà Văn Thùy. They were proud to be Children of the Dragon and Great Children of the Immortal (Con Rồng cháu Tiên). The name Văn Lang is derived from the ancient word Yue Blang or Klang, which the mountain people often use to designate the totem; it may be a water bird from the heron family.

The kingdom of Văn Lang can be considered at that time as a federation of Yue ethnic communities. It is also the first state of the Yue ethnicity according to the legend of Vietnamese history. According to the writer Đinh Hồng Hải, thorough research methods are needed to clarify the identification of this stilt-walker. For the historian Trần Gia Phung, the images found on the drums are all « silent. » Therefore, this hypothesis is only a conjecture without conclusion. Any logical hypothesis will stand only.

Références bibliographiques

  • Đinh Hồng Hải.   Những biểu tượng  đặc trưng trong văn hóa truyền thống Việt Nam. Tập 3. Các con vật linh. Nhà xuất bản Thế Giới.
  • Trần Gia Phụng: Hình chim trên trống đồng Lạc Việt.
  • Hoàng văn Chí. Duy văn sử quan. Nhà Xuất bản  Cành Nam, Hoa Kỳ,1990  tt 78-79
  • Đào Duy Anh: Lịch sử Việt Nam. Nhà Xuất Bản  Văn hóa thông Tin 2002